Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
559 lượt xem

Top 8 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay – HoaTieu.vn

Bạn đang quan tâm đến Top 8 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay – HoaTieu.vn phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Top 8 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay – HoaTieu.vn

Thảo luận về đoạn trích chị em Thủy kiều trong tác phẩm Sử ký của đại thi hào nguyễn du trong bài văn mẫu dưới đây gồm tổng hợp bài văn tả chị em Thủy kiều và các bài văn mẫu phân tích bài văn. thuy kieu hay chị em chọn lọc sẽ là tài liệu tham khảo hữu hiệu dành cho các em học sinh.

  • top 5 bài văn mẫu miêu tả vẻ đẹp của nàng thủy chung

chị em nhà thủy chung là đoạn trích để người đọc cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp và sự chính trực của thủy chung và thủy chung. Sau đây là nội dung chi tiết của bài phân tích bài thơ chọn lọc của chị em Thúy Kiều, mời các bạn cùng tham khảo.

1. Sơ lược phân tích đoạn trích chị em thuy kiều

tôi. mở bài đăng

giới thiệu tác giả nguyễn du (đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới).

Truyện Kiều là một tác phẩm gây được tiếng vang, trở thành kiệt tác của nền văn học Việt Nam.

Đoạn trích chị em thủy chung không chỉ thể hiện vẻ đẹp của những trang xinh đẹp tuyệt trần mà còn thể hiện tài năng nhập vai nhân vật chủ tử của Nguyễn Du.

ii. nội dung bài đăng

1. tổng quan về vấn đề

miêu tả nhân vật, khắc họa tính cách và số phận con người là tài năng của nguyễn du, đây là thành công lớn của ông.

miêu tả nhân vật chính: dùng bút pháp lí tưởng hoá nhân vật. đại diện cho nhân vật phản diện: ngòi bút hiện thực. trích đoạn chị em thủy kiều thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo theo tiêu chuẩn của người châu Á là hai chị em phụ nữ văn và kiều.

2. phân tích vẻ đẹp của thùy văn (4 câu)

– thoạt đầu, nguyễn du gợi vẻ đẹp của chị em thủy chung từ những hình ảnh thiên nhiên: mai, tuyết. lối viết thông thường gợi lên ấn tượng về vẻ đẹp với tính cách hoa mai, thanh tao và thuần khiết như tuyết

– bốn câu thơ gợi tả vẻ đẹp của thùy văn: thanh cao, tao nhã, trong sáng.

<3

vẻ đẹp của tĩnh mạch được so sánh với những gì đẹp nhất trong tự nhiên như hoa, mây trắng, tuyết, ngọc.

chân dung thủy văn đẹp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, phong thái điềm đạm (những chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ).

→ vẻ đẹp của bạn vượt qua mọi tiêu chuẩn của tạo hóa, khiến thiên nhiên phải cúi đầu ‘chịu thua’, ‘chịu thua’ thì cuộc đời bạn chắc chắn sẽ bình yên, không sóng gió.

3. phân tích vẻ đẹp của thủy chung (12 câu tiếp theo)

– tác giả miêu tả vẻ đẹp mê hồn trước để làm nổi bật vẻ đẹp mê hồn:

nhan sắc mặn mà hơn: vẻ đẹp mặn mà ở tâm hồn, sắc sảo ở trí tuệ.

Tác giả sử dụng những ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sắc nhằm miêu tả cụ thể đôi mắt long lanh, lấp lánh của Kiều.

Thủy kiều gợi lên một trang tuyệt sắc với vẻ đẹp khiến thiên nhiên phải ghen tị, ghen tị: hoa ghen, liễu rủ.

Tài năng của thủy chung đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm mỹ học thời phong kiến: cầm, tra, khảo, sơn.

Tài năng của anh ấy nổi bật, đặc biệt là cây đàn hạc bạc của anh ấy (một loại đàn hạc buồn và thậm chí còn giống con người hơn) là tiếng nói của một trái tim buồn và đa cảm.

– nguyễn du trước tiên miêu tả thủy văn, sau đó miêu tả thủy kiều, kỹ thuật đòn bẩy này làm nổi bật vẻ đẹp của thủy kiều.

– Sử dụng nhuần nhuyễn các tính từ gợi tả vẻ đẹp của van, kiều (vẻ đẹp có số phận): mặn mà, trang trọng, sắc sảo …

– Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, điển cố … được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.

→ ước lệ tượng trưng là một cách diễn đạt quen thuộc trong thơ ca trung đại (được miêu tả thông qua các công thức và tiêu chuẩn có sẵn được quy ước trong nghệ thuật)

iii. kết thúc

Đoạn trích thể hiện rõ nét chân dung chị em Thuý Kiều nhờ những ước lệ, ảnh hưởng và biện pháp tu từ mang tính biểu tượng.

nguyen du thể hiện nguồn cảm hứng của con người bằng cách đề cao con người, ca ngợi vẻ đẹp và tài năng của con người cũng như tiên đoán về một con người tài năng và số phận.

2. phân tích chi tiết về chị em thủy kiều

Nguyễn Du (1765 – 1820) sinh tại Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. ông là nhà thơ lớn của dân tộc, danh nhân của văn hóa thế giới. một trong những tác phẩm thành công của ông ở mảng du mục là “Đoạn trường tân thanh” hay còn được gọi là “Truyện kiều”. truyền kỳ không chỉ có nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về mặt nghệ thuật. tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nhân vật là đoạn trích “chị thủy chung”. Đoạn trích đề cao vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ qua việc miêu tả tài năng và sắc đẹp của chị em Thúy Kiều. Đây là đoạn trích thể hiện sâu sắc cảm hứng sáng tác của Nguyễn Du.

Bốn dòng thơ đầu của tác giả trình bày chung về hương vị và vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:

“hai vị tiên nữ, thủy kiều là chị, em là thủy văn. mai là phong cốt, phong tuyết, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

giới thiệu hai ‘con ma’ ngắn gọn và đơn giản, đầy ấn tượng. trong gia đình vường có hai cô con gái đầu lòng xinh đẹp như “hung”. và câu thơ “‘bộ xương vạm vỡ, tuyết linh’ ‘bằng cách sử dụng ước lệ tượng trưng qua hai hình ảnh” mai “,” tuyết “, tác giả đã gợi lên trước mắt chúng ta vẻ đẹp của hai cô gái với dáng người mảnh mai, thướt tha như một cây mai kiêu sa. và loài hoa cao quý, tâm hồn trong sáng như tuyết, cả hai đều hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, “mỗi người một vẻ”, đó là cái nhìn trân trọng và đánh giá cao của tác giả. .

chuyển sang bốn câu thơ tiếp theo, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của thùy văn.

“xe van ánh lên vẻ trang nghiêm khác, trăng rằm, nụ cười nở, ngọc xứng, mây rụng tóc, tuyết nhường màu da”

Dòng đầu tiên “bất kể trang trọng” tóm tắt các đặc điểm của nhân vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ đẹp thanh cao, quý phái của Thúy Vân, có thể nói biết bao nhiêu vẻ đẹp của tạo hóa, thiên nhiên Nguyễn Du đã mượn để tạo nên bức chân dung Thúy Vân. Đó là “trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây” – trong thư pháp thông thường, thư pháp liệt kê, vẻ đẹp của đường vân được cụ thể hóa ở khuôn mặt, lông mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói của tác giả. cụ thể trong việc sử dụng các từ làm nổi bật vẻ đẹp của đối tượng được miêu tả: “đầy đủ”, “hoa” và “tươm tất”. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân cách hoá nhằm thể hiện vẻ đẹp quý phái, thanh lịch của người thiếu nữ. Một nàng thủy chung với khuôn mặt đầy đặn, dịu dàng như trăng rằm, lông mày sắc như bướm đêm, nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc, tóc mềm hơn mây, da trắng hơn tuyết. vẻ đẹp ấy khiến người ta phải trầm trồ trước thiên nhiên “mây mất”, “tuyết rơi”. hai chữ “thua” và “từ bỏ” thể hiện sự hài lòng mà không ghen tị, điều này dự báo rằng bạn sẽ có một cuộc sống bình lặng, êm đềm, không có sóng gió.

nếu bạn miêu tả thủy văn có bốn câu, thì thủy kiều nguyên du sẽ cho bạn mười hai câu. Nếu như van được miêu tả là vẻ đẹp hoàn mỹ thì thùy kiều còn hơn cả sự hoàn mỹ đó, nếu van nguyễn du chỉ dùng để chỉ nhan sắc thì kiều vừa đẹp vừa tài, đó là vẻ đẹp dung dị, sắc sảo và mặn mà.

“Kiêu thì mặn, so với tài thì hơn”

ở đây, nguyen du rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. tả vân trước để làm nền cho vẻ đẹp của kiều. Chỉ bằng một câu thơ với các điệp từ “càng”, “càng”, tác giả đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp khác thường của cây kiều. Cô không chỉ xuất sắc về nhan sắc mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà trong tâm hồn.

“nước thu, xuân sơn, hoa ghen thua thắm liễu xanh”

Khi miêu tả phong thủy, tác giả vẫn sử dụng lối thư pháp thông thường qua các hình tượng thiên nhiên “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen”, “liêu trai”. chỉ có điều là nguyễn du không liệt kê nhiều chi tiết như vậy, chỉ tập trung vào đôi mắt. hình ảnh ước lệ “mùa thu” gợi lên đôi mắt đẹp của người việt kiều trong veo như làn nước thu, “núi xuân” gợi lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt kiều ấy là cửa sổ tâm hồn, thể xác và tâm hồn. của tâm hồn, mặn mà của tâm hồn. màu của kiều khiến người ta ngưỡng mộ say đắm đến nỗi lầm lỗi có thể “mất nước, mất thành”, thiên hạ sinh lòng ghen ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”.

xinh đẹp là vậy, còn tài năng và yêu kiều thì sao? Trong cách miêu tả phong cách của tác giả, tác giả dành một phần nói về vẻ đẹp và hai phần nói về tài năng. đây là dụng ý nghệ thuật của nguyễn du. Tôi muốn nhấn mạnh vẻ đẹp của kiều, không có cách nào diễn tả được. về nhan sắc thì kiều diễm số một, còn về tài năng thì có thể có người đứng thứ hai trên thế giới:

“Kỹ năng cần một, tài năng có thể vẽ hai”

Kiều nữ sinh ra đã có trí tuệ bẩm sinh, tài năng thiên bẩm. tài năng của anh ấy đạt đến sự hoàn hảo theo quan niệm thẩm mỹ bao gồm “giao, thi, thi. họa”

“bản chất thông minh vốn có, dung hòa thơ văn, tiếng hát xướng họa. Cung thương ngang tàng ngũ âm, nghề riêng ăn nên làm ra”

Đặc biệt, tài năng của anh ấy là nổi bật nhất: khỏe, giọng hát hay đến mức có thể nuốt chửng bất kỳ nghệ sĩ tài năng nào trên thế giới. Kiều không chỉ giỏi chơi đàn mà còn giỏi sáng tác nhạc, đến mức có thể sáng tác một bài hát “bạc mệnh”. mỗi lần cô ấy chơi đàn hạc ấy đều khiến lòng người bùi ngùi, người nghe nhíu mày khóc. cung đàn “bạc mệnh” là bản ghi lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.

vẻ đẹp của kiều nữ là sự tổng hòa của sắc đẹp, tài năng và tình yêu, một vẻ đẹp vượt ra ngoài khuôn khổ khiến tạo hóa phải ghen tị.

“Hoa ghen thua liễu, kém xanh”

Từ việc thể hiện một bức chân dung duyên dáng, tác giả dự đoán một số phận đầy sóng gió và đau thương, một tương lai sẽ nhấn chìm nàng. Tuy tài năng của thủy kiều và thủy văn khác nhau, tiên đoán tương lai cuộc đời khác nhau nhưng đức độ của cả hai đều đáng trân trọng, được thể hiện qua bốn câu thơ cuối:

“phong rất ấm, xuân rất xanh, xuân cận tuần sau. lặng im, rèm che, tường nhiều ong bướm”

Dù đã đến tuổi lập gia đình nhưng “bà mẹ hai con” vẫn sống nề nếp và có học thức, đời con gái đánh nhau chưa bao giờ có những mối tình ngang trái.

như vậy với hai mươi bốn dòng trong đoạn trích “Chị em thủy chung” là một trong những đoạn thơ mẫu mực về nghệ thuật tả người. sử dụng các ước lệ tượng trưng, ​​đòn bẩy, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá, ẩn dụ. tác giả đã khắc họa hai thiếu nữ với tất cả sắc đẹp, tài năng, tình yêu và số phận. ẩn sau bức chân dung của các chị em Thủy kiều là sự ngợi ca trân trọng của tác giả: đó là biểu hiện của tinh thần nhân văn trong lịch sử của kiều, qua đó ta hiểu và trân trọng hơn vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ.

3. phân tích đoạn trích Chị em thủy chung – mẫu 1

nguyễn du là một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà nhân đạo lớn luôn nhìn đời bằng con mắt “thấu suốt lục đạo, lòng nghĩ ngàn đời”. nhắc đến ông, ta không thể bỏ qua kiệt tác “truyện kiều”, trong đó đoạn văn “chị em thủy chung” miêu tả vẻ đẹp của hai chị em thủy chung và thủy chung đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Trong bốn dòng đầu, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em:

<3

Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với những từ láy mang ý nghĩa tượng trưng, ​​nhà thơ đã giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp của hai chị em với “a sang nga”, “mình hạc xương mai”, tinh thần tuyết đối, “mười phân vẹn có”. Nguyên du gọi là thùy kiều và thủy vân là “a to nga”, có nghĩa là người con gái xinh đẹp. đặc biệt là mượn hình ảnh cây mai và thiên nhiên tuyết rơi cũng cho thấy hai chị em có tính cách ngay thẳng, cao quý, lại vô cùng dịu dàng và mỗi người có một vẻ đẹp khác biệt không thua kém gì các chị em.

Tác giả dùng bốn câu thơ sau để miêu tả vẻ đẹp của thủy vân:

van trông khác và trang trọng, trăng rằm mang nét ngài. hoa cười và ngọc trai trang nghiêm, mây trôi trong nước, tóc tuyết nhường màu da.

thuy van tỏ ra là một cô gái vô cùng quyến rũ với khuôn mặt “đầy đặn” và “đầy đặn”. mỗi khi nở nụ cười, anh đều toát lên vẻ uy nghiêm, phong nhã khiến “mây mất nước, tóc tuyết nhường màu da”. thiên nhiên cũng phải ghen tị với mái tóc và làn da, không thể khuất phục trước vẻ đẹp của cô gái này. Như vậy, trong việc miêu tả vẻ đẹp của nàng thùy văn, nguyễn du đã phần nào gợi ý về số phận hiền lành, thùy mị của người con gái này, luôn bao dung với vạn vật.

Nếu để miêu tả về nàng thú, tác giả chỉ sử dụng bốn dòng thì khi nói về vẻ đẹp của nàng thơ, nhà thơ phải dùng đến mười sáu dòng.

kiều diễm càng thêm sắc sảo mặn mà, so với nàng tài hoa lại có phần hơn: xuân sắc đẹp thu, hoa ghen, liễu kém xanh. nghiêng nước nghiêng thành một hai, sắc vóc cần có tài vẽ hai. .

Tác giả dùng bốn câu thơ để nói về vẻ đẹp của người phụ nữ ở nước ngoài. nếu như thùy văn toát lên vẻ đẹp nhân hậu thì kiều diễm lại “tinh ranh, mặn mà” hơn rất nhiều. nàng có đôi mắt đẹp, trong veo như làn nước mùa thu với đôi lông mày đẹp và duyên dáng như núi mùa xuân. hai mỹ nhân này kết hợp với nhau tạo nên một vẻ đẹp độc đáo, khiến cho thiên nhiên cũng phải ghen tị và ghen tị trước vẻ đẹp của nàng. Điều này báo trước một tương lai đầy thăng trầm ở nước ngoài. Kiều nữ không chỉ có nhan sắc mà còn có biệt tài chơi piano:

bản tính thông minh bẩm sinh, hòa cùng thơ văn, sơn ca mùi mẫn. cung thương là mức độ gồm năm âm tiết. nghề nghiệp của anh ta ăn nên làm ra một chương. một khúc nhà là do chính tay anh lựa chọn, một mảnh trời định mệnh lại càng là con người. .mà phong cách rất hồng, cuối tuần xuân về rất nhiều. những tấm rèm buông rủ mềm mại, bức tường đầy ong bướm.

nhà thơ đã xuất ngoại để trở thành một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, có nhiều tài năng đi thi. đặc biệt, cách chơi guitar của anh độc đáo đến mức “ăn cả chương”. tuy giọng hát hay nhưng cũng có gì đó buồn và bi thương như chính cuộc đời của cô ấy vậy.

vì vậy, bằng tài năng nghệ thuật của mình, tác giả nguyễn du đã giúp em hình dung ra vẻ đẹp của hai chị em thuỷ chung, mỗi người một vẻ đẹp khác nhau. thuy van toát lên vẻ trang nghiêm, lịch lãm, còn thuy kiều thì đầy tài năng. Đồng thời, qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em nhà thơ cũng báo trước số phận mà hai người con gái sắp phải trải qua, đặc biệt là số phận bấp bênh mà người Việt kiều sắp trải qua.

4. phân tích đoạn trích Chị em thủy chung – mẫu 2

Trong thơ cổ viết về mỹ nữ, bài thơ “chị em gái” trích trong “đoạn trường tân thanh”, tức là truyện kiều của đại thi hào Nguyễn Du, là một trong những bài thơ hay nhất. Câu thơ hai mươi bốn sáu tám đã khắc họa được vẻ đẹp, tài năng và đức độ của hai chị em Thuý kiều, thuỷ chung.

Với ngòi bút tài hoa tuyệt diệu, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung của hai đại mỹ nhân:

“Nhị tiên sinh, thủy kiều là chị em, thủy chung là thủy văn”

van là em, kieu là em. van va kieu (con gai dau tien) la nhung nguoi phu nu xinh dep, xinh dep. Vẻ đẹp của hai cô gái là vẻ đẹp thanh tao của hoa mai, trong trắng của tuyết:

“xương tuyết cùng tinh thần chia lìa, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Thư pháp thông thường và ẩn dụ đã gợi lên một vẻ đẹp hài hòa, hoàn hảo cả về hình thức và tâm hồn. Vẻ đẹp của hai cô gái đều hoàn hảo, nhưng mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng. Nguyễn du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả về hai chị em. thuy kieu và thuy van có vẻ đẹp lý tưởng, theo khuôn mẫu và vượt ra ngoài khuôn mẫu.

XEM THÊM:  Bai van thuyet minh ve ngoi truong em dang hoc

sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút của nguyễn du chuyển sang hướng cụ thể hơn trong bức chân dung cao quý của thủy chung:

“vâng, nó trông rất trang trọng,”

hai từ trang trọng trong đoạn thơ đã thể hiện được vẻ đẹp thanh cao, cao quý của văn. vẻ đẹp của một thiếu nữ được so sánh với những điều đẹp đẽ trên thế giới:

“trăng tròn vành vạnh. Hoa cười trang nghiêm, mây mất nước, tóc tuyết nhường màu da”

chân dung của van được lột tả trọn vẹn từ khuôn mặt, lông mày, làn da, mái tóc cho đến nụ cười, giọng nói. Van có khuôn mặt đầy đặn, nhân hậu như mặt trăng, lông mày sắc như con trai, nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo phát ra từ hàm răng ngà, tóc bạc phơ, nước da trắng hơn tuyết. . , vẻ đẹp của mây được so sánh với vẻ duyên dáng, trong sáng của những thứ tinh khôi của trời đất. ai cũng toát lên vẻ đẹp dịu dàng, thùy mị, trang nghiêm và cao quý. Vân đẹp hơn vẻ đẹp của thiên nhiên mà tạo nên sự hài hoà, mềm mại: mây mất, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như vậy, bạn sẽ có một cuộc sống bình lặng, êm đềm và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi gắm những thông điệp về tương lai và cuộc đời, vì vậy bức chân dung chính là bức chân dung của số phận.

mô tả cẩn thận và cụ thể, nhưng nguyen du chỉ vẽ kiêu bằng những nét phác thảo rõ ràng vì không muốn trở thành một họa sĩ vụng về:

“Kiêu thì mặn, so với tài thì hơn”

Vẻ đẹp của kiều được so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của van để thấy được sự vượt trội về sắc vóc của tài năng trí tuệ, về sự ngọt ngào của vẻ đẹp. Không thể tả được khuôn mặt, giọng nói, điệu cười, làn da, mái tóc như thủy văn, nhưng Nguyễn Du đã rất khéo chọn đôi mắt nước ngoài để miêu tả vì đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh hoa của tâm hồn và trí tuệ. :

“làn thu với bức tranh mùa xuân”,

Câu thơ tả đôi mắt gợi lên một cảnh sơn thủy hữu tình. hình ảnh đó có nước mùa thu, nước mùa thu, bức tranh mùa xuân, hình núi mùa xuân. cũng như khuôn mặt xinh đẹp với đôi mắt trong veo, long lanh và đôi lông mày thanh tú tạo nên:

“những bông hoa ghen tị chạy trên hàng liễu xanh”

Vẻ đẹp của kiều diễm không chỉ giống thiên nhiên, mà còn vượt lên trên thiên nhiên, khiến hoa ghen, cây liễu cũng phải ghen tị. tự nhiên không còn thua nữa mà cau mày, mím môi tức tối mà ghen tị. nếu vẻ đẹp của van là vẻ đẹp thuần khiết nhất của đất trời thì kiều mang vẻ đẹp của nước non, không gian bao la và thời gian vô tận. vẻ đẹp đó uốn cong mặt nước, biến nó thành:

“một hoặc hai ngả nghiêng nước”,

nguyễn du đã dùng những tấm gương tích cực để lại cho đất nước vẻ đẹp tuyệt trần của trang mỹ nhân. và cũng chính vẻ đẹp có một không hai mà phẩm chất cao quý tiềm ẩn bên trong là tài năng và tình yêu thương rất đặc biệt:

“nghề sơn môn tiếng thơm tiếng hát xướng. cung thương là bậc ngũ âm, nghề riêng ăn nên làm ra”

kiều có cả tài chạm-chạm-thi-sơn của các bậc sĩ phu, tài hoa đều đến mức điêu luyện. cô ấy giỏi luật âm thanh đến nỗi cô ấy gắt gỏng. cây đàn mà anh ấy chơi là đàn hạc, âm thanh của nó có thể giết chết bất kỳ nghệ sĩ nào và nó đã trở thành nghề của anh ấy. Để miêu tả tài năng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng một số từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: “dung hợp, hòa quyện, tự mình làm nên hương sắc”. Cô không chỉ hát hay, chơi piano mà còn sáng tác nhạc. cung đình do ông sáng tác là một “bạc mệnh”. bản nhạc ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu, đa cảm. nguyễn du cực tả tài năng ca ngợi cái tâm đặc biệt của ông. Tài năng của kiều là trên hết, là biểu hiện của những phẩm chất cao quý, tấm lòng trung hậu, nồng hậu, nhân ái, vị tha. vẻ đẹp của kiều là sự kết hợp của sắc – tài – tình và đạt đến độ cao siêu, lý tưởng. nhưng sắc đẹp của nàng thật đáng ghen tị, liễu khiến tạo hóa phải ghen ghét ghen tị, còn tài năng và trí thông minh thiên phú của nàng đủ để ngửi thấy sự đau khổ và tâm hồn đa cảm của nàng khó tránh khỏi sự sa ngã của số phận. Chính vì Kiều quá hoàn mỹ, hoàn mỹ nên nàng khó lòng tìm được chỗ đứng trong xã hội phong kiến ​​ấy. và vòng cung “bạc mệnh” do chính cô sáng tác như một điềm báo về cuộc sống tất yếu của người Việt Nam ở nước ngoài. cuộc đời bạn sẽ có nhiều sóng gió, thăng trầm, sóng gió. như chân dung thủy vân, chân dung kiều là bức chân dung định mệnh.

nguyễn du khen văn và kiều mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười, nhưng ngòi bút của tác giả mỗi người một khác. van chủ yếu là đẹp về ngoại hình và kiều đẹp về cả tài năng lẫn sắc đẹp tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai thiếu nữ và bộc lộ hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang chờ đợi hai người phụ nữ. hai bức chân dung của hai chị em Thủy văn và Thủy kiều đã thể hiện sự tài tình của ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.

cuối đoạn văn của người lao động là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống đàng hoàng, mẫu mực của hai chị em ở nước ngoài:

“rất phong cách, quần màu hồng, màu xanh lá cây của mùa xuân, gần với tuần trước”

hai cô con gái của vương gia không chỉ có nhan sắc – tài năng – tình yêu mà còn cả đức hạnh. sống có phong cách đến mức là một chiếc quần hồng. cả hai đều đã đến lục tuần: thời đại của cung, trâm anh thế phiệt nhưng họ vẫn sống trong cảnh:

“nhẹ nhàng, rèm che, tường nhiều ong bướm”

hai câu thơ như che chở, bao bọc hai chị em, hai bông hoa còn đang nhụy trong cảnh thanh bình, hương thơm chưa từng ai tỏa ra. Nguyễn du đã hạ màn, rũ bỏ mọi ô uế cho cuộc đời khỏi cuộc sống giàu sang của hai chị em để nâng cao thêm phẩm hạnh.

Với cảm hứng nhân đạo và tài năng thơ ca, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân, Thuý Kiều với những gì cao đẹp nhất. hai bức tranh thơ mỹ nhân đã thể hiện ước lệ tượng trưng và tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

5. phân tích đoạn trích Chị em thủy chung – mẫu 3

có ý kiến ​​cho rằng: “sử kiều là kiệt tác hàng trăm năm, có lượng phát hành lớn và có sức chinh phục người đọc”. Quả thực, bằng tài năng và cái tâm của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác để đời. trong đó có đoạn trích “chị thủy kiều” thể hiện tài năng miêu tả và miêu tả nhân vật.

là đoạn trích thể hiện rõ nét nhất hai chị em thủy chung, không những thế, qua những đoạn trích đó còn thể hiện được tính cách, số phận của hai chị em. đoạn trích mở đầu bằng bốn câu giới thiệu hai chị em Thủy kiều và Thủy văn:

“Hai nữ đầu là chị em, ta là thuy vanmai, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Hai chị em xuất hiện, được tác giả đặt tên là “tô nga”, có nghĩa là người con gái xinh đẹp ngày xưa. thuy kiều và thủy vân, hai cô gái có thân hình mảnh mai như cây mai, da trắng nõn nà như tuyết đầu mùa. hai cô gái với vẻ đẹp khác nhau nhưng đồng thời cũng hoàn hảo và trọn vẹn. Có vẻ như hai chị em được coi là chuẩn mực của vẻ đẹp đương đại.

Sau khi tác giả giới thiệu hai cô gái xinh đẹp, đại thi hào tiếp tục khắc họa tính cách của từng nhân vật. trong đoạn trích, thủy vân tuyệt mỹ:

“bạn sẽ thấy trang nghiêm khác hẳn, khuôn trăng tròn vành vạnh, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc nhã, mây rụng tóc, tuyết nhường màu da”

Họ đi cùng vẻ đẹp xứng tầm thiếu nữ năm xưa. khuôn mặt tròn đầy như trăng rằm, lông mày sắc như bướm, nụ cười tươi như hoa, da trắng như tuyết, tóc mềm như mây. bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp với so sánh, sử dụng những hình ảnh thiên nhiên như: “trăng, nguyệt, hoa, mây, tuyết” làm cho vẻ đẹp của đường vân như thật sống động với tất cả vẻ đẹp thiên nhiên. chúng ta có thể cảm nhận được qua cách thể hiện của tác giả rằng cô ấy là một cô gái đàng hoàng, tốt bụng, nhu mì và khiêm tốn. đặc biệt vẻ đẹp ấy tạo nên sự giao hòa với thiên nhiên đất trời: “mây mất”, “tuyết nhường” biểu thị thái độ chấp nhận của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nó. nhìn vẻ đẹp của thuy van mang đến cho tôi một điềm báo về một tương lai bình yên và hạnh phúc sẽ đến với cô ấy.

nếu như thủy chung mang vẻ đẹp thanh cao, quý phái thì vẻ đẹp của thủy chung lại càng nổi bật hơn cả về nhan sắc và tài năng qua mười hai câu tả kiều với bốn câu chân dung:

“Kiều sắc càng ngọt, so tài thì hơn xuân, xuân sắc, hoa ghen, liễu hờn kém xanh”

Trong xã hội cổ đại, con người luôn cho rằng thiên nhiên là tiêu chuẩn của cái đẹp, con người thường được so sánh với thiên nhiên hoặc hiện lên qua những hình ảnh tượng trưng. tác giả dụng ý miêu tả tĩnh mạch phía trước, khéo léo sử dụng đòn bẩy làm nổi lên vẻ đẹp của kiều diễm. Nếu như thùy văn mang vẻ đẹp đoan trang, nhân hậu thì thùy kiều lại sắc sảo, mặn mà, tài sắc vẹn toàn. vẻ đẹp của kiều được miêu tả một cách xuyên suốt chứ không miêu tả một cách phiến diện là cách tạo điểm nhấn rõ nét. qua đôi mắt trong veo và ngọt ngào như mặt hồ mùa thu, đôi lông mày sắc nét và tươi tắn như núi mùa xuân. hình ảnh ước lệ quen thuộc kết hợp với phép so sánh ẩn dụ đã khắc họa nên bức chân dung thủy chung đẹp đẽ một cách hoàn hảo. vẻ đẹp khiến “hoa cuồng nhiệt mất đi, liễu kém xanh tươi”. “ghen”, “ghét” là những động từ chỉ sự ghen ghét, đố kỵ, nó mang sắc thái mạnh biểu thị thái độ ghen tị của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng thùy kiều, vẻ đẹp khiến đất nước phải cúi đầu, là một tai họa tiềm tàng. và đằng sau cơn thịnh nộ của tạo hóa ấy sẽ có một cuộc trả thù theo quy luật của tự nhiên: “trời xanh, má hồng thường ghen”.

nếu như ở thuy văn tác giả chỉ dừng lại ở việc miêu tả cái đẹp thì ở cái đẹp và cái tài đi kèm với nhau:

“Kỹ năng cần một, tài năng có thể vẽ hai”

tác giả ca ngợi thủy kiều là một thiếu nữ xinh đẹp, không chỉ vậy, tài sắc vẹn toàn, trên đời này không có người thứ hai bằng nàng:

“bản chất bẩm sinh thông minh, thơ phú, đầy hương sắc hát ngâm, ngâm thơ, múa hát lầu ngũ âm, nghề riêng mộ thiên hồ, cầm ca nhà, chọn tấu chương”

tiêu chuẩn về hiền tài ngày xưa hội tụ: “cầm, tra, khảo, sơn”, thủy chung có đủ, không chỉ biết mà còn đạt đến trình độ khiến người khác phải nể phục. trong đó, anh đặc biệt vượt trội về khả năng “cầm trịch”. Cung đàn được thể hiện bởi một thiếu nữ đa cảm và đa sầu đa cảm, có lẽ bài hát mà cô sáng tác thời trẻ là sự sắp đặt của số phận, báo trước một tương lai không mấy suôn sẻ:

“xui xẻo còn kém óc hơn”

với tất cả những tài năng và phẩm chất mà bạn có, sự thật là cuộc sống hiện tại yên ả, bình lặng dưới lòng đất đang chuẩn bị cho một trận cuồng phong. trong dân gian xưa cũng có câu: “tài bao nhiêu thì trời đất ghen” hay “chữ tài đi liền với chữ tai, một vần”.

khép lại đoạn trích, nguyễn du một lần nữa tái hiện cuộc sống bình yên thường ngày của hai chị em thủy văn và thủy kiều:

“phong cách rất thời thượng, xuân rất xanh, xuân gần cuối tuần, bình yên vô sự, rèm cửa ong bướm, về nhà dùng đi”

sống có kỷ cương, trong cảnh “treo khăn che mặt”, hai chị em đang đến tuổi tìm chồng, nhưng có lẽ từ “bế” trong câu thơ cuối đã thể hiện thái độ thùy mị, nết na. , đừng nghĩ về những người ngoài kia.

Bằng cả tài năng và tấm lòng của mình, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa hai nhân vật một cách sinh động và sắc nét. với thể thơ lục bát truyền thống mượt mà, tinh tế thể hiện cấu trúc và trình tự ý nghĩa. song song đó là biện pháp tượng trưng thông thường nổi tiếng (thế và nước, nét xuân sơn, nhân mai, tuyết linh …), sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ như so sánh các nhân vật độc đáo … không chỉ khắc họa được mà cũng để qua đó linh cảm về số phận của hai chị em. đặc biệt là chân dung thủy kiều là bức chân dung hội tụ khá đầy đủ: “đẹp, tài, tình, mệnh”.

Như vậy, đằng sau cách miêu tả và những điềm báo về số phận của Nguyễn Du là tấm lòng của nhà thơ dành cho người thiếu nữ trong xã hội xưa. đó chính là nét đặc sắc của đoạn trích “Chị em thủy chung”, một đoạn trích tiêu biểu cho tài năng miêu tả của một nhà thơ lớn.

6. phân tích đoạn trích Chị em thủy chung – mẫu 4

“Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là một kiệt tác bất hủ của văn học trung đại mà còn của nền văn học Việt Nam. với giá trị tư tưởng lớn, hiện thực sâu sắc, phản ánh, lên án sự bất công, tàn ác của chế độ phong kiến ​​và số phận bất hạnh của người phụ nữ. đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo, đồng cảm sâu sắc với số phận con người, nhất là trẻ em, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ dưới chế độ cũ.

có thể nói, dù là người của chế độ phong kiến ​​nhưng qua “truyện cổ tích” chúng ta có thể nhận ra rằng tư tưởng và tư tưởng của Nguyễn Du đi trước thời đại hàng trăm năm, bước ra từ văn học là một tác phẩm kinh điển có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Việt Nam. Truyện Kiều được ví như nguồn cảm hứng dồi dào, là điểm khởi đầu cho nhiều loại hình văn hóa khác như bói bài, bói bài, trò chơi đàn, tranh vẽ, vịnh kiều… và thậm chí chúng còn trở thành đề tài của nhiều loại hình nghệ thuật. . , âm nhạc, hội họa… không chỉ vậy, truyện Kiều còn trở thành một tác phẩm văn học Việt Nam hiếm hoi được dịch và xuất bản tại hơn hai mươi quốc gia. Thành công của Truyện Kiều không chỉ bắt nguồn từ nội dung hiện thực, nhân văn mà còn ở giá trị nghệ thuật thể hiện tài viết chữ tuyệt vời của Nguyễn Du. trong đó vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát của dân tộc, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật tả cảnh, tả người bằng hình tượng, linh hoạt, gợi nhiều hơn tả… đoạn trích “Chị em thủy chung” là một trong những đoạn trích điều đó cho thấy một tài năng rất đặc biệt trong việc sử dụng các ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp con người của nguyễn du.

thuy kieu, nhân vật chính của vở kịch xuất thân từ một gia đình danh giá, khuê các. đoạn trích của chị em Thủy Kiều được tìm thấy ở đầu phần “đoàn tụ và đính hôn”, trình bày về hoàn cảnh gia đình ở nước ngoài và mối quan hệ định mệnh của họ với người đàn ông quý giá.

Hai câu đầu của đoạn trích “Hai bà tiên là chị em của thúy văn, thùy văn” trình bày thân phận của hai chị em với tư cách là hai người con gái trưởng của hoàng tộc, trong đó Thủy kiều là chị cả. , và thuy van là con trai thứ hai. Nguyễn du đã tóm tắt vẻ đẹp chung hơn của hai chị em bằng một cụm từ “xương cốt, tuyết tinh”, thể hiện phong cách ước lệ đầy sức gợi của tác giả. cái “cốt” biểu thị phẩm chất, tính cách của hai cô gái, được ví như cây mai, một trong tứ quý tượng trưng cho vẻ đẹp cao sang, giàu sang, kiên trì, bền bỉ trong cuộc sống. lấy “tuyết” vừa mỏng manh, vừa trong suốt, vừa mềm mại để chỉ “linh”, hàm ý thể hiện tâm hồn trong sáng, thuần khiết của kiều nữ, thiếu nữ đang độ tuổi hồng trần chưa động lòng. Dù có những nét đẹp bình thường như vậy nhưng kiều và văn vẫn có những nét đẹp riêng từ ngoại hình, khí chất và tâm hồn như cụ Nguyễn Du đã chỉ ra trong câu thơ “mỗi người một vẻ”, nói khó mà phân biệt được. tài năng của hai chị em tuy là nhân vật chính nên anh có phần nổi trội hơn. để làm nổi bật vẻ đẹp của thủy kiều, nguyễn du đã rất tinh tế và khéo léo trong việc lựa chọn cách miêu tả đầu tiên là thủy văn. mô tả ngắn gọn về thuy van gồm có 4 dòng:

XEM THÊM:  Viết bài văn kể lại một kỉ niệm của em

“Vân trang nghiêm khác với trăng rằm có nét nở, nụ cười, trang nghiêm như ngọc, mây mất nước, tóc tuyết nhường màu da”

Nhìn chung, có thể nói vẻ đẹp của thùy văn là vẻ đẹp chuẩn mực trong xã hội phong kiến, đại diện cho dáng người có phúc khí, số mệnh an nhàn, cuộc sống an nhàn. cuộc đời không phải chịu nhiều sóng gió. Có lẽ duyên phận đã gắn liền với việc trở thành một tiểu thư quyền quý, chính vì vậy mà Nguyễn Du đã miêu tả thần thái của nàng bằng hai chữ “trang trọng khác người”, đó là vẻ đẹp kiêu sa, sang trọng mà không phải bất cứ người con gái nào cũng có được. “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, trong quan niệm thẩm mỹ xưa, người có khuôn mặt tròn như thùy mị là người có phúc khí. không chỉ vậy, hình ảnh quy ước “trăng” còn bao hàm sự thuần khiết, ngọt ngào và nhã nhặn của người con gái. Ngoài khuôn mặt tròn trịa, nhân hậu, Thụy Vân còn may mắn có “nét đẹp trời cho” là đôi lông mày đậm, rõ nét và rộng, là nét đẹp và cũng thể hiện phúc tướng trên gương mặt. điều đó cho thấy Van là người hiểu biết lễ độ, độ lượng và nhân hậu trong cuộc sống. đó là về khuôn mặt và lông mày, đối với nụ cười và giọng nói của thủy văn, nguyễn du cũng đặt cho những cụm từ rất đẹp và tao nhã: “hoa cười đẹp”. nụ cười của cô tươi như hoa nở, cảm giác vui vẻ, tươi sáng và nhẹ nhàng. và giọng hát trong sáng, thuần khiết và ấm áp như ngọc, nên có người nói mỹ nữ phải có giọng hát hay, nếu hợp với thuy văn quả không sai. và tổng kết lại giữa những trận cười, giọng ca ấy dành cho thuy đi hai từ “bình yên” thật xứng đáng. vẻ đẹp của thủy vân vẫn được miêu tả bằng câu “mây mất nước, tuyết nhường màu da”, mái tóc như mây, mái tóc dài đen nhánh, từ đó ta cũng có thể suy ra một chút. nhân cách của anh văn mặc dù nguyễn du không đề cập đến. nó là biểu tượng của người con gái dịu dàng, điềm đạm, yêu đời và thủy chung. và ý nghĩa “tuyết sinh sắc da” có lẽ không thể chối cãi, lấy màu tuyết để chỉ màu da, da trắng như tuyết, đó là vẻ đẹp mỹ miều sánh ngang với thiên nhiên, đó là phúc của bạn v.v. tóm tắt qua bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của nàng thùy văn, nguyễn du đã dùng nghệ thuật thư pháp ước lệ tượng trưng qua những hình ảnh rất uyển chuyển nhẹ nhàng như “trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết” để gợi ra vẻ đẹp của người con gái đó là vẻ đẹp quý phái. không quá sắc sảo, nhưng hay và dễ mến, gợi cho người đọc, cũng như điềm báo về cuộc sống bình lặng và êm đềm của cô.

Khác với nàng thùy văn, khi tả nàng kiều diễm sử dụng tám câu thơ để nói lên vẻ đẹp của nàng, từ số câu gấp đôi ta có thể thấy nàng kiều diễm là một vẻ đẹp hiếm có, bởi so với nàng thùy văn, người con gái đã. đẹp nhưng chỉ cần bốn dòng thơ đã tóm gọn lại cô đọng, sắc thắm rõ ràng đã ở một đẳng cấp khác của vẻ đẹp. ta có thể thấy rõ hàm ý này của nguyễn du qua hai câu thơ đổi “kiều càng sắc / so tài thì hơn”.

“vào mùa thu thủy, nét đẹp của bức tranh xuân thì ghen tị, liễu kém xanh, một hai khuynh thành, đành phải nhờ đến tài vẽ, hai trí thông minh vốn dĩ thiên phú, hỗn tạp. với nghệ thuật hội họa, chỉ có mùi của ca hát, tụng kinh, khiêu vũ và các nghề. Hãy phá vỡ một chương ”

so với thủy văn, thủy kiều dường như đã vận dụng ngày càng triệt để hơn phương pháp ước lệ tượng trưng. nếu trong văn tác giả còn thể hiện rõ vẻ đẹp của từng bộ phận trên cơ thể rồi so sánh với tự nhiên thì ở thủy kiều gần như nguyễn du chỉ gợi ý một chút, dùng bút pháp chấm phá để người đọc tự suy nghĩ. của kỳ lạ. “mùa thu nước” có nghĩa là để chỉ đôi mắt trong như nước mùa thu, rung động nhẹ nhàng, nhưng đôi mắt thủy chung, và mùa thu gợi cho chúng ta một vẻ đẹp tuyệt vời, mờ ảo và rất lãng mạn. mà còn cho thấy người có đôi mắt đó là người đa sầu, đa cảm, cũng là người có cuộc đời trắc trở, số mệnh đào hoa. tương tự như “xuân sơn”, tức là chỉ lông mày đẹp như núi xuân, khiến người ta liên tưởng đến lông mày lá liễu, mảnh, cong, mang nét xuân sắc cho cả khuôn mặt, cũng là một nét đẹp. nhân vật tốt bụng của một người phụ nữ. nhưng sao không so sánh nó với những sự vật khác, mà gợi lên đôi mày kiều diễm với hình ảnh núi non cũng khiến ta phải suy ngẫm. có thể giải thích đó cũng là ám chỉ cuộc sống ở hải ngoại hiểm trở như hình núi, lên xuống khó có ngày bình lặng. Đó là về đôi mắt, để nói về vẻ đẹp của kiều nguyên du cũng có câu “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, tuy không phân tích nhưng nhìn từ bề ngoài ta cũng dễ dàng nhận thấy. thuy kieu. Cô là một cô gái có vẻ đẹp rất sắc sảo, mặn mà khác hẳn với vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của Thụy Vân. so với “sắc son, đặc điểm xuân sơn”, câu thơ này càng mơ hồ hơn. không rõ nàng thuy kiều nguyễn du muốn thể hiện vẻ đẹp gì. tuy nhiên từ “trầm” có lẽ tác giả muốn miêu tả vẻ đẹp của đôi môi, đôi môi đỏ như son, cả bông hoa ghen tị vì không tươi bằng môi. một cách hiểu khác, có thể “đi sâu” hơn ở đây chính là vẻ đẹp trời cho, tuyệt vời và đằm thắm của hoa thủy tiên mà không loài hoa nào có thể sánh được. cái cách này khiến ta liên tưởng đến một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa cổ đại, sắc đẹp của nàng là “hoa của ngươi”, ngay cả đóa hoa cũng phải xấu hổ vì không giống ai. ý “liễu kém xanh” lại càng đặc sắc trong nghệ thuật tả cảnh ước lệ, ai cũng biết liễu nổi tiếng mềm mại, hiền lành nhưng so với kiều thì lại phải ăn năn vì “kém xanh”. ở đây xanh có nghĩa là sức sống, sự cứng cỏi, cũng có nghĩa là gợi lên dáng vẻ uyển chuyển diệu kỳ, mềm mại, dẻo dai so với liễu cũng chỉ hơn của thùy kiều. nên so với thùy vân, vẻ đẹp của Thúy kiều còn được gợi ra qua dáng người mềm yếu, nhưng có lẽ nghĩ sâu hơn chúng ta có thể hình dung ra thân hình tuyệt vời của nàng. Tuy không miêu tả rõ Kiều là Thúy Vân nhưng Nguyễn Du đã dành hai câu thơ để nhấn mạnh vẻ đẹp của Kiều “một nghiêng hai ngả / Sắc nước hương trời cần có tài vẽ hai”, để nói đến vẻ đẹp của Kiều. kiều có lẽ không khác gì những thi nhân phương tây, điệu tàu ngày xưa, hồng nhan sơn thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có thật. và quả thực, kiều cũng khiến một người đàn ông tưởng chừng như từ bỏ một vương quốc và cuối cùng rơi vào kết cục không thể cứu vãn.

Đặc biệt, thủy kiều có một vẻ đẹp nổi bật hơn không chỉ về nhan sắc mà còn ở tài năng, tôi nghĩ rằng nguyen du có tư duy cầu tiến, nhưng cô ấy vẫn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi xuất thân. Các nhà Nho cho rằng phụ nữ không cần quá xuất sắc mới có phúc, đại diện cho mẫu người này là thùy mị, trong khi phụ nữ xinh đẹp, tài giỏi thường kém may mắn. Chính vì vậy mà Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng người Việt kiều với nhan sắc xinh đẹp, có tài thơ, ca, nhạc, họa. cô là một cô gái thông minh, học mười biết mười, đặc biệt với món ăn piêu thì tay nghề của cô lại càng xuất sắc. “Cuồng thương lục bát ngũ âm”, cô có thể tự mình sắp xếp âm nhạc, sáng tác ra những bài hát hay, nhưng có lẽ như một điềm báo trước số phận hồng nhan, bởi thành thạo cây đàn pi ba, loại nhạc cụ vốn đã xuất chúng, đã xuất hiện ở một nơi. . của phong lưu, quãng giọng rộng, giữ phổ chủ yếu là những nốt trầm buồn, ảm đạm. ngay cả việc chính nàng kiều nữ cũng viết nên bản “bạc mệnh”, một bản buồn và ảm đạm, phần nào cho thấy cuộc đời đầy sóng gió của một trang mỹ nhân.

“kiểu dáng rất tao nhã, quần hồng, xuân xanh, sát tuần tới. Muộn màng, ong bướm, về nhà mặc đi”

Những câu thơ cuối lại miêu tả hoàn cảnh sống của hai chị em, đều sinh ra ở nước ngoài nên cuộc sống cũng được coi là khá giả, “giàu sang” sống trong lụa là gấm. kiều và văn sắp đến tuổi lấy chồng, cận kề tuổi kết hôn, trước khi sóng gió ập đến, chị em “khôn lớn thì vén màn”, cuộc sống cứ bình yên, hạnh phúc. Dù đã trưởng thành nhưng cả hai vẫn rất cao quý và trong sáng. yêu “ong bướm”, kiều nữ chưa từng nếm trải nhưng vẫn giữ nếp gia phong.

đoạn trích “Chị em thủy chung” là đoạn văn thể hiện rõ tài năng tả người bậc thầy của Nguyễn Du qua những ước lệ tượng trưng, ​​vừa gợi, vừa vẽ bằng nét cọ chấm phá, để người đọc tự mình khám phá hình tượng nhân vật. Đồng thời, đoạn trích còn thể hiện tư duy nhân đạo của Nguyễn Du khi rất trân trọng và tế nhị, tỉ mỉ vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. đặc biệt ở nhân vật kiều nữ, cô không chỉ khai thác vẻ đẹp hiếm có mà còn tô vẽ thêm vẻ đẹp tài năng, trí tuệ và nội tâm để làm nổi bật hình ảnh một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng kém may mắn.

7. phân tích ngắn gọn đoạn trích Chị em thủy chung

nguyễn du là đại thi hào dân tộc, nhà nhân đạo lớn, danh nhân văn hóa thế giới. “Truyện Kiều” là kiệt tác của Nguyễn Du và là quốc hồn của Việt Nam. đoạn trích “Chị em thủy chung” nằm ở đầu tác phẩm giới thiệu và miêu tả vẻ đẹp của hai người con gái.

Bốn câu thơ đầu, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp của hai người phụ nữ:

“hai nữ đầu, ngahuy kiều là chị em, em là thuy vanmai, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

nguyen du so sánh hai chị em là “hai bà”, là những mỹ nữ ngày xưa. Tác giả đã giới thiệu vai trò, vị trí của từng người trong gia đình Thuý Kiều là chị, Thuý Vân là chị. cả hai người đều có dung mạo hiền hậu, phong thái như hoa mai cao quý, phẩm chất và phẩm hạnh trong sáng như tuyết. “may” và “tuyết” đều đẹp, văn kiều là sự kết tinh của những nét đẹp tuyệt trần ấy. nhan sắc của cô cũng là tuyệt đối, được lý tưởng hóa “mười phân vẹn mười”.

Chân đã sử dụng của thuy van xuất hiện trong suốt bốn dòng tiếp theo. vẻ đẹp của van “sang chảnh lạ thường”, quý phái như những tiểu thư chốn đỏ tía. “khuôn trăng đầy đặn, nét mặt tròn trịa” là khuôn mặt nhân hậu, tròn trịa sáng như trăng rằm về đêm, lông mày cong như con nít, tạo nên dáng vẻ hài hòa, cân xứng.

“hoa cười, ngọc, trang nghiêm, mây mất nước, tóc tuyết màu da”

Nụ cười của cô ấy tươi như hoa và giọng nói của cô ấy trong trẻo như ngọc. Cách dùng từ “thốt nốt” của Nguyễn Du cho thấy Vân là một cô gái chu đáo, khéo ăn nói. mái tóc của cô ấy mềm mại và bồng bềnh như những đám mây. làn da của cô ấy trắng và mềm hơn tuyết.

khác với van, vẻ đẹp của người phụ nữ kiều nữ không được miêu tả chi tiết từng phút một và được tác giả ghi dấu ấn, vì thế mà chiếm được tinh thần, cảm động nhất:

“mùa thu thủy chung, xuân sắc núi, liễu hờn ghen thiếu xanh”

nguyen du trước đây cũng từng tuyên bố rằng “so tài” thì kiều vẫn hơn mình. Vẻ đẹp của kiều diễm sắc sảo, đằm thắm với đôi mắt như làn nước mùa thu ẩn hiện dưới đôi mày cong như núi mùa xuân. đặc biệt, nếu với văn, nhà thơ dùng từ “thua”, “bỏ” để thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thì giờ đây vẻ đẹp của kiều còn khiến thiên nhiên phải ghen tị. thật là một cô nương xinh đẹp nhưng cũng có vẻ như đang định sẵn một cuộc sống êm đềm bên nàng thuy văn và đầy sóng gió, trắc trở với nàng thúy kiều.

không chỉ miêu tả sắc đẹp, nguyễn du còn dùng nhiều câu để miêu tả tài năng của người phụ nữ nước ngoài, đặc biệt là tài năng của nàng: “xinh đẹp phải cầu một, tài phải sắc hai”. đi thi vẽ, bạn ấy biết năng khiếu gì, bạn ấy cũng giỏi. nhưng điều tuyệt vời nhất là tài năng:

“gồng gánh nghề tư, ăn nên làm ra”

Anh ấy cũng sáng tác đàn hạc bạc của riêng mình. đàn hạc là tiếng đệm của một tâm hồn đa cảm và đa sầu đa cảm. nhưng chính cung điện này cũng như ẩn chứa một điềm báo về chuyến hải hành khó khăn ra nước ngoài. Kiều là sự kết hợp hoàn hảo của sắc đẹp, tài năng và tình yêu.

Dù đều là mỹ nam, mỹ nữ nhưng hai chị em vẫn sống rất khiêm tốn như những đóa hoa còn e ấp, bất chấp mọi lời ong bướm.

đoạn trích “chị em thủy chung” đã dẫn dắt mọi người chiêm ngưỡng chân dung hai mỹ nhân tuyệt sắc trong văn chương thơ văn! Đoạn trích còn thể hiện tài năng và cảm hứng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.

8. cảm nhận đoạn trích chị em thủy kiều

nguyen du là một trong những ngôi sao sáng nhất của văn học Việt Nam, ông là tác giả của những câu chuyện ở nước ngoài. Đoạn trích gồm 24 câu thuộc phần đầu Truyện Kiều miêu tả chân dung xinh đẹp của chị em Thúy Kiều. nguyễn du đã sử dụng bút pháp lý tưởng hóa để xây dựng nhân vật chính, điển hình là đoạn trích của chị em thủy chung.

đầu tiên, hai người phụ nữ đầu tiên,

thuy kiều là em gái, tôi là thuy van.

bộ xương, thần tuyết,

tất cả chúng trông giống như mười.

tác giả sử dụng nghệ thuật đồ vật nhỏ, hình ảnh ước lệ để miêu tả hai chị em Thủy kiều và Thủy văn. những câu thơ cổ điển, những điển tích vượt thời gian miêu tả dáng người thanh cao, tao nhã như hoa mai, tâm hồn trong sáng như tuyết đã đạt đến độ hoàn mỹ: mười phân vẹn mười của hai chị em thùy vân và thùy kiều.

bên trong trông tuyệt vời,

trăng tròn, khuôn mặt đầy đặn.

mỉm cười và trang nghiêm,

mây rụng tóc, tuyết nhường chỗ cho da thịt

Bức chân dung tuyệt đẹp được khắc họa qua những câu thơ trên, một vẻ đẹp cao quý hiếm thấy ở người khác. tác giả đã chọn lọc những gì đẹp đẽ nhất trong thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của chúng. lối viết tượng trưng ước lệ, cụ thể trong từng chi tiết: khuôn mặt, nét chữ … mọi thứ đều toát lên vẻ đẹp đoan trang, nhu mì, đầy duyên dáng. vẻ đẹp ấy ngầm báo trước một số phận an lành và may mắn.

kieu cay và mặn hơn,

so với tài năng thì hơn

đường sắt kính, bức tranh mùa xuân

ghen tuông mất hoa, liễu kém xanh

một ngày nào đó, nước sẽ nghiêng sang một bên

sac đã phải nhờ đến một tài năng để vẽ hai

thông minh vốn dĩ là thần thánh

<3

Cồng chiêng tầng năm âm hưởng

nghề nghiệp của anh ấy ăn nên làm ra ở hồ

bài hát trong nhà được chọn lọc kỹ càng

số phận của một ông già thậm chí còn già hơn

Những câu thơ trên đã miêu tả vẻ đẹp của nhân vật thùy kiều, tác giả dùng vẻ đẹp thiên nhiên để miêu tả và so sánh vẻ đẹp duyên dáng, đặc biệt là đôi mắt, đôi mắt đẹp trong sáng như làn nước mùa thu. . lông mày cong duyên dáng như nét núi xuân, khuôn mặt toát lên vẻ đẹp xa xăm, thanh tú và tài hoa. tài năng, thông minh, vốn có thần thái – đạt đến trình độ lý tưởng của xã hội phong kiến. Kiều có ý thức về số phận của chính mình để chuẩn bị cho “hồng nhan bạc mệnh”, ai nghe xong cũng thấy xót xa, hụt hẫng. vì vậy, vẻ đẹp của người tần tảo là sự kết tinh của ba đức tính đẹp, tài và tình.

rất thanh lịch trong chiếc quần màu hồng,

mùa xuân xanh đã gần đến tuần lễ cặp kê,

Tôi sẽ hạ màn.

bức tường đầy ong và bướm

Bốn câu cuối của cụ Nguyễn Du đã dùng những mỹ từ nói về cuộc đời của hai chị em, họ sống giàu có, nề nếp và đạo đức.

đoạn trích với ngôn ngữ thơ tinh tế giàu cảm xúc, các biện pháp tu từ được nhà thơ vận dụng sáng tạo để tạo nên những vần thơ ước lệ, những bức thư tình, ẩn sau bức chân dung lịch sử đẹp đẽ là cả tấm lòng và sự trân trọng của cụ Nguyễn Du. >

Mời các bạn cùng tham khảo những thông tin hữu ích khác tại chuyên mục tài liệu – tài liệu hoatieu.vn.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Top 8 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay – HoaTieu.vn. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *