Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
303 lượt xem

Viết bài Tập làm văn số 3 Lớp 11: Đề 1 → Đề 4 (35 mẫu)

Bạn đang quan tâm đến Viết bài Tập làm văn số 3 Lớp 11: Đề 1 → Đề 4 (35 mẫu) phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Viết bài Tập làm văn số 3 Lớp 11: Đề 1 → Đề 4 (35 mẫu)

Bài văn mẫu lớp 11: Tiết 3 là tài liệu vô cùng hữu ích mà download.vn muốn giới thiệu cho các bạn học sinh lớp 11 tham khảo.

soạn bài văn số 3 lớp 11 chủ đề nghị luận văn học. do đó, các em nên tìm hiểu kỹ nội dung và yêu cầu của đề, tránh viết sai thể loại, lạc đề. Qua 35 bài văn mẫu số 3, các bạn sẽ có thêm tài liệu tham khảo, trau dồi vốn từ vựng và nâng cao kỹ năng viết văn của mình. vì vậy đây là 35 bài văn mẫu hay, hãy tiếp tục và tải chúng tại đây.

bài làm số 3 lớp 11 chủ đề 1: so tài của thủy văn và thủy kiều.

dàn ý bài văn số 3 lớp 11 đề 1

1. mở đầu

– giới thiệu: so sánh tài năng của thủy văn và thủy kiều.

2. nội dung bài đăng

a. điểm tương đồng giữa tài năng của thủy văn và thủy kiều

– vẻ đẹp hình thể

  • hai phụ nữ Nga
  • 10 và 10.

– tâm hồn đẹp

+ bộ xương, thần tuyết.

Nó êm đềm và yên tĩnh. bức tường đầy ong và bướm.

⇒ lời ngợi ca thầm kín của nhà thơ đối với tâm hồn và phẩm hạnh của hai chị em.

b. sự khác biệt giữa tài năng của thủy văn và thủy kiều

– vẻ đẹp rực rỡ

  • nhan sắc xinh đẹp, nụ cười tươi như hoa nở, tóc đen mềm mượt và làn da trắng như tuyết.
  • dự đoán cuộc sống bình yên trong tương lai của bạn (bạn mất), tuyết nhường chỗ)

– vẻ đẹp tuyệt mỹ

  • cô gái “sắc sảo mặn mà”
  • đôi mắt sâu thẳm như làn nước thu trong veo.
  • báo trước một cuộc đời bất hạnh sắp tới. (hoa ghen, liễu hờn).

– tài năng của thủy kiều

  • Pha trộn nghệ thuật hội họa, đầy hương sắc của tiếng hát.
  • “hồng nhan bạc phận” là dự báo bi kịch “hồng nhan bạc phận.

    3. kết thúc

    đánh giá chung: so sánh tài năng của thủy văn và thủy kiều.

    bài viết số 3 lớp 11 đề 1 – văn mẫu 1

    nguyễn du là nhà thơ lớn của dân tộc ta. tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “truyện kí”, kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. có lẽ bài thơ “chị thủy kiều” được trích trong vở kịch là một bài thơ tuyệt vời. Chỉ với 24 dòng của tác phẩm Lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả tài năng, sắc đẹp và đức độ của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều bằng tất cả tình yêu thương và sự trân trọng của nhà thơ.

    Bạn có thể tìm thấy đoạn trích từ “chị em Thủy kiều” trong phần: “gặp gỡ và gắn bó”, sau phần giới thiệu về lịch sử gia đình của Thủy kiều. Với tấm lòng trân trọng và ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy hình ảnh thiên nhiên để gợi, miêu tả, khắc họa vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của chị em Thúy Kiều.

    trước hết, nguyễn du cho ta thấy vẻ đẹp phổ quát của hai chị em trong bốn câu đầu:

    Trong hai nguoi phu nu dau tien, thuy kiều là em gái, em là thuy văn. mai là phong cách cốt lõi, tinh thần là tuyết, mỗi người đều nhìn thấy mười phần trăm thời gian.

    Nhà thơ dùng từ Hán Việt “sang nga” để chỉ người con gái thanh tú, xinh đẹp để chỉ hai chị em thùy văn và thùy kiều. hai chị em được so sánh là có nhân cách cao quý như hoa mai, tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. mỗi cái đều có vẻ đẹp riêng và đẹp toàn diện. Từ bức tranh toàn cảnh này, nhà thơ miêu tả từng con người. Thông qua nghệ thuật ước lệ tượng trưng, ​​phép liệt kê, nhân cách hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân vừa uy nghiêm, quý phái, vừa thướt tha:

    Văn vẻ trang nghiêm khác hẳn, trăng rằm, khuôn mặt tươi cười, ngọc ngà trang nghiêm, mây rụng tóc, tuyết nhường màu da

    Vẻ đẹp của thuy van chan hòa với thiên nhiên, như đang ngầm báo trước một tương lai bình yên, êm ấm trong cuộc đời.

    tác giả sử dụng biện pháp đòn bẩy, miêu tả hình ảnh chính, trước tiên miêu tả thủy chung sau đó mới miêu tả thủy chung. van đã đẹp, kieu còn đẹp hơn. thuy kiều có vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà”. ở nước ngoài “sắc” ở trí tuệ, “mặn mà” ở tâm hồn. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy được thể hiện qua con mắt “thu thủy, xuân sơn”. đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt trong sáng như nước mùa thu, lông mày thanh tú như núi xuân. nếu vẻ đẹp của thùy văn sẵn sàng nhượng bộ thiên nhiên thì với thùy kiều, vẻ đẹp ấy lấn át hết thiên nhiên khiến chị em phải ghen tị, ghen tị:

    “kiều diễm càng sắc sảo mặn mà so tài thì đẹp hơn thu thủy, xuân sơn, hoa ghen thua liễu xanh”

    <3

    “Kỹ năng yêu cầu một, tài năng vẽ hai, trí thông minh vốn có trong bản chất, nó pha trộn giữa nghệ thuật hội họa và nó có mùi như ca hát”

    Thuỵ kiều thông minh do tài năng bẩm sinh, nên mọi nghệ thuật: thơ, ca, ông đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài chơi đàn tính: “cung thủ nguyệt cấp”. không chỉ giỏi âm nhạc mà cô còn biết sáng tác. ca khúc “bạc mệnh” mà cô sáng tác khiến người nghe không khỏi rơi lệ.

    như vậy, vẻ đẹp của thủy chung là sự kết hợp của sắc đẹp – tài năng – trí tuệ. chính vẻ đẹp ấy cũng ngầm báo trước một số phận không được êm đềm, bình lặng như thủy chung mà đầy khó khăn, gian khổ.

    Những câu cuối tóm tắt cuộc đời nhân đức của các chị ở hải ngoại:

    “nhẹ nhàng, rèm che, tường nhiều ong bướm”

    Hai chị em sống trong một môi trường được giáo dục tốt và có kỷ luật, tránh xa những lời đàm tiếu ngoài đời.

    Bài thơ “chị thủy kiều” đã tái hiện một cách tài tình bức chân dung hai trang về người đẹp, nàng thùy văn và nàng thùy kiều với nhiều ẩn dụ, biểu tượng, hình ảnh ước lệ, ngôn từ thuần khiết và giàu sức gợi. Qua chân dung hai chị em Thuý Vân và Thuý Kiều, đại thi hào Nguyễn Du đã bày tỏ sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ. đây là một trong những biểu hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của cụ Nguyễn Du trong “truyện kí”.

    bài viết số 3 lớp 11 đề 1 – văn mẫu 2

    xanhbevo đã nói, ít nhiều như sau: nếu chọn một nhà văn tiêu biểu cho từng quốc gia, Anh sẽ không ngần ngại chọn sechspia, france – molie và germany – ngỗng. Còn tôi, nếu được quyền lựa chọn, tôi sẽ không ngần ngại kể tên Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. đây là một trong những đỉnh cao sáng giá của văn học Việt Nam và thế giới. Có nhiều lý do để làm cho giá trị này trở nên bất tử, nhưng có một điều không ai có thể phủ nhận là tài thể hiện và khắc họa tính cách nhân vật quá sắc sảo mà các nhà tiểu thuyết hiện đại khó có thể duy trì được. nhân vật được nhà thơ miêu tả đầu tiên trong truyện là thủy vân, thủy kiều. Chúng ta hãy thử so tài của hai chị em này qua đoạn trích Chị em thủy chung.

    trước hết, nhà thơ miêu tả rằng nhân vật thủy vân và thủy kiều có những nét rất giống nhau.

    “hai vị tiên nữ, thủy kiều là chị, em là thủy chung cốt, tuyết tinh thần, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

    Điểm giống nhau đầu tiên là hai chị em được so sánh như “hai người phụ nữ”. yếu tố nga chỉ người con gái đẹp gợi cho người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của cung trăng. bằng phong cách ẩn dụ thông thường, nhà thơ cũng ghi nhận sự giống nhau về hình dáng bên ngoài và bên trong của hai chị em: “bộ xương tuyết tinh”. nói đến ngày mai là nói đến sự mảnh mai, thanh tao; nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng và ngây thơ. cả mận và tuyết đều rất đẹp. tác giả đã so sánh vẻ đẹp thanh tao, thuần khiết của hai chị em với mai và tuyết, đến mức “mười phân vẹn mười”. như vậy, vẻ đẹp của cả hai chỉ ra rằng: ẩn chứa trong đó là một tâm hồn cao đẹp và nhân ái:

    <3

    cái tuổi đã “đến tuổi lấy chồng”, đến tuổi lập gia đình nhưng hai cô gái sống rất nề nếp, đoan trang. cuộc sống “nhẹ nhàng, chỉn chu” đã thể hiện sự hiền lành, đoan trang và ngay thẳng. và thái độ “tường vi ong bướm” để thể hiện thái độ trang trọng, trân trọng cái đẹp. đây cũng là cách thầm kín của nhà thơ ca ngợi tâm hồn và phẩm hạnh của hai chị em.

    tuy nhiên, thủy văn và thủy kiều có những đặc điểm rất khác nhau. thuy van mang vẻ đẹp đoan trang và nhân hậu:

    “dung mạo trang nghiêm khác hẳn trăng rằm, khuôn mặt tươi cười, ngọc uy, mây rụng tóc, tuyết nhường màu da.”

    thuy van là một người đẹp thanh tú với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm. miệng cười tươi như hoa bỉ ngạn, lời nói thốt ra cao quý như ngọc. hơn nữa tóc cô đen đến nỗi mây nhường chỗ, làn da trắng ngần khiến tuyết cũng phải nhường bước. Điểm nổi bật trong nghệ thuật miêu tả của nguyễn du không chỉ là vẻ đẹp toát lên từ hình dáng bên ngoài mà còn là tính cách, thân phận của nhân vật. Với vẻ đẹp trên khuôn mặt, mái tóc và nước da của Thụy Vân, người đọc cũng có thể thấy được tính cách đoan trang, nhân hậu của anh, đồng thời cảm nhận được cuộc sống bình yên của anh sau này.

    Thủy kiều khác chị gái như thế nào?

    kiều diễm sắc sảo mặn mà so với tài sắc còn hơn bội phần: sắc xuân tuấn mỹ, hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. một hoặc hai nghiêng nước. .

    Đọc đến đây, chúng ta vô cùng khâm phục nhà thơ vì vài dòng thôi cũng đủ toát lên một vẻ đẹp vô song: một người con gái “gian xảo, mặn mà”. vẻ đẹp này được cụ thể hoá qua hình ảnh “làm ra nước”. đôi mắt sâu thẳm như làn nước thu trong veo nhưng cũng ẩn chứa một nỗi buồn. lông mày cô cong đẹp như núi mùa xuân; khuôn mặt xinh đẹp đến mức cả hoa cũng phải ghen tị, dáng người xinh đẹp đến mức liễu cũng phát hờn vì không giống nhau. Một lần nữa, biện pháp tu từ ẩn dụ thông thường lại được thể hiện rõ nét qua ngòi bút của Nguyễn Du. nhà thơ không chỉ tả dung nhan thùy mị mà còn báo trước số phận đau khổ của chàng bằng chi tiết “hoa ghen, liễu hờn”, khiến người đọc liên tưởng đến dòng thơ, đoạn mở đầu “thấu trời thói hờn ghen”.

    điểm khác biệt lớn nhất giữa thủy văn và thủy kiều là tài năng. thuy văn không nói về tài, nhưng thuy kiều miêu tả nhiều:

    thông minh vốn có thiên phú, hòa với thơ và họa, đầy mùi ca dao. cung thương, cầu thang 5 âm, nghề tư ăn nên làm ra. những bài hát tự tay chọn lọc nên một chương, một phận bạc lại càng não người. .

    không chỉ xinh đẹp, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh và rất tài năng. các tài năng của kiều lần lượt được trình bày theo danh sách; tài thơ, tài hội họa, tài đàn, tài ca hát… tài năng đều siêu việt. các cụm từ “vốn dĩ tự nhiên”, “hỗn tạp”, “đầy mùi”, “ăn” có tác dụng làm phát huy hết tài năng của anh ta. Ngoài ra, kiều còn sáng tác nhạc, một bài hát u ám “thiên mệnh” mà ai nghe xong cũng cảm thấy xót xa, đau xót. “bạc mệnh” là một mạng số mong manh. đây cũng là lời tiên báo về bi kịch không thể tránh khỏi “hồng nhan bạc mệnh” trong suốt mười lăm năm lưu lạc, trôi nổi của mình vì “chữ tài, chữ mệnh, ghét nhau” và “chữ tài gắn liền với chữ nghe và một âm tiết ”.

    Cũng có thể nói, kể từ khi ra đời những nhân vật kiều như văn, tiểu thuyết thì rất khó để tìm được những hình tượng xuất sắc như vậy vì những nhân vật này đã trở thành điển hình của thời đại, của xã hội. Nét bút của Nguyễn Du, nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của nhà thơ sẽ khiến Truyện Kiều sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam và cả nhân loại.

    bài viết số 3 lớp 11 đề 1 – văn mẫu 3

    Trong thơ cổ viết về mỹ nữ, bài thơ “chị em thủy chung” trích trong “Truyện kiều” của nhà thơ Nguyễn Du là một trong những bài thơ hay. 24 câu thơ lục bát đã miêu tả vẻ đẹp, tài năng và đức độ của chị em thuỷ chung, thuỷ chung – hai người phụ nữ tài sắc vẹn toàn – với tất cả tình cảm yêu mến, kính trọng của bậc hiền tài dân tộc.

    ở bốn câu đầu, nguyễn du giới thiệu người thứ hai trong gia đình: “Thủy kiều là chị, em là thủy văn”: kiều là con gái đầu lòng của ông bà. “hai bà” là hai cô gái xinh xắn và xinh đẹp. tinh thần cao quý như hoa mai (một loài hoa đẹp và quý), và tinh thần trong trắng như tuyết. hai chị em đều có nhan sắc hoàn hảo và tâm hồn “mười phân vẹn mười”, tuy nhiên mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng “mỗi người một ngả”. một khám phá đáng trân trọng: lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cho vẻ đẹp. nguyễn du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh nguyên làm rõ nét thần thái của chân dung thiếu nữ.

    bốn câu sau đây miêu tả vẻ đẹp của thủy văn. mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa của một bức chân dung tuyệt đẹp. những cử chỉ, cách đi đứng rất cao thượng. hành vi là đàng hoàng. bạn đang nảy nở và tinh tế như một con bướm tằm. khuôn mặt đẹp như trăng rằm. nụ cười tươi như hoa. giọng nói trong trẻo như ngọc. mái tóc mềm mượt óng ả gặp “mưa gió”. lông trắng mềm làm cho năng suất tuyết. mô tả độc đáo và biến đổi. đôi khi nguyen du sử dụng những ẩn dụ và nhân cách hóa khéo léo:

    “trăng tròn, khuôn mặt tươi cười, viên ngọc trang nghiêm.”

    đôi khi sử dụng so sánh và nhân cách hóa:

    “Mây làm mất tóc, tuyết làm màu da”.

    các từ: “trang trọng”, “đoan trang” là hai nét chấm phá tinh tế, gợi lên thần thái của chân dung người phụ nữ: vẻ đẹp quý phái, nhân hậu. đoạn thơ thể hiện một cái nhìn nhân văn đầy yêu thương và trân trọng của nhà thơ khi miêu tả thủy văn.

    Mười hai câu sau đây miêu tả vẻ đẹp và tài năng của Thủy kiều. Nguyễn du tả thủy chung, tả thủy kiều thứ hai, chỉ dùng 4 câu để tả thủy văn, và dùng 12 câu để tả thủy chung, đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. kiều nữ không chỉ xinh đẹp mà còn giàu tài năng. vẻ đẹp của kiều “sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. kiều nữ là một đại mỹ nhân “xinh đẹp phải yêu một”. nếu có tài, biết đâu lại có người thứ hai sánh ngang với ngoại: “tài vẽ hai”. nguyễn du sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân cách hoá để ca ngợi và miêu tả vẻ đẹp của thuỷ chung:

    “ngõ rơi, xuân sơn. hoa ghen, liễu kém xanh.”

    đôi mắt đẹp trong nước hồ mùa thu, lông mày thanh tú tựa như núi mùa xuân. từng ửng đỏ khiến “hoa ghen tị” – làn da trắng nõn nà khiến liễu cũng phải “ghét”. lấy vẻ đẹp của thiên nhiên (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên hạ, đó là lối thư pháp thông thường trong thơ cổ. tuy nhiên nét vẽ của nguyễn du rất tài hoa nên mỗi nét vẽ đều mang một vẻ đẹp thần thái, con người rất riêng.

    thuộc loại “thông minh nội tại”, tức là thông minh bẩm sinh, nên các môn nghệ thuật như thơ ca, hội họa, ca hát cũng chỉ là những thú chơi duyên dáng, nhưng cô lại rất tinh vi và khéo léo: “cầu thang”, “ăn hình” hơn cả. thế giới:

    “thông minh, bản tính vốn có, dung mạo thâm sơn, đầy hương thơm ca hát, vũ động, ngũ âm, nghề nghiệp cá nhân ăn nên làm ra.”

    gõ tốt luật âm, tốt ở mức “cấp độ”. cây đàn hạc cô ấy chơi là cây đàn hạc; giọng hát của anh ấy thật hay “ăn” bất cứ nghệ sĩ nào. kiều cũng biết sáng tác nhạc, tên bài hát do anh sáng tác là “số phận thầm lặng” nghe buồn, “điên cuồng” khiến lòng người xót xa, đau khổ. các từ: sắc, mặn, hơn, ghen, giận, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, hòa hai, cố hữu, pha chế, mùi, cường, ăn, bạc mệnh, não nhân – nhân tạo cực kỳ tài năng lộ hệ ngôn ngữ từ trái , dự báo số phận của kiều, như được truyền tải trong các bài hát nổi tiếng:

    <3

    bốn câu cuối của đoạn văn nói về phẩm hạnh của hai người phụ nữ: tuy là “quần đỏ”, xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, lại “vượng phu ích tử”, đã đến tuần “phúc báo” nhưng sống một cuộc sống có trật tự, giáo dục:

    <3

    câu thơ “xuân xanh đã xấp sang tuần” là một câu thơ đặc sắc về thanh điệu, về cách sử dụng phụ âm x ”(xấp xỉ xuân xanh), phụ âm“ i ”(sang tuần), tiềm thức. âm thanh “c-k” (cà phê) tạo ra một giai điệu nhẹ nhàng và yên bình về cuộc sống yên bình và yên bình của một cô gái trong phòng.

    câu thơ về “chị em gái kiều” là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất trong “Truyện Kiều” được nhiều người yêu thích và thuộc lòng. ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu cảm xúc. nét vẽ súc tích, gợi cảm, mỗi nét vẽ đều có thần. nhà thơ sử dụng các biện pháp thơ như ẩn dụ, so sánh, nhân hoá để tạo nên những bài thơ ước lệ đậm chất trữ tình. đằng sau chân dung người đẹp ẩn chứa một tấm lòng trân trọng và yêu mến. đó là nghệ thuật thể hiện một con người tài hoa của nhà thơ nguyễn du mà chúng ta có thể cảm nhận được.

    bài viết số 3 lớp 11 chủ đề 1 – văn mẫu 4

    truyện kiều “được coi là một kiệt tác của đại thi hào nguyễn du với cách xây dựng nhân vật tài hoa, ngôn ngữ sắc sảo. Đoạn trích” chị em thủy kiều “là một” bức tranh thơ “tuyệt đẹp của nguyễn du. của nhân vật bằng ngôn ngữ riêng của họ. Nét bút của Nguyễn Du khiến người đọc có cảm giác như đang nhìn thấy vẻ đẹp và tài năng của hai chị em thuỷ chung ngay trước mắt.

    Đoạn trích “Chị em gái yêu” được tìm thấy ở phần đầu của “truyện Kiều”. ở đầu đoạn trích, tác giả đã trình bày ngắn gọn, chân thực về hình ảnh các chị ở nước ngoài:

    <3

    Tuy rất ngắn nhưng đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp và tài năng của hai cô gái xinh đẹp trong một gia đình.

    có điều thú vị ở đoạn trích này là trước hết tác giả không miêu tả theo thứ tự hai chị em mà miêu tả trước hết vẻ đẹp và tài năng của nàng thùy văn. Có một ý định ở đây?

    Thủy văn hiện ra dưới ngòi bút của nguyễn du rất nhân hậu, nhẹ nhàng, cao thượng mà không kém phần cao quý:

    van trông trang trọng khác hẳn vầng trăng tròn vành vạnh nở rộ.

    một vẻ đẹp đáng được ngưỡng mộ, ngưỡng mộ, nhân hậu, hiền lành, sang trọng và quý phái. Nguyễn Du đã miêu tả từng nét nổi bật của Thuý Vân để khắc hoạ tính cách và số phận của nàng sau này. hình ảnh “trăng rằm”, “nét tóc vàng”, “mái tóc nước”, “màu da” vẽ nên một bức tranh đẹp tuyệt vời, dường như không gì sánh được. vẻ đẹp của thủy van khiến thiên nhiên phải “chào thua”, “rụng rời”. có thể nguyễn du thầm dự đoán một tương lai hạnh phúc và bình yên cho thuy van trong tương lai.

    Đằng sau vẻ đẹp ngọt ngào của nàng thùy vân là vẻ đẹp thùy mị, nét đẹp điển hình của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:

    kieu càng ngày càng sắc, so với mặt sắc càng thêm

    Thì ra việc miêu tả tài năng và sắc đẹp của nàng thủy chung trước hết là dụng ý của Nguyễn Du, đây giống như một đòn bẩy thần kỳ để tôn lên vẻ đẹp của nàng Thủy kiều. chỉ bằng một từ thôi, người đọc đã tò mò muốn biết cái “hơn” của thủy kiều và thủy văn ở đâu.

    bằng cách hé lộ ngôn tình, độc giả thực sự choáng ngợp trước vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của nàng tiểu thư:

    mùa thu và mùa của nước, vẻ đẹp của mùa xuân, ghen tuông mất đi, liễu kém xanh

    Thủy kiều có đôi mắt trong veo như làn nước mùa thu. lông mày giống như núi thanh tao của mùa xuân. vẻ đẹp của thủy chung không còn khiến thiên nhiên phải khiêm nhường mà phải “ghen” đến “ghét”. thật ra, tạo hóa đã ban tặng cho Thủy Kiều vẻ đẹp sắc sảo như vậy, nhưng lại khiến thiên nhiên phải oán giận, có lẽ cuộc sống sau này của anh sẽ không mấy êm đềm và đầy giông bão.

    nguyen du không đề cập đến tài năng của thủy văn, nhưng lại viết khá sâu về tài năng của thủy kiều:

    một hai khuynh thành khuynh thành thì phải nhờ một, có tài vẽ, hai, thông minh, vốn có tư chất của nghề hội họa, đủ mùi ca, hát, hát, hát, nghề cá nhân, ăn bài, chọn lọc kỹ càng, để chương một “bạc mệnh” càng thêm nhân văn ”

    Thúy kiều không chỉ là một cô gái xinh đẹp “quốc sắc thiên hương” mà còn là người có tài năng hiếm có. một vẻ đẹp hoàn hảo, mười phân vẹn mười. nhưng bên trong một cô gái xinh đẹp và đa đoan lại có một cuộc đời đầy u uất và đau khổ đang chờ cô ở phía trước. người ta vẫn nói “hồng nhan bạc phận”, có lẽ điều này đúng với mệnh thủy. Nguyễn du đã báo trước cho người đọc về một tương lai chìm nổi lâu dài của một cuộc đời tài hoa.

    cuối cùng, nguyễn du lại nhắc đến lai lịch, xuất thân và tuổi tác của hai chị em:

    “kiểu dáng rất tao nhã, quần hồng, xuân xanh, gần đến tuần sau. trời tối, rèm cửa khép hờ, tường nhiều ong bướm”

    Hai cô con gái đang tuổi ăn tuổi lớn, sinh ra trong một gia đình giàu có.

    qua đoạn trích “Chị em thủy chung”, người đọc nhận thấy tài “chuyển” ngôn ngữ của Nguyễn Du thật tài tình. Ông không chỉ có tài làm thơ mà còn là người “vẽ bằng thơ” tinh tế và điêu luyện. đây là những gì mọi người vẫn ngưỡng mộ về anh ấy. cũng qua đoạn trích này, vẻ đẹp của thủy vân và thủy chung khiến người ta phải trầm trồ, ngưỡng mộ.

    xem thêm: so tài của thủy văn và thủy kiều

    bài làm số 3 lớp 11 đề 2: so sánh giọng văn thơ Nguyễn Khuyến và thơ tứ tuyệt

    dàn ý bài văn số 3 lớp 11 đề 2

    1. giới thiệu:

    • Nguyễn Khuyến và Tử Xuân là hai nhà thơ sống cùng thời đại (đầu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến ​​ở nước ta, với bao nhiêu điều lố bịch, bất công, tàn ác, …)
    • cả hai đều viết những bài thơ nổi tiếng. tuy nhiên, giọng thơ của hai nhà thơ khác nhau. Giọng thơ của Nguyễn Khuyến mềm mại, sâu lắng, còn giọng Tú Xương thì mạnh mẽ, da diết.
    • Tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của hai ông, chúng ta mới thấy rõ.

      2. nội dung bài đăng :

      a. tình cảm của hai người đàn ông

      – Cả hai đều sống trong một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đầy rẫy bất công, họ đã chứng kiến ​​nhiều cảnh điêu đứng, họ đã chứng kiến ​​cuộc sống khốn khổ của người lao động.

      – cả hai đều có cảm xúc giống nhau:

      • tự tin yêu nước, tự tin vào thời đại.
      • yêu bạn bè, người thân.
      • khóc cho cảnh ngộ của con người, cho những trò cười của xã hội đương thời.
      • tố cáo và đả kích những thói hư tật xấu của xã hội.

      b. sự khác biệt giữa giọng thơ của nguyễn kiên và tu bon

      – nguyen khuyen

      • Bài thơ trào phúng: tiếng cười hóm hỉnh, nhẹ nhàng mà sâu lắng đầy ẩn ý.
      • Bài thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến: giọng thơ đằm thắm, có lúc xót xa.

      – tủy xương

      • Tiếng cười trào phúng của tu bon là tiếng cười man dại, chua chát, dữ dội.
      • đoạn trữ tình: điển hình là bài hát Thương vợ. nhà thơ viết về người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó của mình với tất cả tình yêu thương, sự kính trọng và ngưỡng mộ. bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ, người mẹ giàu đức hy sinh.

      c. các lý do khác nhau:

      • nguyễn khích học cao học, thuận lợi hơn trong con đường thi cử. Vượt qua cao. thi hương, thi hội, thi đình đều đứng thứ nhất. ông là người có tài, có đức, có lòng yêu nước, thương dân.
      • con người học hành giỏi giang, nhưng đường đi thi lại lận đận, khó khăn. ông đã đi thi nhiều lần, nhưng chỉ đậu cấp ba. cuộc sống gia đình khó khăn. sức nặng của gia đình đổ lên vai anh. anh không thể giúp gì cho vợ con anh. vì vậy, giọng thơ của ông vừa chua xót, vừa mạnh mẽ, vừa uất hận.

      3. end :

      • nguyễn khánh và tuồng là hai nhà thơ nổi tiếng của nước ta. cả hai đều để lại nhiều tác phẩm có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật.
      • cả hai đều có tình cảm giống nhau: đều căm ghét xã hội nửa phong kiến, nửa phong kiến, đầy trớ trêu, đầy oan khuất trước cảnh bất công. >
      • Qua việc tìm hiểu thơ văn của hai ông, chúng ta hiểu rõ hơn tâm tư tình cảm của mỗi nhà thơ, hiểu rõ hơn giọng thơ của mỗi người, biết được tại sao lại có sự khác biệt trong giọng thơ. . . đồng thời hiểu được sự đóng góp to lớn của hai ông đối với nền văn học của dân tộc.

      bài viết số 3 lớp 11 đề 2 – văn mẫu 1

      Hiện thực xã hội sẽ luôn là chủ đề của thơ ca vì thơ ca và nghệ thuật là tấm gương phản ánh chính xác nhất sự vận động và phát triển của cuộc sống. Tư Bốn và Nguyễn Khuyến là những người con sinh ra trên mảnh đất Nam Định, cùng chung nỗi niềm, nhưng giọng thơ lại có sự khác biệt. sự khác biệt đó ghi dấu ấn riêng về màu sắc của hai người và cũng tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền thơ Việt Nam đương đại.

      nguyen khuyen va tu xuong là hai nhà thơ sống cùng thời: cuối thế kỷ X đầu thế kỷ 20. đây là một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử dân tộc. Từ năm 1858, Pháp chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam ở cửa Đà Nẵng. Triều đình nhà Nguyễn nhanh chóng đầu hàng để Pháp dễ bề đánh chiếm đất nước, lên cầm quyền và thành lập nhà nước thuộc địa nửa phong kiến. Vua Nguyễn còn đó nhưng thực chất chỉ là bù nhìn để quân Pháp giật dây, khống chế. cuối thế kỷ XIX, triều đình ngày càng thối nát. Chế độ phong kiến ​​của Việt Nam đang khủng hoảng nghiêm trọng và đang trên đà sụp đổ. đời sống người dân khốn khổ vì thuế cao, xã hội đen tối, nửa ta nửa ta, nhiều hệ giá trị bị lung lay, sụp đổ. tiền bạc trong xã hội và sự thống trị vô nhân đạo. một cuộc sống bất công, tàn nhẫn với bao điều nực cười, nực cười ngày nào đã trở thành lẽ thường. Chính vì chứng kiến ​​những điều “chướng tai gai mắt” ấy, những nhà nho cao thượng, yêu nước, lo cho vận mệnh dân tộc đã phải gánh thêm nỗi đau trần gian. họ đã đưa những tiếng thở dài của mình vào thơ ca: có nỗi buồn, sự cay đắng và tiếng cười phỉ báng cay đắng.

      tubone và nguyen khuyen có tình cảm tương tự. đó là hiện thực của xã hội thuộc địa nửa phong kiến ​​đầy rẫy bất công, bạo ngược và cảnh ngộ của nhân dân lao động trong tác phẩm. không khó để người đọc nhận thấy trong thơ ông đã dựa vào lòng yêu nước, thời thế, hiện thực xã hội với lòng xót thương, đồng cảm với cảnh ngộ của nhân dân. càng đau đớn bao nhiêu thì sức tố cáo, công kích càng mạnh. bon chen của bạn viết về hoàn cảnh khó khăn, phải chạy ăn từng bữa, lo đủ thứ dù đã cố gắng:

      “Tôi rất xin lỗi khi tôi rơi nước mắt, tôi đang chạy và ăn, tôi đổ mồ hôi, tôi biết tôi đã từng đi làm, tôi không đăng nhập, tôi không biết, Tôi cũng là bồi bàn! ”

      con nguyen khuyen, viết về hiện thực xã hội khi đồng tiền có sức mạnh ghê gớm, mua được cả công lý và đạo đức của con người, nhất là những người làm qua quýt:

      “nổi tiếng vì mượn màu son phấn trang điểm để chuộc tội cho cha, cô ấy có tiền vì chuyện đó sao? Kiếp trước quấn quýt như vậy sao?”

      không chỉ chia sẻ tình cảm của mình đối với đất nước, thơ tứ tuyệt và nguyễn khuyển còn thể hiện tình yêu đất nước, tình cảm trân trọng đối với bạn bè, gia đình. Hẳn bạn đọc vẫn còn nhớ hình ảnh mùa thu với không gian quen thuộc ở vùng quê Bắc Bộ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. đó là bầu trời cao rộng với những con ngõ tre quanh co, êm đềm, vắng lặng, chỉ có ông già ngồi bó gối chờ cá cắn câu:

      “mây trôi trên trời xanh, những hàng tre quanh co vắng, khách khụy gối, buông lâu không cho cá nhúc nhích dưới chân vịt”

      chúng tôi cũng cảm động trước một tình bạn cao cả và thiêng liêng vượt lên trên mọi vật chất tầm thường giữa bạn nguyen khuyen và người bạn của mình:

      “Vào đầu trò chơi, không có chàng trai nào đến chơi với tôi”

      Còn với tu hú, hầu hết lời bài hát của anh đều dành tặng cho chị với sự trân trọng, biết ơn của một người chồng chứng kiến ​​những gánh nặng đặt lên đôi vai mảnh mai của chị. với thành quả của bạn, thưa bà. Bạn không chỉ là một người vợ, mà với anh ấy bạn còn như một ân nhân ở bên cạnh anh ấy, luôn chăm chỉ sớm khuya trong khi anh ấy luôn soi mói bạn vì sự bất lực, vô dụng của bạn. bạn đã viết về cô ấy bằng những bài thơ hay:

      “quanh năm buôn bán trên sông nước, nuôi năm con với một chồng, bơi theo cò khi nước cạn, ngày đầy thuyền”

      giống nhau về cảm nhận về cuộc sống, về tình cảm, nhưng giữa hai bài thơ có những điểm khác nhau, nhất là về giọng điệu. Nguyễn Khuyến và Tư Bổn làm thơ trào phúng và trữ tình. với nguyen khuyen, thơ trữ tình của chị có giọng văn uyển chuyển, có lúc đằm thắm, có lúc xót xa. còn tiếng cười trào phúng trong thơ ông là tiếng cười hóm hỉnh, ngọt ngào, sâu lắng và ý nghĩa. mặc dù anh ta cũng mỉa mai và châm biếm, nhưng chúng ta vẫn thấy ở anh ta sự ghê tởm bản thân. Trong bài thơ Tiến sĩ giấy, “đồ thật – đồ chơi” là những khái niệm được hoán đổi cho nhau, khiến người ta hoang mang, không phân biệt được đâu là thật, đâu là giả. Niềm tin vào mẫu người từng được chế độ phong kiến ​​đề cao không còn với Nguyễn Khuyến, bởi việc mua bán quan lại rất phổ biến thời bấy giờ. điều đó cũng có nghĩa là giá trị, thước đo giá trị của quýt không gì khác ngoài những gì họ phục vụ cho ngày ấy, tức là khả năng đảm đương việc lớn cho quốc gia đại sự trong lúc vận nước lâm nguy. nếu không có khả năng đó, tất cả những kẻ ăn hại thực sự chỉ là một món đồ chơi:

      <3

      Với thể loại thơ trữ tình, thơ của chị chủ yếu viết về bà tư, một người phụ nữ cần cù, dũng cảm, chịu thương chịu khó, hết lòng yêu thương, kính trọng và ngưỡng mộ. Còn đối với thơ trào phúng, tiếng cười trong thơ tu hú là tiếng cười bất cần, sâu lắng, mãnh liệt. Đọc thơ trào phúng của tu bon, người đọc vừa bùi ngùi trước hiện thực, vừa vui mừng vì những bức chân dung trào phúng của những con người cao cả xuất hiện trong tác phẩm của ông. trong bài thơ, khung cảnh phòng thi với các sĩ tử, sĩ phu, giám thị được thể hiện qua các nét vẽ:

      “Lính tráng sĩ vác ve chai trên vai, ông quan miệng kêu gào. lọng che trời, sứ thần đến, váy quét đất ”

      một cuộc thi chọn người hiền tài phục vụ đất nước, nhưng ở đây ta chỉ thấy hỗn loạn, lộn xộn, rối ren và những hình ảnh hài hước, châm biếm: quân tử lộn xộn, quan chức ăn bám, hò hét, áo cô dâu, vợ người. đại sứ lập dị, lố bịch, … tất cả đã biến trường thi thành sân khấu hài dí dỏm. bài thơ cũng là nỗi niềm căm phẫn của ông đối với chế độ thi cử và sự lo lắng của ông đối với tình hình đất nước.

      sở dĩ có sự chênh lệch như vậy là vì nguyễn khuyển là người học rộng, tài cao, thi cử rất thuận lợi. Vượt qua cao. hương, đố và đình của ông đạt hạng nhất nên dân trong vùng gọi ông là tam nguyên yên do. ông là một con người tài hoa, có cốt cách cao cả, có tấm lòng yêu nước, thương dân. ông chỉ làm công chức khoảng chục năm và gần như cả đời dạy học và sống thuần túy ở quê nhà. bon chen của bạn cũng là người tài giỏi nhưng lại xui xẻo trong thi cử mà cứ chạy đi đánh nhau. anh đã đi thi nhiều lần nhưng chỉ đậu trung học phổ thông. cuộc sống khó khăn với gánh nặng cơm áo gạo tiền, anh không giúp được gì cho vợ con mà mọi việc đều đè lên vai anh. vì vậy, giọng thơ của ông vừa chua xót, bất lực, vừa mạnh mẽ, phẫn uất.

      Có thể nói, Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ nổi tiếng ở nước ta cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 20. những sáng tác của hai ông đã góp phần tạo nên những âm điệu khác nhau cho nền thơ ca nước nhà. Cả hai ông đã bộc bạch những tâm sự về lòng căm thù xã hội thực dân nửa phong kiến ​​thối nát, đầy rẫy bất công, đồng thời cảm thông, chia sẻ với cuộc sống của nhân dân cũng như trân trọng sự sống của nhân dân là tình cảm thiêng liêng, cao quý trong cuộc đời của mỗi người. nhưng đọc thơ của hai ông, chúng ta sẽ nhận ra ngay màu sắc, tính cách và cái tôi của hai ông. sự khác biệt về giọng điệu tạo nên dấu ấn riêng của nghệ sĩ. nhờ đó chúng tôi cũng hiểu và trân trọng hơn những gì họ đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc.

      bài viết số 3 lớp 11 đề 2 – văn mẫu 2

      “Trên thế giới có hai sức mạnh: thanh kiếm và cây bút. thanh gươm thu phục thành phố và đất đai, cây bút chinh phục trái tim loài người. “(Napoléon)

      Thời kỳ văn học trung đại Việt Nam đã kết thúc với thành tựu cuối cùng rực rỡ của hai nhà văn đã chinh phục được lòng dân cho đến ngày nay, đó là Nguyễn Khuyến và Tư Bốn. mặc dù hai nhà thơ có cảm xúc giống nhau, nhưng giọng nói của họ khác nhau.

      Trước tiên, chúng ta hãy xem lại hoàn cảnh của hai nhà thơ. Có thể thấy rằng Nguyễn Khuyến (1835, tỉnh Hán Nam) và Tú Xương (1870, tỉnh Nam Định) tuy là hai nhà Nho sống cùng thời, một già một trẻ nhưng cuộc đời của họ hoàn toàn khác nhau. Con đường sự nghiệp của nguyễn khuyển rất thành công (tam nguyên yên do). ông làm quan được mười năm thì về quê sống. Nguyễn Khuyến là một bậc chân nho, một đại diện khá tiêu biểu cho lớp người được xã hội phong kiến ​​định hình. vua nước Đức đã ban cho anh ta lá cờ hiệu và hai chữ “ba nhân dân tệ”, một tài năng lừng lẫy một thời. con đường đến với danh vọng mở ra biết bao vinh quang. Sẽ chẳng có gì trên đời để ông tự chế giễu mình bằng giọng điệu chua chát đầy tiếc nuối nếu tài năng của ông thực sự cống hiến cho nhân dân, đất nước và thế giới. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến chợt nhận ra hiện thực xã hội đã đào tạo và tôn vinh mình. và khi lên đến đỉnh cao vinh quang, ông cũng nhận ra sự bất lực của tầng lớp nho sĩ trước lịch sử. Nguyễn Khuyến là một trong số ít trí thức thời kỳ đó đã sớm nhận ra sự bất lực của giai cấp mình nên đã quyết định rời bỏ chốn quan trường, trở về quê hương để tránh xa sự chế giễu của xã hội, sự dụ dỗ của đồng tiền.

      mặt khác, từ khi sinh ra, lớn lên và cho đến khi qua đời, ông sống ở các khu vực thành thị. Sự nghiệp của bạn đầy mùi khét lẹt, anh ta vất vả trong kỳ thi, và sau đó liên tiếp thi trượt, vỡ mộng, thất vọng và thất vọng: anh ta trượt tám lần (trừ một lần đỗ cấp ba). bao nhiêu năm đèn sách đã vắt kiệt sức lực của thi nhân. trong xã hội bấy giờ thi tú tài dở dang: không được thi tú tài, chỉ được thi tú tài, tú tài không danh, chỉ đỗ cử nhân. bon chen của bạn là một thiên tài văn học thực sự. tài năng của anh ấy được tất cả công nhận, chỉ có một nơi không được chấp nhận, đó là trường học chính thức, lễ hội.

      Điểm giống nhau của nguyen khuyen và tu bon là họ có những cảm xúc giống nhau. những bài thơ của cả hai ông đều chan chứa tình yêu đất nước, con người, đất nước.

      nguyen khuyen qua bức tranh phong cảnh mùa thu với vẻ đẹp chân thực của bầu trời mùa thu quê hương việt nam đã gửi gắm tâm tư tình cảm của mình, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, lòng yêu nước trong thương đau, xót xa, yêu thầm mà sục sôi, chết mà thương, châm biếm. mà trữ tình, dè dặt mà âm vang, đơn độc mà hòa nhập, lạnh lùng mà nóng bỏng, dữ dội mà dịu dàng. tập thơ đã nói lên cảm xúc này:

      “Ta tựa gối lâu không được, cá không động dưới chân vịt.”

      <3 giống như anh tù nhân cần câu, tù nhân của chính linh hồn mình ở đâu đó trong trời đất mang cổ thế giới. Nguyễn Khuyến là người rất yêu nước, rất mực yêu thương gia đình, đau khổ vì cuộc đời quanh co, phải giấu tình quê mùa thu, ao thu như cá giấu trong ao. Thỉnh thoảng, ta nghe thấy tiếng “cá bớp dưới chân bèo”, như nhà thơ tự an ủi mình rằng có cát thì tất nhiên là có nước …

      cảm xúc của nhà thơ tu bon cũng giống như cảm xúc của nguyễn khuyển. xương máu của các anh luôn đau đáu trước vận mệnh của đất nước và nhân dân. với giọng điệu trào phúng sâu sắc, ông đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, dửng dưng trước vận mệnh đất nước, những con người bán rẻ lương tâm chạy theo đồng tiền … tu bon lấy lầu. trong câu thơ và thơ:

      <3

      Hai bài thơ cũng có nhiều điểm giống nhau trong việc ca ngợi hình ảnh người phụ nữ. nguyen khuyen có bài viết “mẹ khuôn”. nhà thơ đã khắc họa thật thấm thía hình ảnh người phụ nữ chân chính danh vọng đương thời: người mẹ mốc meo. “Bà mẹ khuôn” vô cùng xinh đẹp đã giả điên để dành hết sự quan tâm cho chồng con đang ở xa:

      so với mẹ danh tiếng ngoài thân, gấm vóc không thêm; mặt mũi lem luốc bôi nhọ… Thương nhớ chồng con bao dặm đường tìm mãi son phấn. . lắng một lúc, sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết, mảnh gương trinh nguyên kiên quyết không vấy bẩn…

      xương của bạn có một bài đăng về việc yêu vợ của anh ấy. Ông chỉ sống 37 năm, nhưng ông đã học đến 8 kỳ thi trước khi đậu trung học, mọi việc ở nhà đều do bà ngoại gánh vác. Đó là lý do tại sao bạn rất quý trọng vợ, hãy viết về cô ấy để thể hiện lòng biết ơn của anh ấy.

      “quanh năm buôn bán trên sông mẹ, nuôi năm đứa con với một chồng. lặn mất tăm thân cò khi đi xa, thu hẹp mặt nước ngày đầy thuyền. Một mối lương duyên với hai con nợ, một năm định mệnh. dãi nắng mười mưa dám quản công. Cha mẹ có nếp có tẻ, có chồng thì vô tâm là lẽ đương nhiên ”.

      trong cuộc đời, nhưng bà có một niềm hạnh phúc là ngay cả khi còn sống, bà vẫn có thể đi vào thơ của mình bằng tất cả tình yêu và sự kính trọng của chồng.

      điểm khác biệt giữa nguyễn khuyển và tu bon là giọng thơ. Nguyễn Khuyến, một nhà Nho tuân theo các chuẩn mực đạo đức Nho giáo, mang một giọng thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh và sâu sắc. Ca từ của Nguyễn Khuyến thể hiện sự ngọt ngào, ý nhị, tinh tế, giản dị, mang đậm những hình ảnh phong tục tập quán truyền thống của các dân tộc Việt Nam. hồn thơ của ông đậm chất cổ điển, từ chương, mạch luật rõ ràng của thể thơ tang lu, thể hiện khá rõ phong thái của một nhà Nho.

      “ao thu se lạnh và nước trong xanh, chiếc thuyền câu nhỏ sóng biếc theo làn lá vàng gợn gợn nhẹ trong gió đưa mây bồng bềnh, trời trong xanh, những lối tre uốn lượn, vắng khách. ‘lâu ngày bắt cá, lung tung dưới chân vịt. “

      Ngoài những bài thơ trữ tình, Nguyễn Khuyến còn có dòng thơ trào phúng Nho giáo rất đậm nét và sinh động. giọng nói trầm ngâm, kín đáo nhưng cũng vô cùng sâu lắng. Với những sáng tác thấm đẫm chất trào phúng, Nguyễn Khuyến đã thực sự bộc lộ tài năng trào phúng bậc thầy của mình. đôi khi nhà thơ tự xưng trong tự truyện:

      “Anh ấy cho rằng tôi ghê tởm, cùng một loại bia xanh, cùng một bảng vàng.”

      nụ cười tưởng chừng nhẹ nhàng nhưng lại rất sâu sắc và có sức công phá mạnh mẽ. anh ấy cười vào vai diễn lịch sử của mình ở vị trí chính thức, nụ cười chua chát, buồn bã và ăn năn: chuyện lớn rồi, còn mình thì khùng và vô dụng.

      Bon của bạn cũng được coi là một nhà Nho thành thị. mang đến cho người đọc những câu thơ trào phúng đầy day dứt, day dứt. lời thơ bon chen chua chát nhằm mỉa mai, châm biếm xã hội phong kiến. chất thơ của tu bon de duong luat phá cách, hiện thực, giản dị mà trau chuốt, dí dỏm mà sâu sắc. nhà thơ có kiểu tự ghê tởm bản thân rất xấu tính, tự sỉ vả mình khi tự chế giễu mình là đồ vô dụng như cháu nội bà ngoại:

      “Río Madre làm kinh doanh cả năm, một chồng nuôi 5 đứa con.”

      nếu tự cười nhạo bộ dáng của anh ta, nguyen khuyen hiền lành và sâu sắc, thì xương cốt của bạn sẽ chế giễu sự vô dụng của anh ta:

      <3

      baccalaureate hoặc từ mà lều có thể che cho đến khi tam tài (từ 1885 đến 1906) chỉ người đậu tú tài. trải nghiệm đó tạo ra một cái nhìn thực tế về các kỳ thi cuối mùa vui nhộn, đào tạo những người hầu cho những kẻ xâm lược thực dân. hiện thực đó là hiện thực của thành nam, nơi có trường thi. thể thơ lục bát đã thể hiện thái độ mỉa mai, phẫn nộ của nhà thơ đối với chế độ thi cử đương thời và sự nghiệp học hành của chính mình. Qua bài thơ này, tác giả vẽ nên một phần hiện thực hỗn loạn, xô bồ của xã hội thuộc địa nửa phong kiến ​​thuở sơ khai:

      nhà nước mở một khoa ba năm một lần, trường học của trẻ em được trộn với trường học.

      vậy chúng ta có điểm chung gì về hai nhà thơ Nguyễn Khuyến và Tu bon? doan hong nguyen có ý kiến:

      “Nếu thơ văn tự sự của Nguyễn Khuyến là phong cách tự ngẫm của Nho gia, thì Tự sự của Nguyễn Khuyến là phong cách tự suy của thành thị, hiểu theo hình tượng của Nho giáo thành thị.”

      Nguyễn Khuyến là một nhà Nho lớn với ba danh hiệu đứng đầu là “Tam nguyên” hiển hách nhất trong lịch sử nho học Việt Nam. vì vậy, tiếng cười của nguyễn khuyển là tiếng cười của những bậc bề trên, luôn ý thức được sự vượt trội của thế giới về tài năng và đức độ; anh ấy có một giọng nói nhẹ nhàng và hóm hỉnh, nhưng nó rất sâu sắc và cay đắng. Với những gì anh viết ra, người đọc càng suy ngẫm, càng hiểu sâu sắc ý nghĩa của bài thơ. GS Dương Quảng Hàm nhận xét về sự trớ trêu trong thơ Nguyễn Khuyến:

      “Nguyên khuyển phê bình thói quen sinh hoạt một cách mềm mỏng, kín đáo, rõ ràng là đại hiệp muốn dùng lời lẽ trào phúng để khuyên nhủ thiên hạ.”

      cũng là một người tài giỏi, nhưng bạn bon chen trong kỳ thi với “tám khoa chưa phân thắng bại”, cuối cùng đã đậu kỳ thi “tú tài”. hơn nữa, xương sống là khu vực đô thị, nơi diễn ra từ rất sớm và rất tập trung vào lối sống hỗn tạp và vô hồn của thời kỳ quá độ. có lẽ vì thế mà giọng trào phúng của bạn bon chen gợi lên tiếng cười the thé, dữ dội, dữ dội. từ đó, thơ tự sự của tuồng mang một phong cách riêng: không lệ thuộc hoàn toàn vào bố cục nề nếp của Nho gia xưa. thơ tự sự của ông có một nét đột phá, đó là những tâm tình của một nhà Nho thành thị. ông đã tạo ra cho mình một giọng điệu châm biếm rất riêng và có ý thức mà chúng ta gọi là trào phúng đô thị. nhà văn nguyễn tuấn gọi bon chen của bạn là:

      “một công nhân, một nhà thơ có nhiều công lao trong quá trình lâu dài xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam.”

      Nguyển Khuyến và tuồng là hai nhà thơ xuất sắc, hai tài năng kiệt xuất của nền văn học Việt Nam. Trong sâu thẳm tâm hồn, hai nhà thơ vẫn quý trọng tài năng của nhau. Giai thoại sau đây cũng phần nào chứng minh suy nghĩ này. khi cụ qua đời, cụ nguyễn viên đã đến thăm chúng cháu bằng một câu thơ cảm động như thế này:

      “Kìa, còn chín sông chưa gãy, có lẽ muôn ngàn tiếng vẫn còn.”

      nói tóm lại, so sánh hai nhà thơ nguyễn và tuấn tú, chưa cần phân định ai hơn ai, mà từ đó có thể thấy được tài năng và phong cách của mỗi nhà thơ. Dù đã hơn trăm năm trôi qua nhưng Nguyễn Khuyến và Tư Bổn vẫn luôn để lại trong lòng người đọc những yêu thương, trân trọng: một Tam Nguyên Yên hiền lành nhưng sâu sắc, một Tứ Hoàng sắc sảo, quyết liệt. Vì vậy, tên tuổi và tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tư Bổn đã được lưu truyền từ xưa đến nay và sẽ còn lưu danh đến muôn đời sau. bởi vì “văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. nó chỉ không nhận ra cái chết. ”

      bài viết số 3 lớp 11 đề 2 – văn mẫu 3

      Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 20 là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến ​​với nhiều hủ tục, hủ lậu. Đây là môi trường để thơ hiện thực và trào phúng thời kỳ này phát triển theo đường lối và hướng đi riêng. các tác giả của loại thơ này hầu hết là các nhà Nho. họ có những cảm giác giống nhau, nhưng họ cũng có nhiều điểm khác biệt. chúng ta thấy điều này ở hai nhà thơ tiêu biểu nhất là Nguyễn Khuyến và Từ Xuân.

      Cả Nguyễn Khuyến và Tư Bổn đều xuất thân từ dòng dõi nhà Nho. nên giữa hai người ít nhiều cũng gặp nhau về ý tưởng giống nhau. tuy không sinh ra cùng thời (Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên khi giặc Pháp chưa xâm lược, tu bon sinh ra khi đất nước lâm nguy, giặc Pháp xâm lược và bình định đang ở đỉnh cao). nhưng nhìn chung, hai cuộc đời đều trải qua thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc. Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đã chuyển sang xã hội mới, xã hội thuộc địa nửa phong kiến. xã hội đó gắn liền với những thay đổi về địa vị giai cấp, các hoạt động và tình trạng tâm lý xã hội. đây là lúc cậu là cậu, cậu là cậu, cậu phục vụ, đầu bếp, cô giáo, cô giáo, … một cậu học trò bất tài, vô liêm sỉ nhưng sẽ làm em gái, khoe khoang trước mặt. cuộc sống. và đây cũng là lúc cây nho chết héo, nhuệ khí kiệt quệ, bươn chải không muốn, mọi giá trị xưa cũ đều vỡ vụn trước sức mạnh của đồng tiền. Xã hội loạn lạc này đã ảnh hưởng đến nhiều nhà Nho chân chính nhận thức được vận mệnh đất nước, trong đó có Nguyễn Khuyến và Tư Bổn. đối diện với hiện thực cuộc đời ấy, cả hai ông đều có những nỗi niềm giống nhau: nỗi bất bình trước xã hội, tiếng nói xúc động của một trái tim yêu nước, nhưng giọng thơ lại rất khác nhau. điều này sẽ thấy rõ khi hiểu ngay nội dung thơ của hai nhà thơ.

      cùng bất bình với xã hội, cùng châm biếm, tố cáo những điều xấu xa của con người nhưng cách thể hiện của hai nhà thơ lại rất khác nhau. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. nội dung trào phúng của nó luôn có nội hàm chính trị xã hội phong phú. Mô-típ trào phúng của ông không phải xuất phát từ sự bất mãn với lợi ích cá nhân mà xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn. đối tượng tấn công của hắn tập trung vào những người có liên quan đến nước mất nhà tan hoặc thực dân Pháp đang đặt ách thống trị trên đất nước ta. loại người mà nguyễn chế giễu được khuyến khích nhiều hơn bọn thống trị phong kiến. ông coi thường và căm ghét tất cả các quan lại cũ và mới vì ông cho rằng khi mất chủ quyền đất nước, làm quan là một sự ô nhục, một sự vi phạm đạo đức không thể tha thứ của một nhà Nho chân chính. . Nguyễn Khuyến đã giáng một đòn đau vào tất cả vua quan, quan lại đương thời khi chỉ ra rằng họ chỉ là một lũ hát chèo, tức là một lũ bù nhìn của thực dân:

      vua chèo thuyền không là gì khác ngoài một chú hề

      đã đánh đổ những tiến sĩ trí thức tài năng của chế độ phong kiến ​​bằng cách so sánh họ với những tiến sĩ giấy. Tất cả họ chỉ là một lũ bất tài vô dụng:

      chiết thân quần áo nhẹ nhàng giá, tân giá, ô lam ngồi, tưởng thật là đồ chơi

      nguyen khuyen đã vạch trần bản chất xấu xa, giả dối của qua quýt nhưng một cách rất mềm mỏng và sâu sắc. bản chất đó thường được gói gọn trong những hình ảnh ẩn dụ với nhiều hình thức: khi mượn lời người đàn bà mắng chồng, khi giả dối, khi là lời khuyên … tất cả đều ngụ ý, sâu cay.

      Khác với Nguyễn Khuyến, Tư Bốn khi phản ánh hiện thực thường miêu tả chân thực, chua chát hơn là nhẹ nhàng, sâu lắng. tuy nhiên, đó không phải là “hình thức chửi bới, bất lực thể hiện trạng thái ghen tuông, phẫn uất” như một số ý kiến ​​chỉ trích. không đứng hẳn về tư thế cá nhân, bất bình rồi phản ánh hiện thực. bạn có vấn đề với các kỳ thi và có một số bất mãn cá nhân. chúng tôi không phủ nhận điều đó. nhưng điều phải thấy trước là trong bon chen của bạn sẽ có sự bất bình chung của quốc gia. Đúng là trong bon chen của mình, sự bất mãn của cá nhân và sự bất mãn chung của dân tộc đã được gộp lại thành một vị trí, một vị trí của cái bon chen để nhìn thực tế và phê phán hiện thực. cũng là châm biếm, đả kích quan lại, nhưng hãy xem, quan lại xuất hiện trong bài thơ như thế nào? với thái độ hết sức coi thường, quýt trong mắt bon chen cũng là một thứ hàng hóa, nên “người ta mua danh, kẻ mua quýt”, cũng là thứ rẻ rúng “tri huyện lâu nay đã rẻ”. . gương mặt ông quan trong thơ tuồng hiện lên khá đậm nét. tu bon đã dựng lên trước mắt người đọc một thước phim thông tin giản dị nhưng sâu sắc về xuất thân và hoạt động của ông. khi họ còn là những người lính, họ lộn xộn và vô tổ chức, một số sinh khí đã không còn:

      những người lính bối rối với bình trên vai, tranh luận với nhau về mặt học thuật

      Cả hai cùng tranh nhau thủ khoa, khoe thành tích học tập và khi đỗ, họ chỉ biết chìm đắm trong ô nhục:

      trên ghế, hắn cúi mình dưới mông vịt, trong phòng xử, hắn ôm đầu rồng

      thì lực làm quan là sa đọa, sa đọa, không lấy đi một chút đạo lý nào nữa:

      vợ chồng bố lạy quan xin chú han

      đặc biệt là chúng chỉ chuyên đi cướp bóc và ăn cắp của mọi người mà không hề nghĩ đến một chút trách nhiệm:

      chữ cái y không đủ tốt. được sử dụng với một từ duy nhất chỉ tiền bạc

      dưới ngòi bút bon chen của bạn, ông quan là một ông đồ tuồng, để râu, vẽ mặt, vừa hò hét vừa múa lừa thiên hạ:

      có chuyện gì với tuồng cũng hát hò, mặc dù nói dối được trẻ con, mặt vẽ cũng buồn?

      Rất hay nếu bạn miêu tả các quan lại trong những ngày đầu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến ​​như một thứ bon chen của bạn.

      Trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đồng tiền làm mưa làm gió thêm một bước gây chấn động xã hội. cùng là sự phản ánh mặt tiêu cực của đồng tiền, nhưng ở nguyen khuyen lại là một câu hỏi nghe nhẹ nhàng nhưng mang ý nghĩa sâu sắc:

      Tôi có thể làm điều đó bằng tiền! Có phải kiếp trước tôi là một tiếng Quan Thoại không?

      không giống như lối viết của tu bon, dưới ngòi bút của anh, đồng tiền có một sức mạnh kỳ lạ. nó được đánh giá cao và yêu mến bởi mọi người. nó khiến “quý ông nằm lòng” nếu bạn không có nó trong túi, ngược lại, nó cho phép ai có nó thoải mái nói về dơi, chuột mà vẫn nhận được những lời khen ngợi. đúng vậy:

      người yêu anh ta hoặc ghét anh ta hoặc tương tự như vậy, người tôn trọng và coi thường anh ta chỉ vì tiền.

      vì đồng tiền mà hàng ngày xã hội diễn ra bao nhiêu điều xấu xa, thối nát và phi lý. thần tiên có cảnh:

      ngay cả tiếng nói chuyện của đôi giày. đen là đen.

      vì tiền, các nhà sư đã bỏ lòng từ bi của phật và trở thành kẻ chiếm đoạt, vì tiền mà nhiều gia đình lâm vào cảnh khủng hoảng, con cái khinh thường cha mẹ, vợ chửi mắng chồng. đồng tiền thực sự nguy hiểm đã hủy hoại trái tim con người, hủy hoại đạo đức và hủy hoại nhiều tình cảm thiêng liêng của con người.

      khi đó, trong cùng một đối tượng phản ánh, người đọc luôn có thể phân biệt được đâu là thơ của nguyên khuyển, đâu là thơ của tự xương chủ yếu bằng giọng điệu. Thơ Nguyễn Khuyến luôn nhân hậu, thường dùng những cách nói ẩn dụ, qua đó để chỉ trích, phê phán đối tượng. người đọc có thể thấy được ý nghĩa sâu xa và sâu sắc ẩn sau con chữ. đọc thơ nguyễn khuyển ban đầu tưởng là khen, hỏi chân tình nhưng câu cuối lại là lời mỉa mai châm biếm của nhà thơ. xương của bạn thì khác, nó không sử dụng phép ẩn dụ mà nói nó một cách công khai, trực tiếp tấn công đối tượng bằng tất cả những gì xấu xa của nó. thơ của ông như một đòn giáng vào chủ đề, xé toạc tất cả những điều xấu xa và giả dối của nó, phơi bày trước mắt người đọc.

      đọc thơ của cụ Nguyễn khuyến khích người đọc thấy bà hóm hỉnh và sâu sắc, nhưng đọc thơ lại thấy bức xúc, bất mãn với xã hội thực dân nửa phong kiến. xã hội đó đã sinh ra những thứ lố bịch, nực cười. ở đây, người đọc luôn thấy ngay sự xấu xa của đối tượng được nói đến và thái độ gay gắt của nhà thơ thể hiện qua lời nói mà không cần suy nghĩ, chờ đợi.

      Tuy nhiên, sự châm biếm đả kích cái xấu của xã hội chỉ là một mặt của lòng yêu nước ở hai nhà thơ. một mặt không kém phần quan trọng là nỗi buồn, sự đau đớn, xót xa luôn ám ảnh trái tim họ. cả hai đều ý thức được nỗi tủi hổ khi mất quê hương, ý thức được trách nhiệm của người lính trước vận mệnh của quê hương để rồi phải tự vệ. họ nghĩ đến giống nòi, tổ tiên của mình, họ biết thể hiện sự bất hợp tác với kẻ thù, họ biết khinh bỉ những người đã mất ý thức. tuy nhiên, đến cuối đời, họ vẫn không thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn, vòng vo, dằn vặt, mà chủ yếu là do họ không đủ dũng khí bước vào cuộc chiến.

      Nguyễn Khuyến từng làm quan, nhưng khi nhận thấy sự suy tàn của chế độ, ông lập tức từ chức. khi chết đi theo tiếng gọi của lương tâm, anh quyết định sống một cuộc đời dù nghèo khó nhưng vẫn giữ được bản sắc của mình. bạn đã không làm cho nó trở thành chính thức, anh ta đã đi thi tám lần và không đậu chỉ vì anh ta phạm luật và vi phạm pháp luật.

      Trước sự thay đổi của người yêu, nhân cách Nho gia chân chính của hai người này vẫn đứng vững và kiên định. ở họ, chúng ta tìm thấy những quan điểm tương tự về cuộc sống. với nguyễn khuyển đó là lối sống giả câm, giả điếc “mặt mũi bôi xóa”. bon chen của bạn cũng vậy thôi, sống chỉ là “hâm, giả câm, giả điếc”, “khôn thì giả ngu”, đâu cần thể hiện ý chí sống, bạn không cần. không quan tâm đến danh vọng, lặng lẽ ra khỏi vòng vây và vùng sóng để thỏa mãn.

      hai con người, hai cách sống, hai hình thức thể hiện khác nhau, điều đó tạo nên nét độc đáo riêng cho phong cách của mỗi tác giả, đồng thời làm phong phú, làm đẹp vườn hoa văn học nước nhà. nhưng dù khác nhau về hình thức, họ đã gặp nhau ở tấm lòng yêu nước nhiệt thành và lòng trung thành. đây chính là yếu tố để cả ba nguyên yên do nguyên khuyển và thư ký thời đại tu bon luôn sánh bước bên nhau và cùng nhau hiên ngang hướng về vương quốc bất tử của văn học Việt Nam.

      xem thêm: so sánh giọng thơ nguyễn khuyển và tu hú

      bài văn mẫu lớp 11 đề 3: cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người nông dân

      dàn ý bài văn số 3 lớp 11 đề 3

      i. mở đầu

      – Vài nét về cụ Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm “can văn phú chí”: tác gia tiêu biểu miền Nam. sự hy sinh cần thiết của các liệt sĩ là tiếng khóc bi tráng cho một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng vĩ đại.

      – khái quát về hình tượng người nông dân anh hùng trong tác phẩm: bài văn đã dựng lên một tượng đài bất tử về những người nông dân làm công ăn lương đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc.

      ii. nội dung bài đăng

      1. nguồn gốc của người nông dân làm từ thiện

      – từ những người nông dân nghèo, làng xóm, xóm giềng (những người rời quê lên đất mới kiếm sống): “đi làm ăn; cố gắng vì nghèo “: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người tin tưởng, làm việc trong âm thầm nhưng vẫn nghèo suốt đời

      – nghệ thuật tương phản: “không biết – chỉ biết, quen thuộc – không biết”.

      = & gt; Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh cái quen (ruộng) và không quen (trận mạc, quân sự) của người nông dân miền Nam để tạo nên sự tương phản về tầm vóc anh hùng trong đoạn văn sau.

      = & gt; họ chỉ là những người dân nghèo lương thiện, chính hoàn cảnh ấy đã buộc họ phải vươn lên trở thành những người lính và cuối cùng là những người “lính”.

      2. người nông dân anh hùng xuất hiện với lòng yêu nước nồng nàn

      – Khi thực dân Pháp xâm lược, nông dân cảm thấy: lúc đầu sợ hãi, sau đó chờ tin – ghét – ghét – thì phản đối.

        của căm thù như thằng nông dân ghét cỏ ”,“ muốn ăn gan ”,“ muốn ra ngoài cắn cổ ”- sự căm thù tột độ, căm thù được miêu tả bằng những hình ảnh phóng đại mạnh mẽ nhưng hiện thực

      – lương tâm của quê hương: họ không dung thứ cho kẻ thù gian dối. => họ chiến đấu một cách tự nguyện: “đợi ai đó đến bắt …”

      = & gt; sự thay đổi tâm trạng của người nông dân, thái độ thay đổi khác thường, lòng yêu nước, căm thù giặc, cộng với sự thờ ơ vô trách nhiệm của bọn “quan” đã khiến họ tự túc và tự nguyện vùng lên đấu tranh.

      3. người nông dân cao cả và cao cả vì tinh thần chiến đấu và đức hi sinh của người nông dân

      – tinh thần chiến đấu tuyệt vời: ban đầu anh ấy không phải là một người lính, chỉ là một người dân làng “thích trở thành một người tuyển mộ”

      – quân trang rất thô sơ: áo vải, đầu gậy tre, mũi khoan, cung tên đã đi vào lịch sử = & gt; rõ hơn chủ nghĩa anh hùng của những người nông dân anh hùng

      – đạt được những chiến công đáng tự hào: “đốt nhà tôn”, “chặt đầu hai quan”.

      – “qua hàng rào”, “gõ cửa”, “mạo hiểm”, “băng qua”, “cắt lại”…: các động từ mạnh biểu thị hành động mạnh với mật độ cao và nhịp độ sôi động.

      – sử dụng động từ theo đường chéo “để cắt ngang, gạch chéo lại” = & gt; tăng độ khốc liệt của trận chiến.

      = & gt; tượng đài nghệ thuật hoành tráng về những anh hùng nông dân đánh giặc cứu nước.

      4. một người nông dân anh hùng được kính trọng vì sự hy sinh anh dũng của anh ấy

      – sự hy sinh của những người nông dân được nói lên bằng hình ảnh với nỗi đau chân thành: “thịt thà bỏ rơi”, “da ngựa bọc xác”: một cách trốn tránh sự hy sinh của các nghĩa sĩ. .

      – chính họ, những người xung phong chiến đấu với vũ khí thô sơ nay đã anh dũng hy sinh trên chiến trường, để lại niềm tiếc thương nhưng niềm tự hào cho những người ở lại.

      = & gt; hình ảnh những người nông dân anh hùng với sự chiến đấu, hy sinh anh dũng xứng đáng đi vào sử sách.

      iii. kết thúc

      – mô tả các đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công của hình ảnh.

      – Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, tác giả đã dựng lên một tượng đài nghệ thuật về hình tượng những người nông dân chống thực dân xứng với phẩm chất vốn có của họ trong cuộc sống thực.

      bài viết số 3 lớp 11 chủ đề 3 – văn mẫu 1

      Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. cuộc đời anh đã phải trải qua nhiều bi kịch, đau khổ và bất hạnh. có lẽ vì lẽ đó mà hơn ai hết, ông cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Năm 1859, giặc Pháp tràn sông Bến Nghé đánh chiếm thành Gia Định. anh phải về quê vợ ở thanh ba, cần một nơi ở tạm. Về phía thực dân Pháp, sau khi chiếm được thành Gia Định, chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng tấn công sang các vùng lân cận. cần phải cưỡng bức đã sớm bị giặc Pháp tràn qua. những người nông dân áo vải, chân lấm tay bùn đã vùng dậy chiến đấu. họ tham gia nghĩa quân, sẵn sàng hy sinh quên mình vì nghĩa lớn. trong số đó có nhiều liệt sĩ đã anh dũng hy sinh. Những hy sinh này đã gây được sự cảm phục vô cùng trong nhân dân. do quang, dinh tuần, giao nguyen dinh chieu viết bài văn tế đọc tại lễ truy điệu hơn hai mươi liệt sỹ hy sinh trong trận đánh đêm 16 tháng 12 năm 1861. Với lòng cảm phục vô hạn, nguyễn đình chiểu đã viết một bài luận về sự cần thiết của lòng thương xót. sự hy sinh không chỉ thể hiện niềm tiếc thương vô hạn của tác giả và nhân dân đối với các liệt sĩ, mà còn thể hiện vẻ đẹp chân thực, bi tráng và anh hùng của những người nông dân Tây Nguyên đấu tranh yêu nước.

      ồ! đại bác địch địa vang dội; lòng người được bộc lộ ..

      khi đất nước lâm nguy, cả nước đều nổ súng. Chính từ hiểm nguy, đau thương đó mới thể hiện được tình yêu quê hương đất nước của những người nông dân bình dân, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn thực sự của họ trước đất trời.

      tấm lòng, tình yêu quê hương đất nước của những người nông dân chất phác càng được thể hiện rõ nét và sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng nhiều biện pháp tương phản trong các câu văn sau đây.

      nhớ lại tinh thần xưa:

      im lặng vì công việc kinh doanh; cố gắng lo nghèo, không quen cung ngựa, đi đâu học nhung; Tôi chỉ biết những cánh đồng chăn trâu, sống trong làng. đào, cày, xới, cấy thì tay quen làm; thực hành khiên, thực hành vũ khí, thực hành đánh dấu, trò chơi cờ vua, mắt không bao giờ

      trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “làm ăn”. họ vẫn sống, họ vẫn tồn tại, nhưng chỉ trong im lặng. trong cuộc sống, họ quan tâm đến cuộc sống bình dị hàng ngày; họ chỉ quen làm những công việc đồng áng: cày, xới, cấy, hái, làm bạn với con trâu, cánh đồng. họ không quen với “cung ngựa”, “trường nhung”, họ không quen với “điểm đánh dấu, bộ cờ”. các liệt sĩ ở đây chỉ là những người nông dân áo vải, không quen ra trận, không qua đào tạo, chỉ vì yêu ghét cái ác mà vùng lên đánh giặc.

      khi “tiếng gió, tiếng hạc kéo dài hơn mười tháng”, họ háo hức chờ đợi lệnh tòa: “xem tin tức như nắng muốn mưa”.

      Hóa ra bi kịch thảm khốc là ở đây: triều đình nhu nhược, không hiểu lòng yêu nước của nhân dân. không thể kìm được lòng căm thù giặc của nông dân:

      mùi cừu chiên đã vá ba năm, hắn ghét hủ tục như nông dân ghét cỏ … một lần nhìn thấy lốp trắng muốn ăn gan, một ngày nhìn thấy ống khói đen, liền muốn. ra ngoài và cắn vào cổ tôi.

      hình ảnh những người nông dân và những nghĩa sĩ yêu nước hiện lên anh dũng, anh dũng. tình yêu tha thiết đối với đất nước được sinh ra từ chính trái tim họ khiến họ trở nên đẹp đẽ và lung linh.

      Vẻ đẹp của những người nông dân và chiến sĩ yêu nước bắt nguồn từ lòng căm thù giặc sôi sục của họ. chính lòng căm thù giặc đã trở thành hành động quật khởi rất anh dũng.

      không đợi có người hỏi, ai bắt được, lần này xin phá: không thèm trốn lui, chạy về phía trước, chuyến này đi gặp hổ.

      Trong những tác phẩm trước đó phản đối chiến tranh phong kiến ​​phi nghĩa, những người nông dân khi phải đi làm lính biên phòng từ xa để bảo vệ lãnh thổ của nhà vua đã ra đi với tâm trạng và thái độ “xa lánh”. nước mắt như mưa ”thì ở đây, người nông dân Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác, họ tự giác đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước, đó là nét đẹp cốt lõi nhất trong hành động của những người nông dân – liệt sĩ cần lao. Ở đây, nguyễn đình chiểu đã khắc họa rõ nét không chỉ vẻ đẹp tâm hồn mà còn là vẻ đẹp hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước, từ động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trọng trách lịch sử đã tạo nên sức mạnh to lớn cho họ. và đối mặt với giặc ngoại xâm. không đợi hiển cha, mà chỉ “ngoài thận còn áo vải chờ mang bao, ngòi, tay cầm chỏm tre, vừa sắm dao vừa nón lá ”. cho một lực lượng quốc gia. đối mặt với những kẻ thù hùng mạnh bằng “đạn nhỏ, đạn to”, “thuyền thiếc, thuyền đồng” với những kẻ xâm lược chuyên nghiệp mà vũ khí chúng dùng để chống lại chúng chỉ là “chiếc áo vải”, “chiếc chũm chọe”, chỉ có “dao thép” cối xay. “và chỉ” ổ khóa rơm có cung “. thử hỏi rằng đặt những thứ đó chống lại vũ khí của thực dân giống như đi về phía cái chết. thật xót xa khi chứng kiến ​​sự thật phũ phàng bày ra trước mắt. đó là bi kịch của những liệt sĩ cần được giúp đỡ, cũng như bi kịch của cuộc đời đất nước ta trong thời khắc đen tối ấy. thảm kịch này đã dẫn đến một thảm họa mất nước kéo dài hàng thế kỷ.

      nhưng cũng chính bi kịch này đã tô điểm thêm hình ảnh người chiến sĩ nông dân yêu nước. với lòng kiên cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên những điều phi thường, chính họ đã hát vang khúc tráng ca của cuộc chiến tranh vệ quốc. bất chấp hiểm nguy, bất chấp hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch, đối lập, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, dùng tinh thần xả thân để bù đắp sự thiếu thốn, chênh lệch với kẻ thù. hoàn cảnh chiến đấu có sự khác biệt ở chỗ, các liệt sĩ đã chiến đấu bằng chính tinh thần của mình, quyết tâm chiến đấu không sợ hy sinh nên hiệu quả chiến đấu vô cùng to lớn.

      chỉ những vũ khí thô sơ như:

      súng hỏa mai bị đánh bằng rơm, và ngôi nhà kia bị đốt cháy, gươm đeo lưỡi dao cối xay, và hai người khác cũng bị chặt đầu. kẻ này đâm bên kia, kẻ kia chém ngược nàng khiến linh hồn ma quỷ trở nên huyền bí. tuyệt vời …

      chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã làm nên những kỳ tích. hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với vẻ đẹp rạng ngời của lòng yêu nước, dường như làm lu mờ cả thời kỳ đen tối trong lịch sử mất nước nửa sau thế kỷ 20.

      sự hy sinh như một tượng đài bằng chữ, tạc nên hình ảnh những người chiến sĩ nông dân anh dũng nhưng bi tráng, tượng trưng cho lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. tượng đài đó là dấu mốc thể hiện một bi kịch lớn của dân tộc: bi kịch nước mất nhà tan và đánh dấu một thời kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc ta: trăm năm đô hộ của thực dân Pháp. nhưng anh hùng thay, trong bi kịch lớn lao ấy, tinh thần bất khuất của đồng bào miền Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng với lý tưởng cao đẹp của những liệt sĩ sẵn sàng hy sinh quên mình vì đại nghĩa, vì dân tộc. / p>

      bài viết số 3 lớp 11 chủ đề 3 – văn mẫu 2

      Trong văn học Việt Nam, cho đến cụ Nguyễn Đình Chiểu, chưa bao giờ có hình ảnh con người chân thực và xúc động hơn liệt sĩ trong bài văn tế sự hy sinh của các liệt sĩ. Nói một cách chính xác, trước Nguyễn Đình Chiểu, những người bình dân cũng đã xuất hiện trong văn học Việt Nam. tuy nhiên, chính những người đánh cá, tiều phu thấp thoáng gần xa trong thơ huyện thanh quan, hay đám lố lăng, ngày nào cũng là miếng khoai, lúc thì cỏ lại thành những kẻ thô lỗ “kiêu binh” trong thực lục. chi.

      Người nông dân trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác. bọn họ thực sự là người thường, thị dân, kỳ lân, ngoài thận còn có áo vải. bản tính hiền lành, chất phác, quanh năm mồ côi làm ăn, lo nghèo. trong lũy ​​tre làng, họ chỉ biết ruộng trâu, ở làng bộ lạc, họ thành thạo nghề nông: đào, cày, xé, cấy, tay quen. ông nói như nhà thơ thanh tao sau này sẽ nói, “những con người chân lấm tay bùn ấy đã đi vào thơ của Đỗ Chiêu. Đúng là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng suốt phát hiện ra họ, nhưng trước hết, họ dù không đội nón nhưng vẫn để lại những vết bùn làm rạng danh thơ. đó là lòng yêu nước và sự tôn trọng của người nông dân.

      Khi nghe tin địch kéo đến, mặc dù là dân thường nhưng nông dân vẫn đầy sốt ruột. trong xã hội cũ, việc quốc gia đại sự trước hết là việc của quan lại. người dân lắng nghe cán bộ và hành động như người dân. dân chúng thấy quan bèn đi theo. do đó, họ chờ đợi những tin tức như hạn hán và mưa. đôi mắt vẫn chờ đợi nhưng trái tim trong sáng:

      Khi tôi nhìn thấy một lốp xe màu trắng, tôi muốn ăn gan; Nhìn lò sưởi ngày nào cũng đen thui, tôi muốn lao ra cắn vào cổ.

      lòng yêu nước không dành riêng cho bất kỳ ai. Những người chồng lương thiện hơn biết bao khi mùi thanh khiết đã vá víu ba năm, ghét rác rưởi như người chồng ghét cỏ. nên dù là dân làng, kỳ lân nhưng trên tay họ chỉ còn một ước mơ, họ sẵn sàng hy sinh vì chính nghĩa:

      Họ đốt những giàn thiêu bằng rơm, họ cũng đốt ngôi nhà tôn giáo khác; thanh kiếm mà dâu sử dụng cũng chém đứt đầu của hai sĩ quan.

      quan quan đắt giá trống, nhấn trống, giẫm rào cầu trượt, coi địch như không; ai sợ tây bắn đạn nhỏ, đạn to, đập cửa xông vào, liều mạng coi như không.

      kẻ đâm ngang, kẻ đâm ngược, làm mã xấu, cả người lẫn hồn; mùa hè năm ngoái, chuyến cuối cùng này, đoàn tàu sắt, đoàn tàu bằng đồng đã nổ tung.

      Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước và kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. họ mất vị trí từ rất sớm khi họ tự nguyện dâng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt), không có quân sách, không có chiến lược. quân địch được chuẩn bị chu đáo, có tổ chức và tổ chức tốt. chúng mất thế trận mà ngoài thận có áo vải, tay cầm đuốc, địch có tàu sắt, tàu đồng, đạn nhỏ, đạn lớn. nhưng cả lòng căm thù và lòng yêu nước đã khiến những người nông dân bỏ tàu sắt và súng ống, liều mạng chẳng giống ai. mọi người đều biết giá cuối cùng của cổ phiếu đó. nhưng các liệt sĩ nông dân biết rõ hơn:

      một giấc mơ dài khiến nhân vật cháy thành than, hoặc xác chết được bọc trong da ngựa; trăm năm âm phủ, hãy chờ gươm trao mồ.

      những chiến binh nông dân trở thành những “anh hùng dù mất đi tính mạng nhưng vẫn đứng vững” (phuong van dong). hình tượng người liệt sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam và mang hình hài bi tráng. nó như một tượng đài sừng sững khắc ghi không gian và thời gian để nói với muôn đời: thác trả nước non rồi nợ, tiếng vang sáu tỉnh, tiếng khen ngợi; thác mà yêu thành đền thờ, tên tuổi ai cũng ngưỡng mộ muôn đời.

      Sự gắn bó, yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu khắc ghi trong thơ văn của mình hình ảnh bi tráng của một người anh hùng thiếu thốn. Hình ảnh ấy mang sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng không bao giờ khô” và mối tình bi thương của nhà thơ mù Đồng Nai – Gia Định. anh hùng “sống đánh giặc; thác cũng đánh giặc”. và các nhà thơ của nó đã dựng lại tượng đài “ngàn năm có một” ấy trong ký ức tâm hồn mọi người bằng văn chương.

      bài viết số 3 lớp 11 chủ đề 3 – văn mẫu 3

      “Văn hiến nhân nghĩa” là tác phẩm đỉnh cao của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là sự thể hiện tập trung và sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước và chí sĩ của ông. bằng tấm lòng đồng cảm và ngưỡng mộ chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong giai đoạn lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. bài thơ hy sinh có thể nói là khúc ca bi tráng về người anh hùng nông dân đã dám hy sinh thân mình vì sự tồn vong của đất nước.

      Vẻ đẹp đầu tiên ở họ là tinh thần xung phong đánh giặc, là những đứa trẻ mồ côi quanh năm lao động, hàng ngày chỉ lo đủ ăn, không đói, rách. họ biết địa vị xã hội thấp kém, ngoài việc thu thuế nộp đủ, họ không dám nghĩ đến việc lớn. công việc quốc gia thuộc về vua quan và triều đình. tuy nhiên nay giặc ngoại xâm, gieo rắc mùi (cừu) đã ba năm mà mặt mũi các quan không thấy đâu, dù chỉ là những kẻ hèn nhát chạy nhiều. cảnh tượng khiến họ không thể làm ngơ. sục sôi trong huyết quản lòng yêu nước được hun đúc hàng nghìn năm, họ tự nguyện vươn lên đánh giặc:

      “Chờ người hỏi bắt ai, lần này hãy cố gắng phá vòng vây; chẳng thèm trốn chui trốn nhủi, chuyến này là nhằm vào con hổ. “

      họ đã tự mình đảm nhận những công việc vô cùng khó khăn và to lớn: chặt kính, đẻ hổ, tức là chiến đấu với kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần.

      Vẻ đẹp tinh thần của anh là dám chiến đấu, dám hy sinh; Tôi hết lòng xin công sức, chung tay cống hiến cho đất nước. vị thần thuần khiết dám chiến đấu và dám hy sinh thật cao đẹp biết bao khi họ chỉ là những người dân làng bên, hợp lại thành một đội để chiến đấu chứ không phải binh lính triều đình. Từ cửa cabin, họ lao thẳng vào trận chiến mà không cần huấn luyện gì. tinh thần đó càng lớn hơn khi anh nhìn vào vũ khí trong tay mình. Khí tài sắc bén của họ có thể nói là tinh thần yêu nước, trung thành với Tổ quốc mà cung tên, dao rựa, gậy gộc của họ không thể sánh bằng đại bác hai tâm, tàu đồng. . Sự sắc sảo, khả năng giết giặc của nàng chỉ có ở trái tim, ở sự dũng cảm của người cầm dao, cầm gậy, vẻ đẹp anh hùng của nàng là thế, nhưng cùng với sự anh hùng đó là nỗi đau, nỗi buồn muốn gục ngã. . nước mắt!

      nhưng hãy xem chúng trong trận chiến. rất nhiều từ ngữ rất hùng tráng, khí thế hừng hực, khí phách của một trận chiến ác liệt và anh dũng:

      “Tôi cũng đốt ngôi nhà tôn giáo kia bằng lửa rơm; thanh kiếm mà dâu sử dụng cũng chém đứt đầu của hai sĩ quan.

      kẻ nào băng qua, kẻ lùi lại, làm cho ác mã, người của mùa hè đi trước, đại bàng ở phía sau, hãy để xe lửa và xe lửa nổ tung. “

      thật tuyệt vời! có người đã dùng một cách nói rất đắt (nhưng không hề đắt) rằng hình ảnh người anh hùng nông dân nghèo khổ, vất vả đã nổi lên như một hình tượng anh hùng giữa trận địa, hiên ngang, áp đảo. dao rựa và đao của chúng xuyên qua chém lại từ bên này sang bên kia, phi nước đại và kiêu hãnh chiếm trọn không gian của trận địa, khiến cho tâm hồn kẻ thù phải bấn loạn. âm thanh của mùa hè, tiếng giễu cợt của họ át tiếng đại bác của những con tàu bằng đồng. em bé rơm cúi đầu, con dao mài cũng đốt cháy chuồng giặc, chặt đầu hai tên giặc. đoạn văn có đầy đủ các động từ, cụm động từ miêu tả hành động mãnh liệt, nhiệt huyết rực lửa. Trước mặt những người anh hùng này, những tên lính địch hung hãn với súng đạn nổi lên như thể chúng co rúm lại, thấp bé và khốn khổ trong bộ dạng tồi tệ. có thể nói, hình tượng người nông dân anh hùng cần trỗi dậy trên nền trời rực lửa, sừng sững như một tượng đài nguy nga.

      cảm xúc chủ đạo của người hy sinh là cảm xúc bi thương, hành văn mạnh mẽ, ngữ điệu sôi sục và vội vàng. nghệ thuật cho đã được phát huy tác dụng tối đa. tất cả được kết hợp trong một âm hưởng chiến đấu hào hùng và thú vị của một bản anh hùng ca tuyệt vời. ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao đẹp của người anh hùng nông dân, với những ý tưởng lớn lao mà tác giả đã phát hiện trong hành động xung phong giết giặc cứu nước của anh. Gần ba chục liệt sĩ nông dân đã hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt và không cân sức. cái chết bi thảm của họ đã làm cho thiên nhiên và con người phải khóc: “sông cần phấp phới, cỏ cây buồn muôn dặm; nhìn chợ thì chợ bình thường, già trẻ hai hàng một tí. “Người đã chết vì nước, vì dân tộc thì làm sao không xúc động trước nhân dân, với Tổ quốc?

      tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân với tính cách bi tráng. nó được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng kêu thảm thiết của nhà thơ và của nhân dân. Đây là một thành tựu nghệ thuật xuất sắc của nhà thơ yêu nước mù Nguyễn Đình Chiểu. sự hy sinh ấy như một tấm bia, một cột mốc, một tượng đài vẻ vang cho những người nông dân miền Nam anh hùng, cho nhân dân lao động đời đời sáng chói.

      <3

      bài làm số 3 lớp 11 đề 4: cảm nhận cuộc đời và thơ văn nguyễn đình chiểu

      i. mở đầu

      – giới thiệu chủ đề thảo luận: cuộc đời và thơ văn của nguyễn đình chiểu.

      – bày tỏ cảm xúc chung nhất của bạn.

      ii. nội dung bài đăng

      a. một số nét chính về cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu:

      – sinh năm 1822 và mất năm 1888.

      – quê quán: Gia Định (nay thuộc Hồ Chí Minh)

      – 1833, Nguyễn Đình Chiểu ra Huế học.

      – Năm 1849, mẹ ông mất và ông trở về Bình Dương để chịu tang mẹ. Trên đường đi, anh bị ốm nặng và vì quá đau buồn cho mẹ, anh đã bị mù cả hai mắt. sau đó, anh tiếp tục theo học ngành y.

      – Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu trở về Cần giốc.

      b. nguyen dinh chieu nghiệp:

      – Cuộc đời đã ảnh hưởng sâu sắc đến các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

      – quan niệm về thơ:

      + coi văn học là vũ khí chiến tranh.

      + vô cùng trân trọng và ca ngợi những người nông dân và những người nghĩa sĩ.

      + phê phán xã hội phong kiến.

      + thương tiếc và tự hào về sự hy sinh của anh hùng liệt sĩ.

      – tác phẩm chính: tản văn của nghia có thể giới thiệu, truyện ngắn của tác giả lục văn tiên…

      c. giá trị của thơ nguyễn đình chiểu đóng góp:

      – ông đã để lại một kho tàng văn học.

      – kim chỉ nam cho quan niệm: văn học là vũ khí để đánh giặc.

      – những sáng tác phong phú ca ngợi những người nông dân yêu nước và sự hy sinh của họ.

      – lòng tự hào và tình yêu đối với con người, quê hương, đất nước.

      iii. kết bài: nêu cảm nhận của em về cuộc đời và thơ văn của nguyễn đình chiểu.

      bài viết số 3 lớp 11 đề 4 – văn mẫu 1

      Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có nhà thơ nào tài năng và đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. ông là nhà thơ lớn của dân tộc ta với những tác phẩm văn học bất hủ thấm đẫm giá trị văn học Việt Nam.

      Nguyễn Đình Chiểu (còn gọi là già đô đốc) sinh năm 1822 trong một gia đình phong kiến ​​ở làng tân thời, tỉnh gia định và mất năm 1888. Tuy là một nhà thơ lớn của dân tộc nhưng cuộc đời của ông rất nhiều. khó khăn, thăng trầm. Là con trai đầu trong một gia đình đông anh em, lại là con của vợ lẽ nên từ nhỏ cuộc sống của anh rất vất vả. Năm 11 tuổi, khi nam kỳ bận rộn, cha anh đã gửi anh đến Huế để ở cùng một người bạn. sau 8 năm ăn học ở nơi này, anh trở vào nam chăm lo đèn sách chờ ngày thơ. năm 1843 ông đỗ tú tài chỉ có 21 năm. Năm 1846, ông về Huế học lễ. Ba năm sau, khi ngày thi đang đến gần, anh cũng nhận được tin mẹ anh đã qua đời. ông lập tức đi về phía nam để chịu tang mẹ, bỏ dở các kỳ thi. Trên đường về nhà, anh ta bị ốm. Do đường xa, trời nắng nóng, bệnh tình của anh ngày một nặng thêm, lại thêm nỗi đau mất mẹ, lại khóc quá nhiều nên anh bị mù cả hai mắt. nên ước mơ danh vọng đã không được thực hiện và cơ thể còn khiếm khuyết. nghĩ về tương lai, cuộc đời anh đến đây là kết thúc, cánh cửa cuộc đời coi như khép lại. tuy nhiên, anh quyết không đầu hàng số phận, bằng chính nghị lực và ý chí của mình, anh đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ, biến nỗi đau thành động lực để tiếp tục phấn đấu và làm chủ số phận của mình. sau đó trở về gia đình dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho mọi người.

      Cuộc đời của ông là một tấm gương sáng về lòng yêu nước, bất khuất trước kẻ thù. Dù không được nhìn thấy ánh sáng và không được trực tiếp tham gia kháng chiến chống giặc ngoài chiến trường, nhưng ông luôn bàn việc nước với tổng đốc và trao đổi thư từ với Trương Định. Khi tản cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn nói chuyện với các chí sĩ yêu nước và thường sáng tác thơ văn phục vụ kháng chiến, khích lệ tinh thần chiến đấu của các binh sĩ hải ngoại sau khi tan học. dù nhiều lần bị thực dân Pháp dụ dỗ, mua chuộc nhưng ông luôn từ chối và tiếp tục tham gia kháng chiến.

      trước khi ra đi, Người đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm tiêu biểu, thấm nhuần tư tưởng đạo đức và bản sắc văn hóa dân tộc. các tác phẩm tiêu biểu như: “Yết-ma-ni-ca”, “lu van tien”, “van te nghia can giuoc”,… đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày nay. đặc biệt nhất là tác phẩm “lục văn tiền truyện” là một kiệt tác đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời đầy sóng gió, sóng gió của Lục Vân Tiên cũng chính là cuộc đời của ông ở đời thực. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật chính, phụ, nhân vật phản diện hay nhân vật chính diện của truyện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, mang những màu sắc rất đa dạng và phong phú. Các tác phẩm của anh truyền tải đến người đọc những giá trị đạo đức và luân lý trong cuộc sống.

      nguyen dinh chieu mãi mãi là nhà thơ lớn của dân tộc ta và những vần thơ của ông sẽ luôn có ảnh hưởng nhất định đối với dân tộc Việt Nam. Ông và những kiệt tác của ông sẽ luôn sống mãi trong lòng mọi người dân Việt Nam.

      bài viết số 3 lớp 11 đề 4 – văn mẫu 2

      Có lẽ tất cả chúng ta đều đã nghe câu nói:

      <3

      vâng, đó là quan niệm thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học vĩ đại của ông đã để lại dấu ấn và những bài học sâu sắc cho mai sau.

      Nguyễn Đình Chiểu có tên là Mạnh Trạch và Trường cấp 3 (1882-1888). Ông sinh ra tại quê mẹ, làng Tân Thới, quận Tân Bình, quận Bình Dương, tỉnh Gia Định. Năm 1833, cha ông đã giới thiệu ông đến học để có thể tiếp thu kiến ​​thức một cách bài bản. Năm 1849, ông chuẩn bị thi tú tài thì nghe tin mẹ mất, trên đường về nhà thương tiếc người mẹ đã khuất và khóc dẫn đến mù lòa. Qua đây có thể thấy tấm lòng hiếu thảo bao la của cụ Nguyễn Đình Chiểu, dù mù lòa nhưng tấm lòng nhân đạo là đôi mắt sáng trong các sáng tác của cụ. rồi ông làm nghề dạy học và bán thuốc, đồng thời tham gia kháng chiến cùng nhân dân nên có tình cảm sâu nặng, gắn bó tha thiết với cuộc sống của những người dân yếu thế, những trang văn, trang thơ của ông đều thấm đẫm một tinh thần nhân đạo, nhân đạo cao cả qua việc ca ngợi, đánh giá cao sức mạnh của người nông dân, đồng thời ngợi ca sự hy sinh của họ. Ông mất năm 1888 vì khi giặc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây, ông tỏ thái độ bất hợp tác, buồn bệnh, qua đời.

      Thơ văn và văn chương của Nguyễn Đình Chiểu chứa đựng một tấm lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha gắn liền với sự căm phẫn trước chế độ cũ. ông là một nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. ông chủ trương sử dụng văn học để thể hiện đạo đức và đấu tranh cho chính nghĩa. hay nói cách khác, ông làm thơ để “mang đạo, sửa đời, dạy dân”. Vì lý do này, mỗi bài thơ của ông đều ngụ ý khen ngợi và phê bình công bằng, rõ ràng, đồng thời thể hiện từ trái tim tình yêu của ông đối với nhân dân và đất nước:

      <3

      những câu thơ chất chứa nỗi niềm xót xa, đau xót cho số phận những người da đen đáng thương. đồng thời bày tỏ sự căm phẫn trước những kẻ xâm lược đã giày xéo lãnh thổ quốc gia. nhưng cao hơn lòng người là một nỗi lo lắng không nguôi: “xin trang hãy chấm dứt tình trạng hỗn loạn này, nếu để dân đen phải gánh chịu chuyện này?”

      không chỉ vậy, qua sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu còn thể hiện quan điểm của mình về đạo lý tốt đẹp của dân tộc: tôn trọng tình bạn giữa con người với nhau: tình cha con, tình mẹ con, nghĩa tình. vợ chồng, bạn bè, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người khó khăn, hoạn nạn. Nêu lên tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu nguy, gian nguy (Vân Tiên đánh trộm, động viên Minh đánh gãy chân Đăng Sinh). thể hiện khát vọng của nhân dân đối với công lý và những điều tốt đẹp trong cuộc sống thông qua kết thúc có hậu của vở kịch, đó là cái thiện chiến thắng cái ác, công lý chiến thắng cái ác. Những quan điểm này đã được thể hiện rất rõ ràng trong truyện Lục Vân Tiên. Sự nghiệp sáng tạo của nguyen dinh chieu rất ấn tượng. Tuy nhiên, có thể thấy ở thơ Nguyễn Đình Chiểu những đặc điểm nổi bật sau: ông thường dùng từ ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, giàu sức gợi đã làm cho tác phẩm của ông trở nên hấp dẫn người đọc, nhất là đối với người miền Nam. . ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình tượng người nông dân trong văn học Việt Nam, vẽ nên tượng đài bất diệt về người anh hùng miền Nam đi tiên phong chống thực dân Pháp xâm lược. nó thúc đẩy tư tưởng Nho giáo có vẻ bảo thủ. nhưng điều đáng chú ý là những tư tưởng này đều mang nội dung đạo đức của nhân dân, gắn bó mật thiết với tinh thần trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước nên có ý nghĩa xã hội to lớn, mở đầu cho một thời đại mới, một nền văn học sử thi mới sau này.

      như vậy có thể thấy cụ Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho cần kiệm, sống theo đạo lý của nhân dân. Ông không chỉ là một người con hiếu thảo, một nhà giáo mẫu mực, một chiến sĩ yêu nước, mà còn là một nhà văn có công viết văn tuyên truyền cổ vũ chiến đấu.

      bài văn số 3 lớp 11 đề 4 – văn mẫu 3

      với tư cách là một nhà thơ, thâm trầm trong thơ văn, văn chương Nguyễn Đình Chiểu là nơi biểu dương, khen ngợi, phê bình rõ ràng, rõ ràng đúng sai, hợp lòng dân, hợp lòng dân, hợp với chuẩn mực văn hóa Việt Nam.

      là con người tiêu biểu cho nhân cách Việt Nam trong thời kỳ đất nước đầy thăng trầm nhưng vô cùng vĩ đại. đất nước bị giặc ngoại xâm, nhà gặp tai họa, bao đau thương, bao nhiêu cuộc đời đổ dồn lên vai chàng trai mù, sự nghiệp bỏ dở nửa chừng. thử thách nghiệt ngã đó đặt ra cho nguyen. của việc phải lựa chọn lối sống và cách sống sao cho đúng với vai trò của một người trí thức trong thời đại “quốc gia nguy nan”, và đã chọn lối sống, cách chiến đấu, bằng ngòi bút là “chính nghĩa”. với tâm niệm “vì lợi ích của đất nước, chúng ta phải đứng về phía nào”.

      Dưới góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là người Việt Nam trọng đạo lý, thương người, đậm đà bản sắc dân tộc, rõ ràng yêu ghét, kiên quyết biểu dương, phê bình. Vì nhân dân, ông sẵn sàng hy sinh bản thân, không màng danh lợi. Vì lẽ sống, ông chấp nhận mọi thử thách trước cái nghèo và cái khó, không ham danh lợi, không sợ cường quyền, không khuất phục trước cường quyền.

      với tất cả những vai trò xã hội và sứ mệnh con người mà cụ Nguyễn Đình Chiểu phải đảm nhận: nhà thơ, nhà giáo, bác sĩ, công dân, chiến sĩ yêu nước đến cuối đời vẫn kiên cường chiến thắng vận mệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, ra đi đằng sau một ví dụ về một lối sống trong sáng tuyệt vời:

      “Đời thà giấu trước mắt, tội nghiệp xin soi gương”

      Nhân cách của nguyễn đình chiểu là bằng chứng sống cho sự năng động của con người. Dù cuộc đời có nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của người đó không vì thế mà đầu hàng số phận. Vượt lên số phận để đứng vững trước những giông tố cuộc đời là một thái độ sống có văn hóa, một nhân cách lớn. Beautiful by nguyen dinh chieu.

      Với tư cách là một nhà thơ, chiều sâu và chiều sâu trong thơ văn, văn chương Nguyễn Đình Chiểu là nơi biểu dương, khen ngợi, chê bai rõ ràng, thiện ác minh bạch, hợp đạo lý, theo chuẩn mực văn hóa Việt Nam, nhà thơ mù là một trong những đầu tiên là gửi thông điệp tố cáo những hành động phản văn hóa và mất nhân tính của những kẻ xâm lược. về tội ác phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân, anh viết:

      <3

      với tội ác phản văn hóa trắng trợn cưỡng đoạt tài sản và tàn phá dã man di sản văn hóa của dân tộc ta:

      “Bến tiền tan nước đồng nai, ngói nhuộm mây”.

      Trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, một đám người mang danh nghĩa binh hèn nhát đầu hàng giặc, phản bội tổ quốc. Nguyễn Đình Chiêu là người đã sớm tỏ thái độ khinh miệt những kẻ đê hèn, phản văn hóa này:

      “Thà giữ đạo trong nhà dù mù. thà có mắt không thờ. thà có mắt không thờ. thà mù mà còn tự do. khỏi xấu hổ hơn là có đôi mắt bẩn. ”

      Với quan điểm cho rằng cây bút là vũ khí chiến đấu, “dùng bút đâm vào kẻ trộm, chứ không dùng bút ác”, Nguyễn Đình Chiêu đã thẳng tay đả kích những kẻ gian trá Việt Nam ăn mặc văn chương là loại thường mượn chữ màu mè để làm. . đảo ngược màu đen và trắng. công cụ viết:

      “Đây cũng là một nhóm văn học về da hổ không thể đoán trước.”

      Những tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm của mọi người. lí tưởng thẩm mĩ của các nhân vật anh hùng đã làm nổi bật lối sống có văn hoá, khí phách anh hùng tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam. đó là lối sống tôn trọng đạo đức và công bằng xã hội, tôn trọng con người và căm ghét áp bức bất công. “Tinh thần đồng nai” ấy được thể hiện qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ lục bát tiên sinh, các liệt sĩ thiếu thốn và các liệt sĩ sáu tỉnh trong thời kỳ kháng Pháp, cho đến ngày nay vẫn tiếp tục và phát triển trong đời sống văn hóa của chúng ta. người miền nam. Đã từ lâu, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, lịch sử thơ Lục Vân Tiên là nội dung của các trò diễn xướng dân gian với các hình thức như thơ, ca, hò, vè trong sinh hoạt văn nghệ quần chúng và là chủ đề chính. do luc van tien – kieu nguyet nga đã sớm xuất hiện trên sân khấu cải lương khi đề tài này vừa ra đời ở sân khấu kịch phía Nam. gần đây, chủ đề này đã trở thành một vở nhạc kịch hiện đại, một bộ phim truyện. Trong suốt một thế kỷ qua, hiếm có nhà văn nào mà tác phẩm lại có sức hút và sức sống lâu bền như vậy trong đời sống văn hóa nhân dân.

      Trong lĩnh vực giáo dục, với tư cách là một nhà giáo, thầy Đỗ Chiêu có trách nhiệm dạy dỗ học trò cả đời, truyền cho thế hệ mai sau những điều nền tảng của văn hóa Việt Nam về đạo đức truyền thống của dân tộc và nhân cách của người quân tử. . tinh thần đồng nai, một nét đẹp văn hóa của các dân tộc phương nam, được nuôi dưỡng và phát huy qua sự nghiệp giáo dục của nhiều thế hệ nhà giáo tâm huyết được truyền lại cho đến ngày nay, trong đó có nhà thơ – nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu. một trong những người có công lớn mà chúng ta đều biết là cụ Nguyễn Đình Chiêu là học trò đời thứ hai của võ sư tại gia đình, một vị võ sư nổi tiếng với những phương pháp dạy khôn, khí, nghĩa, một trong những trí thức nổi tiếng đầu tiên của Việt Nam. .Đất đồng nai – gia định, không màng danh lợi, cả đời trăn trở nuôi dạy những thế hệ học trò có ý chí, có tài, biết dùng “lẽ phải như đạo”.

      Từ lò đào tạo hoa khôi võ lâm, thế hệ nhà thơ, nhà văn lão thành cùng thời với Nguyễn Đình Chiêu, dù đất nước có thế nào cũng đều tràn đầy “khí phách hiên ngang”. Học giả dinh là sản phẩm của phong cách đào tạo của một giáo viên giỏi, giỏi đến mức dạy học trò nổi tiếng hơn mình.

      Nhiều thế hệ đệ tử của chưởng môn được sự truyền dạy của sư phụ, nuôi dưỡng ý chí, rèn luyện bản lĩnh để sẵn sàng trở thành “trang dẹp loạn” mà cuộc đời của chưởng môn hằng mong ước. Từ Đậu Đậu, biết bao tấm gương ở mỏ cày cuối thế kỷ 20, đến những trí thức nho học Lê Văn Đậu, Trần Văn Ơn, Huỳnh Khắc nửa đầu thế kỷ 20, đều là những thế hệ môn đệ nhiệt thành. . by master nguyen dinh chieu.

      Nhân cách của thạc sĩ nguyễn định chiểu có ảnh hưởng rất lớn ở miền đất bến tre và xa hơn nữa. Mảnh đất anh hùng đã sản sinh ra nhiều nhân vật anh hùng trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước. Ngày nay, nói đất bến tre là quê hương của người Việt là nói đến truyền thống văn hóa Việt Nam mà cụ Nguyễn Đình Chiểu là một người tiêu biểu, có công bảo vệ và truyền lại cho thế hệ mai sau những gì tốt đẹp nhất của truyền thống văn hóa đó. .

      nguyen dinh chieu còn là một bác sĩ giỏi, một bác sĩ am hiểu sâu rộng về y học phương đông và y học Việt Nam cả về y thuật và y đức. nhân dân cứu nước. tác phẩm vĩ đại cuối cùng của đời Nguyễn Đình Chiêu là cuốn “Chuyện người câu cá”, một cuốn sách dạy đạo làm người và đạo nghĩa cứu người. lòng yêu nước thương dân là ý tưởng chính của tác phẩm:

      “Trong quá khứ, dân tộc đã chứng minh lời khen ngợi sẽ giúp dân tộc chúng ta sống một cách trọn vẹn nhất”

      GS Lê Trí Viễn đã viết trong lời tựa cuốn sách “Câu cá và hỏi đáp” xuất bản năm 1982: “Nghệ thuật y học đó là sự kết tinh của nghề y trong hàng trăm cuốn sách từ hàng chục năm qua. Lòng yêu nước ấy có chiều sâu một đời người và một lịch sử dân tộc hàng nghìn năm, nhưng cả hai đều được đúc kết lại thành một liều thuốc phục hưng, một cách sống, một con đường thích hợp cho những người yêu nước bình thường trong hoàn cảnh quê hương bị rơi vào tay giặc: giữ vững tinh thần không phụ lòng dân. thù, làm việc nghĩa giúp dân, giúp nước… ”.

      đối với lương y nguyễn đình chiểu, lương y nghĩa thục, nhân đạo của ông là chủ nghĩa nhân đạo bình dân rất gần với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản:

      “Khi thấy những người khổ như mình, làm sao cứu được, chữa khỏi cho nhanh. Người ăn mày sinh ra ốm đau vẫn cứu được thuốc không ra gì”.

      Hình tượng nhân sư, hình tượng lý tưởng trong vở kịch “Chuyện người đánh cá” của Nguyễn Đình Chiểu, đã làm sáng tỏ con người của mình để trở thành người có đạo đức và nhân đạo để không phải làm nghề chữa bệnh cho kẻ thù của đất nước và nhân dân. nhân cách cao đẹp ấy của cụ Trạng nguyên còn để lại dấu ấn sâu đậm cho các thế hệ bác sĩ sau này. người thầy thuốc chân chính trong nhân dân làm thuốc cũng vì mục đích từ thiện chứ không chỉ buôn bán nỗi đau khổ của đồng bào mình.

      Nguyễn Đình Chiêu làm thơ bày tỏ lòng yêu nước, thương dân, dùng làm vũ khí chống giặc; làm cho mr. dạy học không mệt mỏi vì sự nghiệp nuôi dưỡng “tinh thần đồng nai” giữ gìn bản sắc Việt trong đời sống văn hóa nhân dân giữa thời buổi loạn lạc; trở thành bác sĩ vì cứu người chứ không chỉ vì nghề. đó là lối sống có văn hóa, lòng tự hào dân tộc, lòng tự tôn của một trí thức chân chính, tôn trọng nhân phẩm và kỷ luật đúng mực của một học giả.

      Với cuộc đời và sự nghiệp của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã có những đóng góp quý báu cho đời sống văn hóa dân tộc qua bao thử thách cam go để được bảo tồn và phát triển. sống trong tình yêu thương, kính trọng của nhân dân, những con người làm nên lịch sử và sáng tạo ra văn hóa, cụ Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là một nhân cách lớn, một văn hóa chân chính của nhân dân.

      xem thêm: những cảm nhận sâu sắc qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn nguyễn đình chiểu

      ……………..

      tải xuống tệp tài liệu để xem thêm chi tiết

      XEM THÊM:  35 bài thơ về áo dài cực hay và ý nghĩa

      Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Viết bài Tập làm văn số 3 Lớp 11: Đề 1 → Đề 4 (35 mẫu). Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

      Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

      Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

      Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *