Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
2068 lượt xem

Cảm nhận 2 khổ cuối bài thơ Ánh Trăng (5 mẫu) – Văn 9

Bạn đang quan tâm đến Cảm nhận 2 khổ cuối bài thơ Ánh Trăng (5 mẫu) – Văn 9 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Cảm nhận 2 khổ cuối bài thơ Ánh Trăng (5 mẫu) – Văn 9

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận 2 khổ cuối bài thơ ánh trăng của nguyễn duy gồm 2 dàn ý chi tiết và 5 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, nhanh chóng hoàn thành bài viết của bạn.

Với 5 bài văn mẫu này sẽ giúp các em chuẩn bị tốt cho kì thi vào lớp 10 sắp tới với điểm số cao. Ngoài ra, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu: Phân tích bài thơ ánh trăng, Phân tích tâm trạng người lính sau chiến tranh ….

nêu cảm nhận của 2 khổ thơ cuối Ánh trăng

sơ đồ chi tiết số 1

a. mở đầu

  • Lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Duy.
  • Tập thơ “Ánh trăng” của ông đã được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984. Trong đó, có một bài thơ có tựa đề. như nhan đề của cả bài thơ: Ánh trăng.
  • Hai khổ thơ cuối của bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người và nhắc nhở chúng ta về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

b. phân tích:

  • cảm xúc và suy nghĩ của tác giả trước vầng trăng.
  • hình ảnh “vầng trăng khuyết mãi tròn vành vạnh” là biểu tượng của quá khứ nghĩa tình, thủy chung, trọn vẹn, bao dung. , nhân từ.
  • hình ảnh “ánh trăng im lặng” có ý nghĩa như một lời nhắc nhở nghiêm khắc, một lời trách móc thầm lặng.

c. kết luận

– nội dung:

  • hai khổ thơ cuối của bài thơ cho ta thấy được sự thức tỉnh của con người.
  • nhắn nhủ mọi người đừng quên quá khứ gian khổ mà hãy dành tình yêu sâu sắc.
  • nhắc nhở về tình yêu thiêng liêng của nhân dân, đất nước và đạo lý uống nước nhớ nguồn.

– nghệ thuật:

  • thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo.
  • sự kết hợp hài hoà giữa chất tự sự và chất trữ tình.
  • ngôn ngữ giản dị và hình ảnh giản dị, gần gũi nhưng giàu sức gợi.
  • giọng điệu tình cảm sâu lắng, đôi khi nồng nàn, đôi khi điềm tĩnh, trầm ngâm.

sơ đồ chi tiết số 2

a. giới thiệu chung:

– Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Duy, nhà thơ quân đội, đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ 1972 – 1973, một gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ.

– Tập thơ “Ánh trăng” của ông đã được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng năm 1984. Trong đó, có một bài thơ được lấy làm nhan đề cho cả tập thơ: Ánh trăng. bài thơ là một câu chuyện riêng nhưng mang ý nghĩa triết lí như một lời nhắc nhở thấm thía về lối sống nhân ái, thuỷ chung của nhà thơ với quá khứ gian khổ, với thiên nhiên, quê hương, đồng chí.

-Hai khổ thơ cuối của bài thơ cho ta thấy sự thức tỉnh của con người và nhắc nhở chúng ta về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

b. phân tích:

cảm xúc và suy nghĩ của tác giả trước cảnh trăng.

– từ “face” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa của bản dịch – trăng, mặt người – trăng và người đối diện nói chuyện với nhau.

– với tư thế “ngẩng mặt trông mặt”, người đọc cảm nhận được sự tĩnh lặng, thành kính và trong phút chốc lại trỗi dậy cảm xúc khi gặp lại vầng trăng: “có tiếng khóc”. giọt nước mắt của nỗi nhớ, của sự lãng quên lạnh lùng với một người bạn cũ; của một ý thức bừng tỉnh sau bao ngày chìm đắm trong thế giới mộng mơ; những giọt nước mắt hối hận về hành vi của chính mình trong suốt thời gian qua. một chút áy náy, một chút ân hận, một chút đau khổ, tất cả đã tạo nên những “giọt nước mắt”, những thổn thức sâu thẳm trong trái tim người lính.

– và khoảnh khắc nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào vầng trăng, một biểu tượng đẹp đẽ của một thời đã xa, nhìn thẳng vào tâm hồn, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm trí. những kỷ niệm về một tuổi thơ trong sáng, về chiến tranh đẫm máu, về những ngày tháng tốt đẹp ngày xưa dần hiện về trong dòng cảm xúc “như ruộng là hồ, như sông là rừng”. những cánh đồng, hồ nước, dòng sông, khu rừng, những hình ảnh gắn bó với không gian ký ức.

– & gt; cấu trúc song song của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập và phép tu từ so sánh, điệp ngữ, liệt kê dường như thể hiện rõ hơn nỗi nhớ về một thời hoà mình với thiên nhiên, với vầng trăng. . chính ánh trăng dịu dàng giản dị ấy đã hé mở bao kỉ niệm khó phai mờ, đánh thức bao cảm xúc tưởng như đã ngủ yên trong góc tối của tâm hồn người lính. chất thơ giản dị, chân chất như vầng trăng dịu ngọt, ngôn ngữ súc tích, diễn cảm như “có gì đó đang vỡ”, bài thơ đã chạm đến bao cảm xúc của người đọc.

– hình ảnh “vầng trăng khuyết mãi quay đầu” là biểu tượng cho quá khứ của tình yêu, lòng trung thành, sự thủy chung, bao dung, nhân hậu.

– hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa như một lời nhắc nhở nghiêm khắc, một lời trách móc thầm lặng. chính sự im lặng của vầng trăng đã đánh thức lòng người và làm xao xuyến tâm hồn những người lính năm xưa. con người “giật mình” trước ánh trăng là sự thức tỉnh nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. nó là một từ tiếc nuối, day dứt và đẹp đẽ.

c. kết luận

– nội dung:

  • hai khổ thơ cuối của bài thơ cho ta thấy được sự thức tỉnh của con người.
  • nhắn nhủ mọi người đừng quên quá khứ gian khổ mà hãy dành tình yêu sâu sắc.
  • nhắc nhở về tình yêu thiêng liêng của nhân dân, đất nước và đạo lý uống nước nhớ nguồn.

– nghệ thuật:

  • thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo.
  • sự kết hợp hài hoà giữa chất tự sự và chất trữ tình.
  • ngôn ngữ giản dị và hình ảnh giản dị, gần gũi nhưng giàu sức gợi.
  • giọng điệu tình cảm sâu lắng, đôi khi nồng nàn, đôi khi điềm tĩnh, trầm ngâm.

cảm nhận khổ 5 và khổ 6 của bài thơ ánh trăng

Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy thuộc dạng truyện ngắn, một lời tâm sự được kể theo trình tự thời gian. cảm hứng trữ tình của nhà thơ xuyên suốt mạch tự sự này. trong khoảng thời gian giữa quá khứ và hiện thực có một sự thay đổi, một sự thật đáng ghi nhận: từ nỗi nhớ “thuở ấu thơ”, “thời chinh chiến” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng: “không bao giờ quên vầng trăng tri ân. ” sau đây là sự thay đổi của hoàn cảnh hiện tại: “từ khi ta về thành phố”, con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên mất vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ như người dưng”.

trước hết, ánh trăng của nguyễn duy là một hình ảnh đẹp của thiên nhiên với mọi thứ thơ mộng, gần gũi, hồn nhiên và trong lành. ánh trăng gần gũi với tuổi thơ của tác giả. trăng hồn nhiên như sự sống, như trời đất. cuộc sống thanh bình “gương soi, muan định” đã khiến nhà thơ nhìn ánh trăng như một “người qua đường”. những con người đã từng chinh chiến, vượt qua nhiều chiến trường, đôi khi tưởng chừng như quên đi quá khứ

Có vẻ như mọi thứ đều là lẽ thường nếu không có sự cố như vậy. trong dòng sự việc theo thời gian, sự việc bất thường của khổ thơ thứ tư: “bỗng dưng đèn điện vụt tắt” là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc và thể hiện chủ đề của tác phẩm. trăng tròn ngoài kia, trước “lều ăn cơm tối”. chính vì sự xuất hiện bất ngờ của nàng trong khung cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ đã tự nhiên gợi lên bao kỉ niệm đẹp. Quá đột ngột. Hẳn là một điều bất ngờ, trăng non đánh thức bao cảm xúc trong tâm trí con người:

“Nhìn lên và thấy có thứ gì đó đẫm nước mắt như cánh đồng, như sông, như rừng”

nhà thơ bình thản nhìn trăng trong một khoảng lặng có phần cung kính: “ngửa mặt trông trăng”. từ láy ở cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng về nghĩa. Đối diện với vầng trăng, nhà thơ đánh thức tình cảm và lương tâm của con người: làm sao để nhìn thấy toàn bộ khuôn mặt trong đó và hỏi ý kiến ​​lương tâm, một con hổ rồi, tiếc cho sự thay đổi của nó.

cuộc đối thoại không lời ngay lúc đó khiến nhà thơ “khóc thương” cho quá khứ khó khăn, gian khổ nhưng tràn đầy niềm vui, cùng với vầng trăng và thiên nhiên mà bấy lâu nay ông cho rằng đã lãng quên. Vầng trăng trong bài thơ còn mang một ý nghĩa tượng trưng: biểu tượng của quá khứ tình yêu, một biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh cửu của cuộc sống. vầng trăng không chỉ gợi lại những hình ảnh về thiên nhiên, quê hương đất nước mà còn đánh thức trong tâm trí con người bao kỉ niệm hồn nhiên của tuổi thơ, bao kỉ niệm thân thương của một thời đấu tranh.

Cuộc sống hiện tại dường như dừng lại để người ta hướng về quá khứ, về một thời đã quên. mọi người có cơ hội nhìn lại bản thân, nhận lỗi. có quá khứ xa và gần, có đất nước và đất nước, thiên nhiên và cuộc sống, lao động và đấu tranh, tập thể và cá nhân.

vầng trăng còn gợi lên những hình ảnh về hiện tại, của cải và vẻ đẹp, những khó khăn, vất vả còn phải đấu tranh để giành lấy, niềm tin và hy vọng, sự vĩ đại của thiên nhiên đất nước và sức mạnh của con người trong cuộc sống qua hàng loạt ‘như ‘những ám chỉ và nhịp thơ điên cuồng, bao dung hình ảnh:’ như ruộng là ao ‘,’ sông là rừng ‘. tất cả đều khiến người đọc xúc động và đồng cảm với chất trữ tình của bài thơ.

khổ thơ cuối thể hiện những suy tư sâu sắc và triết lí nhân sinh của nhà thơ qua hình ảnh vầng trăng. trong cuộc gặp gỡ không hẹn trước này, mặt trăng và con người dường như đối lập nhau:

“Mặt trăng cứ tròn mãi, dù mặt trăng có tĩnh lặng đến đâu cũng đủ khiến chúng ta sợ hãi”

mặt trăng đã trở thành biểu tượng của sự bất biến, luôn luôn bất biến, “cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho sự viên mãn, chung thủy và trọn vẹn tình yêu đối với thiên nhiên, đối với quá khứ, dù con người có thay đổi hay “vô tình”.

ánh trăng cũng được nhân cách hóa “lặng lẽ” không một lời trách móc, gợi lên cái nhìn nghiêm khắc nhưng bao dung, độ lượng của người bạn thủy chung, tình nghĩa, nhớ nhung của nhà thơ và mỗi chúng ta. ta: Người ta có thể vô tình quên đi, nhưng thiên nhiên và tình xưa luôn thủy chung, mãi mãi.

tình cảm và tấm lòng của vầng trăng là tình cảm của đồng chí, đồng bào và nhân dân đối với người lính. sự im lặng ấy đã khiến nhà thơ “giật mình tỉnh giấc” và nhận ra lỗi lầm của mình. sự “bàng hoàng” của lương tâm, lương tri của nhà thơ thật đáng trân trọng. đại diện cho những suy nghĩ, trăn trở và đấu tranh với bản thân để sống tốt hơn. giật mình để không chìm vào quên lãng. giật mình để không mất dấu quá khứ. con người giật mình trước ánh trăng tĩnh lặng là sự thức tỉnh của nhân cách trở về với ý thức trong sáng, tốt đẹp, cao thượng.

dòng cuối của bài thơ chứa đựng biết bao nỗi niềm, là lời tiếc thương tuy không trào dâng nhưng cũng vì thế mà càng xao xuyến, day dứt. Bằng cách này, nguyễn duy muốn gửi đến mọi người một lời nhắc nhở về lý lẽ sống, về đạo lý trung thành của dân tộc ta đối với thế hệ mai sau: dù cuộc đời có đổi thay thế nào cũng không bao giờ quên đi quá khứ đau thương mà yêu thương trung thành với dân tộc.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều cảm xúc với những cách thể hiện giản dị như tâm sự, thổ lộ và những lời tâm sự chân thành. giọng thơ êm đềm, sâu lắng, thủ thỉ như gieo vào lòng người. bài thơ có ý nghĩa sâu sắc, có sức lan tỏa thông điệp không chỉ đối với những người lính thời chống Mỹ, mà còn dành cho tất cả mọi người, ở mọi thời đại, trong đó có thế hệ chúng tôi.

“ánh trăng” thành công không chỉ ở triết lí sâu sắc của nhân vật trữ tình mà còn ở nghệ thuật kết cấu và giọng điệu. đó là sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. các sự việc trong văn tự sự mở lối cho cảm xúc trữ tình, làm cho cảm xúc chân thành và nghiêm túc. Thể thơ 5 chữ phù hợp với chất tự sự được thể hiện bằng giọng điệu tình cảm, xúc động. cách trình bày những từ đầu của bài thơ làm cho các sự việc trôi chảy một cách hoàn hảo cả về ý tưởng và hình tượng thơ. nhịp thơ khi uyển chuyển, tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể; bằng cách ngâm nga với đam mê; đôi khi bình lặng và đầy suy nghĩ. kết cấu và giọng điệu của bài thơ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm, tạo nên tính chân thực, chân thực và truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Chủ đề của bài thơ liên quan đến đạo lý và lẽ sống của dân tộc Việt Nam chúng ta. Bắt đầu từ một câu chuyện riêng, bài thơ đưa ra một lời nhắc nhở sâu sắc về thái độ và tình cảm đối với những năm tháng gian khổ đã qua nhưng tình yêu với thiên nhiên, đất nước bình dị. đoạn thơ gợi lên những suy nghĩ về đạo lí, lẽ sống của người Việt Nam. Đó không chỉ là câu chuyện của nhà thơ, của một con người mà của cả một thế hệ đã trải qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, mất mát, đã sống giữa thiên nhiên, sống giữa tình người. bây giờ đang sống trong hòa bình với đầy đủ những tiện nghi hiện đại, người ta có thể thay đổi, đánh mất quá khứ, đánh mất tình yêu, để rồi một lúc nào đó chỉ còn lại những nuối tiếc, ân hận.

của câu chuyện ánh trăng, khổ 5 và 6 của bài thơ ánh trăng nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ, đừng bao giờ trở nên bất cẩn, vô tâm, vô ơn, bội nghĩa. . “ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc “uống nước nhớ nguồn” gợi lên đạo lý sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

cảm nhận 2 khổ thơ cuối của ánh trăng – văn mẫu 1

bao trùm toàn bộ bài thơ “ánh trăng” của nhà thơ nguyễn duy là một nỗi day dứt, ân hận cứ day dứt mãi. ngay tên bài thơ cũng đủ cho ta thấy chủ đề của cả bài thơ. bởi vì, không giống như “mặt trăng”, là một hình ảnh cụ thể, “ánh trăng” là những tia sáng. tia sáng đó đã soi rọi vào góc tối của con người, đánh thức lương tâm con người, soi sáng cả một quá khứ đầy kỉ niệm đẹp đẽ và đáng trân trọng.

Khổ thơ thứ năm là hình ảnh vầng trăng và những cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ. khổ thơ thứ sáu là những suy tư, triết lí của nhà thơ về cuộc đời qua hình ảnh vầng trăng:

nhìn lên, có thứ gì đó rưng rưng như cánh đồng, như sông, như rừng

từ “mặt” trong khổ thơ được dùng với nghĩa gốc và nghĩa dịch: trăng, mặt người, trăng và người đối diện trò chuyện với nhau. với tư thế “ngửa mặt”, người đọc cảm nhận được sự tĩnh lặng, thành kính, đến một lúc lại trào dâng cảm xúc khi gặp lại vầng trăng: “giọt lệ”. giọt nước mắt của nỗi nhớ, của sự lãng quên lạnh lùng với một người bạn cũ; của một ý thức bừng tỉnh sau bao ngày chìm đắm trong thế giới mộng mơ; những giọt nước mắt hối hận về hành vi của chính mình trong suốt thời gian qua. một chút áy náy, một chút ân hận, một chút đau khổ, tất cả đã tạo nên những “giọt nước mắt”, những thổn thức sâu thẳm trong trái tim người lính.

và khoảnh khắc nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào vầng trăng, biểu tượng đẹp đẽ của một thời đã xa, nhìn thẳng vào tâm hồn mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm trí. những kỷ niệm về một thời thơ ấu trong sáng, về thời chiến tranh đẫm máu, về những ngày xưa tốt đẹp dần hiện về trong dòng cảm xúc “như ruộng là hồ, sông là rừng”. những cánh đồng, hồ nước, dòng sông, khu rừng, những hình ảnh gắn bó với không gian ký ức.

cấu trúc song song của hai câu thơ, nhịp độ nhanh và biện pháp tu từ so sánh, ám chỉ, liệt kê dường như đã khắc họa rõ hơn kỉ niệm về một thời hoà mình với thiên nhiên, với nắng. vầng trăng to và sâu, đằm thắm và tự tin. chính ánh trăng dịu dàng giản dị ấy đã hé mở bao kỉ niệm khó phai mờ, đánh thức bao cảm xúc tưởng như đã ngủ yên trong góc tối của tâm hồn người lính. chất thơ giản dị, chân chất như vầng trăng dịu ngọt, ngôn ngữ súc tích, diễn cảm như “có gì đó đang vỡ”, bài thơ đã chạm đến bao cảm xúc của người đọc.

nhà thơ bình thản nhìn trăng trong một khoảng lặng có phần cung kính: “ngửa cổ trông mặt”. từ láy ở cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng về nghĩa. nhà thơ đối mặt với trăng, người bạn tâm giao mà mình đã lãng quên, trăng đối mặt với con người hay nói một cách khác, quá khứ đối mặt với hiện tại, lòng chung thủy đối mặt với sự phản bội vô tình và lãng quên để thú nhận sự phản bội của mình.

Khi đối mặt với mặt trăng, có điều gì đó khiến người lính cảm thấy tội lỗi mặc dù anh ta không quở trách một lời. hai chữ “mặt” trên cùng một đường nét gồ ghề: mặt trăng và mặt người cùng trò chuyện. Người lính cảm thấy “rơi lệ” từ đáy lòng và dường như muốn rơi nước mắt vì xúc động trước sự vô tâm của người bạn “tri kỷ” của mình. đối diện với vầng trăng, người lính chợt có cảm giác như đang xem một đoạn phim quay chậm thuở ấu thơ, nơi có “sông”, có “bể”.

Chính những thước phim quay chậm đã khiến người lính trào dâng, nhưng cảm xúc và nước mắt cứ thế tuôn trào một cách tự nhiên, không gượng ép! những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính thanh thản hơn, tâm hồn trong sáng hơn. một lần nữa những hình ảnh về tuổi thơ và chiến tranh được tái hiện để làm rõ hơn những gì con người cảm nhận được. cái hồn ấy, cái đẹp mộc mạc ấy không bao giờ mất đi, nó luôn sống lặng lẽ trong tâm hồn mỗi người và sẽ cất tiếng nói khi người ta tổn thương. bài thơ hay ở lời thơ mộc mạc chân tình, ngôn ngữ giản dị mà thấm thía và những hình ảnh lay động lòng người.

Những suy tư và triết lý sống của nhà thơ được thể hiện qua hình ảnh vầng trăng trong khổ thơ cuối:

mặt trăng luôn tròn vành vạnh, không phụ lòng người, vô tình ánh trăng tĩnh mịch khiến ta sợ hãi

hình ảnh “vầng trăng mãi tròn vành vạnh” là biểu tượng của quá khứ nghĩa tình, thủy chung, thủy chung, bao dung, nhân hậu. rồi đến hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” với một lời nhắc nhở nghiêm khắc, một lời quở trách thầm lặng. chính sự im lặng của vầng trăng đã đánh thức lòng người và làm xao xuyến tâm hồn những người lính năm xưa. con người “giật mình” trước ánh trăng là sự thức tỉnh nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. nó là một từ tiếc nuối, day dứt và đẹp đẽ.

Trong cuộc gặp gỡ không nói nên lời này, mặt trăng và con người dường như đối lập nhau. mặt trăng đã trở thành biểu tượng của sự bất biến, của sự vĩnh hằng bất biến. “trăng cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho sự trọn vẹn, chung thủy của thiên nhiên, quá khứ dù con người có thay đổi “vô tình”.

ánh trăng cũng “lặng lẽ” nhân hoá không một lời trách móc, gợi nhớ cái nhìn nghiêm khắc, bao dung và cao cả của người bạn thuỷ chung, tình nghĩa, nhớ nhung của nhà thơ và của mỗi người. ta: Mọi người có thể vô tình quên, nhưng tình yêu trong quá khứ của thiên nhiên luôn tràn đầy bất diệt.

tình cảm của trăng, lòng của trăng là tình cảm của đồng chí, đồng đội, đồng bào và con người. sự im lặng ấy khiến nhà thơ “bàng hoàng” khi tỉnh dậy, nỗi “bàng hoàng” của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng, nó thể hiện những suy nghĩ, trăn trở, đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. giật mình để không chìm vào quên lãng. giật mình để không mất dấu quá khứ. con người giật mình bởi ánh sáng tĩnh lặng là sự thức tỉnh của con người về con đường trở về với lương tâm trong sạch và tốt đẹp.

dòng cuối bài thơ chất chứa nhiều tâm sự, tuy không nói đến lời ăn năn hối lỗi nhưng cũng chính vì thế mà càng trở nên ám ảnh, day dứt. qua đó nguyen duy muốn gửi đến mọi người một lời nhắc nhở về chân lý sống, đạo đức và lòng trung thành.

Trong cuộc gặp gỡ không nói nên lời này, mặt trăng và con người dường như đối lập nhau. vầng trăng, hình ảnh của thiên nhiên, trong nhận thức của con người, giờ đây theo quy luật tuần hoàn của nó, vẫn tỏa sáng, vẫn “trở mình”, dẫu “con người vô tình”. Trong suốt bài thơ, vầng trăng luôn được miêu tả gắn với các từ láy (“gợi cảm”, “tròn trịa”), cho đến khổ thơ cuối cùng kết tinh thành hình ảnh “hình tròn”, đó là sự thủy chung ân tình và giá trị. giá trị tốt đẹp của quá khứ vẫn còn nguyên giá trị. sự im lặng của mặt trăng, ánh sáng lạnh lẽo của mặt trăng không phải là sự tĩnh lặng mà khiến người ta liên tưởng đến chính mình.

Con người dường như có những ân hận và ân hận vì đã “vô tình”, mà không nhận ra với vầng trăng, cũng không nhận ra điều đó với cuộc đời, với con người và với những điều quen thuộc, với quá khứ, với hiện tại. . cái “lặng im”, cái im lặng tình cảm, không một lời trách móc nhưng với sự khắc khoải của vầng trăng đã đánh thức lòng người và làm xao xuyến tâm hồn người lính năm xưa. con người “giật mình” trước ánh trăng thanh tĩnh là sự thức tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. đó là một sự sám hối của con người, một sự thức tỉnh tinh thần, một vẻ đẹp của con người. “cú sốc” chứa đựng niềm tin, tình yêu và hy vọng. sóng gió êm đềm này như mạch nước ngầm phun ra sẽ xua tan bao lầm lỗi để vững vàng tạo dựng cuộc sống tươi đẹp.

giọng thơ từ nghiêm trang đến lắng đọng trong cảm xúc và trầm lắng suy tư. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài tác giả nhắc đến “trăng rằm” nhiều lần, ở đây lại nhắc đến ánh trăng và nhan đề bài thơ cũng là ánh trăng. “trăng rằm” là nói về quá khứ thủy chung, tình cảm vẹn nguyên, còn “ánh trăng” là vầng hào quang của quá khứ, là ánh sáng của lương tâm, của đạo đức, là ánh sáng soi rọi, đánh thức, xua tan bóng tối của tâm hồn. .

hình ảnh thơ ở đây gợi lên chiều sâu tư tưởng triết lí: vầng trăng không chỉ là hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tình yêu đã qua, hơn thế nữa vầng trăng còn là vẻ đẹp của sự bình yên kì lạ nhưng vĩnh hằng của cuộc sống. . vầng trăng luôn tròn vành vạnh, dù có “vô tình” đến đâu cũng là biểu tượng của lòng bao dung, độ lượng, hết mực yêu thương trung thành, chính trực, trong sáng, vô tư, không đòi hỏi gì được đáp lại. Đó là phẩm chất cao quý của con người mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận sâu sắc trong thơ ca từ thời chống Mỹ cứu nước.

Mặt trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ tươi đẹp, hoang sơ và không thể xóa nhòa. “Ánh trăng im phăng phắc” là một người bạn, một nhân chứng thân thương nhưng cũng là một nỗi niềm khắc khoải đối với nhà thơ (và mỗi chúng ta). con người có thể bất cẩn, hay quên, nhưng thiên nhiên và tình cảm đã qua thì luôn đong đầy và vĩnh cửu. vì vậy, ánh trăng không chỉ là câu chuyện của một người, một thế hệ, thế hệ đã sống anh dũng một thời chống giặc, mà nó có ý nghĩa đối với nhiều người và trong mọi thời đại. Nó mang ý nghĩa thức tỉnh, nhắc nhở con người sống có ý nghĩa, sống đẹp, xứng đáng với người đã khuất, xứng đáng với bản thân, quý trọng quá khứ để vững bước trên con đường tương lai.

bài thơ nói về vầng trăng nhưng là câu chuyện đời thường, làm bật lên cội nguồn đạo lý truyền thống của dân tộc: trung thành, nghĩa tình, uống nước nhớ nguồn, những ca từ xúc động, vì hơn hết đó là một bản ngã. – lời nhắc với giọng trầm và điềm tĩnh.

cảm nhận 2 khổ thơ cuối của ánh trăng – văn mẫu 2

Trăng là một chủ đề quen thuộc trong thơ ca. vầng trăng như một biểu tượng thơ gắn liền với tâm hồn thi nhân. nhưng có một nhà thơ cũng viết về trăng, không chỉ tìm thấy chất thơ ở đó mà còn gửi gắm những tình cảm với những ý nghĩa độc đáo. đó là trường hợp bài thơ Ánh trăng của nguyễn duy.

Vầng trăng đã gắn liền với tuổi thơ, với cuộc đời người lính, nó trở thành người bạn tri kỷ, tưởng không bao giờ quên. nhưng hoàn cảnh sống thay đổi, con người cũng thay đổi, đôi khi nó cũng trở nên không tự chủ được. sau chiến thắng anh trở về thành phố, quen với ánh sáng cửa gương khiến vầng trăng tri ân vô tình lãng quên. nhưng mỗi ngày đều xảy ra một tình huống khiến người ta phải thức tỉnh, ngửa mặt lên trời ăn năn:

Nhìn lên, có thứ gì đó chảy nước như ruộng, như sông, như rừng.

khóc là một biểu hiện cảm xúc, nước mắt chảy ra, sắp khóc. nước mắt khiến lòng người bình yên, trong trẻo trở lại. biết bao kỉ niệm đẹp tràn về trong tôi, tâm hồn chan hoà với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với ruộng, với ao, với sông, với rừng. Cấu trúc câu thơ đi đôi với phép tu từ so sánh, điệp ngữ cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thực sự tài hoa. một bài thơ hay là ở cách diễn đạt chân thành, ở sức biểu cảm, ở ngôn từ và hình ảnh thấm vào lòng người, nhẹ nhàng ghi lại những điều mà nhà thơ muốn nói với chúng ta. khổ thơ cuối có một ý nghĩa độc đáo và sâu sắc:

mặt trăng tiếp tục tròn và tròn, cho dù nó không nhận biết được như thế nào. Mặt trăng yên tĩnh đến mức khiến chúng ta sợ hãi.

tròn vành vạnh là trăng tròn, một vẻ đẹp hoàn mỹ. trăng vẫn chung tình dù ai đổi thay, vô tình với trăng. ánh trăng im phăng phắc, không một lời trách móc. vầng trăng bao dung và độ lượng biết bao. tấm lòng bao dung ấy khiến chúng ta phải giật mình. cú sốc để thay đổi, để trở lại. trở lại với tôi cũ tốt. Đó là một bước khởi đầu để hoàn thiện bản thân.

Tóm lại, với giọng thơ trầm lắng, sâu lắng, bài thơ trên đã làm xúc động bao người đọc. Nó như một lời tâm sự, một lời tâm sự, một lời nhắc nhở chân thành. Qua bài thơ, tác giả muốn nhắn nhủ rằng: phải thủy chung, trọn vẹn, có tình yêu thương tha thiết với nhân dân, đất nước, ngay cả với chính bản thân mình.

cảm nhận 2 khổ thơ cuối của ánh trăng – văn mẫu 3

“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đó là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. truyền thống đó đã được nhắc đến nhiều trong các tác phẩm văn học trong nhiều thế kỷ. Chỉ nói đến các tác phẩm văn học hiện đại lớp 9, chúng ta đều biết đến các tác phẩm thuộc phân môn này: Tiếng việt “bếp lửa”, “ánh trăng” của Nguyễn Duy. Qua những vần thơ, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về lẽ sống cao đẹp, thủy chung trong cuộc đời của mỗi người.

Với hình ảnh “ánh trăng” thấm đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết lí, Nguyễn Duy đã thẳng thắn, dũng cảm gửi đến chúng ta một thông điệp cao đẹp và chân thành: “Hãy lắng lại một phút thôi Dòng đời hối hả dừng lại!”. tại mình! ”- trở về với cội nguồn đạo lý“ nhớ về cội nguồn ”của dân tộc thông qua việc xây dựng nhân vật trữ tình có thể tự soi mình, tự nhận ra lỗi lầm của mình để hướng thiện.

Lời nhắn nhủ của nhà thơ như một truyện ngắn với giọng điệu tình cảm. đây là câu chuyện của chính nhà thơ. câu thơ mở đầu như đưa người đọc trở về tuổi thơ của tác giả bằng giọng văn nhẹ nhàng. Đó là một tuổi thơ gần gũi với thiên nhiên. tuổi thơ trải nghiệm những điều kỳ diệu của thiên nhiên. cho đến khi trở thành chiến sĩ, sống trong rừng trăng trở thành tri kỷ. người lính có thể ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng, trăng có thể chia sẻ những khó khăn gian khổ của cuộc đời người lính. vầng trăng cũng hòa chung niềm vui chiến thắng của người lính. rõ ràng tình cảm của người lính và vầng trăng như gắn bó với nhau, như thể tình cảm ấy đã gắn kết mãi mãi. nhưng lịch sử thay đổi đến hiện tại, những gì “tưởng không bao giờ quên” nay đã bị lãng quên. giọng thơ như lắng lại vẻ trầm ngâm, suy ngẫm khi nói. trong khung cảnh đô thị nhộn nhịp, cuộc sống của con người cũng bắt đầu thay đổi. ánh sáng của điện đã thay thế ánh sáng của mặt trăng. đó là lý do tại sao lòng người thay đổi. vẫn là trăng xưa, nay trăng đã qua ngõ. tuy nhiên, người bạn đó giờ đã trở thành một người xa lạ, nghĩa là hoàn toàn không biết anh ta. sự thay đổi này diễn ra trong trái tim của người lính. anh đã quên đi người bạn cũ của mình, người bạn đã từng chịu bao gian khổ trong rừng và đã ở bên anh thời thơ ấu. thơ thì thầm như trò chuyện. anh ta đang tự nói với chính mình, suy nghĩ về việc mình đã thay đổi cảm xúc của mình để quên đi vẻ đẹp của thiên nhiên, sự bình dị. Phải chăng sự chiêm nghiệm này như một sự sám hối, tự chuốc lấy tội lỗi? sống hiện tại mà quên đi quá khứ, sống an nhàn với vật chất đủ đầy mà quên đi những tháng ngày khó khăn.

nhưng nhà thơ không dừng lại ở đó mà còn tạo ra một cuộc sống chân thực mà cũng rất đỗi thân quen đang diễn ra ở thành phố đó là hệ thống đèn điện đã tắt. một gian phòng – tối móng tay. Người lính, cũng như những người khác, nhanh chóng mở cửa sổ và bất ngờ nhìn thấy mặt trăng. để vầng trăng xưa trở lại với em, vẫn đẹp và trung thành với tất cả.

nhìn lên và thấy có thứ gì đó chảy nước như ruộng, hồ như sông, rừng

người nhìn mặt trăng và phản xạ mong mỏi “nhìn vào khuôn mặt của mình”. hai chữ “mặt” trong bài thơ, mặt trăng và mặt người đối diện nhau. đó là nhìn gương mặt tri kỷ, gương mặt tình yêu mà bấy lâu nay mình hờ hững. Nguyễn Duy Nối lại ánh trăng như gặp lại người bạn thuở thiếu thời, như gặp lại người bạn đã từng thân thiết trong những năm tháng khốn khó. trăng không nói không rằng tâm trạng người lính có phần rưng rưng. đó có phải là một cảm xúc ngột ngạt? nước mắt như muốn chảy ra. bao kỉ niệm đẹp đẽ của một đời người đã ùa về trong tâm trí người lính. từ “nước mắt” gợi bao cảm xúc cho nhà thơ. những kỷ niệm một thời tin tưởng đã chôn vùi nay trở về đánh thức tâm hồn đồng tu “như ruộng là bể, sông là rừng”. Bằng cách so sánh, từ “là” được lặp lại bốn lần cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy tài hoa đến nhường nào. đã gợi lên sự gắn bó chan hòa với thiên nhiên của những người lính năm xưa. bởi vì khi bạn nghĩ đến cánh đồng, sông, hồ, bạn nói đến tuổi thơ, và khi bạn nói đến rừng, bạn nói đến chiến tranh. hai hình ảnh thơ này được lặp lại trong khổ thơ đầu. như vậy vầng trăng trong bài thơ không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của quá khứ. vầng trăng đã đánh thức mọi người, từ những năm tháng tuổi trẻ đến khi cầm vũ khí hành quân đánh đuổi quân thù dưới rừng cây. hóa ra những ký ức đẹp đẽ ấy vẫn chưa mất đi và người ta cũng không hoàn toàn thờ ơ như vậy. Những ký ức đó chỉ tạm thời biến mất, người ta có thể quên đi trong lúc bận rộn, nhưng chỉ cần một chút tác động, chúng sẽ sống lại nguyên vẹn, thậm chí sâu sắc hơn, tạo nên vẻ đẹp không gì sánh được. bay bổng từ tâm hồn con người.

nguyen duy tập hợp độc giả chiêm nghiệm về “vầng trăng tri ân” một thời:

mặt trăng luôn tròn vành vạnh, không phụ lòng người, vô tình ánh trăng tĩnh mịch khiến ta sợ hãi

bài thơ thiên về cảm giác “rưng rưng” cũng có chủ đề rõ ràng. nhưng thêm một đoạn cuối, ý thơ trỗi dậy, trở nên rõ ràng và mạnh mẽ hơn trong bài bình luận về một thái độ sống. hình ảnh “vầng trăng” cũng được nhà thơ ví như “tròn vành vạnh” thật đẹp, một vẻ đẹp hoàn mỹ không khuyết điểm dù ai đó vô tình làm thay đổi. ánh trăng nghiêm nghị, lạnh lùng và bao dung: “dù người bất cẩn”. chính ánh trăng sáng không lời và không lời trách móc khiến “người ta không biết gì”. tuy không nói ra lời ăn năn nhưng chính vì thế càng làm cho ý thơ trở nên băn khoăn, day dứt. toàn bộ bài thơ là bâng khuâng. ở điểm này, tác giả xưng “tôi” để nhận lỗi của mình, để xin lỗi. mọi người đã nghiêm khắc. nhìn lại bản thân để nhận ra sai lầm của mình. người xưa thường nói “trong cái rủi có cái may”. một sự việc hết sức bình thường của nền văn minh hiện đại đã thức tỉnh con người trở về với những giá trị cao quý vĩnh hằng. đó là cái hay, cái độc đáo của bài thơ có sức lay động lòng người.

Đọc bài thơ, độc giả cảm thấy đó không chỉ là câu chuyện của riêng nhà thơ, mà là câu chuyện của chính họ. Dựa trên câu chuyện đó, nó khuyến khích người đọc suy ngẫm và suy nghĩ về cách sống của chính họ. nhà thơ gửi gắm vào người đọc những điều sâu kín của lòng mình, nhưng cũng gửi đến người đọc một thông điệp về cách sống đẹp trong khung cảnh đất nước thanh bình. Qua lời tâm sự sâu sắc của nguyen duy trong bài thơ “ánh trăng”, dường như ta tự thanh lọc tâm hồn, như lay động miền kí ức mà đôi khi ta vô tình quên mất. Tôi mong những ai đã từng sống với sông, với biển, với quê, với rừng … trong những năm tháng gian khổ ấy luôn có cảm giác này.

cảm nhận 2 khổ thơ cuối của ánh trăng – văn mẫu 4

mặt trăng và người đàn ông gặp nhau trong một khoảnh khắc tình cờ. con người không còn muốn chạy trốn mặt trăng, chạy trốn khỏi chính mình. tư thế “ngửa” là tư thế đối mặt: “face” ở đây là trăng tròn. Khi con người nhìn thấy mặt trăng, họ nhìn thấy người bạn tâm giao của mình. lối viết thật lạ và sâu sắc: anh dùng những từ ngữ gián tiếp để diễn tả cảm xúc xúc động chợt trào dâng trong lòng khi gặp lại vầng trăng.

cảm xúc “nước mắt” – tâm hồn rung động, xao xuyến, gợi nhớ về tình yêu. nhịp thơ hối hả trỗi dậy như trào dâng tình người. hạnh phúc của nhà thơ như được sống lại một giấc mơ.

Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng làm tâm trí nhà thơ ngập tràn những kỉ niệm về quá khứ tươi đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo khó, gian khổ. vào thời điểm đó, con người, thiên nhiên và mặt trăng là tri kỷ và là bạn của nhau.

Khổ thơ kết thúc bài thơ với hai vế song song:

“Mặt trăng cứ tròn và tròn… đủ để khiến tôi sợ hãi”

ở đây là sự đối lập giữa “vòng tròn” và “sự vô tình”, giữa sự im lặng của ánh trăng và sự thức tỉnh “giật mình” của con người. vầng trăng mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng khuyết” ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự thân và sự trường tồn của cuộc đời, nó còn tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình vẹn tròn, thủy chung, nhân hậu, bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, của phố thị, của thị trấn, của đất nước.

hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nặng nề nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta, con người dù vô tình, có thể quên, nhưng thiên nhiên, nghĩa tình đã qua thì luôn đong đầy, vĩnh cửu. nỗi bất hạnh, lời trách móc thầm lặng của vầng trăng là sự tự kiểm tra lương tâm dẫn đến sự “bàng hoàng” ở câu thơ cuối. “sốc” là cảm giác thực tế và phản ánh tâm lý của một người đang suy nghĩ đột nhiên nhận ra sự bất cẩn, thờ ơ và bồng bột trong cách sống của họ.

“cú sốc” của sự ăn năn, tự trách mình, khi thấy cách sống thay đổi. “cú sốc” nhắc nhở bản thân đừng bao giờ phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, tôn thờ hiện tại mà coi thường thiên nhiên. thiên nhiên nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng rất nhân hậu, bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn bất diệt. hóa ra những bài học sâu sắc về đạo đức con người không thể tìm thấy trong sách vở hay những khái niệm trừu tượng xa vời.

Ánh sáng của mặt trăng thực sự giống như một tấm gương soi gương mặt thật của chúng ta, để tìm lại vẻ đẹp nguyên sơ mà chúng ta tưởng như đã ngủ yên trong quên lãng.

XEM THÊM:  20 bài cảm thụ văn học lớp 4 - Ôn tập tiếng Việt lớp 4 có đáp án

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Cảm nhận 2 khổ cuối bài thơ Ánh Trăng (5 mẫu) – Văn 9. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *