Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
650 lượt xem

Truyện Kiều qua các khuynh hướng phê bình văn hóa, giáo khoa, phân tâm học nửa đầu thế kỷ XX

Bạn đang quan tâm đến Truyện Kiều qua các khuynh hướng phê bình văn hóa, giáo khoa, phân tâm học nửa đầu thế kỷ XX phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Truyện Kiều qua các khuynh hướng phê bình văn hóa, giáo khoa, phân tâm học nửa đầu thế kỷ XX

pham thi hoa

(cô giáo, giáo viên trường THPT Lê minh xuân)

  1. 2.4 quảng bá lịch sử xứ kiều về mặt văn hóa (quốc ngữ, giáo dục dân tộc, quốc hồn quốc túy – nam giới tạp chí phong mỹ tục)

Với mong muốn xây dựng nền giáo dục nước nhà như một sự chuẩn bị cho sự nghiệp văn hóa dân tộc, Phạm Quỳnh đã khởi xướng phong trào đọc sách trong và ngoài nước như một sự thể hiện sức mạnh tinh thần của dân tộc. . Phong trào được đánh dấu bằng bài phát biểu của Phạm Quỳnh tại lễ tưởng niệm Nguyễn Du nhân ngày mất của nhà thơ do Ban Văn học của Hiệp hội Minh họa Đức do Phạm Quỳnh làm Tổng thư ký, tổ chức tại Hà Nội năm 1924.

pham quynh cho biết, sở dĩ tổ chức buổi lễ là vào dịp giỗ Tổ nguyên soái, ban văn tế hội minh họa “lập tượng đài để nhắc nhớ công nghiệp một người đã có công với dân tộc”. . “âm thanh của chúng tôi trong văn học, để lại cho chúng tôi một” hương thơm “quý giá và vĩnh cửu, tôn vinh toàn thể giống nòi.

Phạm Quỳnh khẳng định địa vị, vai trò của Truyện Kiều đối với vận mệnh đất nước: “Truyện Kiều là ‘văn học’ của nòi giống Việt Nam ta đã ‘ghi danh’ với sông núi đất nước.” pham quynh ca ngợi truyện kiều là “kinh, sử, thánh sử của cả một dân tộc”, là “nhà chiêm tinh tuyệt vời”, là quốc hoa, quốc túy, quốc hồn của chúng ta, để chúng ta “tự hào”. của sông núi, tự mãn với thiên hạ rằng: chuyện ở nước ngoài còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, không lo gì, sợ gì, còn gì để nghi ngờ nữa. ! … “[39, 1802]. Theo pham quynh, việc Tiền điện bỏ thiên hạ và Tiền điện viết kiều, những câu chuyện về kiều còn truyền lại đến ngày nay là” phúc “cho đất nước. Nhưng so với thế giới, văn học Trung Quốc, văn học Pháp và truyện Việt kiều không gì sánh được.

Cuối bài phát biểu, một lần nữa, quynh quynh nhấn mạnh, ngày kỷ niệm nguyễn du là thể hiện tấm lòng thành kính của Tổ quốc đối với quốc kỳ. hơn nữa, đây cũng là dịp để triệu tập linh hồn quốc tử giám chứng giám cho lời thề của người bạn đồng hành. đã thề rằng: “Kiêu kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn non, còn non sông còn dài, ta là kiếp sau, nên lòng dù đặt hết tâm huyết mà làm việc. để trau dồi quốc âm của nhà, vì quốc hoa ngày càng sáng, quốc hồn càng sáng tỏ, quốc công này lên tấn, quốc tài càng ngày càng vẻ vang, cũng như để tránh ý muốn của ông 1804]

lễ kỷ niệm nguyễn du và lễ kỷ niệm lịch sử này không phải là ngẫu nhiên. đó là đỉnh cao của phong trào viết về những kiệt tác văn học của dân tộc trên tạp chí nam phong của Tổng biên tập Phạm Quynh và nhiều tác giả khác như: nguyễn đơn phục, nguyễn trong thuật, vu đình long, nguyễn tương tam, nguyễn. trieu luat … phong trào này nằm trong chủ trương của pham quynh nhằm thực hiện tinh thần dân tộc trong văn hóa và giáo dục nhằm chống lại sự xâm phạm văn hóa vào đất đai của pháp luật. Phạm Quỳnh là một sinh viên pháp học làm việc cho pháp học, vì vậy ông biết khuynh hướng không thể cưỡng lại của việc phải du nhập văn hóa châu Âu để theo nền văn hóa đó. thấy rằng điều này là không thể tránh khỏi. Trong bài phát biểu của mình, Phạm Quỳnh đã lấy văn học Pháp làm tiêu chí và nhấn mạnh tính “phổ thông” của người Việt Nam ở nước ngoài. lấy văn học Pháp làm tiêu chuẩn đánh giá truyện ở nước ngoài, ông muốn đưa tác phẩm ra khỏi khuôn khổ thời trung đại và vượt ra khỏi những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa: “nhưng ngay cả trong văn học Pháp, tư tưởng cũng không có sách nào giống văn học kiều , bởi vì văn học truyện kiều có một đặc điểm đặc biệt mà các kiệt tác của văn học pháp không có được, đặc điểm đó là tính đại chúng. không biết về nó ”[39, 1804] hay“ cứ nói thật, lịch sử kiều rất thấm nhuần tinh thần văn hóa tàu thủy, tuy là đối chiếu của các tài liệu văn học Trung Quốc nhưng nó có một đặc điểm riêng mà Hán ngữ. văn học không có. điều đặc biệt đó là cấu trúc… về cấu trúc, văn học Pháp hay hơn nhiều. “[39, 1803]

pham quynh đã áp dụng các phương pháp vận dụng và phân tích văn học phương tây một cách rõ ràng và nhất quán. sử dụng phân tích khách quan để tiếp nhận câu chuyện ở nước ngoài. Trong một bài nghiên cứu về Truyện Kiều đăng trên tạp chí Nam Phong, Phạm Quỳnh đã nhận xét: “Văn học truyện Kiều đúng là văn chương tuyệt vời, có lẽ văn học Trung Quốc không bằng… lời ca rất sâu sắc, chữ viết theo vần chữ cái nên không. người ta có thể nghĩ đến chúng nữa, và trong lời cầu nguyện không thể dịch một chữ, thay đổi một chữ, giọng đọc hồn nhiên như trong ống tự nhiên, ý nghĩa sâu xa đến nỗi càng đọc càng cảm thấy. càng ngẫm lại càng thấy lời nói nghiêm túc như mang nặng tình yêu, nghiêm trọng như than thở nỗi đau, với nỗi niềm vô cùng nơi câu văn xuôi in sâu ý nghĩa câu chuyện, ý nghĩa mà nó phù hợp với. cảnh người, từng câu từng chữ phù hợp với hoàn cảnh xưa, khiến nhiều câu trong sử kiều trở thành những câu cách ngôn cổ, dù người đời thường biết. và tiếng địa phương. ” [88] Truyện kiều không chỉ hấp dẫn mà còn có sức ảnh hưởng lớn đối với người Việt Nam từ nội dung đến nghệ thuật, đó chính là “tính phổ biến” của truyện kiều mà tác giả truyện đã chỉ ra, hơn thế nữa, ông còn chỉ ra cái tài tình trong văn chương truyện kiều. : “kỹ năng văn chương truyện truyền kỳ còn quá đáng phải nói, những kỹ năng này không phải là sự tinh tế trong sắp xếp câu văn và vần điệu, đưa đẩy, đưa đệm, mà hơn hết là ở ý nghĩa sâu xa, tình cảm vô bờ bến.” [88]

Dưới góc độ ngôn ngữ, tác giả đánh giá sự thành công của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện kiều khi nhận xét về hai chị em Thủy kiều và Thủy văn: “cách miêu tả chị em thủy chung”. như hai hình ảnh khác nhau, rất thú vị. Vẽ người như vậy vốn đã rất điêu luyện, nhưng đó mới là cách vẽ chính thống, còn cách cầm bút vẽ, chỉ cần vài câu ba chữ là có thể hình dung ra tính cách của một người, giống như đánh dấu thời cổ đại vậy. nó không thể tồi tệ được ”[88]

có thể thấy, trong việc bàn về nội dung, nghệ thuật của truyện kiều, truyện tiếu lâm đã thể hiện một trí tuệ sắc sảo. ông đã đánh giá lịch sử của kiều trên cả hai phương diện văn học và nghệ thuật. khẳng định quan điểm: cần đánh giá văn học bằng những tiêu chí nội tại của chính nó, tác phẩm khẳng định giá trị của truyện Kiều trong di sản văn học thế giới bằng những tiêu chí thuần túy văn học như: nghệ thuật kết cấu.

có thể thấy rằng bằng việc đề cao lịch sử của kiều, bản quynh đã thể hiện niềm tự hào đối với người Việt Nam và là nguồn động viên mạnh mẽ cho nền văn học quốc âm mà nó đang cố gắng củng cố: “lạ thay, tiếng Việt nhiều người chê ta vì nghèo ”. còn non nớt, nhưng Sử ký thời đại rõ ràng là một công trình văn học thông minh, nghĩ rằng có thể sánh ngang với những kiệt tác văn học mà không khỏi xấu hổ ”[88]

Đặt trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ 20, văn hóa Việt Nam đang có bước chuyển mình từ văn hóa truyền thống phương Đông sang văn hóa hiện đại với ảnh hưởng rõ nét của văn hóa phương Tây trong chủ đề “background” của cựu sinh viên. Các nghiên cứu quốc gia cần được xây dựng trên cơ sở nào? Tiếng Việt có ý nghĩa gì đối với việc học quốc gia, nơi mà một truyền thống văn hóa có nhiều chữ Hán hiện đang bị tiếng Pháp đè bẹp? Đó là lý do tại sao nhiều người, đặc biệt là các trí thức tân học, nghĩ đến vai trò của Truyện Kiều và truyện Việt Nam, trong đó có Phạm Quỳnh. Trên tờ Nam Phong, Phạm Quỳnh ra sức đề cao “chủ nghĩa dân tộc”. Theo Người, muốn dựng nước phải bắt đầu từ đấu tranh xây dựng văn hóa, điều này cần thiết hơn đấu tranh chính trị. Ông cho rằng, muốn xây dựng dân tộc thì phải bảo tồn và phát triển tiếng Việt. Để phục vụ đắc lực cho “quốc học”, Phạm Quỳnh còn chủ trương xây dựng nền văn học mới, xây dựng “quốc học”, phát triển “quốc văn”, vận động mọi người cùng học tiếng Việt. với ông, văn học đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện “bản sắc” của dân tộc, nên việc bình luận, ca ngợi giá trị truyện ở nước ngoài thực chất là hành động đề cao nền “quốc học” mà ông đang dày công xây dựng. trong tạp chí nam phong bài báo số. 164 năm 1931, pham quynh cho rằng “quốc học là cốt, quốc văn là hình thức, quốc học là cứu cánh, quốc văn là phương tiện.” trong lời động viên, pháp quy đã ca ngợi lịch sử của kiều, gọi đó là “quốc hồn, quốc túy, quốc hoa”, lịch sử là nét đẹp tinh thần tiêu biểu của một dân tộc. Thật dễ hiểu vì sao ông quynh lại coi trọng lịch sử của kiều đến như vậy, ông tin rằng chính sử của kiều, thứ đã đánh dấu sự trưởng thành của âm thanh dân tộc vì nó đã “ghi danh” với sông núi đất nước.

Ngoài quan điểm cho rằng văn học thể hiện bản sắc của dân tộc, Phạm Quỳnh cho rằng văn học gắn liền với ngôn ngữ. sự sáng tạo trong văn học đánh dấu sự trưởng thành và chín muồi của chữ quốc ngữ. so pham quynh viết về công lao của Nguyễn Du: “để nhắc nhở công nghiệp của dân tộc mà một người đã có công xây dựng nên quốc âm của chúng ta trong văn học, để lại cho chúng ta một ‘tiếng thơm’ quý giá nhất, làm rạng danh muôn đời cho muôn dân tộc” [39, 1801. ]

từ đó ta có thể thấy rằng kiệt tác văn học là tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành của một dân tộc, đánh dấu sự khẳng định bản sắc của một quốc gia độc lập. đó là cơ sở để ông cho rằng: “Lịch sử dân tộc là lịch sử” văn học “của dân tộc Việt Nam chúng ta đã” ghi danh “với sông núi đất nước. Văn học sử còn lấy đề tài từ trước đến nay khi chưa có tác phẩm văn học nào. như sử sách của dân tộc “chưa hề có văn bản giao ước làm rõ và xác nhận quyền sở hữu hợp pháp” 39, 1802] đó cũng là cơ sở cho câu nói của Người: “Tiếng ta còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn “[39, 1802].

Sau bài báo của tác giả truyện, tạp chí nam phong xuất hiện một số tác giả tiếp tục ca ngợi truyện ngôn tình và đề cao nền âm hưởng dân tộc, như: nguyễn ba ba, tạp duy tấn, nguyên huý tiên, vu xem. dinh long, nguyen tuong tam … in nam phong Magazine no. 81 năm 1924, trong bài khảo luận về “truyện kiều”, vu dinh lâu đã ca ngợi: “Truyện Kiều xứng đáng là một áng văn chương bất hủ, trước hết là giá trị văn chương. Hai là giá trị đạo đức.” [19, 75] Trong bài bình luận về văn học kiều, nguyen tuong tam cho rằng mỗi khi nghe truyện kiều, ông cảm thấy mình thấy “hồn dân tộc”, đối với ông truyện kiều là hồn của dân tộc. :. cả một dân tộc. ” [19, 102]

Đặt trong bối cảnh chữ Hán của nước ta lúc này đã lạc hậu, thực dân Pháp ra sức truyền bá đạo pháp với âm mưu nô dịch và đồng hóa người Việt. Truyện kiều của tác phẩm và các tác giả của tạp chí nam phong không chỉ cho rằng truyện kiều là một giá trị kinh điển của dân tộc, mà truyện kiều đã trở thành một phương tiện truyền bá âm hưởng dân tộc đối với họ. Coi Kiều sử là mẫu mực của chữ Quốc ngữ, các tác giả Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí cũng khẳng định vai trò quan trọng của Truyện Kiều đối với sự tồn vong của dân tộc. Mặc dù ý kiến ​​của pham quynh và nhóm nam giới của tạp chí đã gây ra sự phản đối gay gắt của một số trí thức, những người có tư tưởng chính trị trái ngược với ông như ngo duc ke, huynh đệ phản kháng … nhưng chúng ta không thể phủ nhận công lao của pham quynh đối với việc xây dựng quốc âm của đất nước cũng như giá trị của những câu chuyện chữ kiều trong đời sống tinh thần của dân tộc.

  1. 2.5 phê bình lịch sử của các nhà khoa học phương Tây ở nước ngoài (phê bình sách giáo khoa)
  2. 2.5.1 lý thuyết phê bình sách giáo khoa và phê bình giáo dục ở Việt Nam
  3. ol>

    Trong khoảng thời gian giao nhau giữa thế kỷ 20 và 20, phê bình giáo khoa ra đời giữa một nền luật học năng động, luôn đòi hỏi sự cải tiến không ngừng để tìm kiếm những giá trị mới phù hợp với sự phát triển của thời đại. phê bình chương trình học lúc bấy giờ tự do đáp ứng nhu cầu thực tế của thời kỳ “phục hưng đại học”, theo kịp sự phát triển của báo chí, hòa mình vào dòng chảy chung của tiến bộ khoa học, kỹ thuật và xã hội. hiệp hội nhân văn. Người đặt nền móng cho bài phê bình tiến bộ này là Gustave Lanson, một giáo viên lâu năm đứng trên bục giảng ở các trường trung học và đại học trong hơn bốn mươi thập kỷ. phê bình giáo khoa gắn liền với khát vọng cải cách giáo dục của lanson, được phổ biến và truyền bá bởi các không gian học thuật phương Tây từ những năm cuối của thế kỷ 10 đến những năm 1930. Tên tuổi của Gustave Lanson được nhắc đến như người đi tiên phong và thành công nhất với nghệ thuật phê bình học thuật bởi tư tưởng của ông đã “gặp thời cơ” với yêu cầu định vị một con đường lý luận đúng đắn để nghiên cứu văn học mang hơi hướng hiện đại phù hợp với chương trình giảng dạy văn học của trường học. , đáp ứng nguyện vọng của sinh viên và mở ra tầm nhìn phát triển lâu dài cho ngành học.

    nhà phê bình coi tác phẩm văn học như một hiện tượng tình huống cần phân tích và hiểu rõ. Xu hướng phê bình này nghiên cứu văn học trong mối quan hệ với chính văn học, nhấn mạnh đến bối cảnh của văn bản tác phẩm bởi vì “(1) không có thế hệ nào (người sáng tạo và chủ thể) tiếp thu một cách hồn nhiên; (2) văn học kết tinh trong cấu trúc đời sống của một thời đại, nó không thể tách rời và trừu tượng hóa; (3) đọc văn học không thể xem xét như thế nào (le comment) mà không xem xét tại sao (le pourquoi). [95]

    Với những trải nghiệm đặc biệt trên giảng đường, Gustave Lanson đã giúp sinh viên trau dồi một nền văn hóa tìm hiểu văn học đích thực thông qua việc đọc các tác phẩm trong ngữ cảnh, góp phần giải phóng văn hóa khỏi áp bức của thuật hùng biện. Bằng cách nghiên cứu văn bản của tác phẩm trong bối cảnh của nó, chúng ta sẽ thấy được bức tranh đầy đủ và chi tiết về vẻ đẹp vốn có của nó, cũng như giải thích được vẻ đẹp riêng của nó. lanson đã mượn câu chuyện trong phê bình văn học, nhưng không quên đảm bảo tính cụ thể của đối tượng, đồng thời gắn với tính hòa đồng. tiếp nhận văn bản một cách tổng hợp khách quan và chủ quan theo định hướng văn học không phải là đối tượng để tri giác mà là đối tượng thưởng thức. Lanson nhấn mạnh kinh nghiệm trực tiếp nhưng phản đối quan điểm bị giới hạn trong công việc. chủ trương sử dụng các công cụ bên ngoài để bổ sung cho hoạt động phân tích phê bình tác phẩm văn học. “Lanson đề xuất ba quan điểm cho nghiên cứu văn học: (1) xác lập cơ sở để đánh giá các hiện tượng văn học (cả biểu hiện tích cực và tiêu cực); (2) định vị tác phẩm trong lịch sử, phá bỏ ảo tưởng rất đơn giản rằng chúng ta có thể đọc các văn bản từ quá khứ như thể chúng ta đang ở thời của họ (lưu ý lịch sử và văn học); (3) xác định mối quan hệ giữa tác phẩm với thời gian và với xã hội mà tác phẩm ra đời, ngoài văn bản, tìm nguyên nhân của sự xuất hiện của nó. do đó, phê bình giáo khoa có một mối quan tâm kép: hiện thực hóa tác phẩm và các điều kiện xã hội của tác phẩm, chú ý đến tính khái quát và tính cụ thể. Lanson lập luận rằng, khi thực hiện công việc của mình, nhà phê bình phải cẩn thận phân biệt giữa việc sản xuất tài liệu được chấp nhận và việc xây dựng các giả thuyết, giữa học thuật của nhận định và sự thật của các ý tưởng chủ quan. hơn nữa, ông yêu cầu nhà nghiên cứu coi tác phẩm là nghệ thuật sống chứ không phải tư liệu lưu trữ ”. [95]

    phê bình sách giáo khoa đến được với các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam và nhanh chóng trở nên phổ biến do tính ứng dụng của nó. một số nhà phê bình nổi tiếng đã áp dụng xu hướng này, chẳng hạn như thanh mai, quế thanh, lê thanh, đường quang ấp, v.v. Ở Việt Nam, xu hướng phản biện này đã giúp những độc giả “không chuyên” muốn tiến dần đến con đường chuyên nghiệp (học sinh, sinh viên, chuyên gia nghiên cứu,…) có thể sử dụng thêm các công cụ bổ sung. một trợ giúp hiệu quả nhưng đơn giản để hiểu văn học, chẳng hạn như ngữ cảnh. , hoàn cảnh, thời đại, lịch sử, xã hội, …. phê bình sách giáo khoa ở việt nam chủ trương đặt tác giả, tác phẩm văn học vào nghiên cứu văn học bên cạnh việc “cố gắng tìm hiểu xem chi tiết cuộc đời tác giả, những sự kiện trong cuộc đời tác giả. , hoặc những điều kiện cùng tồn tại với những người và sự vật xung quanh tác giả, có liên quan đến ý tưởng của tác giả. ”, những cảnh hoặc trình tự mà tác giả miêu tả trong tác phẩm” [60, 129]. Xu hướng phê bình phương Tây đã được chấp nhận rộng rãi và Với những ưu điểm của mình, phê bình học thuật đã tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trong lĩnh vực lý luận phê bình ở nước ta trong những năm đầu phê bình sách giáo khoa ở Việt Nam thường tập trung khai thác những yếu tố liên quan đến cuộc đời tác giả ( gia đình, quê quán, hoàn cảnh xã hội, …) trong quá trình tìm hiểu nội dung cuộc đời của tác giả. hoặc. làm việc, trong khi vẫn đánh giá cao những trải nghiệm thực tế của người đọc. các giác quan của riêng mình.

    1. 2.5.2 chấp nhận lịch sử nước ngoài theo hướng phê bình học thuật trong nửa đầu thế kỷ 20

    Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết của phê bình giáo khoa, đầu thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam đã đi sâu tìm hiểu các khía cạnh khác nhau của tác phẩm Truyện kiều của Nguyễn Du. Phê bình sách giáo khoa có thể nói đã đưa ra một trình tự khá khoa học giúp cho việc tiếp nhận truyện ở nước ngoài được đầy đủ và sâu sắc hơn. Một số tác phẩm của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm … viết về lịch sử ở nước ngoài theo hướng phê bình học thuật đã trở thành những tư liệu quý, đóng góp đáng kể vào quá trình tiếp nhận một nền giáo dục mới. quốc gia.

    Trong bài viết về nguồn gốc lịch sử của Nguyễn Du, tác phẩm du ký đã trình bày nhiều tài liệu về nguồn gốc của lịch sử kiều. Ông nói: “Nguồn gốc của tác phẩm là những tài liệu (sách, bài báo, …) mà tác giả đã dày công nghiên cứu và dựa vào đó để viết nên tác phẩm của mình. Đối với phê bình văn học, việc tìm ra cội nguồn của một tác phẩm mới quyết định rõ ràng phần nào điều đó”. tác phẩm được mượn từ tác giả trước, và phần do tác giả sáng tạo ra quyết định giá trị, sự độc đáo của tác phẩm đó. ”[39, 567] Về nguồn gốc truyện kiều, đường quang ham hỏi:“ Nguyễn Du tiên sinh được biết đã ăn theo tiểu thuyết Trung Quốc để sáng tác Kim Vân Kiều truyện. chính tác giả, ở đầu truyện (câu 7-8) cũng cho chúng ta biết tác giả đã đọc một cuốn ngôn tình xưa trước khi viết truyện kiều:

    mở quả cầu bột thơm trước đèn

    thời tiết cũ vẫn có một lịch sử xanh.

    […] vậy tiểu thuyết Thuyền là gì, theo đó nguyễn du viết sách du mục, nhân và ai làm? vấn đề này vẫn chưa được giải quyết cho đến nay và mỗi gia đình có một ý kiến ​​khác nhau. ” [39, 567]

    sau đó điều tra viên đưa ra sáu ý kiến ​​và bốn lời chứng thực, sau đó sử dụng lý lẽ và bằng chứng để phân tích và truy tìm nguồn gốc của câu chuyện. Cuối cùng, Dương Quảng Hàm đi đến kết luận chính: “Tóm lại, nguồn gốc Truyện Kiều của Nguyễn Du là một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc có tên là Kim văn Kiều Truyện, do một tác giả tên là Thanh Tâm tài tử viết vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 16. từ thế kỷ 17 do san kim (1627-1662) bình luận. cuốn tiểu thuyết đã được xuất bản trên tàu. Hẳn là cụ Nguyễn Du khi sang mạn tàu năm 1813 đã mang về nước ta, rồi người ta theo đó mà chép lại thành nhiều bản. Sau khi Nguyễn Du viết Truyện Kiều Nôm, một nhà Nho vô danh ở nước ta đã dịch truyện ra Hán văn, tức là cuốn Kim Vân Kiều lục được in nhiều lần ở Hà Nội (1876, 1888, 1896). ”[39 , 576] do đó, nhà nghiên cứu dương quang ham đã dày công sưu tầm, tập hợp các nguồn ý kiến, chứng cứ để tìm ra kết luận cuối cùng về nguồn gốc của truyện kiều, mà cho đến nay vẫn được tác giả dựa vào ý kiến ​​của chúng tôi để tiếp nhận tác phẩm này bởi Bài viết của nguyen du duong quang ham giúp người tiếp nhận phân biệt được hai tác phẩm của kim văn kiều truyện và kim văn kiều truyện, có cái nhìn khách quan về nguồn cảm hứng đã giúp nguyễn du tạo nên những tác phẩm có giá trị về truyện truyền kỳ, đồng thời khẳng định chắc chắn sự quý giá. những sáng tạo văn học của đại thi hào dân tộc.

    Nhà nghiên cứu Hoài Thanh có một bài viết khá công phu về thời đại Nguyễn Du và con người Nguyễn Du, trong đó đề cập đến những ảnh hưởng của hoàn cảnh Nguyễn Du đối với việc viết Truyện Kiều. hoai thanh cho rằng nguyễn du phải chịu sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng, mâu thuẫn gay gắt trong tâm hồn, đồng thời phải chịu đựng nỗi thống khổ của giai cấp mình, đó là nỗi khổ “trong nhiệm vụ lịch sử của Nho giáo”. , nhiệm vụ bảo vệ chính quyền phong kiến ​​tập trung, và xu hướng tan rã của chính quyền đó trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. […] ban đầu họ thuộc phe phong kiến ​​thống trị nhưng trong tình trạng tan rã. xã hội phong kiến ​​Việt Nam thời bấy giờ hỗn loạn, họ cũng là nạn nhân của chế độ ”. [39, 20] Từ những hiểu biết của mình về thời cuộc và căn cứ vào những sáng tác của Nguyễn Du, Hoài Thanh cho rằng: “Vì những đau khổ của mình và của giai cấp, Nguyễn Du đã phần nào đồng cảm với nỗi khổ chung của nhân dân bị chà đạp dưới cái ngày càng thối nát. chế độ xã hội. / tất nhiên họ chỉ thông cảm được một phần. […] nhưng hiểu được một phần đã là quý rồi. hơn hết là có thể bày tỏ tình cảm của mình và từ đó nói hộ cho tất cả những nạn nhân của chế độ, những người mà họ xuất thân từ thời phong kiến. hạng người như nguyễn du tuy không bị chế độ chà đạp dã man như người nghèo, nhưng họ thường cảm thấy sự chà đạp ấy thấm thía hơn. ”[39, 21] Hoài thanh ghi rõ một dấu ấn sâu đậm của thời cuộc hiện rõ trong từng câu văn của kiều truyện: “[…] trong truyện kiều nguyễn du có vẽ hình. từ một xã hội bẩn thỉu đã xây dựng nên một nhân vật anh hùng, đó là ước mơ thoát ly của một dân tộc muốn thoát ra khỏi khuôn phép phong kiến, cốt cách lâu đời, đó là tiếng oan nghiệt, tiếng kêu của một dân tộc bị bức hại. và bị dày vò trong khuôn phép phong kiến. ”[39, 21] Từ một xã hội hiện thực đến một xã hội được phản ánh trong lịch sử kiều bào, Nguyễn Du đã thực sự nung nấu nỗi khổ, niềm đau, nỗi căm giận, nước mắt thành những lời lẽ tế nhị bộc lộ từ một tâm hồn tài hoa. hiểu thời đại của nguyễn du, hiểu xã hội trong lịch sử và thái độ của nguyễn du đối với xã hội đó. . hoai thanh hỏi, “vậy xã hội phong kiến ​​dưới con mắt của nguyễn du là như thế nào? Điều mà ai cũng có thể nhận thấy ngay sau khi nghe câu chuyện của người phụ nữ ở nước ngoài là nhà chứa. thật dồi dào thủy kiều vừa rời khỏi nhà cha mẹ, rơi vào nhà chứa cô cô, mã sinh, vừa rời nhà chú liền rơi vào nhà chứa. Có vẻ như mỗi khi rời khỏi nhà, bạn sẽ rơi vào nhà chứa. tu ba, ma sinh, chu khanh, phu nhan bạc mệnh, kiếp người xui xẻo, cả xã hội ghê tởm sống nhơ nhớp dưới ngòi bút của nguyễn du. nguyen du đã tạo ra nó với những nét rất riêng. “[39, 1002]

    tuy nhiên, hoai thanh cũng làm ngược lại: từ chiều truyện kiều lan sang chiều nhân gian và thời nguyễn du. hoai thanh thay mặt cho ông già nói: “Vì kẻ giết người, hãy giết hắn. Đối với một trật tự xã hội giết người, hãy phá bỏ nó. sống trong thời đại nguyễn du, trong giai cấp nguyễn du, tôi không thể hiểu được sự thật đơn giản đó. […] nguyễn du đã tạo nên hình ảnh một xã hội mục nát đến tận xương tủy. Nguyễn du đồng cảm với nỗi thống khổ vô bờ của những con người bị chà đạp trong xã hội thối nát này. Nguyễn Du ước mơ được sống mạnh mẽ, sống xa hoa, bị xé xác như Hai. nhưng nguyễn du không thấy hủy diệt như vậy rồi đi đâu. trạng thái tạm thời, nguyen du tin rằng nó là vĩnh viễn. do đó, nguyễn du cố gắng phá tan ước mơ của Hải trong anh là sống cuộc đời tầm thường của những người mà nguyễn du coi là lương thiện. “[39, 1009] với chủ đề về nguyễn du – thời đại và lịch sử của kiều bào, hoai thanh làm công việc của kết nối quá khứ – tác phẩm – hiện tại, đúc kết rằng: “Nguyên du đối với tôi vẫn là một kỹ sư tinh thần. Linh hồn. Nguyễn du vẫn có thể dạy ta biết ghét và yêu. Tôi ghét sự thiếu trung thực trong xã hội. anh yêu thích những cảnh đẹp của cuộc sống và vì thế mà tránh được cuộc sống tẻ nhạt và cô đơn, cuộc sống của cây cỏ. […] Truyện kiều chứa đầy những câu chuyện tình yêu say đắm, những câu chuyện về loài người, một sức sống bị hạn chế, kìm hãm và vì thế từng khát khao được sống trọn vẹn và nồng nàn, những câu chuyện về kiều vẫn có thể tồn tại đến ngày nay. khả năng đảo ngược cái chết và sống lại, vẫn có thể gieo vào đời những chất say. ”[39, 1760] như vậy, phẩm chất thể nghiệm trong tiếp nhận văn học vẫn được nhấn mạnh theo quan điểm của phê bình giáo khoa. một phương tiện văn học bổ sung cho nhau và khẳng định giá trị của mỗi phương tiện mà thao tác lập luận do Hoai Thanh thực hiện là phù hợp với xu hướng phê bình giáo khoa những năm đầu phát triển: liên kết văn bản và bối cảnh, nội tâm và ngoại cảnh. đọc trong phê bình văn học hoai thanh tiến hành công việc nghiên cứu tác phẩm văn học: truyện ở nước ngoài trong bối cảnh sinh thời và hoàn cảnh của tác giả bối cảnh (tiểu sử tác giả, ngôn ngữ văn hóa đương đại, lịch sử, xã hội, v.v.) văn bản truyện kiều làm cốt làm cho sự hiểu biết và tiếp thu thấm thía hơn về nghiên cứu bối cảnh, hoai thanh còn có nhiều bài nghiên cứu nữa về vấn đề phản ánh hiện thực trong lịch sử của kiều, hay các danh nhân trong lịch sử như thủy kiều, tứ hải, … như “xã hội”. truyện kiều “,” nhân vật thủy “,” nhân vật biển “,” truyện kiều dành cho các tầng lớp nhân dân và qua các thời đại “, … theo kiểu của các học giả phương tây hiện đại.

    2.6. phê bình những câu chuyện ở nước ngoài từ góc độ phân tâm học.

    Vào những năm 1940, nhiều lý thuyết phê bình văn học thịnh hành ở phương Tây cũng gây được tiếng vang ở Việt Nam. Có lẽ người tích cực nhất trong việc vận dụng lý thuyết mới vào nghiên cứu Truyện Kiều là Nguyễn Bách Khoa. Vào cuối thế kỷ 19, nhà tâm thần học người Áo Sigmund Freud đã đề xuất phân tâm học, một lý thuyết được coi là triết học tâm lý học, mà đỉnh cao là khám phá ra vô thức và tuyệt đối hóa vai trò của nó đối với con người. Trên cơ sở chủ nghĩa Freudi, cũng có những trào lưu phân tâm học trong phê bình văn học ở nước ta. Nguyễn Bách là người đi tiên phong trong việc áp dụng chủ nghĩa Tự do trong phê bình văn học của mình.

    nguyen bach đã áp dụng phương pháp phân tâm học của freud để đọc tâm lý nhân vật trong truyện ngôn tình. các nhà phân tâm học cho rằng đàn áp tình dục luôn là kết quả của sự đè nén lương tâm đạo đức xã hội vốn đã đầy rẫy bản năng dâm dục trong tiềm thức. Trên cơ sở miêu tả tâm lý, cảm xúc của Thúy Kiều sau khi viếng mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng, Nguyễn Bách Khoa cho rằng ý thức đạo đức Nho giáo đã đẩy Nguyễn Du đến những hành vi bất quy tắc khi miêu tả đời sống nội tâm của người Việt kiều: “Tôi nghĩ rằng nhà thơ nguyễn du đã cố tình vứt bỏ một phần lớn giấc mơ đêm ấy trong giấc mơ của người Việt kiều […] Hoạt động của trí tưởng tượng kéo dài từ lúc Ta thức giấc cho đến lúc ta ngủ.Trước khi chìm vào giấc ngủ, trí tưởng tượng của Kiều hoạt động gần hết. riêng quanh vàng, quanh tình ngây ngất, quanh trăm năm Rốt cuộc, hơn cả là quanh hình ảnh Đạm Tiên.Theo quy luật phân tâm, đêm ấy Kiều phải mộng làm tình, thấy trăng thanh gió mát. , nhìn thấy cành cây ngoài sân, thấy “giọt sương gieo cành trĩu nặng. thanh xuân cho nàng “thấy chàng thanh niên áo màu da trời, mặc áo lam, cưỡi ngựa trắng. Chẳng lý do gì mà kiều vừa yêu dam tien nguyễn du lại cố ý vứt bỏ ảo mộng. Kim và chỉ hiển con nhà nòi, một là tuân theo khuynh hướng đạo đức của Nho giáo, đẳng cấp của mình, triều đại thống nhất đầu triều nguyễn, thứ hai là nêu bật mối quan hệ tinh thần từ thuở lưu lạc sau này ”[19, 255]. Nguyễn Bách Khoa cũng phê phán Nguyễn Du đã để cho Việt kiều từ chối tình yêu dâm đãng của Kim Trọng trong đêm cả gia đình đi ăn tiệc ngoài nhà mẹ đẻ không về, coi đó là đạo lý: “Từ ngữ mà nguyễn bạc khoa dùng là”. lương “hương nguyện chân tâm”: “ý thức bịa đặt ấy, trong hình ảnh hoa mỹ này, thật như một tiếng đàn lệch nhịp trong một bản hòa tấu đang bay bổng đúng nhịp. nguyễn du đã chơi nhầm cây đàn chỉ giùm với. đã không đủ dũng khí thả hồn theo điệu nhạc rung động, cố tình đánh nhầm cung đàn để có thời gian sửa sang lại đầu tóc bù xù, áo sơ mi lệnh cho sạch sẽ, để khán giả không nghe thấy tiếng cười là sai […] tất cả những câu chuyện của kiều đều là cách dung sai trái tim đó. trong thời gian sống ở nước ngoài, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nguyễn du cũng cố gán cho ông ý thức sai lầm này, chỉ để mọi người xem đó là một đức trung hiếu. ”[19, 261]

    Áp dụng chủ nghĩa Freudi một cách máy móc, Nguyễn Bách Khoa đã đánh giá lịch sử Truyện Kiều và Nguyễn Du bằng con mắt máy móc. Ông cho biết, Nguyễn Du là người có “cơ thể ốm yếu, thần kinh hoảng loạn”, sống đa sầu đa cảm, bị mắc chứng ảo giác và mắc chứng rối loạn thần kinh thực vật. Anh ta cho rằng Nguyên Du là người có trí tuệ cảm xúc quá mức khiến anh ta sợ hãi và hoảng loạn. Việc Nguyễn Du trở về lòng đất là nguyên nhân của “mộng mơ hoài cổ, mộng huyền mê tín”. Nguyễn Bách Khoa cho rằng, nghị lực sống, ý chí sống, chí khí của Nguyễn Du là do di truyền và tạo nên từ tư tưởng Nho học của tầng lớp Nho sĩ mà ông là thành viên. Vì vậy, giữa hệ tư tưởng và tiềm thức luôn xung đột và tạo nên “bi kịch tâm hồn”, đó cũng là nỗi niềm của Nguyễn Du. Nguyên nhân của những vấn đề này ở Nguyễn Du là mâu thuẫn giữa tư tưởng và tiềm thức. Nguyễn Bách Khoa đã thấy ở dòng họ Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng sâu sắc: “khí phách hiên ngang, bất khuất” của vùng Nghệ – Tĩnh, chính khí chất ấy đã làm cho anh em Nguyễn Du đủ sức, đủ dũng cảm và trung thành để tung hoành. một đội quân chống lại Tây Sơn, hy vọng khôi phục lại vương triều với toàn bộ quân thần. nhưng nó đã được xen kẽ với dòng dõi địa phương của một người mẹ. Mẹ của Nguyễn Du quê ở Bắc Ninh, vùng đất “tình đẹp”, “đất thương”. sự hòa hợp ấy đã tạo nên một thân phận lạ, một hệ thần kinh lạ, một trái tim lạ lùng: thi sĩ nguyễn du, “một con người luôn quẩn quanh sự bất lực của giai cấp, tính tình suy đồi của người cha, sự đa sầu đa cảm của Mẹ”. . cảnh tân thanh là sự thể hiện cá tính và đẳng cấp của tác giả: một người nhiều cảm xúc, dễ bị ảo giác, rối loạn hệ thần kinh … nguyễn bách khoa kết luận rằng nguyễn du là người bị bệnh thần kinh. bệnh của anh ấy thuộc loại bệnh không có tổn thương nội tạng.

    Dựa vào những phản ứng tâm lý, tình cảm của nhân vật Thúy Kiều khi đứng trước mộ Đạm Tiên, hay khi gặp gỡ, ân ái với Kim Trọng, Nguyễn Bách Khoa kết luận: Kiều mắc bệnh sốt phát ban. >

    nguyen bach khoa đã gần như phủ nhận hoàn toàn giá trị của truyện kiều khi cho rằng: “yếu tố cơ bản tạo nên truyện kiều là ấn tượng thành bại” [19, 288] nên nhìn vào tác phẩm, tác phẩm của câu thơ lục bát tạo nên truyện kiều, nguyễn bạc khoa “nhận ra bản chất bệnh tật của mình sinh ra từ một giai đoạn lịch sử dân tộc” [19, 299], “tang thi luc bat hop” với nguyễn du là vì nó có đủ điều kiện âm sắc để thể hiện chất thơ của tâm hồn nhà thơ và thể hiện những phẩm chất u uất, đêm khuya, trăng hoa, tuyệt vọng của truyện kiều “[19, 301]. Nguyễn Bách khoa lý. Giải thích rằng sức hấp dẫn thơ anh hùng và tính cách trữ tình của truyện kiều là do Nhân cách của nguyễn du, được bao hàm bởi hai yếu tố dòng dõi, đó là trí tuệ nghệ sĩ mạnh mẽ (từ cha ông) và tinh thần mẫu hệ của nền văn hoá bắc ninh (từ cha ông mẹ).

    Bài phê bình khoa học của nguyen bach khoa đã bị chỉ trích nặng nề bởi các nhà phê bình truyền thống, những người bác bỏ quan điểm cho rằng nguyen du là một kẻ thái nhân cách: “ông trích dẫn một loạt tên các nhà khoa học phương tây, với một loạt các tên khác nhau, và sau đó ông tuyên bố nguyễn du là một kẻ thái nhân cách thuộc một loại chứng cuồng loạn có hiến pháp nào đó, khi kiểm tra tính khí của anh ta, anh ta phát hiện ra rằng anh ta mắc một căn bệnh mà anh ta gọi là bệnh hoàng đế. Tôi không có nhiều kiến ​​thức y học như anh ta, vì vậy tôi không thể Nói cụ nguyễn du có bị bệnh thần kinh hay không, nhưng đọc xong sách nghiên cứu của chú, tôi thấy cụ cũng có tài… chữa bệnh ”. , 404], nguyen bach khoa lên án: “Câu thơ của luc bat chỉ là sản phẩm của sự nô dịch của một quốc gia trong giai đoạn lịch sử (thời kỳ bắc thuộc).

    Chúng tôi thấy rằng cách tiếp nhận truyện kiều của Nguyễn Bạc Khoa có những ưu điểm và hạn chế như sau: Nguyễn Biện Khoa đã nhận ra rằng mình phải dừng việc tiếp nhận truyện kiều theo cách mà chúng đã được thực hiện hàng trăm năm nay. để nhận truyện ở nước ngoài. thứ hai là nó đã bổ sung một cách tiếp cận khác đối với văn bản là thao tác phân tâm học để đọc văn học và phê bình văn học một cách chủ quan đối với thế giới khách quan trong phê bình văn học. Nhưng thêm vào đó, chúng ta thấy rằng Nguyễn Bách khoa có một số sai lầm là quá cứng nhắc trong việc sử dụng lý thuyết phương tây, ông sử dụng nó như một công cụ, một bộ “công cụ” để làm việc với các hiện tượng văn học Việt Nam, họ không thấy giới hạn của phân tâm học Freud bằng cách tuyệt đối hóa vô thức, phủ nhận vai trò của ý thức đối với hành động của con người. Những bài đọc của Nguyễn Bách rõ ràng là sự hiện đại hóa văn học trung đại. nhưng anh lại quên rằng không thể lấy suy nghĩ và hành động của người ở thời đại sau để bắt người ở thời đại sớm hơn phải suy nghĩ và hành động như vậy. Một số người đã so sánh cách làm này với việc ép một cô gái thế kỷ 18 phải giống hệt một cô gái thế kỷ 20 về văn hóa và tâm lý, mà quên rằng môi trường văn hóa của một xã hội nam quyền Nho giáo đã thay đổi. áp lực lên lối suy nghĩ và cách hành xử của người xưa.

    tóm tắt

    Truyện kể của

    từ khi ra đời đến năm 1945 đã được nhiều thế hệ độc giả đón nhận với những quan điểm và đánh giá khác nhau. mỗi độc giả mang đến một góc nhìn riêng cho câu chuyện. tuy nhiên, giai đoạn này do sự quy định của hoàn cảnh lịch sử nên việc đánh giá truyện kiều vẫn còn nặng về phê bình cổ trang và phê bình cổ điển. một số tác giả vẫn dựa trên quan niệm đạo đức của Nho giáo hoặc theo quan niệm của Phật giáo, có người lại rất phê phán, tìm kiếm cái hay của truyện kiều trong từng bức tranh, từng câu chữ. Hơn nữa, trong giai đoạn này chúng ta thấy có sự xuất hiện của những học giả bước đầu áp dụng các phương pháp khoa học vào việc nghiên cứu Truyện Kiều như Nguyễn Bách Khoa và một số trí thức phương Tây đương thời. Chính sự tiếp nhận Truyện Kiều ở giai đoạn này đã làm phong phú thêm đời sống tiếp nhận văn học ở Việt Nam đầu thế kỷ 20.

    • kỷ niệm chương trinh công – 2011-04-01 – 07:00:00
    • le dinh ky lý luận – phê bình văn học – 2008-09-13 – 11:45:20
    • sinh viên từ khoa nghệ thuật và ngôn ngữ đã giành giải nhất … – 2008-09-17 – 10:46:00
    • bài thuyết trình của khoa – 2012-04-07-07 : 00: 00
    • Chuyên đề văn học Việt Nam – 2008-12-28 – 02:54:30
    • Chuyên đề lý luận, phê bình văn học – 2008-12-28 – 02: 54: 57
    • văn học dân gian – 2008-12-28 – 02:55:25
    • văn học nước ngoài và văn học so sánh – 2008-12-28 – 02:55:44
    • sáng tác và phê bình sân khấu – điện ảnh – 2008-12-28 – 02:56:18
    • chữ Hán – 2008-12-28 – 02:56:32

    – 2008- 09-17 – 10:53:15

    XEM THÊM:  Cảm nhận 2 câu thơ cuối đoạn trích Chí khí anh hùng - Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

    Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Truyện Kiều qua các khuynh hướng phê bình văn hóa, giáo khoa, phân tâm học nửa đầu thế kỷ XX. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

    Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

    Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

    Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *