Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
843 lượt xem

Cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc siêu hay (9 mẫu) – Văn 12

Bạn đang quan tâm đến Cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc siêu hay (9 mẫu) – Văn 12 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc siêu hay (9 mẫu) – Văn 12

8 dòng đầu của bài thơ Tiếng Việt nói lên cảm xúc nhớ nhà, nhớ nhung của em khi rời Việt Bắc. Với dàn ý và 9 ý 8 câu đầu bài thơ việt bắc dưới đây sẽ giúp các em học sinh lớp 12 hiểu rõ hơn nội dung 8 câu đầu bài thơ việt bắc.

cảm nhận 8 câu thơ đầu của bài ca dao Việt Nam là một phân môn khó đối với nhiều học sinh. do đó, việc triển khai và sắp xếp các ý nội dung phải hợp lý và thống nhất. Nếu các bạn học sinh lớp 12 còn đang băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu thì hãy tham khảo 9 bài văn mẫu trong bài viết dưới đây. Ngoài ra, bạn có thể tham khảo một số bài văn mẫu như: Phân tích tiếng Việt, Cảm nhận tiếng Việt.

nêu cảm nhận về 8 dòng đầu của bài thơ Việt Nam

bản phác thảo số 1

i. mở đầu

tou huu là nhà thơ trữ tình chính trị, ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. đoạn thơ thể hiện lí lẽ sống và những tình cảm lớn lao của con người cách mạng. thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. bài thơ “việt bắc” là đỉnh cao của thơ phú và cũng là đỉnh cao của thơ ca thời kháng chiến chống Pháp. bài thơ viet bac có nhiều câu hay, tiêu biểu là câu sau:

“Khi tôi trở lại, tôi nhớ bạn…

chúng ta hãy nắm tay nhau và biết phải nói gì hôm nay ”

ii. nội dung bài đăng

1. tóm tắt:

– Việt Bắc là vùng căn cứ kháng chiến được thành lập năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “cao – bắc – lang – thái – tuyen – hà”. Nơi đây, những danh họa, chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó với rừng keo sơn cước (1940 – 1954).

– Sau hiệp định chung, tháng 10 năm 1954, ban cán sự đảng và cán bộ trung ương rời Việt Nam. cuộc chia tay lịch sử ấy đã trở thành nguồn cảm hứng để tác giả sáng tác bài thơ “viet bac”. Nỗi nhớ về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến gian khổ nhưng đầy yêu thương kéo dài suốt bài thơ.

2. nội dung nhận thức

a. bốn câu thơ đầu là lời của Việt bac hỏi người đã khuất, gợi lên những kỷ niệm về một thời đã qua, không gian cội nguồn và nghĩa tình.

– bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ. trong câu hỏi này, “tôi” dùng để chỉ người ra đi, “tôi” dùng để chỉ người ở lại.

+ “that mười lăm năm” là trạng từ chỉ thời gian, tức là thời gian chỉ khoảng thời gian gắn bó vô số giữa những người sống bên nội và bên ngoại. Bốn chữ “thiết tha, thắm thiết” thể hiện tình cảm thắm thiết, thắm thiết giữa người cán bộ và người Việt Nam.

– hai câu tiếp theo là những lời nhắc nhở chân thành, những lời khuyên kín đáo nhưng rất nghiêm túc. câu thơ với hai hình ảnh “núi” và “nguồn” là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình thành tố với câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn”. đó là một lời nhắc nhở và khuyên nhủ rất thẳng thắn và sâu sắc: Việt Nam là cội nguồn của cách mạng và là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. xin đừng quên cội nguồn của bạn.

b. Bốn câu thơ sau là tiếng nói của người về với bao nỗi nhớ, niềm đau:

– “tang” có nghĩa là khao khát, khao khát, vui buồn lẫn lộn (buồn vì phải đi vb, vui vì được trở về quê hương) nhưng buồn nhiều hơn vui. “bồn chồn” là từ miêu tả trạng thái cảm xúc dằn vặt, hồi hộp và lo lắng trong lòng, bước đi không vững, không muốn chia tay.

– bữa tiệc chia tay có hình ảnh “Màu chàm cho cuộc chia ly”. “áo dài” là trang phục nghèo nàn và bình dị của người Việt Nam Bắc Bộ, là hình ảnh ẩn dụ để chỉ người dân phía Bắc. đó là những con người nghèo “vai vế”, nhưng luôn “nghĩa tình”, thủy chung, thắm thiết.

– câu thoại “nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay” đầy biểu cảm. “những gì tôi có thể nói hôm nay …” là không có gì để nói. anh ấy không thể nói được bởi vì anh ấy quá choáng ngợp và không thể nói được. những lời chưa nói đó có lẽ đều đã được gộp chung vào ba từ “nắm tay nhau”. “Nắm tay” là biểu tượng của tình yêu và sự đoàn kết. “nắm tay” thôi cũng đủ nói lên bao nhiêu cảm xúc trong lòng. thay vào đó, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như làm tăng thêm tình yêu nồng nàn ấy. nó giống như một nốt lặng trên cột nơi cảm xúc đọng lại.

3. nghệ thuật:

  • câu thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. lối hát đối đáp tạo nên nhạc điệu phong phú cho bài thơ. tác giả vận dụng khéo léo nhiều biện pháp tu từ (ẩn dụ, câu hỏi tu từ).
  • ngôn ngữ trong sáng, tế nhị và có nhiều nét đổi mới (đặc biệt là hai đại từ yo – yo)

iii. kết thúc

– xếp hạng tổng thể.

lược đồ số 2

a. mở đầu

giới thiệu tác giả của to huu và bài thơ việt nam bac. (Tố Tố là nhà thơ lớn đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là bài thơ Việt Nam bac.)

b. nội dung bài đăng

1. tác giả

  • tou huu là một trong những ngọn cờ đầu của nghệ thuật cách mạng Việt Nam. thơ của Người thể hiện lẽ sống, lí tưởng và tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại, tình cảm, niềm vui lớn lao của nhân dân cách mạng và của toàn dân tộc, coi những sự kiện chính trị trọng đại của đất nước là đối tượng biểu đạt chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề của siêu việt lịch sử và có tính phổ quát.
  • giọng thơ đa cảm, đằm thắm, chân thành; sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng ngôn ngữ quen thuộc với dân tộc. đặc biệt, nó đã phát huy được hết tính âm nhạc phong phú của tiếng Việt như âm tiết, thanh điệu, vần điệu, …

2. Tập thơ Việt Nam

  • tập thơ là một khúc ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và nhân dân kháng chiến.
  • ca ngợi Đảng, Bác Hồ, tình quân dân thắm thiết. nhân dân, tiền tuyến – hậu phương, trên bờ – miền ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân và lãnh đạo, thiên nhiên, quê hương, con người, …
  • Kết thúc bằng những khúc tráng ca hùng tráng phản ánh chiến thắng hào hùng của dân tộc .

3. phân tích 8 câu đầu tiên

“Có nhớ ta khi về? Mười lăm năm sôi nổi Có nhớ khi ta về? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.” ”

→ lời của người Việt Bắc hỏi người đã khuất, gợi lên những kỷ niệm về quá khứ.

câu hỏi tu từ “bạn có nhớ tôi về bạn không?”, “me-ta” quen thuộc trong câu trả lời phổ biến thể hiện cảm xúc và cảm xúc dâng trào của người ở lại.

p>

“Mười lăm năm” đủ dài để mọi người hiểu nhau và có những kỷ niệm đẹp bên nhau.

“thắm thiết”: tình cảm giữa nhân dân Việt Nam với cán bộ, chiến sĩ thủy chung, sâu nặng, gắn bó, bền lâu.

hai câu thơ tiếp theo là lời nhắc nhở của những người đã khuất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. hình tượng “sông núi” được tác giả sử dụng dí dỏm câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn” để nhắc nhở người đi xa trở về với cội nguồn của cách mạng, nơi ta đã về với nhau. Cam càng chiến đấu hết mình và giành chiến thắng.

<3

“giọng nói của ai đó nghiêm nghị bên cồn đất đang quặn thắt trong bụng, bước đi không ngừng dính chàm, hôm nay nắm tay nhau nói chuyện…”

<3

“chân thành”: tình cảm của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.

“tức giận”: khao khát, khao khát, xen lẫn giữa buồn và vui, “bồn chồn” thể hiện sự dằn vặt, nỗi thống khổ trong lòng khiến việc bước đi trở nên chần chừ.

→ người ra đi rất lưu luyến viet bac, nửa muốn ra đi, nửa muốn ở lại, khắc khoải, hoang mang.

“Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho những con người chất phác, mộc mạc, chất phác của người Việt Bắc tiễn đưa người lính miền xuôi.

“Biệt ly” dù phải chia xa nhưng trong lòng họ vẫn luôn hướng về nhau, vẫn dành cho nhau tất cả tình yêu thương và mong muốn được gặp lại nhau.

“hôm nay mình hãy nắm tay nhau và nói những điều cần nói …”: Không phải là không còn gì để nói với nhau, mà có rất nhiều điều muốn nói trong giây phút chia ly ấy nhưng không thể nói ra. thành tiếng. một cái bắt tay cho tất cả những lời bạn muốn nói. phép im lặng (dấu “…”) ở cuối câu khiến không gian bữa tiệc chia tay như trùng xuống, thể hiện nỗi buồn, sự lưu luyến giữa người ra đi và người ở lại.

→ không gian của cuộc chia tay đầy đau thương.

c. kết thúc

khẳng định lại giá trị và ý nghĩa của đoạn thơ: đoạn thơ góp phần to lớn vào thành công của vở kịch và nền văn học Việt Nam; để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

Cảm nhận 8 câu đầu tiếng Việt – mẫu 1

tou huu là nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu thơ trữ tình chính trị, ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. viet bac là đỉnh cao của thơ phú và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 dòng đầu của bài thơ việt nam bac đã thể hiện nỗi nhớ, cũng là nỗi niềm chung của đồng bào ta trong cuộc tiễn biệt lịch sử.

dân tộc là những dấu vết riêng biệt, không lặp lại, thể hiện thế nào là bản sắc, đặc điểm riêng biệt của một dân tộc. tính dân tộc được hiểu là đặc trưng nhưng cũng là thước đo giá trị của tác phẩm văn học. các tác phẩm văn học lớn từ xưa đến nay. nhưng các tác phẩm đều mang tính nhân văn và dân tộc sâu sắc.

trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Về nội dung, tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những đề tài hiện thực về cuộc sống cách mạng cháy bỏng liên quan đến vận mệnh của dân tộc, tình cảm chính trị gắn bó, hòa nhập với truyền thống nghĩa tình, đạo lý của dân tộc, khát vọng và ý chí của một dân tộc. . về hình thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo những tinh hoa văn hóa của dân tộc (so sánh, ẩn dụ, chuyển ngữ, các cách diễn đạt gần với các bài ca dao). nếu hiểu theo cách đó, thì bài thơ có một phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.

Bốn câu thơ đầu là lời yêu cầu thiết tha của người ở lại, gợi lên bao kỉ niệm về một thời đã qua, không gian của tình cảm cội nguồn, thể hiện nỗi nhớ nhung, lưu luyến. , chung thủy với quê hương viet bac, con người viet bac cho người về miền xuôi. ở đây nhà thơ sử dụng thành công phép đối theo kiểu bình dân:

Khi quay lại, tôi nhớ về mười lăm năm đó với niềm đam mê.

cảnh chia tay tan nát giữa người ở và người trở về. cách xưng hô “ta – ta”: thân mật, gần gũi như trong ca dao. từ “nhớ” thể hiện sâu sắc, da diết nỗi nhớ. cách xưng hô “ta – ta”: thân mật, gần gũi như trong ca dao. thông điệp cấu trúc “ký ức về bản thân tôi”: những lời động viên, nhắc lại những kỷ niệm của “mười lăm năm với niềm đam mê và tình yêu”, về thiên nhiên Việt Nam với lòng biết ơn.

người ở lại đặt câu hỏi tu từ “bạn có nhớ tôi về bạn không?” để tưởng nhớ người đã khuất, nhắc người đã khuất về những kỷ niệm của “mười lăm năm nồng nàn, tâm huyết”. Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa miền Bắc cho đến tháng 10 năm 1954, mười lăm năm “ta đây ta đây, ngọt bùi bùi bùi”, mười lăm năm chia vui, chia ô, mười lăm năm. “bát cơm chấm muối, hận nặng”… làm sao biết được bao tình thương mến. bốn chữ “thắm thiết” thể hiện tình cảm thắm thiết giữa người cán bộ trung kiên, bền chặt. Có lẽ vì vậy mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quy cho rằng “mười lăm năm ấy” không chỉ được đo bằng thước đo thời gian mà còn được đo bằng thước đo tình cảm của con người. Nó là thuốc thử làm tăng độ bám dính của sơn. ”

<3

một câu hỏi tu từ khác xuất hiện. Đó là một lời nhắc nhở, một lời nhắc nhở về hà nội thấy cây nhớ núi rừng chiến khu, nhìn sông nhớ cội nguồn việt bắc. nhớ như một lời dặn dò kín đáo nhưng chân thành: Việt bắc là cội nguồn của cách mạng, là “quê hương cách mạng dựng nước cộng hòa”, trung tâm của cuộc kháng chiến. câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt, tài tình của nhà thơ với câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn”. qua đó nhà thơ cũng nhắc nhở con cháu phải biết nhìn về cội nguồn, nơi cội rễ, cái nôi đã uốn nắn nên chúng ta.

hai câu hỏi đề cập đến nỗi nhớ, nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, nỗi nhớ về không gian: sông, núi, đài phun nước. Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỷ niệm của người dân Việt Nam đối với người lính.

âm thanh của một ai đó nghiêm túc ở bên cạnh cồn cát đang vặn vẹo trong bụng họ, đi đi lại lại một cách bồn chồn. Indigo tách nhau ra, nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay …

bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng đến rồi đi: tâm trạng u uất, khắc khoải, nhớ nhung, nỗi niềm của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.

từ “xin lỗi” thể hiện sự kích động, “bồn chồn” thể hiện sự bất an trong lòng, không nỡ rời xa. hình ảnh “áo chàm” nói đến những con người phương bắc chất phác, thân thiện. Cử chỉ “nắm tay” thay cho lời nói tình cảm. Không khí của buổi tiệc chia tay thật thân thiện, gần gũi và không muốn tách rời.

lời của người ở lại gửi người ra đi: thông điệp được thể hiện dưới dạng câu hỏi: nhớ quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên việt bắc, nhớ địa danh lịch sử. , nhớ lại những kỷ niệm đẹp…

nếu người miền bắc theo chân người miền xuôi với bao nỗi nhớ thì lời đáp của người miền xuôi cũng đầy chân thành thương tiếc. không dùng đại từ “ta”, “ta” mà dùng đại từ “ai” để khẳng định trước hết sự gắn bó với người ở lại. ai có thể là đại từ để hỏi, nhưng ở đây là đại từ chỉ, rất gần với câu ca dao phổ biến: “nhớ ai là nhớ” được sử dụng và khai thác triệt để cùng một phép biến hóa tinh thần trong giá trị biểu đạt của từ “ai. “. một chữ “ai” của người về cũng đủ lay động lòng người tiễn đưa, đủ cho thấy người về yêu mến Việt Bắc và thấu hiểu tâm huyết của người Việt Bắc đối với cách mạng đến nhường nào. cho người dân miền bắc. một chữ “ai” làm rung chuyển cả không gian. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi ở / Khi ta ra đi, đất đã trở thành tâm hồn”.

Hai từ “buồn” và “lo lắng” giúp làm tăng thêm tâm trạng của người đã khuất. tình yêu và niềm khao khát cũng giống như níu kéo người ở lại, “bước từng bước một, chốc dừng lại” để rồi “nắm tay nhau đi rồi biết nói gì hôm nay”. Tôi không biết phải nói gì vì có quá nhiều điều để nói. Bao nhiêu ân tình, trớ trêu em không thể dùng lời nào để diễn tả được, em phải gửi gắm tình cảm của mình qua những cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Nắm tay” là biểu tượng của tình yêu và sự đoàn kết. chỉ cần nắm tay nhau và để hơi ấm nói lên tất cả, tình yêu, niềm mong mỏi, lòng biết ơn sẽ ấm áp như hơi ấm của đôi tay bạn lúc này. dấu chấm lửng ở cuối câu như làm tăng cảm xúc thiết tha, dạt dào, bất tận. nó giống như một nốt lặng trên cây cọc nơi cảm xúc đọng lại sâu sắc. qua đó, người Việt Nam hiện lên một cách đẹp đẽ với những phẩm chất dân tộc tiêu biểu: nhân hậu, trung hậu, đảm đang.

Về nghệ thuật, tou hu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc để thể hiện tình cảm cách mạng. Từ xa xưa, thơ lục bát là thể thơ dễ đi vào lòng người do giọng điệu ngọt ngào vốn có. nếu nó được dùng để bày tỏ tình cảm thì không còn gì tuyệt hơn. hay hơn nữa, nhà thơ đã khéo léo sử dụng phép đối lập, một hình thức diễn đạt quen thuộc trong các bài hát nổi tiếng.

đó chính là điều khiến bài thơ trở nên ngọt ngào và thấm đẫm tinh thần dân tộc. hơn nữa, ngôn ngữ là một yếu tố góp phần không nhỏ trong việc khơi gợi hồn dân tộc của tác phẩm nói chung, tám dòng đầu nói riêng là ngôn ngữ. ngôn ngữ thơ của Việt Bắc mềm mại và uyển chuyển, đặc biệt là những đại từ nhân xưng ngọt ngào và sâu lắng mà chúng ta thường thấy trong các bài hát nổi tiếng về tình yêu lãng mạn.

Tính dân tộc về hình thức cũng được thể hiện qua hình ảnh. đó là thế núi có dạng hình sông: “trông cây nhớ núi, trông sông nhớ nguồn”. đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong ‘buổi chia tay’. chiếc áo chàm là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những người Việt Bắc đằm thắm nhưng cũng rất đỗi anh hùng. những con người này đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa anh hùng, vừa khí phách: “lưng đeo gươm, tay hiền cầm bút hoa / sống hào sảng nhưng giàu lòng nhân ái, nghĩa tình”.

dân tộc không chỉ vô cùng thành công về mặt nghệ thuật mà còn thể hiện đậm nét qua nội dung và tư tưởng. viet bac nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh mạnh mẽ hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; nó dung hòa những tình cảm cách mạng và tiếp nối truyền thống tinh thần và đạo đức dân tộc.

Với tài năng nghệ thuật và trái tim luôn sôi sục ý chí cách mạng, ông đã viết nên một bản tình ca, một bản anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Tình cảm sâu nặng của những người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc và quần chúng nhân dân đối với cách mạng trong thơ ca là di sản của tình cảm nhân dân Việt Nam và đạo lý sống “uống nước nhớ nguồn”, nhân hậu. so viet bac đã thực sự trở thành một trong những bài hát không bao giờ quên, không thể nào quên.

8 dòng đầu của bài thơ Việt Bắc là minh chứng cho sự thành công của thơ lục bát trong việc kết hợp hai yếu tố: cách mạng và chủ nghĩa dân tộc trong một thể thơ đẹp. tính dân tộc là một trong những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách thơ. thơ vừa mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn phảng phất hồn thơ của thời đại cách mạng.

cảm nhận 8 câu đầu của viet bac – văn mẫu 2

to huu là nhà thơ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam. đoạn thơ thể hiện lí lẽ sống và những tình cảm lớn lao của con người cách mạng. thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. bài thơ “việt bắc” là đỉnh cao của thơ lục bát và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. “viet bac” là một trong những bài thơ được xếp vào loại thơ “tạm biệt” của để huu. Tuy là một chủ đề cũ nhưng bài thơ vẫn còn mới bởi bài thơ “Việt Bắc” ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đó, bài thơ không mang cảnh của một cuộc chia ly đầy xót xa và nước mắt, nhưng là cuộc chia ly trong tình cảm giữa tranh và người với tình cảm sâu nặng. dòng mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong lòng người ra đi, ở lại lúc chia tay:

– Khi đi về có nhớ mười lăm năm ấy với bao tâm huyết, khi về có nhớ cây nhớ núi, khi nhìn sông có nhớ đài phun nước?

><3

Bốn dòng đầu là lời của người ở lại với người ra đi:

– Khi đi về có nhớ mười lăm năm ấy với bao tâm huyết, khi về có nhớ cây nhớ núi, khi nhìn sông có nhớ đài phun nước?

>

tác giả mở đầu bằng một câu hỏi bằng một bài hát nổi tiếng, yêu thương: “khi trở về có nhớ anh không”. “Em về rồi” là hoàn cảnh để người ở lại bày tỏ tình cảm của mình. “over” chỉ sự chia ly, là sự chia ly của người ra đi và người ở lại. Đối với cấu trúc của câu thơ, “tôi” được tìm thấy ở đầu câu và “tôi” được tìm thấy ở cuối câu. gợi ra khoảng cách giữa “tôi” và “tôi”. nỗi niềm gợi lên nỗi niềm của người ở lại là nỗi nhớ, nỗi niềm của người ở lại đối với người ra đi. đứng giữa câu thơ là một từ “nhớ”, nó làm cho “ta” và “ta” như gần nhau hơn. cơ sở để tạo nên nỗi nhớ ấy là: “mười lăm năm ấy nồng nàn, đắm say”. câu thơ phảng phất âm hưởng thơ ca Việt Nam ở nước ngoài, nhưng từ dư âm đó lại vang lên tâm tư tình cảm của con người một thời kháng chiến. “Mười lăm năm ấy” dùng để chỉ một khoảng thời gian khó khăn, một khoảng thời gian đau thương và mất mát. tuy nhiên, dường như tất cả mất mát đau thương ấy đã chìm vào trong, chỉ còn đọng lại một nỗi niềm “mặn nồng” trong câu thơ. đó là sự gắn bó khăng khít, là tình cảm thủy chung ngọt ngào trong “mười lăm năm ấy” giữa “em” và “em”. do đó, hỏi cũng là để bày tỏ tình cảm và hỏi là để bày tỏ mong muốn rằng người ra đi cũng có cảm xúc như bạn.

Ngay cả câu thứ ba cũng là một câu hỏi. câu hỏi: “bạn có nhớ tôi về bạn?” có sự lặp lại tương tự như câu thơ đầu tiên. tuy nhiên, chủ đề của câu hỏi không chỉ được xoay quanh mối quan hệ giữa “tôi – tôi” và nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng đến “tôi”, mà nỗi nhớ đó đã được hướng tới một lượng khán giả rộng lớn hơn nhiều, đó là không gian “núi rừng” và “sông phun nước”. câu hỏi gợi không gian với “núi”, “nguồn” nơi núi rừng việt bắc. đây là không gian gia đình cho những người ở lại và cũng cho những người ra đi. không gian ấy với những người ra đi và những người ở lại không còn là không gian vô hồn, không cảm xúc mà là không gian đầy ắp kỷ niệm, góp phần tạo nên tình cảm cho những người ra đi.

Trong câu thơ, hai động từ hành động “thấy” và “nhớ” xuất hiện nhiều lần. một hành động ảnh hưởng đến thị giác, một hành động ảnh hưởng đến tâm trí; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng tới quá khứ. Sự đan xen của những hành động này của người ở lại là để nhắc nhở người đã khuất sống ở hiện tại đừng quên quá khứ, sống ở miền xuôi, đừng quên vùng cao, đừng quên những kỷ niệm của một thời đã qua. vừa qua. đó là mong muốn của những người ở lại nhắn gửi những người ra đi. Trước khi muốn nhớ người ra đi, người ở lại thể hiện nỗi nhớ da diết. nỗi nhớ ấy được thể hiện trực tiếp qua động từ “nhớ” xuất hiện nhiều lần trong khổ thơ, càng về cuối từ “nhớ” càng xuất hiện càng cho thấy nỗi nhớ ngày càng mãnh liệt và đã tạo nên âm vang chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm thanh của nỗi nhớ và tình cảm chân thành.

bốn câu thơ đầu chỉ với hai câu hỏi nhưng chủ yếu để bày tỏ tình cảm và mong muốn người đã khuất cũng có tình cảm như mình, bởi giữa hai đối tượng đó có mối quan hệ gắn bó keo sơn, trường kỳ kháng chiến và vùng kháng chiến. Từ đó, người ra đi đáp lại người ở lại bằng bốn câu thơ:

<3

Người ở lại đặt câu hỏi nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi đó, thay vào đó người ra đi thể hiện nỗi nhớ nhung, vương vấn trong lúc chia tay. ấn tượng đầu tiên đã ảnh hưởng đến người đã khuất: “tiếng ai nghiêm nghị bên rượu”. “ai” là đại từ không xác định. “ai” có thể là nhân vật hiện ra trước mắt người ra đi, thân thuộc với người đã khuất, một người cụ thể xuất hiện “trong men rượu” trong buổi tiễn biệt. “ai” có thể là bất kỳ người Việt Nam nào đã từng sống, làm việc và chung sống với người đã khuất. trong mọi trường hợp, ấn tượng ảnh hưởng đến người đã khuất là âm thanh của một giọng nói nghiêm túc, một âm thanh rất ngọt ngào, nghiêm túc và sâu lắng. và âm thanh ấy dường như gợi lại biết bao kỷ niệm, bao cuộc trò chuyện chân tình, và âm thanh ấy gợi nên sự gắn bó khăng khít giữa người ở lại và người đi. chính âm thanh đó đã khiến người quá cố “đau thắt ruột gan, không yên bước đi”.

câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai phép đối nhỏ trong mối quan hệ đối lập giữa bên trong và bên ngoài. “trong lòng” có nghĩa là “tha thứ” còn hành động bên ngoài thể hiện sự “khắc khoải” của người đã khuất, nhưng lại có những nét tương đồng về tình cảm và hành động. chính là do cảm thấy “tâm trạng không tốt” nên có hành động “bồn chồn”.

Trong tình cảm của những người đã khuất, một hình ảnh bình dị, thân thuộc vẫn thường xuất hiện trong cuộc sống đời thường là hình ảnh “áo chàm”. hơn nữa “áo chàm” gợi lên một màu sắc bền bỉ khó phai mờ. tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo dài” để chỉ người Việt Bắc và do đó nói “áo dài mang đến sự chia ly” là nói về cuộc chia tay đầy khát khao giữa người Việt Bắc và những người cách mạng. Mượn hình ảnh “áo chàm”, dường như tác giả muốn nói đến lòng trung thành không thể phai mờ của người dân Việt Nam đối với người chiến sĩ cách mạng. và ấn tượng đậm nét nhất đối với người đã khuất là hành động “nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay…”.

trước hết, hành động “nắm tay” là một hành động quen thuộc và đẹp đẽ của những người xa nhau, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết, đồng thời thể hiện sự gắn bó giữa người đã khuất và người đã khuất. . họ nắm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào nên không nói được lời nào. những dấu chấm lửng hiện ra ở cuối dòng như một nốt nặng không lời, nhưng nó quý hơn nhiều lời nói thường ngày bởi cái nắm tay đã nói hết nỗi nhớ. câu kết đoạn thơ với nhịp điệu thay đổi khác thường. sự thay đổi nhịp độ của bài thơ không chỉ tạo ra sự ngắt nhịp trong giọng điệu của câu thơ mà còn tạo ra sự ngập ngừng trong cảm xúc. đồng thời sự khác biệt về nhịp thơ đã nói lên sự khác biệt trong diễn biến tình cảm của người ra đi.

cảm nhận 8 câu thơ đầu của bài ca dao việt nam – văn mẫu 3

Thật lạ khi ông nói về thơ, rằng: “thơ, tình là gốc, từ là ngọn, âm là hoa, tức là quả”, đó là một biên độ tạo nên sức sống của thơ trong. giữa thời gian. ngôn ngữ thơ là vậy. Nhà thơ dành riêng cho bài thơ “Việt Bắc” để gửi gắm những tâm tư tình cảm sâu sắc của mình về tình bạn trong thời chiến cũng làm xúc động lòng người. tám dòng đầu: “Ngày về anh sẽ nhớ đến em… chúng ta hãy nắm tay nhau và nói những lời muốn nói hôm nay…” là kết tinh tư tưởng của chủ đề đó.

tám dòng thơ đầu hay những dòng thơ trầm buồn khi giờ phút chia tay đã đến, tô đậm nghĩa tình cách mạng của đồng bào miền núi với cán bộ, chiến sĩ.

thể thơ lục bát khiến câu thơ mềm mại, âm điệu trầm bổng, kết hợp với vần điệu phong phú, nhịp điệu đều đặn gợi lên muôn vàn cung bậc cảm xúc trong tâm hồn kẻ ở, người đi. kết cấu đối đáp, cách xưng hô quen thuộc “yo, ta” xuất hiện trong các bài hát giao duyên, những câu chuyện tình, những lời tán tỉnh của chàng – nàng, quả mận – đào, mở ra không khí âu yếm, giọng ca tình tứ, ngọt ngào. . bài thơ nói lên tình cảm chính trị mà không hề khô khan.

đối với những người vẫn còn, nhạy cảm với sự thay đổi nên nói trước:

“- ngày về có nhớ ta không? Mười lăm năm sôi nổi có nhớ ngày về? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn. . ”

câu hỏi tu từ bước đi, đệ quy ở dạng tăng dần “có nhớ em, có nhớ không?” nó gợi cảm xúc từ xa đến khắc khoải lắng nghe âm vang. từ đó giúp ta cảm nhận được tấm chân tình của người ở lại, tình đồng bào dành cho người ra đi. giai đoạn lịch sử “mười lăm năm”, cũng là thời gian thắm thiết ân tình. không gian “cây, núi, sông, đài phun nước” gợi lên núi thẳm đại ngàn của Việt Nam. từ “nhớ” thể hiện tình cảm của lớp, không thể thay thế được. cách diễn đạt mang lỗi tư tưởng bình dân như một lời nhắn nhủ của cha ông ta về lối sống thô sơ, ẩm thấp, nhớ lấy lòng chung thủy.

lời nói của những người đi trước đáp lại tiếng nói của những người ở lại:

“- giọng nói của một người đang trầm tư bên bờ sông quặn thắt trong bụng, bước đi không yên trong chiếc áo choàng chàm tay trong tay biết nói gì hôm nay…”

một cặp câu lục bát có sử dụng điệp ngữ “khắc khoải, khắc khoải” để nói lên tất cả nỗi niềm trong lòng của người chia ly. tâm trạng trở nên hữu hình, vô hình trở nên hữu hình, “bước đi không yên” gợi ý bước đi chậm rãi, không muốn bị cuốn đi như bước chân của người chinh phụ, người anh hùng ngày nào trong “người chinh phụ”:

“tiến một bước, giây dừng lại”

nhưng đó là quan hệ vợ chồng và “viet bac” chỉ tình bạn thân thiết và tình yêu nước. hình ảnh chiếc áo chàm trong cuộc chia ly đã đến rồi đi trong những bài ca bình dân xưa, chiếc áo để người ta đắp cho bớt cô đơn, chiếc áo dài thướt tha trong bữa tiệc chia tay. nhưng người bạn mượn màu chàm giản dị, bền lâu, khó phai của người miền ngược mà nói màu son lòng người vẫn vẹn nguyên muôn đời. tâm tư, tình cảm của người ngồi trong xe đều được người ngồi cảm nhận, dường như “ta, ta” hiểu nhau ngay cả những điều chưa nói. do đó, hành động “nắm tay nhau rồi biết nói gì” giống như khoảng lặng của âm nhạc, khoảng trống của nhiếp ảnh, khoảng không của tình yêu. thời gian như ngừng trôi để người dân và du khách hàn huyên, thấu hiểu nghĩa tình giữa đồng bào và cán bộ lão thành cách mạng sâu nặng.

Tám dòng đầu của bài “viet bac” đã tiếp thu những giá trị bình dân phong phú và được nhà thơ sáng tạo bằng những ý tưởng mới, hình ảnh mới, cách diễn đạt cảm xúc và những sự kiện đương đại phản ánh quy luật của sự kế tục. .

cảm nhận 8 câu thơ đầu của bài ca dao việt nam – văn mẫu 4

Cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc siêu hay (9 mẫu) - Văn 12

Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, là cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp núi chung. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại :

và câu thơ:

“Tôi nhớ bản thân khi trở lại… tôi có thể nói gì hôm nay”

là một trong những đoạn tiêu biểu của tình cảm trung thành đó. Bài thơ được viết vào tháng 10 năm 1954, khi Đảng bộ, chính quyền, cán bộ, chiến sĩ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Cảm phục trước không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, người bạn đó đã xúc động viết bài thơ này. bài thơ được kết cấu theo thể đối đáp trong các bài ca dao phổ biến: lời đối đáp giữa hai người yêu nhau, tình yêu thắm thiết nay phải chia xa. cả bài thơ đầy hoài niệm. nỗi nhớ trong kẻ ở và người đi trong câu hỏi và trong câu trả lời. nỗi nhớ cứ ùa về, cồn cào. ​​

Trong bốn dòng đầu của bài thơ, có vẻ nhạy cảm trước sự thay đổi của hoàn cảnh, người ở lại nói trước, xoay người rời đi để trở về với tấm lòng thủy chung:

Bạn có nhớ mười lăm năm đó khi bạn trở lại với chính mình không? Bạn có nhớ khi bạn nhìn vào cái cây, ngọn núi, dòng sông, đài phun nước không

giọng thơ như suối nguồn của những bài hát nổi tiếng. cách gọi “yo_yo” ngọt ngào, nồng nàn như tình yêu đôi lứa. nhưng tôi đây, không ai khác chính là người đã ra đi, người cán bộ kháng chiến chuẩn bị trở về. tôi là người ở lại, người làng quê bắc việt trung kiên. “Anh về rồi, em có nhớ anh không?” Liệu tôi có trở về, những cán bộ, chiến sĩ sau chiến thắng về nơi phồn hoa đô hội có nhớ đến đồng bào và mảnh đất việt bắc với những năm tháng gian khổ mà mình đã từng đùm bọc, che chở trước đây? cách gọi “anh – ta” giống như biểu hiện của tình yêu đôi lứa trong dân gian, người bạn đã mượn cách nói thân thiết ấy để giải thích mối quan hệ khăng khít giữa người cán bộ kháng chiến với nhân dân. vì vậy những con chữ không bị khô mà ngọt ngào và mềm mại.

“mười lăm năm ấy”, con số vừa có nghĩa thực vừa có ý nghĩa hư ảo: đó là mười lăm năm của cuộc đời. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thủy chung giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. bài thơ trông giống như một câu thơ:

nhưng tôi muốn biết có bao nhiêu tình yêu trong mười lăm năm đó.

dùng từ gợi liên tưởng về thời gian “mười lăm năm…” càng làm cho nỗi nhớ da diết: không biết còn nhớ hay đã quên, nhưng không thể quên được những năm tháng ấy. . và cũng để giải tỏa nỗi lòng của người đã khuất, cư dân này đã khéo léo gợi ý cảnh quay

ăn cây nhớ núi, trông sông nhớ nguồn

tình cảm giữa ta và ta được nảy sinh từ những lẽ hiển nhiên như đạo lý uống nước nhớ nguồn. Liệu tôi có trung thành với những cám dỗ mới của cuộc sống? đó cũng là tâm trạng, nỗi niềm của “người ở lại”, của “chúng tôi”. → cách so sánh trên không chỉ mở rộng không gian của nỗi nhớ mà còn khiến kí ức như tuôn trào theo từng tầng lớp.

Các cặp hình ảnh “cây-núi”; “sông-nguồn” vừa có nghĩa thực vừa có nghĩa ảo, nó không chỉ gợi lên không gian núi rừng Việt Nam với những nét đặc thù riêng. nhưng nó cũng nói lên tình cảm trung thành trong mối quan hệ cội nguồn: tranh đến từ nhân dân. nhớ dân, như nhớ cội nguồn

những điệp từ “mình” “mình”, câu hỏi tu từ “mình nhớ…” được lặp lại hai lần khiến nỗi nhớ, niềm tiếc thương tiếp tục trỗi dậy trong lòng người ra đi, người ở lại.

và đáp lại sự quan tâm của những người ở lại, là tiếng nói của những người đã ra đi.

âm thanh của một ai đó nghiêm túc ở bên cạnh cồn cát đang vặn vẹo trong bụng họ, đi đi lại lại một cách bồn chồn. tay áo chàm, biết nói gì hôm nay?

đại từ “ai” chỉ tạo nên một cõi hoài niệm mông lung, mơ hồ (như thể hiện trong các bài ca dao: ai nhớ ai…) hóa ra người đi cũng chung một tâm trạng, cùng một trạng thái. của tinh thần. một tình yêu chung thủy như bạn bè: sầu trong bụng, bước đi không yên.

“tức tưởi, bồn chồn” là hai từ gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lý buồn, tủi, khao khát, mong mỏi, mong chờ… đồng thời lẫn lộn. mười lăm năm cán bộ, chiến sĩ Việt Nam, mười lăm năm gian khổ bên nhau, mười lăm năm đầy ắp kỷ niệm chiến đấu, nay phải chia tay nhau làm nhiệm vụ mới làm chủ thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo những gì. , bạn có biết hình ảnh nào để lưu? tác giả đã sử dụng hàng loạt tiếng lóng, từ ngữ chỉ trạng thái tình cảm của người yêu để nói lên nỗi niềm không nói nên lời của người đã khuất cũng như chung thủy với tình cảm như tấm lòng của người ở lại.

một thời gắn bó, một thời chung thủy, giờ đây ta và ta đã xa nhau: “áo chàm mang chia ly”. áo chàm “không chỉ là màu áo sơ mi, màu áo đơn giản, mộc mạc. Người dân quê nghèo miền núi cao nguyên mà đã trở thành ẩn dụ cho lòng trung thành, nghĩa tình sâu nặng của người Việt Nam, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước, người sống đời nay, thắc mắc sao không rạo rực: “nắm tay nhau đi, biết nói gì hôm nay”.

câu thơ… ”mang đầy tính chất biểu cảm. nó gợi lên cảnh khao khát nắm tay không thốt nên lời của lứa đôi yêu nhau, để tác giả xoáy sâu vào tình cảm thân thiết, thủy chung của người miền xuôi đối với người vùng cao. bởi vì không có gì để nói, nhưng vì có quá nhiều điều muốn nói nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu, nói gì. ba dấu chấm lửng cuối câu là một khoảng lặng trong lòng cán bộ để những cảm xúc ngắn, dài, sâu lắng … trong buổi chia tay, dẫu chẳng biết nói gì với người ở lại, nhưng thực sự là người ra đi đã nói nhiều điều. . bởi vì im lặng cũng là ngôn ngữ của cảm xúc

cách chia 3/3; 3/3/2 trong hai dòng cuối của đoạn văn miêu tả một cách chân thực sự đắn đo, lưỡng lự trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi, kẻ ở. những kỷ niệm đã trao nhưng trái tim vẫn còn lưu luyến không rời.

Qua bài thơ, ta cảm nhận được 8 dòng đầu bài thơ của viet bac, ta thấy được nỗi nhớ, là nỗi lòng của viet bac. bài thơ mang sắc thái thể hiện của phong cách tiểu học, với giọng thơ ngọt ngào truyền cảm, đậm chất văn học dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống của cuộc kháng chiến. Thông qua hình tượng người Việt Bắc, tác giả đã tôn lên phẩm chất cách mạng cao quý của quân và dân ta, khẳng định tấm lòng trung nghĩa, thủy chung của người cán bộ, chiến sĩ đối với người “Việt Bắc”

cảm nhận 8 dòng đầu bài thơ việt bắc – văn mẫu 5

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định chung được ký kết. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử đó, tác giả đã sáng tác bài thơ Việt Bắc tiêu biểu cho đoạn vỡ lịch sử với tình cảm thủy chung son sắt. cảm giác này được thể hiện trong những câu thơ sau:

“Khi quay trở lại, tôi nhớ về mười lăm năm đó với niềm đam mê, tôi nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ đài phun nước

giọng nói của một người nghiêm túc bên bờ sông quặn thắt trong bụng, anh bước đi không yên. bàn tay chàm nắm tay nhau biết nói gì hôm nay ”

câu thơ chứa đầy một nỗi nhớ dường như không thể cưỡng lại được tuôn ra từ dưới ngòi bút và chảy thành những dòng thơ. có bốn chữ “nhớ” trong một bài thơ tám câu thì chắc hẳn nỗi nhớ ấy phải da diết, sâu lắng lắm. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mạng của một người đã từng gắn bó sâu nặng với mảnh đất thiêng liêng đầy ắp kỉ niệm ấy, nỗi nhớ về tình yêu, tình nghĩa thuỷ chung.

khúc dạo đầu đề cập đến nỗi nhớ về luân lý việt nam, cảnh chia tay u ám trong nỗi nhớ, người ở lại hỏi người ra đi chỉ là nỗi nhớ và người ra đi đáp lại bằng chính nỗi nhớ của mình. Tố đã thể hiện nỗi nhớ quê hương cách mạng bằng giọng hát ngọt ngào, sâu lắng của những người hát đối đáp trong các ca khúc bình dân. bài hát đó thấm nhuần nguyên tắc của tình yêu chung thủy:

“Khi trở về với chính mình, tôi nhớ về mười lăm năm ấy với tình yêu nồng cháy dành cho tôi. Có nhớ trông cây, nhớ núi, nhớ sông, nhớ đài phun nước?”

nghe giống như một bài hát nổi tiếng, với âm hưởng phảng phất của chất thơ siêu trầm, hai dòng đầu tiên gợi cho chúng ta nhớ đến một câu trong truyện kiều:

“Có rất nhiều tình yêu trong mười lăm năm đó”

viet bac hỏi anh cán bộ về bình nguyên còn nhớ anh không? Bạn còn nhớ tình cảm nồng nàn, thắm thiết trong suốt mười lăm năm gắn bó không? Nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn không? bốn câu thơ nhưng thực ra là hai câu hỏi tu từ. lời nói của người ở thực sự là lời nói của người đi thể hiện đạo lý truyền thống Việt Nam là bản chất tốt đẹp của dân tộc ta. không phải chỉ nói mà là nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình vì đạo lý đó rất thiêng liêng, rất đáng quý, cần phải giữ gìn và phát huy.

Sâu nặng biết bao trong “mười lăm năm ân tình mặn nồng”, ân tình nào khi “trông cây nhớ núi, khi nhìn sông nhớ nguồn”. bốn câu thơ có bốn chữ “ta”, bốn chữ “nhớ” đan xen với chữ “ta”, làm cho đạo lý ân tình của người Việt chạy dài như sợi chỉ đỏ xuyên suốt thơ việt bắc, trở thành chủ đề chính của tác phẩm. / p>

sau bài hát mở đầu là cảnh chia tay buồn trong nỗi nhớ của cả người ra đi và người ở lại:

<3

Nó có âm thanh dễ thương và màu sắc tươi sáng, những bước đi không ngừng nghỉ và những cái nắm tay hoài cổ. Mỗi bước đi của người đi đều mang theo nỗi nhớ cho người ở lại. “tiếng ai” không phải là câu hỏi, cũng không phải là đại từ tầm thường mà là cách diễn tả cảm giác “réo rắt trong bụng, đi lại không yên”. “buồn” vì “đi không nổi”, nhưng “khắc khoải” vì không thể ở lại vì viet bac đã trở thành kỉ niệm, thành tình yêu, thành tâm hồn:

“Khi ta ở lại chỉ là nơi ở, khi ta rời đi, mảnh đất trở thành tâm hồn”

Từ sầu muộn, bồn chồn được sử dụng rất tinh tế trong câu thơ này. thể hiện cảm xúc, tâm trạng và cả những chuyển động trong cảm xúc, thì hình ảnh tiếp theo xuất hiện là chiếc áo dài chàm thông qua phép ẩn dụ để miêu tả con người Việt Nam:

“những gì cần nói với chúng tôi hôm nay”

màu áo chàm là một hình ảnh ý nghĩa, đó là màu áo Việt Nam gan dạ, son sắt như lòng trung thành của người dân nơi đây. Màu áo ấy gợi cho người đã khuất nhiều kỷ niệm khó phai mờ.

câu thơ “nắm tay nhau đi rồi biết nói gì hôm nay” có giá trị biểu cảm rất lớn. “nắm tay nhau” nhưng họ không “biết nói gì” vì có quá nhiều cảm xúc muốn giãi bày, vì lòng đầy khao khát nên không biết nói gì trước, nói gì sau, nói gì. bày tỏ. , nói những gì nên giấu trong lòng? cho nên không “biết nói sao” là nói lên lòng trắc ẩn. dòng 3/3/2 dừng lại như một sự ngập ngừng dai dẳng, gợi nhớ đến lễ chia tay của người chinh phụ và người chinh phạt trong lời nguyện chinh phạt:

“từng bước một, giây dừng lại.”

Trong cuộc trao đổi nhân duyên rạn nứt lịch sử ấy, người bạn đã để người ở lại lên tiếng trước. điều này không chỉ hợp lý, tế nhị mà còn cần thiết cho sự phát triển của mạch thơ xuyên suốt bài thơ.

sử dụng đại từ “anh – ta” và câu thơ lục bát, song thất lục bát đã tái hiện lại cuộc chia tay lịch sử của người Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng đầy nghĩa tình, thủy chung. dễ khiến người ta tăng thêm đau khổ, nhưng khó đồng tình. sự ra đời của viet bac là lời nhắc nhở về tình hữu nghị và lòng biết ơn muôn đời của dân tộc.

cảm nhận 8 dòng đầu của bài ca dao việt nam – bài mẫu 6

Cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc siêu hay (9 mẫu) - Văn 12

Nhà thơ Tố Hữu được coi là “cánh chim đầu đàn” tiên phong trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ngay từ tập thơ đầu tiên, Tố Hữu đã cho thấy một trái tim hừng hực sức trẻ đang “bừng nắng hạ” vì được “mặt trời chân lý chói qua tim” . Và cho đến tác phẩm Việt Bắc, Tố Hữu đã hoàn toàn khẳng định được mình là một cây bút cách mạng – trữ tình xuất sắc nhất trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XX.

8 dòng đầu của bài thơ việt bắc thể hiện cảm xúc nhớ nhung và mong mỏi được rời xa việt bắc. ở đầu bài thơ, tác giả đã dùng cách gọi: ta thật thân mật và xúc động. Đặc biệt, đây là cách xưng hô thường gặp trong các bài hát nổi tiếng và các bài hát nổi tiếng về tình cảm vợ chồng.

tan huu khéo léo đưa sắc thái của tình cảm lứa đôi thành tình quân dân. chính điều đó đã khiến người đọc cảm nhận được 8 câu đầu của bài thơ việt bắc một tâm trạng xúc động, lưu luyến như hòa vào nhân vật “tôi”

Khi đi về, ta có tha thiết nhớ mười lăm năm ấy, khi về ta có nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?

“mười lăm năm ấy” từ năm 1941 đến cuối năm 1954. Năm 1941 là khi chú Hồ về quê và lập căn cứ kháng chiến ở pác-pôn. Năm 1954, sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, ông chuyển chiến khu về Hà Nội. mười lăm năm đó là mười lăm năm kháng chiến gian khổ. nhưng trong những năm tháng gian khổ ấy, tình quân dân ngày càng “thắm thiết, thắm thiết”.

Qua cảm nhận 8 dòng đầu của bài thơ, ta thấy được tình cảm gắn bó giữa “i” – người dân Việt Bắc và “ta” – người cán bộ kháng chiến ở miền xuôi. Đó không còn chỉ là tình quân dân mà đã trở thành tình cảm giữa những người ruột thịt.

âm thanh của một ai đó nghiêm túc ở bên cạnh cồn cát đang vặn vẹo trong bụng họ, đi đi lại lại một cách bồn chồn. Indigo tách nhau ra, nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay …

các từ liên tiếp: nghiêm trang, sầu muộn, khắc khoải đã thể hiện rõ tâm trạng bối rối của nhân vật trữ tình lúc chia xa. trong đó chiếc áo chàm là một ẩn dụ rất đặc biệt.

dùng chiếc áo chàm để chỉ người Việt Bắc, chiếc áo phông đã thực sự hòa nhập vào cuộc sống của người dân nơi đây. Khoảng cách quân – dân, cán bộ – đồng bào không còn. giây phút chia xa chỉ còn lại “em” và “em” với cảm xúc “hôm nay không biết nói gì”

cảm nhận 8 dòng thơ đầu của câu thơ Việt Nam – hiện 7

mọi công dân đều có một mẫu dấu vân tay, mỗi nhà thơ chân chính đều có một mẫu vân tay không thể nhầm lẫn

(text, le dat)

“texture” là phong cách nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ. là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, xuất hiện trong làng thơ với một phong cách riêng. chất thơ trữ tình, chính trị sâu sắc, đậm chất sử thi và lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo của Tố Hữu không thể không kể đến bản anh hùng ca Việt Bắc – Bản, cũng là bản tình ca về cách mạng kháng chiến và con người kháng chiến. đã trình diễn viet bac, một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc mà không cần nhắc đến câu hát:

Đi, tôi có nhớ mười lăm năm ấy với tình yêu nồng cháy dành cho tôi không? Có nhớ trông cây nhớ núi nhớ sông nhớ nguồn, giọng ai nghiêm nghị bên cồn, trong dạ động lòng, bước đi không yên trong vết chàm, trao phiên trong tay. nói hôm nay?

tou huu là một tác giả quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của cách mạng Việt Nam. yếu tố của thơ ca và cách mạng cùng một lúc. Tập thơ viet bac là một trong những bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh những chặng đường gian khổ, hào hùng, thăng trầm của cuộc kháng chiến cho đến ngày toàn thắng.

mở đầu bài thơ là một lời nhắn nhủ đầy sức gợi của đồng bào chiến khu. thông điệp đong đầy yêu thương nhưng tinh tế gợi lại và chia tách không khí lứa đôi đã in sâu vào ca dao, dân ca, giao duyên, chia tay:

Tôi đi rồi, tôi nhớ mười lăm năm trời thương nhớ ấy, nhớ cây nhớ núi, trông sông, nhớ nguồn

Những người đi và về, những người con đất Việt, kẻ ở, người đi đã đối xử mộc mạc, giản dị và thân thiện với nhau; “Tôi – tôi”. đó là cách xưng hô quen thuộc của các cặp vợ chồng mà chúng ta thấy trong khẩu ngữ của người Việt cổ. cách gọi thân thương như vậy gợi nhớ đến những câu hát giao duyên trong ca dao. khi nhắc đến bản thân, tôi nhớ:

Tôi lại nhớ bố, nhớ răng cười

thật khó quên:

nếu anh quay lại, anh không cho em quay lại, anh sẽ ôm vào lòng em, anh sẽ viết một câu thơ ba chữ với chữ trung, chữ hiếu và chữ tình, thì anh sẽ để lại phần hiếu. của mẹ, của hai người, từ yêu thương

với cách gọi ‘ta-me’, dường như người bạn đã đem tất cả những kỷ niệm thân thương để trải lòng về cuộc tiễn biệt của những người kháng chiến và đồng bào nơi chiến khu. một cuộc chia tay vĩ đại có tầm quan trọng lịch sử đột ngột bị kết thúc dưới hình thức chia cắt giữa các cặp đôi đang yêu. mối tình cách mạng trở thành hàng loạt câu hỏi nghiêm túc, vừa để điều tra, khám phá thông điệp của người cán bộ trở về, vừa thể hiện niềm khao khát tình yêu ngập tràn trong lòng họ. giai điệu bài thơ, ca từ lúc bâng khuâng, da diết, khắc khoải. nhiều kỷ niệm và tình yêu cho 15 năm gắn bó được ghi lại trong một vài từ nghiêm túc và say mê. nỗi nhớ, niềm thương sâu lắng trong lòng người không chỉ đọng lại trong những câu hỏi mà còn ẩn chứa trong nghệ thuật điệp điệp. hàng loạt điệp ngữ và điệp cấu trúc đan xen khiến bài thơ trở nên dịu dàng, xúc động và ghi đậm dấu ấn hoài niệm. đặc biệt là từ được lặp lại bốn lần. Tình yêu đã mất có giống như sóng biển vô tận, vô tận và vô hạn?

Đáp lại lời nhắn nhủ chân tình của đồng bào chiến khu là sự im lặng của đồng bào miền xuôi. lặng mà lòng rưng rưng cảm xúc: giọng ai nghiêm nghị bên rượu. những người ở lại nhắc nhở họ về những suy nghĩ của họ với sự nghiêm túc và đam mê, và những người ra đi có thể nghe thấy giọng nói của ai đó tha thiết bên cạnh cồn cát. kẻ ở và kẻ đi thực sự có cái đầu, trí óc và trái tim có lẽ đồng điệu với nhau nên mới có sự thấu hiểu như vậy. các đại từ chỉ ai đó được sử dụng một cách khéo léo. gợi nhớ nhiều câu ca dao, dân ca, thương nhớ:

<3

hoặc

người đã đi hàng nghìn km sông núi, để ai đó cất giữ nỗi buồn của họ

Tâm trạng của người đi xe đạp được thể hiện một cách sâu sắc:

thật không may khi bước đi không yên

Câu thơ tám chữ với 4/4 ngắt nhịp được chia thành hai vế cân đối. một bên để lộ nội thất, bên còn lại để lộ hình thức bên ngoài. họ đều có chung cảm giác nhớ nhung. tim đập nhanh, kích động; các bước khó hiểu. câu thơ đầu khép lại cảnh chia tay đau lòng:

áo chàm nắm tay nhau và nói điều gì hôm nay

hình ảnh đồng bào miền bắc trong bữa tiệc chia tay hiện lên qua con mắt của những người cán bộ kháng chiến, rất đỗi bình dị, gần gũi với màu tràm thân yêu. màu áo dài ấy đã ghi dấu ấn truyền thống trung hậu, đảm đang của nhân dân chiến khu. bài thơ nắm tay nhau nói gì hôm nay gợi lên cảnh chia tay đầy xúc động. đồng bào và cán bộ, những người đang hành quân, tay trong tay trao gửi ấm áp yêu thương, lưu luyến, bướng bỉnh và buông bỏ. Nó giống như cuộc chia ly của những cặp đôi yêu nhau rất nhiều?:

nói, rồi nói, rồi nắm tay nhau, tiến một bước, một giây rồi dừng lại

(bổ sung ngâm)

cảm nhận 8 dòng đầu của bài ca dao việt nam – bài mẫu 8

8 dòng đầu của bài thơ “việt bắc” là nỗi niềm của tác giả là nhân vật trữ tình nên luôn làm cho bài thơ của mình chuyển hướng theo chiều hướng đối thoại đầy ý nghĩa và đón nhận. xây dựng quan trọng, hữu ích và đơn phương.

phần mở đầu của bài thơ là lời đối đáp đầy ý nghĩa và thân thiết của người dân Việt Nam rất hay và linh hoạt trong cuộc sống hàng ngày:

Khi tôi quay trở lại, tôi nhớ lại mười lăm năm đó một cách nghiêm túc. khi về có nhớ cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn? chỉ cần nắm tay tôi biết phải nói gì ngày hôm nay. ..

Một thời kỳ khó khăn mở ra, nhưng những người lính của chúng tôi vẫn xây dựng cho mình một hướng đi, một ý tưởng và cùng một mục đích. đó là vẻ đẹp của những người lính dưới ngòi bút của người bạn chân chính.

4 câu thơ tiếp theo là lời đối đáp của những người lính như một đôi trai gái. So với những cặp từ xưng hô với nhau, nghĩa là thay thế cho nhau, và cặp từ đó là một, nhưng tác giả đã nhấn mạnh và tạo ra những cặp từ vô cùng ý nghĩa và tràn đầy cảm xúc.

Dường như trong 8 câu thơ này đều in đậm cảm xúc của chính tác giả. Ngoài ra, những từ ngữ linh hoạt và ý nghĩa làm cho mối quan hệ giữa người dân và du khách trở nên thú vị hơn.

với tác giả, những người lính được thể hiện rất rõ ràng, mang một nét gì đó rất riêng. khiến người đọc không khỏi xúc động, đắm chìm trong nỗi niềm cảm phục trước những ngày kháng chiến gian khổ. đó là những hình ảnh, những tình cảm đẹp đẽ, chan chứa tình yêu quê hương đất nước.

cảm nhận 8 dòng đầu của bài ca dao việt nam – bài mẫu 9

tou huu là một trong những nhà thơ trữ tình chính trị. ông hầu như không tham gia vào cuộc chiến thơ mộng, ông dành rất nhiều tình cảm cho nhân dân và lý tưởng của cách mạng Việt Nam. trong đó, tác phẩm “Việt bắc” là một bài thơ thấm đẫm hồn thơ của dân tộc và là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp.

vở kịch được viết trong dịp các cơ quan trung ương đảng và chính phủ phải rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô, sau khi hiệp định chung được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm tình thân thương, thể hiện tình cảm thủy chung, son sắt của người đi và chiến khu Việt Bắc. cảnh chia ly ấy được miêu tả chân thực, sinh động và giàu cảm xúc trong 8 câu thơ đầu:

“khi trở về mình có nhớ mười lăm năm ấy với một tình yêu nồng cháy không? Có nhớ nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn giọng ai tha thiết bên kia. đụn cát, quằn quại trên dây thần kinh bước đi, Indigo bàn giao cuộc chia ly, nắm tay nhau nói chuyện hôm nay ”.

Theo lịch sử Việt Nam, Việt Bắc là tên gọi chung của 6 tỉnh miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là Cao Bằng, Bắc Tốn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, viết tắt là: “cao – bắc – lang – thái – tuyền – hà ”. Đây là căn cứ địa kháng chiến, do đảng và chính phủ thành lập năm 1940. Chính nơi đây, quân dân Việt Nam đã trải qua 15 năm đoàn kết, nghĩa tình, từ năm 1940 đến năm 1954.

Sau khi quân ta đánh thắng quân thù, làm nên chiến thắng oanh liệt chấn động thế giới vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Nam. cảnh và người của cuộc chia tay có 1-0-2 ấy đã trở thành nguồn cảm hứng của tác giả để viết nên bài thơ “viet bac” nổi tiếng. xuyên suốt tác phẩm là sự hoài niệm về những năm tháng chiến tranh gian khổ nhưng đầy ý nghĩa của quân và dân ta.

“Khi đi về, lòng đắm say nhớ mười lăm năm ấy, khi về chẳng nhớ cây, nhớ núi, nhìn sông nhớ đài”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ với câu ca dao phổ nhạc: “Người về có nhớ mình chăng?”. “em đã về” ở đây hé mở cho người đọc những tình tiết để đưa tình cảm của người ở lại. đang đưa mọi người về nhà. hai từ “tôi” và “ta” được đặt xa nhau và từ “nhớ” được đặt ở giữa. điều đó cho thấy dù ở xa đến đâu thì chúng ta vẫn luôn nhớ về nhau. nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó mặn nồng: “mười lăm năm ấy nồng nàn, đắm say”. Dường như câu thơ mang dáng vẻ hoài cổ trong thơ hải ngoại: “mười lăm năm ấy có biết bao nhiêu tình”. nhưng nếu nghĩa tình ở hải ngoại thì ở đây là tình đồng đội, tình đồng đội trong một thời kháng chiến gian khổ, ác liệt. 15 năm với bao đau thương, mất mát, giờ chỉ còn là tình yêu nồng nàn, say đắm. 15 năm là khoảng thời gian có thể ví bằng ¼ cuộc đời của một con người. kẻ ở, kẻ đi đã chia ngọt, sẻ bùi. Vậy tại sao phải nói lời chia tay lại đau đớn như vậy?

Phân tích 8 câu đầu trong bài văn tế việt bắc càng làm cho chúng ta cảm kích hơn về tình cảm tương thân tương ái của những người con đất việt giữa gian khó. trông càng dữ tợn, con người càng yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. do đó, ở câu tiếp theo, tác giả tiếp tục thêm một câu hỏi tu từ: “mình có nhớ mình không?”. Bây giờ bạn và tôi đã trở thành một. lòng người ở như kẻ đi, tất cả chỉ là nỗi nhớ. và nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại ở tim mà mở rộng ra cả núi, rừng, sông, suối, “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như một lời nhắn nhủ của những người ở lại và những người đi rằng, mai sau dù có đi đâu gặp cây cũng nhớ về núi rừng việt bắc, về sông cũng nhớ về cội nguồn. . từ vùng chiến sự này. . Đồng thời, đó cũng là lời hứa của người lữ khách sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi về nguồn mỗi khi nhìn thấy cây cối hay dòng sông.

Trong câu thơ, có hai từ chỉ hành động “thấy” và “nhớ”. một hành động mô tả hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trí óc. nhìn là nói về hiện tại, tương lai. nhớ nói về quá khứ. điều này nhấn mạnh rằng bất kể người sống ở đâu và người ra đi trong tương lai, họ vẫn nhớ về quá khứ cùng nhau. động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày đặc, vừa để khẳng định, vừa để khắc sâu hơn vào tâm hồn con người và cảnh vật Việt Bắc về nỗi nhớ. đồng thời qua đây ta mới cảm nhận được tấm lòng, tình cảm chân thành của người dân miền núi đối với bộ đội. dù nghèo khó, nguy hiểm hay gian khổ đến đâu, họ vẫn luôn dành cho những người cán bộ miền xuôi một tình cảm dịu dàng và bền chặt theo năm tháng.

Nếu bốn câu thơ đầu miêu tả tình cảm của người Việt Bắc đối với người cán bộ trở về mặt trận thì những câu thơ sau lại thể hiện tình cảm đáp lại của người chiến sĩ cán bộ đối với những người lính nơi chiến khu:

<3

Người lính định bỏ đi, bỗng nghe tiếng “ai nghiêm” khiến họ vừa đi vừa bùi ngùi, bồi hồi trong lòng. nhà thơ thật tài tình khi chỉ qua hai dòng thơ mà rút ra được sự lưu luyến không muốn chia xa của cả người ở và kẻ đi. chỉ có những người rất gần nhau, yêu nhau nhiều mới khó xa nhau được. bởi vì cả người chiếm đóng và người chiếm đóng đều biết, cuộc chiến sẽ tiếp tục. bạn không bao giờ biết khi nào gặp lại. do đó, họ càng cảm thấy hối hận. như chân lý đã từng tuyên bố của vườn lan: “khi ta ở chỉ là nơi ở”. khi ta đi đất bỗng trở thành linh hồn “. những người lính và cán bộ đáp lại lời của dân làng rằng họ và chiến khu đã trở thành một phần tâm hồn của họ. Tác giả sử dụng hai cụm từ” tiếc “và” lo lắng “để nói thêm nhấn mạnh sự day dứt, lưu luyến của người khách Người đi là cán bộ xuống dốc, người đi rồi nhưng lòng còn mang trong mình nỗi lo, nỗi nhớ nhà, lòng thương đồng bào chiến khu, người đi là nỗi lo, theo năm tháng. sắp tới, tình người sẽ ở đây như thế nào. thực sự, không có nơi nào khác mà tình quân dân sâu nặng đến thế!

Hình ảnh buổi lễ chia tay đầy xúc động và đau xót giữa các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc được khắc họa đậm nét trong hai câu thơ cuối:

“những gì cần nói với chúng tôi hôm nay”

Khi nói đến “áo chàm” người ta nghĩ ngay đến hình ảnh áo nâu, là màu áo của những người nông dân, công nhân nghèo khổ, miệt mài với cách mạng. nhà thơ sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo dài” để nói về con người Việt Nam. áo chàm không của riêng ai, mà là của tất cả những người dân trong chiến khu. họ và những bức tranh nắm tay nhau mà không biết nói gì hơn. Không phải bọn họ không có gì để nói với nhau, mà là bọn họ có quá nhiều điều muốn nói trong lòng. họ muốn nói rất nhiều điều với nhau, nhưng họ không có nơi nào để bắt đầu. thì chỉ cần nắm tay nhau để cảm nhận bằng cả trái tim. bởi vì tay trong tay, lòng người sẽ dễ dàng cảm nhận được. tâm trí con người sẽ dễ dàng nhận ra. Dù tình cảm vô cùng bế tắc, lưu luyến nhưng giữa những con người ấy vẫn có lý. họ hiểu rằng không còn cách nào khác. sau tất cả, đã đến lúc nói lời chia tay. nhưng thà ra đi trong nước mắt vui sướng hơn là buồn bã. Dù ở xa nhau nhưng quân dân Việt Nam vẫn có niềm vui chiến thắng.

8 câu đầu của bài việt bắc không thể không nhắc đến những biện pháp nghệ thuật được nhà thơ sử dụng để ngâm. đầu tiên đề cập đến thơ lục bát. Với thể loại này người đọc dễ nhớ, dễ nhớ bởi đây là thể thơ đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, lối đối đáp mang âm hưởng của các bài hát dân ca, dân ca khiến bài thơ giàu nhạc điệu hơn. kết hợp với nhiều biện pháp nhân xưng như câu hỏi ẩn dụ, tu từ … càng làm cho hình ảnh cuộc chia ly trở nên rõ ràng và giàu cảm xúc hơn.

Qua 8 câu thơ đầu, người đọc vô cùng xúc động trước tình cảm chân thành giữa nhân dân chiến khu Việt Bắc với cán bộ, chiến sĩ cách mạng. nếu trong 15 năm, con người sống trong hạnh phúc và giàu sang, họ không nhất thiết phải gắn bó và tình cảm như khi con người sống trong nghịch cảnh, nguy hiểm. Chính vì vậy, khi đến lượt chúng ta phải nói lời chia tay, tình người sâu nặng của người ra đi, người ở lại càng thêm day dứt, lưu luyến.

Là một nhà thơ uyên bác và giàu lòng yêu nước, nhà thơ Tô hu đã vẽ nên một bức tranh sống động nhưng mộc mạc, giản dị mà thấm đẫm tình người.

XEM THÊM:  Soạn văn 6 bài chương trình địa phương

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc siêu hay (9 mẫu) – Văn 12. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *