Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
967 lượt xem

Cảm nhận 9 câu đầu bài thơ đất nước

Bạn đang quan tâm đến Cảm nhận 9 câu đầu bài thơ đất nước phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Cảm nhận 9 câu đầu bài thơ đất nước

Nêu cảm nhận của anh / chị về 9 dòng đầu của bài thơ Đất nước – nguyễn khoa mục hay nhất, bạn đọc hãy tham khảo tài liệu, gợi ý các em hãy nêu dàn ý và tham khảo các bài soạn khác. văn bản mẫu đẹp bên dưới:

dàn ý cảm nghĩ 9 câu đầu của bài Đồng quê

giới thiệu:

– giới thiệu sơ lược về tác giả và tác phẩm:

+ nguyen khoa diem là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với phong cách thơ đậm chất trữ tình chính trị.

+ “quê hương” được trích từ chương v, bài thơ dài của hòn đá cuội khát vọng. sáng tác trong thời kỳ chiến trường miền Nam ác liệt. “Patria” ra đời với mục đích khơi dậy tinh thần yêu nước sâu sắc, kêu gọi thanh niên miền nam tham gia chiến tranh vệ quốc.

– trích 9 câu thơ đầu tiên.

+ nội dung chính: thể hiện quan niệm về cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điểm.

nội dung:

Luận điểm 1: Đất nước tồn tại bao lâu?

+ câu đầu tiên là câu trả lời cho câu hỏi đó:

“Khi ta lớn lên, quê hương đã có” – quê hương là một thứ gì đó thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi người, trong mỗi con người từ khi còn phôi thai.

+ tác giả cảm nhận đất nước về chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống thường ngày của mỗi người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” – & gt; gợi lên những bài học về đạo đức con người qua những câu chuyện cổ tích thấm đẫm tình cảm.

luận điểm 2: quá trình hình thành đất nước?

+ mở đầu bằng tục ăn trầu, gợi lại hình ảnh người bà quen thuộc, gợi lại sự tích trầu cau, gợi lại tình cảm anh em sâu nặng, thủy chung son sắt.

+ hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh con người Việt Nam cần cù, siêng năng, chịu thương, chịu khó. “Trưởng thành” nghĩa là nói về quá trình trưởng thành của đất nước, nói trưởng thành trong chiến tranh nghĩa là nói lên truyền thống đánh giặc bền bỉ, kiên trung.

+ thói quen chải tóc sau đầu để tập trung làm việc, gợi nhớ đến bài hát hòa bình và tình yêu nổi tiếng. nhớ về tình nghĩa vợ chồng sâu nặng qua những hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.

+ Tái hiện văn hóa nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn giản nhưng có ý nghĩa: “Hạt gạo phải được xay, nghiền, xay, sàng”. nghệ thuật liệt kê cùng với nhịp điệu liên hoàn thể hiện truyền thống lao động cần cù, nếp sinh hoạt đời thường.

+ nguyen khoa diem thâu tóm tất cả chỉ với một suy nghĩ: “Đất nước tồn tại từ ngày đó…”. dấu “…” ở cuối câu là một biện pháp tu từ thầm lặng, tuy chữ đã hết nhưng nghĩa vẫn còn, vẫn rạo rực và sôi sục.

= & gt; đất nước được hình thành gắn với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người Việt Nam, gắn với đời sống gia đình. cái gì làm nên đất nước cũng đã kết tinh trong hồn dân tộc. do đó, đất nước dường như thiêng liêng, tôn kính và rất gần gũi.

kết thúc:

– tóm tắt cảm nhận của em về 9 câu thơ đầu của bài hát đồng quê

– khẳng định đất nước đối với nguyễn khoa học là bình thường và gần gũi nhất.

xem thêm:

  • phân tích lược đồ bài viết đất nước của nguyễn khoa điểm
  • bản đồ tư duy đất nước – nguyễn khoa điểm

văn mẫu cảm nhận 9 dòng đầu của bài thơ Đất nước

bài đăng số 1

ai đó đã từng nói: “nếu mỗi người không thuộc về Tổ quốc, về quê hương thì như chim không tổ, cây không gốc…”. và có người cũng đã từng hỏi: “Có tình yêu nào sâu sắc hơn tình yêu quê hương đất nước?”. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy, bao tâm hồn thơ đã cất cánh. con nguyễn đình thi là hình ảnh đất nước đau thương, căm thù giặc, vùng lên chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. với lê anh xuân là dáng đứng của đất nước bay về bát ngát mùa xuân. với xuân điều đó là vẻ đẹp của đất nước “quê hương ta như con tàu, mũi tàu rẽ sóng mau”. đặc biệt là cuối năm 1971, từ chiến trường lặng gió khói lửa, Nguyễn Khoa Điểm đã đóng góp một bài thơ hay về chủ đề đất nước qua đoạn trích: “Đất nước” – bản hùng ca “bề mặt khát vọng”. Đoạn trích này để lại ấn tượng trong lòng người đọc với một tư tưởng mới về đất nước: “Đất nước của nhân dân” được thể hiện qua chín câu thơ đầu:

“Khi đất nước lớn mạnh, đất nước đã có…

đất nước của ngày đó… ”

Nguyễn Khoa Điểm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ học của đất nước. Ông xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước, ông sớm tham gia cách mạng và bị địch bắt. thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc thiết tha và những suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước. Kết tinh của hồn thơ ấy phải kể đến “đất nước”, một đoạn trích trong chương V của sử thi “phố khát vọng”, viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn ác liệt. lúc bấy giờ, phong trào chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền Nam ngày càng trở nên mạnh mẽ và sôi nổi, tiêu biểu là phong trào học sinh xuống đường đấu tranh. Từ chiến trường hòa bình khói lửa, Nguyễn Khoa Điểm đã sáng tác nên bản hùng ca “Mặt đường khát vọng” mang thêm những vần thơ đẹp đẽ về đất nước, lay động và thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người, nhất là tuổi trẻ đối với Tổ quốc. và quốc gia.

nguyen khoa diem mở đầu phần trích thơ của mình với câu trả lời cho câu hỏi: “Đất nước bắt đầu từ khi nào?”:

“khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”

Hai chữ “quê hương” vang lên trên trang văn đầy ắp tình cảm yêu thương. độc giả sẽ nhận thấy một điều hơi kỳ lạ là xuyên suốt khổ thơ này, từ “đất nước” được viết hoa. Khi chia sẻ về lý do tại sao lại trình bày điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã giải thích rằng đất nước không đơn giản chỉ là một mảnh đất vô tri vô giác, đất nước là một nhân vật, một sinh thể có linh hồn, và ông cũng đồng tình với cách viết này. thời gian của bài viết thể hiện sự tôn trọng của tác giả. cho những tình cảm chân thành, thiêng liêng và trân trọng đối với đất nước. điệp khúc “đất nước” vang vọng xuyên suốt bản anh hùng ca như một khúc ca thiết tha khơi gợi cảm xúc, đưa ta vào một không gian trải dài từ quá khứ, hiện tại và tương lai. hai chữ thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ văn của cụ mà còn “kết bạn” với nhiều thi nhân khác:

“Việt Nam, đất nước của tôi

còn đâu biển lúa mênh mông và bầu trời đẹp hơn

cánh cò bay phấp phới

mây bao phủ đỉnh núi vào đầu giờ chiều ”

(nguyen dinh thi)

hay

“Đất nước tôi gầy và gầy.

Hãy lắng nghe nỗi đau của mẹ bạn.

Ba lần nói lời chia tay, hai lần khóc thầm.

các bạn không về nhà, im đi… ”

(cảm ơn yên)

và đất nước như thế trở thành một từ thiêng liêng trong trái tim của bất kỳ ai, miễn là trái tim đó không ngừng đập trong lồng ngực bé nhỏ. Ý thơ của nguyen khoa diem đề cập đến những vấn đề thời sự, chính trị nhưng lại dùng đại từ “ta” để diễn tả cuộc trò chuyện thân mật giữa chàng trai và cô gái, giữa “anh” và “em” về đất nước. người con trai ở đây – “ta” dường như đang cố gắng giải thích và lý giải về nguồn gốc và sự lớn lên của đất nước với người con gái mình yêu. tuy nhiên, nếu mở rộng nghĩa thơ thì “ta” ở đây cũng có thể coi là mọi người, là một cách bao hàm để đại diện cho dân tộc Việt Nam.

cách tiếp cận làm cho một vấn đề trừu tượng và lớn như vấn đề ở quốc gia này trở nên gần gũi, rõ ràng và cụ thể. điều này thể hiện rõ phong cách trữ tình – chính luận của tác giả. nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước qua ba từ: “đã rồi” khiến hình ảnh đất nước bỗng nổi bật và hiện hữu trong lòng người đọc. Theo cách lý giải của nhà khoa học Nguyễn Văn thì “quê hương là giá trị trường tồn, vĩnh cửu, quê hương được tạo dựng, được hun đúc qua nhiều thế hệ, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. nên “khi ta lớn lên, đất nước đã có!”. câu nói này thể hiện niềm tự hào mạnh mẽ về sự trường tồn qua hàng nghìn năm lịch sử của đất nước. đất nước giống như trời và đất, khi ta sinh ra đã có đất và đất cũng vậy, không biết đất nước hình thành từ bao giờ, ta chỉ thấy hiện hữu quanh ta với những gì ta yêu quý nhất.

Những dòng sau tác giả mở ra và làm rõ vấn đề cần nêu ở dòng đầu: “đất nước có từ lâu đời”. ngược về quá khứ xa xăm, tuổi thơ của mỗi người lớn lên trong những lời ru, câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ:

“Đất nước ở những nơi“ ngày xửa ngày xưa… ”mà mẹ đã từng kể”

Tác giả đã mượn tư liệu bình dân để miêu tả sự ra đời của đất nước. bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” đưa ta đến một miền xa và sâu. nơi có hình ảnh người phụ nữ hiền lành, đấng sinh thành lương thiện, ông tiên bà tiên với những kỳ tích cứu giúp người lành bệnh hoạn, … là người Việt Nam, ai mà không biết đến những câu ca dao lịch sử gắn liền với tuổi thơ êm đềm ấy. và đất nước chứa đựng trong những điều cổ xưa đó, tức là đất nước xuất hiện trước những câu chuyện này đã có mặt trong những bảo vật bình dân đầy màu sắc. khi truyện cổ hiện diện trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta thấy trong đó hình bóng đất nước. Đây là đất nước của một nền văn hóa dân gian độc đáo với những câu chuyện, sự tích và truyền thuyết. chính những câu chuyện, lời ru của gia đình là nguồn sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng tới những điều tốt đẹp. nhà thơ lam thi my da đã rất xúc động khi viết về ý nghĩa của kho tàng truyện cổ:

“Ta yêu thích những câu chuyện cổ của nước ta vừa hay vừa kỳ vĩ, ta vô cùng thương người thì thương ta, ta yêu nhau dù ở xa, cũng gặp người ở hiền, rồi ta. gặp hiền nhân ngay lập tức, thì chúng ta sẽ nhận được sự giúp đỡ của phật và bất tử. mang đến những câu chuyện cổ tích tôi nghe trong đời thì thầm giọng xưa, nắng vàng, mưa trắng, dòng sông chảy với hàng dừa nghiêng mình. ”

Không chỉ trong “ngày xửa ngày xưa”, nguyễn khoa học còn nhận định rằng thuở sơ khai qua nếp sống giản dị đã trở thành một phong tục tốt đẹp của dân tộc ta, đó là tục ăn trầu:

“Đất nước bắt đầu từ miếng trầu, bây giờ ăn nên làm ra”

Hình ảnh đất nước rộng lớn đối lập với hình ảnh miếng trầu nhỏ. hình thức câu thơ tưởng như phi lí nhưng lại vô cùng hợp lí xuất phát từ chân lí: “việc lớn bắt đầu từ việc nhỏ”. bài thơ gợi nhớ đến một câu chuyện cổ tích: “Sự tích trầu cau” được coi là cổ tích xưa nhất. Phong tục ăn trầu của người Việt cũng có nguồn gốc từ câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ được nhắc đến đã chứa đựng 4.000 năm lịch sử, 4.000 năm phong tục tập quán hiếu khách: “miếng trầu là đầu lịch sử”. Từ lâu, miếng trầu đã trở thành một hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam: trầu cau giao duyên, trầu cau cưới hỏi… và từ đó, hình ảnh này đã trở nên quen thuộc. bằng thơ:

“những người thợ cắt tóc răng đen cười như nắng mùa thu”

(hoàng đế)

Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp đã trở thành cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh đến quá trình trưởng thành của dân tộc cùng với truyền thống 4000 năm đánh giặc giữ nước của dân tộc. ta:

“Đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre, biết đánh giặc”

hai từ “lớn lên” để chỉ sự trưởng thành của đất nước. câu thơ gợi cho người đọc liên tưởng đến hai hình ảnh: cây trúc và sự tích “thánh gióng”. Từ bao đời nay, cây tre không còn là hình ảnh xa lạ trong đời sống của người Việt Nam. đã đi vào các tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm giá của người Việt Nam như:

“Tre xanh mọc từ khi nào? chuyện xưa … có lũy tre xanh thân gầy, lá dòn mà sao thành lũy tre? muôn nơi, lũy tre vẫn xanh tươi dù mặt đất sỏi đá, nền vôi bạc màu ”

(nguyen duy)

Người Việt Nam như những cây tre thẳng tắp, vững chãi và kiên cường. cây tre ấy còn gắn liền với hình ảnh của chàng trai san gấm lớn lên trở thành anh hùng, nhổ tre bên vệ đường giết giặc giữ nước Việt Nam:

“Ta như thiên cổ, đồng bỗng lớn lên đánh giặc an”

(có thể)

Kể từ đó, thánh nhân đã trở thành biểu tượng mạnh mẽ của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất. truyền thống vẻ vang đó đã tiếp nối trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã có biết bao cô gái, chàng trai sẵn sàng ra tiền tuyến. họ ra đi với lời thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong những năm tháng ấy và những năm tháng sau này, truyền thống yêu nước luôn là cội nguồn, là dòng dõi trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta.

Cùng với đó, đất nước có bề dày lịch sử gắn liền với những phong tục tập quán tốt đẹp. nhà thơ nhắc đến tục tết tóc của phụ nữ Việt Nam trong suốt câu thơ:

XEM THÊM:  Qua Đèo Ngang Chế Hay ❤️ Bài Thơ Chế Hài Hước Nhất

“Tôi buộc tóc sau đầu”

Vì công việc gieo sạ lúa nước, người phụ nữ phải lội qua ruộng nên người phụ nữ phải chỉnh tóc. theo thời gian, nó trở thành nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. phần tóc được búi cao sau gáy mang đến cho bạn nữ vẻ đẹp rất nữ tính và trong sáng. vẻ đẹp đó gợi cho độc giả của chúng tôi nhớ đến bài hát nổi tiếng:

“Tóc tôi dài đến mức có thể khiến trái tim tôi rối lên”

(tiếng lóng)

không chỉ vậy, nguyen khoa diem còn cảm nhận đất nước qua nếp sống, tình cảm gắn bó giữa con người với nhau, tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa vợ chồng thủy chung: “Cha mẹ thương nhau muối gừng cay”. Trong kho ca dao, tục ngữ có câu:

“tay cầm một đĩa muối và gừng

gừng cay mặn nồng xin đừng quên ”

Muối và gừng là những gia vị quen thuộc trong các món ăn của người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm mượn câu ca dao, mượn vị mặn của muối và vị cay nồng của gừng để nói về tình yêu thắm thiết bền lâu, tình cảm thủy chung, gắn bó khăng khít của vợ chồng để tạo thành một gia đình đầy hạnh phúc và yêu thương. Đó cũng là một truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc ta.

Không chỉ vậy, đất nước từ lâu đã tồn tại trong quá trình phát triển của cuộc sống hàng ngày. tác giả cũng cảm nhận được cội nguồn của đất nước từ mệnh giá bình dị: “dầm, cột thành tên”. Tiếng Việt có từ lâu đời, bắt nguồn từ việc đặt tên cho các đồ vật quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, lấy tên các đồ vật đó để đặt tên cho con. vì xưa nay người Việt cho rằng tên càng xấu càng dễ gây giống. Hơn thế nữa, đó là ấn tượng của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống cần cù, chịu khó của người Việt Nam gắn liền với một nền văn minh nông nghiệp.

để đất nước có được như ngày nay, không thể không kể đến công lao trời biển của tổ tiên, đó là quá trình dựng nước. nhà thơ chọn một nghề tiêu biểu nhất của nông nghiệp là nghề trồng lúa nước: “hạt gạo phải được xay, nghiền, xay, sàng”. thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với hàng loạt động từ “xay, nghiền, xay, sàng” đã miêu tả rất cụ thể công việc của người nông dân, kèm theo đó là sự vất vả. Thơ của nguyen khoa diem như một câu ca dao, cũng là một lời khuyên:

“Ai đang bưng một bát đầy cơm?

hương thơm, một hạt đắng cay. ”

Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên sự cần cù, chịu thương, chịu khó của ông cha ta. làm ra một hạt gạo để ăn hàng ngày là một quá trình gian khổ. Thấm vào hạt gạo bé nhỏ ấy là những giọt mồ hôi mặn nồng, những vất vả của những người nông dân cần mẫn từ sáng. đất nước ta trưởng thành từ gian khổ, lam lũ, một nắng hai sương như thế.

và sau tất cả những diễn giải đó, tác giả khẳng định lại cội nguồn của đất nước với niềm tự hào mạnh mẽ nhất:

“đất nước ngày đó”

“ngày đó” là một từ trung lập về thời gian. Tôi không biết chính xác là ngày nào, nhưng tôi biết rất rõ một điều: đất nước ta đã có từ rất lâu đời. từ đó có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, những phong tục khởi đầu tốt đẹp, những truyền thống đánh giặc bảo vệ đất nước và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ từ ngàn đời nay. Nguyễn Khoa Điềm đã lồng ghép những nét đẹp nhất của văn hóa vào thơ mình một cách chân thực và tự nhiên để mỗi độc giả hiểu rằng văn hóa là đất nước và chúng ta phải có trách nhiệm hiểu và giữ gìn những giá trị, giá trị nền tảng này.

chín dòng thơ không chỉ thuyết phục bởi tư tưởng chính trị mà còn đi vào lòng người bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. trong bài thơ, cấu trúc câu “đất nước đã”, “đất nước bắt đầu”, “đất nước lớn mạnh”, “đất nước có từ” khiến ta có thể hình dung được toàn bộ quá trình ra đời, trưởng thành, lớn mạnh của đất nước trong thời Giai đoạn. thời tiết. kết hợp với đó là phép ám chỉ “có” kết nối những hình ảnh tưởng như không thể tách rời thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự tồn tại của cả truyền thống và tình cảm sâu nặng đối với đất nước như một nét riêng không thể phân biệt. nhà thơ cũng khéo léo sử dụng cách nói tự nhiên, giản dị, mang đậm màu sắc dân gian quen thuộc nhưng ở một thể loại rất mới: thể loại sử thi.

Nhìn lại bài thơ, chúng ta thấy rằng nguyễn khoa điểm sử dụng một cấu trúc cộng – chia – kết hợp rất chặt chẽ. bài thơ có sự hài hòa giữa chất trữ tình – chính luận, vừa viết có chiều sâu văn hóa trí tuệ, vừa viết bằng cảm xúc rung động nên dễ đi vào lòng người. Trước câu hỏi “Đất nước ra đời từ bao giờ?”, Nguyễn Khoa điểm suy nghĩ, lựa chọn những chi tiết, hình ảnh rất đỗi quen thuộc trong cuộc sống gia đình, cuộc sống công việc hàng ngày, trong lịch sử xa xưa và tình yêu thương giữa những người thân yêu nhất. Lịch sử nước ta không được lý giải bằng các triều đại kế tiếp nhau, các sự kiện lịch sử quan trọng mà bằng đời sống văn hóa tâm linh, các phong tục tập quán cổ truyền.

Như vậy, từ cội rễ sâu xa của quá trình sinh ra, lớn lên và phát triển, đất nước đã gắn liền với nhân dân. do đó, tư tưởng thể hiện qua chín dòng thơ là tư tưởng “đất nước nhân dân” – ý chính của đoạn văn, đã thấm nhuần từ ý tưởng đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. . Tư tưởng này không mới đối với Nguyễn Khoa Điềm, nhưng nó đã được khẳng định từ lâu trong lịch sử văn học dân tộc. Lật lại từng trang lịch sử của dân tộc, có thể thấy tư tưởng đất nước – con người đã trải qua nhiều biến động trong từng thời kỳ.

Vào thời Trung Cổ, khái niệm đất nước gắn liền với việc tưởng nhớ các vị vua: “nam quốc sơn hà”, gắn với các triều đại: “chảo ngo đại cao” – nguyễn trai. nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần hưng đạo, Trạng nguyên đã nhận thấy vai trò to lớn của nhân dân đối với đất nước. Trần Hưng Đạo đã từng dâng vua một kế sách: “Muốn đánh thắng giặc thì phải biết kiên nhẫn, sức dân mới làm nên sức sâu, bền chắc”. Nguyễn Trãi đã từng nói: “Lật ngược thuyền mới biết lòng dân như nước”, và Nguyễn Trãi cũng đã từng nói: “Thiên cổ vi nhân”.

Ở thời hiện đại, một số nhà văn yêu nước như Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh cũng thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của con người. phan chau trinh từng nhấn mạnh: “dân là nước, nước là dân”, cho đến thời đại Hồ Chí Minh, Bác vẫn luôn nhắc nhở “Đảng ta phải biết lấy dân làm gốc” dù ở thời đại nào. các nhà chính trị, các nhà tư tưởng lớn vẫn thấy rõ vai trò và sức mạnh của nhân dân đối với đất nước. những con người gánh trên vai đất nước trải qua cuộc trường chinh, cũng như thu hồi đất đai, bao la vùng biên cương. điều này, các nhà thơ, nhà văn hiện đại đã nhận thức rõ ràng và sâu sắc. tuy nhiên, để tư tưởng “đất nước của nhân dân” trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt những biểu hiện tinh túy nhất của hình ảnh đất nước, được cảm nhận một cách toàn diện và sâu sắc trên nhiều phương diện, thì đóng góp độc đáo của cụ Nguyễn Khoa Điểm thực sự là một viên ngọc sáng lấp lánh.

Thành công trong việc thể hiện tư tưởng dân tộc của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình một chất liệu văn hoá rất phù hợp là văn hoá dân gian. Tôi vẫn biết chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ và trái tim là người nghệ sĩ. tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn học dân gian trong tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng là tục ngữ ca dao, ca dao, sông nước, truyện cổ tích, phong tục tập quán được Nguyễn Khoa Điềm chiêm nghiệm, chọn lọc trên cơ sở vốn hiểu biết sâu rộng và đầy đủ.

Chín dòng đầu của mảnh “quê hương” của sử thi “vỉa hè khát vọng” là lời khẳng định một tư tưởng mới “quê hương thuộc về nhân dân”, là lời giải thích hoàn hảo cho những thắc mắc của người đọc về câu hỏi: “Nước có từ bao giờ và là nước của ai?” một cách giải thích, lý giải mới, phải chăng không phải nơi ta đang sống, mọi thứ xung quanh ta, mọi thứ thuộc về quê hương, những câu hỏi còn vương vấn về quê hương, quê hương, mới là những điều nhớ đi nhớ lại, để rồi độc giả có thể liên tục tìm kiếm những điều mới mẻ và thú vị trong thơ ca và văn học:

“Tổ quốc là gì, cô giáo dạy yêu tổ quốc là gì?”.

theo dõi 2

Đất nước từ lâu đã là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Lấy cảm hứng từ chủ đề quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có một lối đi riêng. Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất nước với các thi nhân khác thuộc về huyền thoại, anh hùng, nhưng với tôi, nó thuộc về những con người, những con người vô danh”. “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh đất nước bình dị và gần gũi nhất có thể”. Được trích từ sử thi “Mặt đường khát vọng”, trích đoạn “Đất nước” là sự kết tinh những sáng tạo độc đáo, mới lạ của nhà văn Nguyễn Khoa Điếm. Với 9 dòng mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc vào lịch sử dân tộc để trả lời câu hỏi đất nước có từ bao giờ:

khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có nó

đất nước nằm trong những “ngày xửa ngày xưa …” mà mẹ thường nói

Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà bây giờ nó đã ăn được

đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc

Tóc của mẹ được vén ra sau

cha mẹ thương nhau gừng cay

chùm, bài trong tên

gạo phải được xay, giã, xay, rây

đất nước của ngày đó …

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ học của đất nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bằng những cảm xúc sâu lắng, nhiều chiêm nghiệm. bài thơ đất nước là đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật đặc sắc đó. đất nước là phần đầu của chương v sử thi “phố khát vọng” – tác phẩm ra đời năm 1971, giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ác liệt.

đất nước ra đi một cách trang trọng nhưng rất đỗi bình dị và gần gũi:

khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có nó

đất nước của “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ chúng tôi đã nói với chúng tôi

đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà bây giờ nó ăn được

đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc

đất nước vốn dĩ là một giá trị bền vững và vĩnh cửu; đất nước được tạo dựng, nó được xây dựng qua nhiều thế hệ, nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: khi chúng ta lớn lên thì đất nước đã có. đứng trước non nước thiêng liêng ấy, thơ trào dâng bao niềm xúc động và trân trọng. hai chữ “đất nước” được viết hoa trang trọng. do đó nhà thơ thể hiện niềm tự hào và trân trọng đối với đất nước của mình. khi tôi cất tiếng khóc chào đời, khi tôi lớn lên, đất nước đã tồn tại. đất nước tồn tại từ bao giờ? / Ngẫm lại cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điểm chợt phát hiện ra: Đất nước có từ xưa mẹ tôi kể / Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn. Quê hương đất nước vừa cổ kính vừa bình dị hiện lên trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. đất nước là nền văn hóa kết tinh của tâm hồn người Việt Nam. Từ truyện cổ tích, truyện cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu, lòng thủy chung son sắt của dân tộc. Cùng với tục ăn trầu, nước còn gắn với các phong tục khác:

Tóc của mẹ được vén ra sau

chùm, bài trong tên

thân thương, mộc mạc biết bao nhiêu cái cúi đầu sau lưng mẹ, những nếp nhà dựng vì kèo, cột, mái tranh, vách rơm, vách đất; là một cách đặt tên con đơn giản. những con vật mộc mạc và thân thiện như thế cũng là một phần của đất nước. và đất nước lớn mạnh khi nhân dân biết trồng tre để chống giặc. hình ảnh đất nước đã quá quen thuộc với lũy tre xanh, những chồi non đâm chồi nảy lộc. Có thể thấy từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm văn thơ hiện đại, cây si đã trở thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần đánh giặc cứu nước, là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người con. . từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, khơi dậy niềm tự hào và niềm tin dân tộc. giọng thơ sâu lắng, da diết làm nên những suy tư về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí mà vẫn tha thiết, trữ tình. cách cảm nhận và lí giải về cội nguồn của đất nước bằng những hình ảnh giản dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất nước gần gũi, thân thuộc và bình dị trong cuộc sống của mỗi người.

với nguyen khoa diem, đất nước ẩn mình trong những điều nhỏ nhặt nhất. đất nước ẩn mình trong hạt muối, một nhánh gừng; TÌNH CẢM TRONG TÌNH YÊU CỦA PHỤ HUYNH: Cha mẹ thương nhau bằng muối, gừng cay. Được chắt lọc từ văn học dân gian, câu ca dao chứa đựng những ý tưởng lâu đời. Dù sống cuộc đời nghèo khó, vất vả nhưng cha mẹ chúng ta vẫn yêu thương nhau như gừng cay muối mặn, trước sau vẫn gắn bó, mặn nồng, kiên định. quê tôi thật giản dị và ngọt ngào. hình ảnh quê hương còn hiện diện trong từng tai lúa, củ khoai: hạt lúa phải được xay, nghiền, xay, sàng. hình ảnh thơ giản dị nhưng gợi ra tập quán sản xuất gắn liền với nền văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam. Để làm ra những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm thơm dẻo, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng. hình ảnh thơ gợi bao nỗi vất vả, khó nhọc, vất vả cùng với đức tính cần cù, chịu khó của những con người chân lấm tay bùn.

XEM THÊM:  Giáo án ngữ văn 8 bài cô bé bán diêm

9 dòng đầu tiên khép lại bằng một bài thơ bốn câu tóm tắt thời điểm đất nước hình thành: đất nước có từ ngày ấy. date vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là đại từ thay thế. nên đất nước tồn tại từ khi mẹ kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân tộc ta biết trồng tre đánh giặc, trồng lúa, củ khoai, biết ăn trầu, biết làm nũng, biết sống có tình nghĩa, chung thủy. . lịch sử đất nước thật bình dị, thật gần mà thật xa, thật thiêng liêng.

Bài thơ chín câu tám mươi lăm chữ đầy dung dị và thân thuộc với cuộc sống. Tính triết lí trong dòng tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa có sức thuyết phục. Chỉ bằng một vài câu thơ ngắn gọn và tinh tế, nhà thơ đã đi đến một kết luận khẳng định “Đất nước có từ ngày ấy …” và do nhân dân lao động tạo ra, để ngày nay chúng ta được hưởng hạnh phúc một cách cụ thể và thiết thực chứ không phải một cảm giác mơ hồ chỉ thuộc về quá khứ.

xem thêm: bài giới thiệu hay về bài thơ đất nước

bài 3 – cảm nhận 9 câu thơ đầu của bài đồng dao

Bài thơ Đất Nước, trích trong sử thi Khát vọng mặt đường của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, là một bài thơ hay và xúc động về tình yêu của một người con đất nước đối với quê hương thân yêu của mình. bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, giàu giá trị văn hóa và nhân văn, được thể hiện qua 9 dòng đầu của bài thơ.

đất nước là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng nhưng rất gần gũi:

“Khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có rồi

đất nước ngày xưa mà mẹ tôi thường kể về

đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà bây giờ nó đã ăn được

đất nước lớn mạnh khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc… ”

bốn từ “ngày xửa ngày xưa” rất quen thuộc với chúng ta. nó xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể, trong những lời ru chân thành của người mẹ ru con vào giấc ngủ ngon. nó cho thấy sự kỳ diệu của sự ra đời và phát triển của đất nước, về những nét đặc trưng rất riêng của con người cả nước. hình ảnh đất nước đồng thời bình dị, gần gũi và vô cùng thiêng liêng bởi nó gắn liền với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng bằng sự trao truyền từ đời này sang đời khác, những “thuở xưa” ấy là bao kỉ niệm cho những người lịch sử. và toàn bộ văn hóa. thành tích trong quá khứ. Đất nước được nói đến qua các khía cạnh, bắt đầu bằng miếng trầu, biểu thị rằng đất nước đã được định hình thành một lối sống có ý nghĩa. “Miếng trầu mở đầu câu chuyện” thể hiện lối sống giản dị, chân chất của người dân tứ xứ. lối sống ân cần đó đã trở thành truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. đất nước được hình thành trong tình yêu thương nhưng lớn lên và trưởng thành qua cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc

“Mái tóc mẹ chải sau mái đầu cha mẹ thương yêu với gừng mặn cay, cột kèo trở thành tên hạt gạo phải xay, giã, nát, rây”

“Tóc mẹ hất ra sau đầu” hình ảnh người phụ nữ Việt Nam buộc tóc sau đầu, hình ảnh rất gần gũi, thân quen đã khắc sâu trong suy nghĩ, gợi bao suy nghĩ về con người trong cuộc sống bộn bề. duyên dáng, xinh đẹp, dịu dàng, dũng cảm. hình ảnh ấy qua năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn chiêm ngưỡng vẻ đẹp giản dị mà thiêng liêng.

Đất nước còn xuất hiện gắn với lối sống cao đẹp, là cội nguồn của sự sống, đó là ân nghĩa vợ chồng. Người Việt Nam xưa nay luôn coi trọng đạo lý, coi hôn nhân gia đình là thiêng liêng, đáng trân trọng. cha mẹ sinh ra đã coi điều đó không phải là nuôi dạy con cái hết trách nhiệm mà đó là tình yêu thương, là niềm vui của tình cảm gia đình, càng vui hơn. cuộc sống tuy vất vả nhưng lòng chung thủy, son sắt “vợ chồng đánh biển đông cũng cạn” đã giúp người Việt vượt qua tất cả. cuộc sống bấp bênh, nhiều khó khăn, vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối bỏ bể”, nhưng chính vì thế mà người ta càng quý trọng hạnh phúc.

ý thơ tuy giản dị nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc. tình yêu thương được sinh thành và nuôi dưỡng từ nghèo khó, từ hoàn cảnh khó khăn thật đáng quý biết bao. đó là lối sống nghĩa tình, thủy chung đã trở thành truyền thống thiêng liêng được truyền từ đời này sang đời khác. cũng chính tình cảm quý báu đó là tấm gương, là bài học quý báu cần truyền lại cho các thế hệ mai sau về cách sống nhân hậu, nhân hậu.

Nông thôn còn gắn liền với những hình ảnh “cây xà, cái đăng” giản dị, mộc mạc, nhưng chính những điều bình dị, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, phố thị, quê hương, đất nước. đất nước hiện lên qua cuộc sống lao động: “hạt gạo phải được xay, giã, xay, sàng”. sự hình thành và phát triển của đất nước là một quá trình lâu dài, nhờ mồ hôi công sức, một nắng hai sương. người lao động đã biết “xay, giã, xay, sàng” để tạo ra những hạt gạo xây dựng quê hương đất nước phồn vinh. những bức ảnh trên đều rất gần gũi và chân thực. Cũng chính để vươn lên, trưởng thành trong gian khó, nhân dân ta mới biết yêu thương nhau, biết đoàn kết hơn, biết quý trọng giá trị của công việc và hun đúc ý chí kiên cường, dũng cảm.

nguyen khoa diem có một góc nhìn rất gần gũi và quen thuộc để mô tả đất nước. đến với bài thơ ta càng hiểu thêm quê hương đất nước với những truyền thống, văn hóa đáng trân trọng và ngợi ca. quê hương trong chúng ta là tình cảm gần gũi và thân thương nhất.

xem thêm: phân tích quốc gia

bài 4 – cảm nhận 9 câu thơ đầu của bài đồng dao

Văn học kháng chiến 1945-1975 trong dòng chảy ngầm mãnh liệt của cuộc đời không chỉ ghi lại dư âm nồng nàn của thời đại mà còn tạc nên tượng đài nghệ thuật của đất nước thật nên thơ và đẹp đẽ. Đó là một đất nước hiện thân trong một phần hồn của kinh bắc, thấm đẫm màu sắc văn hóa dân gian, tình yêu dịu dàng, quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ ca cung đình. một đất nước tươi đẹp nhưng đau thương với sức khỏe “rũ bùn vươn cao” được thể hiện một cách sinh động trong những vần thơ của Nguyễn Đình Thi. khi bước vào trang thơ của cụ Nguyễn khoa bảng, đất nước hiện lên một cách trọn vẹn, đất nước mà nhân dân đã làm ra muôn đời, đất nước của nhân dân. Chín dòng đầu của bài thơ La Patria đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng bao thế hệ độc giả.

nguyen khoa diem thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. thơ ông pha trộn nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chính luận với sự thăng hoa cảm xúc và trí tuệ trong thơ. nó không chỉ là thành quả của một khối óc phong phú, một khối óc nhạy bén mà còn là kết quả của một tấm lòng, một trái tim biết lay động đến tận sâu thẳm tâm hồn người đọc.

chín câu đầu của đoạn trích Đất nước đã tô đậm dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điểm qua nghệ thuật chắt lọc tinh tế văn hóa và văn học dân gian:

“Khi chúng ta lớn lên, đất nước có nó. Đất nước có nó trong” ngày xưa … “Mẹ tôi thường nói với tôi rằng đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ khi đất nước lớn lên thời dân mình đã biết trồng nếu tre chống tóc mẹ thì đào sau đầu cha mẹ thương nhau chấm muối cay, cái giáp, cái sào làm nên tên hạt gạo thì phải mài. , giã, nát, rây lấy nước có từ ngày đó … “p>

Theo ý kiến ​​của nguyễn khoa học, đất nước đã có từ lâu đời từ xa xưa được đưa vào những câu chuyện cổ tích mẹ tôi kể, Đất nước bắt đầu từ sự ra đời của những phong tục tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn đời nay . đất nước lớn mạnh từ thuở hàn vi, biết trồng tre đánh giặc, biết bảo vệ đất nước như trai làng. một loạt các hình ảnh mang màu sắc dân gian kết hợp với các động từ tiến bộ cho ta cảm giác đất nước là một tổ chức của quá trình lớn lên của một mối quan hệ ấm áp của con người và của quá khứ: gian khổ, mất mát, hy sinh. trong thơ đất nước của Trạng nguyên khoa bảng, cội nguồn của đất nước không phải là những trang sử hào hùng, những chiến công lừng lẫy của đại hoang, mà là những truyền thuyết, huyền thoại và những phong tục tập quán riêng biệt đã hình thành từ hàng nghìn năm nay. nhiều năm. đây là điểm mới trong con đường tìm về cội nguồn đất nước của nhà thơ.

một bài thơ ngắn nhưng gợi nhớ rất nhiều về nét đẹp văn hóa dân gian của gia đình. tục ăn trầu mời trầu trong giao tiếp, nét đẹp trong văn hóa ứng xử:

“trầu này trầu cau, trầu yêu trầu cau trầu cau lấy anh”

có:

“gặp nhau ăn miếng trầu không đành lòng”

Tục lấy tóc sau gáy của phụ nữ Việt Nam xưa

“Tóc mẹ vén ra sau đầu” “Tóc mẹ dài như bạn làm nên khi dài, lòng mẹ rối bời”

Không chỉ vậy, một nét văn hóa cổ xưa – đặt tên con theo những vật dụng thông thường trong đời sống hàng ngày – ngoài ra còn sống lại trong từng câu thơ “vì kèo, cột thành tên”. Nơi đây còn là kho truyện cổ tích Việt Nam mà cứ 4 tiếng đồng hồ là mọi người lại nhớ về một thế giới cổ tích, truyền thuyết sắp hiện ra trong tâm trí mình. là truyện cổ tích trầu cau, thấm đẫm tình nghĩa anh em thủy chung son sắt, là truyền thuyết về các vị thánh đánh giặc ngoại xâm như một bản hùng ca hào hùng biểu tượng cho sức mạnh kì diệu của truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam từ buổi bình minh dựng nước và giữ nước. đất nước được tạo nên bởi tình nghĩa son sắt, thủy chung “cha mẹ thương nhau muối cay gừng”. muối và gừng là cặp biểu tượng luôn gắn kết, đi về cùng nhau trong nhiều bài thơ tình, là minh chứng cho một tình yêu bền vững:

“với chén muối trong tay, đĩa gừng cay, muối mặn xin đừng quên” “muối ba năm vẫn mặn, gừng chín tháng vẫn mặn, gừng vẫn cay, nếu ta có ân tình sâu nặng thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa ”

Từ ngàn năm trước, thơ ca đã âm thầm lan tỏa, ngân nga như tiếng nói của lòng đất nước, đúc kết quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của đất nước với bao gian khó

“Hạt gạo phải được xay, nghiền nhỏ, dần dần, sàng lọc”

Những động từ và phép liệt kê cụ thể như thể hiện sự vất vả của những người nông dân chân lấm tay bùn để vun đắp cho quê hương ngày càng giàu đẹp. Chỉ là một hạt gạo nhỏ nhưng làm được nó là mồ hôi nước mắt, mất mát và hy sinh rất nhiều.

nguyen khoa diem đã vận dụng một cách sáng tạo những chất liệu dân gian quen thuộc. nhà thơ không trích dẫn nguyên văn những câu thơ trong truyện cổ tích,… mà chỉ gợi lại những hình ảnh mang nét đẹp truyền thống đã từng tồn tại trong văn hóa của dân tộc Việt Nam. Điều này đã được khẳng định trong tư tưởng đất nước do nhân dân làm ra, gợi lên trong tâm trí người đọc cả một bề dày và chiều sâu của văn hóa để thấy được cuộc sống của dân tộc với những nét đẹp độc đáo.

Quả thực, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm như một áng văn chính luận với những cảm xúc sâu lắng, thiết tha, những tư duy sắc sảo trong những triết lí ngọt ngào êm ái, tình yêu vốn văn hoá, tình yêu đất nước tha thiết trải qua thời gian trong không gian rộng lớn. và chiều sâu của nền văn hóa dân tộc. ở đó, tư tưởng về quê hương đất nước của những con người là nốt nhạc ngân vang từ những câu thơ đầu tiên và xuyên suốt bản dương cầm để hát mãi một tình yêu:

“Ôi đất nước tôi yêu bằng xương bằng thịt như cha với mẹ, như vợ với chồng, ôi nếu cần tôi sẽ chết cho mọi nhà, núi sông”

(chuẩn bị hoa lan)

nguồn văn bản mẫu: tổng hợp và biên dịch

xem thêm: bình giảng 9 câu đầu của bài thơ Đất nước

– / –

Trên đây là tổng hợp dàn ý và bài văn mẫu cảm nhận 9 dòng đầu của bài thơ Đất nước (nguyên khoa) mà các em có thể tham khảo và từ đó hoàn thiện bài văn của mình.

p>

Đừng quên rằng còn rất nhiều bài văn mẫu lớp 12 khác đang chờ các em khám phá để học tốt môn ngữ văn lớp 12 hơn nhé!

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Cảm nhận 9 câu đầu bài thơ đất nước. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *