Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
585 lượt xem

8 mẫu cảm nhận bài thơ Tràng giang siêu hay – Cảm nhận về bài thơ Tràng giang

Bạn đang quan tâm đến 8 mẫu cảm nhận bài thơ Tràng giang siêu hay – Cảm nhận về bài thơ Tràng giang phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ 8 mẫu cảm nhận bài thơ Tràng giang siêu hay – Cảm nhận về bài thơ Tràng giang

cảm nhận bài thơ trang giang chạy trốn của tác giả trong bài hoatieu sau đây bao gồm bài tổng hợp cảm nhận bài thơ trang giang, bài văn mẫu cảm nhận bài thơ trang giang hay và sâu lắng mời các bạn cùng đọc cho công việc.

  • 8 mẫu phân tích 2 đoạn đầu của những bài văn hay nhất
  • 7 bài phân tích hay nhất

<3 có thể nói, Chạy trốn đã rất thành công trong việc khơi gợi nỗi cô đơn và cảm giác lạc lõng giữa cuộc đời mênh mông. Trong bài viết này, Hoatieu xin chia sẻ bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tràng giang, cảm nhận về nhân vật trữ tình trong bài thơ hay và chi tiết, sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các bạn học sinh.

1. lược đồ cảm nhận bài thơ trang giang

i. mở đầu

phần giới thiệu của tác giả và bài thơ trang giang

ii. nội dung bài đăng

– cảm nhận về cảnh thiên nhiên sông nước bao la, rộng lớn và tâm trạng của nhà thơ.

+ những con sóng êm đềm gợi nỗi buồn mênh mang

+ “trang giang”, “điệp ngữ” làm nổi bật nỗi buồn triền miên, trải dài cả không gian và thời gian.

+ “con tàu về nước” gợi sự chia ly, xa cách, không hẹn ngày gặp lại.

+ sự bơ vơ, lạc lõng, bấp bênh giữa cuộc đời, “rừng nhỏ cành khô” gợi sự nhỏ bé, tầm thường.

– cảm nhận sự trống trải trong cảnh vật và sự đơn độc của nhà thơ

+ cảnh vật hoang tàn, thưa thớt, không có sự sống của con người

+ không gian rộng lớn, âm thầm tiêu biểu cho nỗi cô đơn trong lòng tác giả

+ khao khát được qua một nhịp cầu để tương tác gần gũi với con người, cuộc sống

– cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ

+ hình ảnh tráng lệ nhưng đượm buồn, “bóng chiều” gợi cảnh cuối ngày, “cánh chim nhỏ” thể hiện sự nhỏ bé, mong manh.

+ nỗi nhớ, sự lên xuống và dòng chảy của nỗi nhớ theo từng miền quê lên xuống

<3

iii. kết thúc

nêu cảm nhận chung của em về bài thơ Tràng giang

2. cảm nhận bài thơ trang giang – văn mẫu 1

huy cận là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới. thơ ông giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người với vũ trụ. trang giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện trọn vẹn tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.

ngay trên dòng tiêu đề của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh, cũng như tâm trạng của nhà thơ, từ ngữ cô đọng và chính xác cả cảnh và tình của bài thơ.

p>

những con sóng và những con sóng đau đớn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị mất trong cành khô

Đứng trước sông nước mênh mông, nỗi buồn của tác giả như nhân lên gấp bội. ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh, qua đó tác giả muốn bộc lộ tâm trạng của mình. hình ảnh “sóng lăn tăn” gợi cho ta liên tưởng đến những đợt sóng kéo dài, kéo dài đến vô tận, như nỗi buồn của nhà thơ trong lặng lẽ mà không ngơi nghỉ. sóng giữa sông dài biển rộng càng làm nhân lên nỗi buồn của thi nhân. cảnh con tàu và mọi cảnh hiu quạnh khiến nhà thơ ngập tràn nỗi niềm trong lòng không biết bày tỏ nỗi lòng cùng ai. tác giả đã sử dụng những hình ảnh rất đời thường để ghi lại những vần thơ của mình và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

mặt trời lặn, bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng bến cô đơn

một lần nữa tác giả lại sử dụng những hình ảnh “cồn, gió, phố, chợ, bến” để nói lên cảm xúc của mình. theo cảm nhận của tác giả, cảnh vật trở nên thưa thớt, trống trải với nỗi buồn sâu thẳm khiến cảnh vật trở nên tĩnh lặng, buồn tẻ, vắng lặng và cũng vì tĩnh lặng mà nhà thơ cảm nhận được điều đó.

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

tác giả nhận được những âm thanh của cuộc sống hàng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ràng ở đâu. nhà thơ đã cố gắng bình tĩnh để lắng nghe âm thanh mơ hồ đó, nhưng anh ta không thể cảm nhận được và nhà thơ đã thay đổi góc nhìn của mình sang một điểm mới.

mặt trời lặn và bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng bến cô đơn

nhà thơ sử dụng nghệ thuật tả thực để đối chiếu cảnh mặt trời lặn và bầu trời đang lên để gợi ra sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. đứng giữa mênh mông sông nước, đất trời, con người như nhỏ lại, nỗi đau vô bờ.

bạn đi hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu quyền riêng tư

bờ biển xanh êm đềm gặp bãi biển vàng

Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng đến kiếp người trôi nổi. vịt nổi không biết trôi về đâu, không có cầu, không có thuyền đưa khách, cảnh tượng như vậy làm sao người ta thoát được nỗi xót xa? Tả cảnh ấy, tác giả thể hiện khát vọng giao cảm với cuộc đời, khát vọng thoát khỏi những u uất của cuộc đời để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

các lớp mây đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim có đôi cánh nhỏ trong bóng hoàng hôn

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc hoàng hôn cũng hoài niệm

Sau khi quan sát xung quanh, nhà thơ hướng ánh mắt về phía vũ trụ và nhìn thấy hình ảnh đầu tiên của những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng lên nhau mạnh mẽ. những ngọn núi sau đó kết thành một ngọn núi, sau đó được phản chiếu dưới ánh mặt trời lặn, tạo nên một màu sắc rực rỡ mà nhà thơ gọi là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy tươi sáng nhưng nó chứa đựng nỗi buồn của cô ấy, giống như nỗi buồn của cô ấy tích tụ như núi với mây và hình ảnh cánh chim.

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc hoàng hôn cũng hoài niệm

tác giả đã sử dụng phép tự sự “sóng sánh” để miêu tả những con sóng theo dòng nước thoáng chốc lan tỏa, cho thấy nỗi nhớ luôn hiện hữu trong đó và sẵn sàng lan tỏa khắp nơi.

Bài “Tràng giang” đã thể hiện nỗi nhớ quê hương, đất nước của nhà thơ. đứng trước khung cảnh thiên nhiên bao la, nhà thơ căm giận cảnh vật mà nảy sinh tình cảm, nghĩa là tình cảm chân thành đối với quê hương của nhà thơ. Tập trung vào các đề tài gần gũi đời sống, Tràng Giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu trong văn học Việt Nam.

3. cảm nhận bài thơ trang giang – văn mẫu 2

tên thật của nhà thơ huy quan là cu huy can. bằng giọng thơ riêng của mình, ông đã khẳng định được tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 – 1945. Ông quê gốc ở quê hương Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 1919. 2005. Trước cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi buồn về cuộc sống của con người và tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật bằng những tác phẩm tiêu biểu như “Lửa thiêng”, “Bài ca vũ trụ”, câu kinh. nhưng sau cách mạng tháng Tám, hồn thơ của Người trở nên lạc quan, tràn đầy cảm hứng về cuộc sống đấu tranh và xây dựng đất nước của nhân dân lao động ”“ trời sáng mỗi ngày ”,“ đất nở hoa ”,“ bài thơ cuộc đời ”. …. vẻ đẹp của thiên nhiên, nét u uất của thế gian, một nét thơ tiêu biểu của Huệ An, được thể hiện khá rõ nét trong bài thơ “Trang giang”, bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huệan trước Cách mạng tháng Tám.

bài thơ là một đoạn trích trong tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy đang ở gần bờ nam bến tàu sông Hồng, nhìn cảnh vật mênh mông của sóng biển, lòng đầy xót xa và biết ơn chiếc phao bé bỏng của mình. cuộc sống trôi qua dòng đời bất tận. Với nỗi niềm ấy, bài thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa hiện đại, mang đến cảm xúc và tình yêu cho người đọc.

hãy nhớ để sống lâu trên thiên đàng

những con sóng đau đớn với một thông điệp của nỗi buồn

….

không khói vào lúc hoàng hôn, cũng là khao khát.

Từ nhan đề của bài thơ, nhà thơ đã gợi lên vẻ đẹp cổ điển của bài thơ một cách thông minh. “trang giang” là một cách viết sai sáng tạo của từ chạy trốn. hai tiếng “anh” nối tiếp nhau gợi lên trong người đọc cảm giác về dòng sông không chỉ dài vô tận mà còn rộng lớn vô hạn. hai chữ “trang giang” mang âm hưởng cổ điển tao nhã, gợi nhớ đến dòng sông dài của thi ca, dòng sông vĩnh hằng, dòng sông của suy tư.

thể thơ tứ tuyệt “trang giang” cổ điển như thơ cổ. nhà thơ thường ẩn mình sau cái mênh mông của sóng biển, khác với các nhà thơ mới thường bộc lộ cái tôi của mình, nhưng nếu các nhà thơ cũ tìm về thì tìm đến thiên nhiên để mong được hòa nhập, giao cảm và trở về với thiên nhiên để bày tỏ nỗi ưu tư, xót xa cho một người cô đơn. và kiếp người nhỏ bé trước vũ trụ bao la. của tác phẩm, chứa đựng tinh thần hiện đại.

những câu đơn giản, ngắn gọn chỉ vỏn vẹn bảy chữ nhưng đã chiếm được cảm xúc chủ đạo của cả bài “” tiếc trời rộng, thương nhớ muôn năm “trước cảnh” trời rộng “,” sông dài “mênh mông và bao la của thiên nhiên, lòng người thao thức cảm giác “đau đáu”, thương nhớ Từ “khoảnh khắc” được sử dụng rất hay, nó diễn tả tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn, buồn, sầu, cô đơn, lạc lõng, bâng khuâng. dòng sông ”, nghe tựa bất tận, gợn sóng không ngớt suốt các khổ thơ, cứ cuộn trào trong lòng nhà thơ, làm rung động trái tim người đọc.

và ngay từ khổ thơ đầu tiên, độc giả đã gặp phải những làn sóng lo lắng và buồn bã như thế.

những con sóng đau đớn,

thuyền đi xuống vùng nước song song.

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị thiếu một số dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn dòng đầu. hai chữ “đối” và “song hành” ở cuối hai câu thơ mang đậm âm hưởng cổ nhạc của đường thi. và không chỉ mang vẻ đẹp ấy mà nó còn chứa đầy những hình ảnh gợi, liên tưởng đến những con sóng cứ trải dài, lan xa, chồng chất lên nhau, dòng nước cứ cuốn đi bất cứ đâu, không dứt. ở dòng sông gợi sóng “điệp”, dòng nước “song hành” là con thuyền “xuôi mái”, xuôi chèo mát mái. trong cảnh có chuyển động như vậy, nhưng sao chỉ thấy sự tĩnh lặng và bao la của thiên nhiên, một dòng “trang giang” dài mênh mông, không biết bao nhiêu mà kể.

con sông dài vô tận, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đong đầy trong lòng.

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị thiếu một số dòng.

con tàu và nước vốn có mối liên hệ với nhau, con tàu đi xa nhờ dòng nước chảy xiết, nước va vào con tàu. tuy nhiên, huy thấy con thuyền và dòng nước chia nhau gần, xa “thuyền đi ngược dòng nước”, thật buồn không biết tại sao.

Chính vì vậy mà nó gợi lên trong lòng người nỗi niềm “trăm mối sầu”. từ số nhiều “trăm” tương ứng với từ “nhiều” thổi nỗi buồn vô hạn vào bài thơ.

Linh hồn của chủ đề trữ tình được bộc lộ trọn vẹn hơn qua câu thơ đơn “” củi khô vài dòng “.huian đã khéo léo sử dụng phép đảo ngữ kết hợp với những từ ngữ chọn lọc, có vẻ cô đơn, lạc lõng giữa mênh mông. vũ trụ, “một” gợi sự yếu đuối, nhỏ bé, “cành khô” gợi sức sống khô héo, “lạc lõng” mang nỗi buồn vô định, trôi lững lờ trôi trên “vài dòng” của thiên nhiên mênh mông, cành khô ấy đâu đó, hình ảnh. đơn giản, không tô vẽ nhưng đầy kinh dị, khiến trái tim người đọc cảm thấy trống trải và mồ côi.

Vẻ đẹp cổ điển trong lối “diễn cảnh tả tình” điêu luyện và tài hoa của tác giả đã gợi lên một nỗi buồn, u uất như một làn sóng sẽ tiếp tục vỗ về trong những khổ thơ còn lại để người đọc đồng cảm và thấu hiểu một nét tâm tư. tinh thần chung. ở các nhà thơ mới. nhưng bên cạnh đó ta còn thấy được một vẻ đẹp hiện đại rất thơ của khổ thơ. chính trong cách nói đặc biệt “củi khô cành khô” không chỉ khơi gợi cảm xúc của mọi người cùng khổ mà còn bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi cô đơn, lạc lõng.

Cảm giác ấy được bộc lộ rõ ​​hơn qua hình ảnh cô đơn giữa không gian lạnh lẽo.

thơ cồn nhỏ.

nơi âm thanh của thị trấn vọng lại từ buổi chợ chiều.

hai từ “lười biếng” và “buồn tẻ” được tác giả sắp xếp khéo léo trong cùng một dòng thơ, tạo nên một khung cảnh êm đềm. “ngu dốt” gợi ra sự khan hiếm, “bệnh tật” gợi ra sự cô đơn. giữa cảnh “cồn nhỏ”, gió đã “tắt”, một cảnh lạnh lùng, cay cay, con người trở nên lẻ loi, rùng rợn đến mức phải thốt lên “tiếng người đi chợ chiều còn đâu?”. vừa là câu thơ vừa mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đây”, âm hưởng xa xăm, không rõ ràng, có lẽ là câu hỏi “ở đâu” như niềm khao khát của một thi nhân, niềm khao khát một chút hạnh phúc của con người, âm thanh của cuộc sống. nó cũng có thể là “hư không”, một sự phủ định hoàn toàn, không có gì sống động ở đây để xua đi nỗi cô đơn của thiên nhiên. đôi mắt trữ tình của nhân vật dõi theo mặt trời và dòng chảy của sông.

mặt trời lặn, bầu trời sâu thẳm,

sông dài, trời rộng, bến vắng.

“sun, sky above” gợi sự chuyển động, mở rộng trong không gian và thậm chí là sự tách biệt “vì mặt trời và bầu trời được tách biệt với nhau., đầy sáng tạo từ xa và gần, mang lại vẻ đẹp hiện đại hút mắt nhà thơ họ không chỉ dừng lại ở ngoài trời đất, mà còn xuyên thấu cả vũ trụ, không gian bao la vô tận, rằng thiên nhiên thật bao la với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì sao mà hiu quạnh. “bến tàu cô đơn” nhỏ.

vẻ đẹp cổ điển của các khổ thơ hiện lên qua những chất liệu thơ quen thuộc trong thi phẩm như “dòng sông, bầu trời, mặt trời, đời người tẻ nhạt, tẻ nhạt với“ chợ chiều ”, vạn vật tan vỡ, tan nát.

Nhà thơ nhìn lại dòng sông, thu vào cảnh vật xung quanh, mong ước một điều gì đó thân thuộc mang hơi ấm cho tâm hồn đang chìm trong giá lạnh, quá cô đơn. nhưng thiên nhiên đã đáp lại mong muốn đó bằng những hình ảnh hiu quạnh và hiu quạnh hơn.

bạn đang đi đâu, hết hàng này đến hàng khác,

Bao la mà không cần qua thuyền.

không nhất thiết phải đề nghị sự thân mật,

lặng lẽ, bờ xanh gặp bãi vàng.

Hình ảnh đám bèo trôi sông là hình ảnh thường được sử dụng trong thơ ca cổ điển, nó gợi lên cái gì đó bấp bênh, trôi nổi của kiếp người vô định giữa dòng đời. nhưng trong thơ chạy trốn không phải chỉ có một hai cánh bèo mà phải “xếp hàng”. hàng bèo tấm khiến lòng người xao xuyến trước thiên nhiên, để lòng thêm xót xa, cô đơn. bên cạnh những hàng bèo là “bờ xanh sau bãi vàng” như mở ra một không gian bao la vô tận, thiên nhiên thuận theo tự nhiên, dường như không có con người, không có hoạt động của con người. , không hài hòa, kết nối:

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu bất kỳ quyền riêng tư nào.

tác giả đưa ra một cấu trúc phủ định. “… không … không” để phủ nhận hoàn toàn các mối liên hệ giữa con người với nhau. trước mắt nhà thơ không còn bất cứ thứ gì gợi lên sự gần gũi để thoát ra khỏi sự tịch mịch bao trùm và vây lấy anh, chỉ có thiên nhiên bao la, bát ngát. cây cầu hay bến phà, phương tiện kết nối của con người, dường như đã bị thiên nhiên nuốt chửng và cuốn trôi đi đâu đó.

Kính cận khéo léo vẽ nên vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bầu trời “

các lớp mây đùn lên những ngọn núi màu bạc,

con chim có đôi cánh nhỏ dưới bóng hoàng hôn.

ngòi bút với những “mây cao đùn núi bạc” theo từng “lớp” đã khiến người đọc hình dung ra những đám mây trắng trong nắng như dát bạc. hình ảnh mang vẻ đẹp cổ điển trữ tình và càng thơ mộng hơn khi lấy cảm hứng từ một tứ thơ tang cổ du fu:

mặt đất được bao phủ bởi những đám mây.

huy gần đã khéo léo sử dụng động từ “đùn”, làm cho mây chuyển động như đang chuyển động, có nội lực từ bên trong, hết lớp này đến lớp khác mây cứ đùn ra. đây cũng là một nét thơ hiện đại, bởi nó đã được vận dụng một cách sáng tạo từ lối thơ cổ điển quen thuộc.

và hiện đại được bộc lộ rõ ​​nét hơn qua hai điểm tình trong đoạn thơ sau. dấu hai chấm này gợi ý mối quan hệ giữa con chim và bóng chiều. cánh chim nghiêng cánh thu hút bóng hoàng hôn rủ nhau xuống mặt sông, hay chính bóng hoàng hôn đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng cả không gian nhưng gợi thời gian vì dùng “cánh chim. “.” và “bóng tối”, là những hình ảnh thẩm mỹ được sử dụng để mô tả cảnh hoàng hôn trong thơ cổ điển.

4. cảm nhận bài thơ trang giang – văn mẫu 3

Có những tác phẩm văn học ta vừa đọc xong, gấp lại thì sẽ quên, nhưng cũng có nhiều bài thơ, bài thơ, thật kỳ diệu, đã thấm vào sâu thẳm trái tim ta một sức hút vô cùng mạnh mẽ. . Huian Trang Giang là một công việc tuyệt vời! đọc bài thơ, ta cảm nhận được từng lời thơ, từng giai điệu… như dòng chảy của một dòng sông, nhẹ nhàng len lỏi mà len lỏi vào sâu thẳm tâm hồn, khắc sâu vào đó những ấn tượng sâu sắc. sâu! …

“Thơ của huy cận thường buồn”, xuan dieu, bạn thân và cũng là bạn đời thân thiết của huy, cũng nói như vậy! họ là hai người bạn thân của nhau, hai thi sĩ say mê yêu và đến với thế giới tự nhiên không ngừng, nhưng trong sự kỳ diệu của mùa xuân, thiên nhiên say đắm hương vị ngọt ngào của ngôn ngữ tình yêu, trong khi mùa xuân gần kề, cây cối, sông núi êm đềm, lặng lẽ như xâm chiếm nỗi buồn của cái “tôi” cô đơn. Tràng Giang là một trong những kiệt tác được kết tụ từ nỗi buồn “mang về thiên cổ”! khi đọc bài thơ, có lẽ chúng ta gặp một nỗi buồn, nỗi buồn của một chàng trai “đôi mắt đầy đặn thường lệ”, nỗi buồn có lẽ rất… vinh quang, nhưng anh đã hơn một lần nói đến. :

XEM THÊM:  Viết bài tập làm văn số 6 văn nghị luận

“Trong thơ Việt Nam ta nghe tiếng giặc buồn không phai từ tiếng sáo thien thai, không phải là tình ca, không phải là câu chuyện trữ tình của một bản ngã mà là một khúc ca dài ảm đạm” phải không? là sầu của rừng trúc, có phải là than thở của bờ cát, có phải là trăng thương xót những vì sao? nó làm tôi rơi nước mắt… ”.

thật là một nhận xét tuyệt vời! nhưng có lẽ đó là tất cả những gì cần thiết, chúng tôi đã học được rất nhiều điều về thơ từ cuộc chạy trốn!

và đặc biệt là trang giang …

Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên có hồn là một nỗi buồn xa vắng, hoang vắng, có cái gì đó như một cái chết cô đơn. “

những con sóng đau đớn với một thông điệp của nỗi buồn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

nhìn những con sóng nhỏ đánh nhau trong lặng lẽ rồi xa dần về cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng cất lên một “điệp ngữ” buồn. điệp từ đã tạo nên hình ảnh của một nỗi buồn ngàn thu, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… nhiều khi người ta nói trùng điệp để chỉ núi rừng, nhưng ở đây tác giả đem nó ra để diễn tả một nỗi buồn man mác, man mác. sự sáng tạo độc đáo trong cách dùng từ để hình dung về một nỗi buồn thật lãng mạn! âm điệu của bài thơ như thể xa xăm mà như thể thân quen quen thuộc! có lẽ họ bỏ chạy khi nghĩ đến một bài hát nổi tiếng:

wow, bụng tôi buồn quá

ở đây, bao nhiêu gợn sóng trong dòng chữ như nỗi buồn thơ. câu thơ không chỉ nghiêng về những con số mà còn về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng, êm đềm mà dai dẳng, dai dẳng, dường như vô tình xa vắng, đọng lại thành một giọng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa vũ trụ. Trái đất. thiên đường …

Và… hình ảnh con thuyền nổi bật giữa sóng, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa sóng nhưng cũng ẩn chứa trong đó! hình ảnh vô cùng độc đáo! con thuyền nhỏ dường như đang trôi, chao đảo vu vơ, xuôi ngược mãi … dọc theo dòng chảy ngàn thu bất tận …

Cụm từ “song song” cũng là một cách liên hợp lạ mà chúng ta chưa từng đọc, nó giống với “điệp ngữ buồn” ở câu trước gợi nỗi buồn mênh mông.

đến câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, thuyền không còn trôi theo dòng chảy nữa:

con tàu quay trở lại cánh đồng, buồn bã và đơn độc

một số dòng gỗ chết …

sự cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. con tàu quay trở lại, nhưng ở đâu? … không rõ! chỉ còn lại một bên sông không có thuyền, nỗi cô đơn như kéo dài dường như vô tận. hình ảnh con tàu cứ mờ dần, mờ dần, rồi mờ dần, nước phải chia đôi “khắc nghiệt trăm phương”. huy near đã rất khéo léo trong việc miêu tả chuyển động của mọi vật để nói lên sự đi lại của không gian. thời gian vận chuyển theo tầm nhìn của con tàu và không gian cũng mở rộng theo nó. nếu như trước đây không gian chỉ được xác định bởi dòng nước chuyển động song song với con thuyền, thì nay bóng dáng con thuyền đã mất đi, không gian bỗng chốc mở rộng thành “trăm dạng”, dài vô tận. có một chỗ đứng vững chắc! do đó, câu thơ thứ ba đã trở thành đòn bẩy nâng câu thơ cuối lên bằng một chi tiết rất độc đáo:

một số dòng bị mất trong một số dòng gỗ khô

Chỉ về hình ảnh thơ và ý tưởng thơ! “củi trên cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà chúng ta chưa từng thấy, nó đã đưa bài thơ thoát khỏi không khí xa xưa để trở về thời hiện đại “một cành khô dập dềnh nổi lên giữa sóng nước đôi bị đẩy sang bên này, có khi bị kéo sang bên kia … phải chăng là hiện thân của một kẻ lữ hành, luôn lạc lõng và không phòng bị, bị dòng xoáy cuộc đời lôi kéo?

ấy trang giang, tĩnh lặng suy tư qua sóng “buồn điệp điệp”, qua “dòng nước song song” hiện tại, và qua vẻ tự mãn mặc cho “con tàu về quê” mặc cho! …

Cho đến khổ thơ tiếp theo, tác giả đã đi sâu vào miêu tả nỗi buồn. nỗi buồn bàng bạc cả không gian không còn lang thang bất khả chiến bại trên sông mà đã dừng lại trên một cồn cát nhỏ:

thơ cồn nhỏ.

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

mặt trời lặn, bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng, bến vắng.

khung cảnh của bài thơ đầy hài hước. có lẽ chạy trốn đã quy tụ tất cả hình ảnh và âm nhạc để tô đậm thêm nỗi buồn của con người trước cảnh trời rộng, sông dài. tình cảm buồn gửi trong vần, bằng từ gợi sự mong manh, cô đơn! “lờ mờ” gợi hình ảnh, “buồn” gợi cảm xúc, cả hai từ dường như đã được nhà thơ phát huy hết sức gợi tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, buồn đến lạnh người. đơn giản, để lấp đầy tâm hồn.

câu thoại “tiếng người xa chợ chiều ở đâu?”, có thể hiểu là “tiếng người xa chợ ở đâu”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi mà tác giả đặt ra. với chính mình “” anh ấy ở đâu “,” anh ấy ở đâu? ” âm thanh của “thị trấn có xa chợ không?”…

ở đây, chạy trốn một cách khá tự nhiên được sử dụng một kỹ thuật quan trọng trong kỹ thuật cổ điển “mượn” động “để chỉ” tĩnh “, cố gắng tìm và nghe một âm thanh chuyển động trong im lặng. Bước đi trong im lặng rùng rợn!

rằng nỗi buồn dường như kéo dài hơn trước khung cảnh không gian mà tác giả tạo ra bằng những từ rất kỳ dị:

năng lượng thấp, bầu trời ở trên cao, độ sâu lớn

sông dài, trời rộng, bến vắng

đồng thời, chạy trốn đã sử dụng các thủ thuật của một nhiếp ảnh gia và nghệ thuật của một họa sĩ để tạo ra một hình ảnh độc đáo. bình thường từ “tháp” chỉ dùng để tả độ cao, “trong sâu thẳm thơ”, không gian như lớn thêm, trong bức tranh sông dài, có trời cao “rất sâu”, có mấy cồn cát. . nhỏ, “bến tàu đơn độc”. thiên nhiên phóng khoáng hơn và có vẻ sinh động hơn, nhưng không, khi lòng người vẫn “chán”, “lẻ loi”, “cảnh chẳng vui bao giờ”… một dải đất giữa sông dài, mấy đâu ”. những cơn gió điếc ”không đủ làm mát cảnh vật, và tiếng“ tiếng làng xa chợ chiều ”mơ hồ, mong manh. Đó chỉ là thiên nhiên, một thiên nhiên mang một nỗi buồn huyễn hoặc, đau xót cho trạng thái không gian và thời gian. ”Từng lớp sóng gợn trên sông, tiếng đàn du dương của lũy tre, nỗi buồn cổ kính chợt bay theo gió. ! giờ đây, giữa vũ trụ bao la, rộng lớn ấy, chỉ còn lại một tác giả, đứng trơ ​​trọi, đơn độc, hệt như trần ngang, ngàn năm trước cũng có một cuộc hành trình tương tự như cuộc đời:

người đã đi trước!

ai vẫn chưa đến?

giữa trời và đất

Tôi luôn rơi nước mắt!

người cô đơn gặp cảnh cô đơn, nỗi cô đơn càng lớn mạnh. khổ thơ thứ ba mở ra một cảnh tưởng như không còn dấu vết của sự sống, một cảnh tưởng như đã chìm đắm trong thế giới vô cùng ngột ngạt.

bạn đi hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu quyền riêng tư

lặng lẽ, bờ xanh gặp bãi vàng.

nỗi buồn lan tỏa, mặc dù những con chữ có thêm một số màu sắc nhạt nhòa! khung cảnh mở ra thêm hàng ghế dài và bãi biển, thêm một chút màu vàng để tô điểm cho trung tâm của bức ảnh, và thay thế cho “cành khô và gỗ” đã trôi nổi “hàng nước” nối tiếp nhau mãi mãi. nhưng “hàng này qua hàng khác” chợt hiện ra trong dòng sông của nhà thơ như một câu trả lời, tôi đành để hồn mình trở thành một hòn đảo lẻ loi giữa mây, trời và sông ”“ hòn đảo tâm hồn mình rung động vì mọi người ”. / p>

hàng loạt từ láy lặng lẽ gợi lên bầu không khí hiu quạnh, lại thêm những chi tiết tiêu cực “” tàu không qua “, không một cây cầu, càng làm tăng thêm nỗi cô đơn. Một mình ở đây nỗi cô đơn có lẽ đã lên đến đỉnh điểm, mong muốn tìm được một” chút tri kỷ “trên một chiếc “du thuyền”, một số liên lạc với những người ở phía bên kia của cây cầu nhỏ, nhưng cả hai đều không có:

tàu không kết nối ở đây và ở đó

mỗi ngày chờ đợi một ngọn nến!

Đôi bờ sông như hai thế giới riêng biệt, thế giới này rút lui không tiếp xúc với thế giới kia! nước vẫn tiếp tục chảy ra ngoài ý muốn. dòng sông càng trở nên mênh mông, mỗi khi mỗi người cười dưới tâm tư trĩu nặng của người thơ trẻ sớm mang một nỗi sầu cổ xưa mênh mông và đám bèo trải dài trên lớp nước ấy. những người trẻ tuổi. tuổi ba mươi của bạn, cũng hoang mang và bất khả chiến bại, cũng mong manh và nhỏ bé, cũng trôi trong dòng đời bất tận? như tâm trạng mà xuân điều đã từng viết “” ta cũng bơ vơ, hồn mỗi con người là một vương quốc lẻ loi giữa trời đất là khung trời bơ vơ. “Như vậy, nỗi buồn của huyễn hoặc, của một thi sĩ mà nghệ sĩ đã”. hơn một lần anh gửi áo cho trăng ”mà lòng vẫn“ buồn hay mưa ”,“ nắng ”không phải là buồn vô cớ mà còn là nỗi buồn của thời cuộc, nếu nói đúng hơn là nỗi buồn của trí thức vụn vặt của những thanh niên tiểu tư sản thời ấy, những con người bị “mộng ta vùi dập” bằng những mảnh ghép tâm hồn nhưng lại bị người đời “ruồng bỏ” với những cặp đôi chân “đầy lỗ, bị gai đâm”! Và có lẽ vì thế mà thêm một lần nữa họ đã than thở:

nếu bạn không biết mình hoảng sợ bao nhiêu lần

với đôi cánh gãy như dơi

nếu bạn không biết bao nhiêu giọt nước mắt cay đắng

chảy như một dòng sông không cuốn trôi nỗi buồn!

mượn dòng sông để soi sáng tâm hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn dường như càng thêm sâu nặng! nhà thơ đã mang tâm trạng cô đơn và buồn bã ấy bao trùm lên cảnh vật thiên nhiên.

các lớp mây đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim có đôi cánh nhỏ trong bóng hoàng hôn

Giữa bầu trời xanh bao la, mây bay lên như núi bạc trắng, bỗng xuất hiện một chú chim nhỏ mà “bóng đè nặng đến nỗi phải nghiêng cánh” (xuân diệu).

sử dụng thứ gì đó hữu hình để mô tả thứ gì đó vô hình. Thật khó để tưởng tượng ranh giới giữa sự nhỏ bé hữu hạn và sự vĩ đại vô hạn đã đưa ra sự chạy trốn! cảnh hiện lên trong thơ ông tuy rất buồn nhưng vẫn không ẩn chứa một chút gì đó hùng vĩ, hùng tráng. điều duy nhất ở đây là góc nhìn của nhà thơ! “Trên cánh chim rủ xuống tác giả đã thấy bóng mặt trời lặn!” trong khi nguyễn du nhìn thấy “bóng chiều” qua cành “liễu rũ tơ”, hán tử nhìn thấy “bóng xuân” trên những thềm trời thì ở đây trốn chạy cũng tinh tế không kém khi nhận thấy “bóng chiều” trên cánh chim nghiêng mình. ! một cánh chim đơn độc, bám lấy ánh sáng của buổi chiều sắp tới, khiến đất trời như mở rộng thêm! không gian vừa trải ra muôn ngàn “lớp” mây xếp chồng lên nhau, bất chợt hoàng hôn buông xuống rất nhanh, cũng là lúc tâm hồn lữ khách chợt nhớ quê da diết.

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc hoàng hôn cũng hoài niệm

âm hưởng thơ tang da diết ở câu cuối, mượn nỗi nhớ quê hương của bậc hiền nhân trong bài Hoàng hạc diên niên.

một ngày của tiếng Quan thoại trong thành phố

yen ba giang thuong su nhan du

nhưng bỏ trốn cho thấy một tình yêu nồng nàn hơn! tình yêu đau nên thủy triều xôn xao. chữ “điệp” xao xuyến như làn sóng “điệp điệp”, trùng điệp xao xuyến chứa chan bao yêu thương. ngày xưa thi sĩ tang thi phải có “khói sóng trên sông”, hồ dzế phải có “khói buồn bay lên mây” để gợi nhớ quê hương thì mới “nhớ nhà trong điếu thuốc”. nhưng đây rồi, lại khác. nhân vật trữ tình trong huyễn hoặc thơ, đứng trước cảnh không sương, không khói mà cũng rung lên nỗi nhớ về một cánh đồng xa tận chân trời. gần gũi không cần bên ngoài! lúc này nỗi buồn đã hình thành, không chỉ là cảm giác buồn mênh mang do xúc động khi nhìn mặt nước. hai câu cuối gói gọn trong cảm xúc nồng nàn và đẹp đẽ! và nhắc nhở chúng ta về những câu thơ cũ:

protein chuyên nghiệp ở giang thủy

du khách thích đi du lịch

Bao trùm toàn bài thơ là một nỗi buồn lan tỏa và da diết, một nỗi buồn từng được một kẻ hoài cổ bình luận “ai kể nỗi buồn nơi thanh cao hẹp, nỗi buồn sông dài, nỗi buồn người lữ khách dừng chân. vó ngựa lên núi, nỗi buồn đêm mưa, nỗi buồn mất bạn bè … cái gợi lên cái hồn buồn Á Đông, cái gợi cái mạch sầu đã ẩn chứa trong mảnh đất ngàn đời này. năm! năm! ”.

buồn nhưng không bi quan, không chán nản! bài thơ được trình bày như một bài thơ buồn nhưng vẫn dạt dào, sâu lắng với tình yêu quê hương tha thiết, tha thiết! có phải vì thế mà xuân khảo đã từng ca ngợi “” trang giang là bài thơ hát sông nước non sông, dọn đường cho tình quê “.

5. cảm nhận 2 khổ thơ đầu của bài thơ

hụi gần được biết đến với một hồn thơ ‘cổ điển nhất trong phong trào thơ mới’. Ông tâm sự: “Trước cách mạng, tôi thường có thú vui chiều chủ nhật nào cũng được lên khu vực bờ đê để ngắm cảnh sông đỏ. cảnh đẹp của dòng sông gợi lên trong tôi nhiều cảm xúc ”. và bài thơ “trang giang” được viết ra để nói lên nỗi buồn, sự cô đơn, mất mát của con người trước cuộc đời.

ở đầu bài thơ, nhà thơ chạy trốn đã sử dụng những hình ảnh thơ quen thuộc: con thuyền, dòng sông để gợi cảm xúc:

“những con sóng lăn tăn mang theo nỗi buồn và nỗi buồn

con thuyền xuôi theo dòng nước song song ”

Tác giả đã sử dụng chữ Hán Việt “trang giang” bằng cách ghép vần “ang”. gợi cho người đọc một không gian choáng ngợp, đây là cách thể hiện nổi bật của phong cách thơ. tâm trạng của nhà thơ mở ra “buồn điệp điệp”. đây là nỗi buồn đang hiện thực hóa, nó hữu hình như từng con sóng va vào nhau, không ngừng vỗ vào bờ. nỗi buồn ấy dai dẳng nhưng cháy bỏng, như có một sự tồn tại vĩnh hằng. từ “song song” dùng để chỉ hai thế giới cạnh nhau và không bao giờ gặp nhau. đó là sự gần gũi mà không cần gặp gỡ. bằng cách này, tác giả càng nhấn mạnh sự lẻ loi, lẻ loi của con thuyền trên sông, hay đó cũng chính là nỗi cô đơn của con người trên dòng sông cuộc đời. Nhà thơ Huian đã sử dụng nghệ thuật tương phản để tạo nét cổ kính cho khổ thơ. Theo niêm luật, thuyền và nước là hai sự vật có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng trong bài thơ lại có những hành động đối lập, lạc nhịp, gợi sự chia ly, cô đơn, mất mát:

“con tàu trên đường về lại buồn

một số dòng bị mất trong một số dòng gỗ khô ”

hình ảnh cành củi khô đậm nét và độc đáo trong thơ ca Việt Nam. nó là một hình ảnh duy nhất. Huay Close đã thả vào bài thơ mới một khúc củi khô để nói hộ nỗi lòng của một thế hệ thi sĩ hoàn toàn mới. Bởi xưa nay, những điều tầm thường ít được đưa vào thơ ca, nhất là thơ cổ, hình ảnh cây củi khô mang vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng lại có giá trị biểu tượng ghê gớm. tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng phép điệp từ, khiến câu thơ có vẻ giằng xé, đứt đoạn. & amp; giọng thơ ngắt thành 6 khúc đơn độc, sự đơn độc của cành khô với dòng nước vô tận.

cảnh vắng vẻ, hiu quạnh ở khổ thơ thứ hai, tầm nhìn đã được mở rộng:

“cơn gió nhỏ buồn vu vơ

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

thiên đường đã lên thiên đàng

sông dài, trời rộng, bến vắng ”

Tác giả dùng các từ “lười biếng”, “đáng yêu” để gợi ra một số dáng vẻ ít ỏi, cảm giác của con người hơi buồn khi đứng trước một khung cảnh rộng lớn. đây là nhận thức trực quan. Ngoài ra, tác giả còn tri giác thính giác: tri giác âm thanh cuộc sống chợ chiều. cảnh vật dường như thiếu đi hơi ấm của tình người, rất cần thấy lòng biết ơn. từ “đâu” có tiết tấu chậm rãi, giọng buồn nhuốm chút sầu muộn. không gian được chiếu sáng bằng những gam màu nắng, tăng chiều rộng cũng như chiều cao và chiều sâu. từ đó, tác giả đã gợi ra một không gian từ mặt nước đến đáy sông, không gian ấy chở che đến tận cùng, tiêu biểu cho nỗi buồn, nỗi cô đơn của con người trước cuộc đời. tác giả dường như chưa tìm thấy mối liên hệ với cuộc sống, mang đến sự tuyệt vọng.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ “Tràng giang” của tác giả gần như gợi lên toàn bộ không gian rùng rợn, nhưng tâm trạng con người lại mang một cảm giác buồn bã, cô đơn và nỗi buồn dường như trải dài vô tận. đó là nỗi cô đơn, lẻ loi của con người trước dòng đời xô đẩy, không tìm được sự giao cảm của chính mình với cuộc đời.

6. cảm nhận của em về bài thơ Tràng giang

hụi gần là nhà thơ của thiên nhiên, đất nước và con người. ông thường làm thơ ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, lòng say mê cống hiến cho đời. Ta có thể thấy sức khoẻ và hạnh phúc trong các tác phẩm của ông như Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời …. nhưng chạy trốn cũng có những lúc u uất, buồn bã trước thế sự, điều mà ta hiếm thấy trong các tác phẩm của nhà thơ này. . nỗi nhớ nhà, nhớ nhà và nỗi cô đơn, buồn tủi được nhà thơ thể hiện trong bài thơ Tràng giang, sáng tác năm 1939. đối diện với sông nước bao la, rộng lớn, nhà thơ thấy mình nhỏ bé, đơn độc. từ đó đánh thức một nỗi nhớ quê hương chân thành.

XEM THÊM:  Top 10 bài văn tả con chó hay nhất - Toplist.vn

chúng ta có thể cảm nhận được một tâm trạng buồn của tác giả ẩn sau hình ảnh thiên nhiên trong khổ thơ đầu:

“những con sóng và những con sóng đau đớn,

thuyền đi xuống vùng nước song song.

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị mất trong một số dòng củi khô “

các từ “song hành”, “điệp trùng” gợi không gian sông nước bao la, rộng lớn, bao la. trong không gian ảm đạm ấy chỉ có bóng dáng của một con thuyền, mà con thuyền ấy cũng trôi, bơ vơ, để dòng nước xô đẩy, đúng như tâm trạng của thi nhân lúc này. mọi thứ cũng diễn biến rất bình lặng, như u sầu, đa sầu đa cảm trước cuộc đời. thật xót xa khi nghe hình ảnh “con tàu về nước”! thuyền và nước là hai vật đi liền với nhau, thuyền chạy bằng sức nước, nước có thuyền mà sóng, nhưng ở đây biểu tượng tượng trưng cho sự chia cắt giữa thuyền và nước, sự chia lìa này gợi lên một nỗi buồn “trăm phương” … . Không có gì có thể buồn hơn. dòng cuối của khổ thơ đầu là một hình ảnh thơ độc đáo với hai mặt: “cành củi khô – mấy câu thơ thất lạc”. thước đo của từ “một” diễn tả sự khan hiếm, chỉ là một cành cây khô, cũng như chỉ có một con thuyền. tâm trạng buồn bã của tác giả được đưa lên cao trào, khi mọi thứ xung quanh đều trơ trọi, cô đơn không biết đi đâu về đâu. nghệ thuật tiêu biểu cho cảnh ngụ ngôn vừa thể hiện cái thiếu hồn của cảnh vừa thể hiện nỗi niềm, nỗi buồn của nhà thơ.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có điều gì đó rõ ràng hơn một chút:

<3

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối. “

nếu ở khổ thơ đầu tiên ta chỉ thấy hình ảnh của thiên nhiên thì ở những câu thơ này lại xuất hiện hình bóng của con người. nhưng con người cũng xuất hiện trong tâm trạng rất hụt hẫng, đó là tiếng chợ chiều xa xa. một thị trấn gần đó đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại tiếng tạm biệt, tiếng chợ lảng vảng đâu đây. Tưởng rằng sự xuất hiện của những con người sẽ khiến bức tranh bớt ảm đạm hơn, nhưng không, họ đã khiến tác giả cảm nhận sâu sắc hoàn cảnh của mình, phiên chợ không còn tươi vui nhộn nhịp như sáng sớm, cũng như tâm trạng vui vẻ, náo nức của nhà thơ chạy trốn gần đó. Hai câu thơ sau đây miêu tả thiên nhiên rất hay:

“mặt trời lặn, bầu trời thăm thẳm,

sông dài, trời rộng, bến vắng. “

hình ảnh đối lập: “ánh nắng – bầu trời lên” tượng trưng cho sự buông bỏ cuộc sống. ánh nắng chói chang nhường chỗ cho màn đêm sắp buông xuống. cụm từ “chiều sâu cao vút” là một hình ảnh vô cùng độc đáo, bởi “cao vút” vốn là từ để chỉ độ cao nhưng ở đây lại dùng để miêu tả chiều sâu, cùng với câu thơ sau đã tạo nên một hình ảnh vô cùng lớn thể hiện sự tồn tại nhỏ bé của tác giả. .

Khổ thơ tiếp theo vẫn là hình ảnh thiên nhiên buồn bã, ảm đạm trong buổi chiều tà:

“bạn đang đi đâu, hết hàng này đến hàng khác,

Bao la mà không cần qua thuyền.

không yêu cầu quyền riêng tư,

lặng lẽ, bờ xanh gặp bãi vàng. “

Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh “em bé” lênh đênh cũng như con thuyền và cành khô đầu ngõ là những bến nổi không biết về đâu. khung cảnh ven sông trơ ​​trụi, không bến phà đưa khách, không cầu vượt nhịp, chỉ là một bãi biển rộng mênh mông. Toàn bộ bức tranh tràn ngập hiện thực buồn bã, nhưng nỗi cô đơn của tác giả dường như muốn thoát ra khỏi đó, để có một cuộc sống tươi đẹp và vui tươi hơn.

khổ thơ cuối là nỗi nhớ của tác giả:

“lớp mây cao đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim có đôi cánh nhỏ trong bóng hoàng hôn

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc hoàng hôn, cũng khao khát “

Sự miêu tả thiên nhiên của Huy gần như gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh từng tầng mây, tầng tầng lớp lớp sừng sững trên những ngọn núi cao, cùng với hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng mình trong bóng chiều bay về. tổ ấm để gia đình đoàn kết lại. có lẽ khi chứng kiến ​​những hình ảnh thiên nhiên ở những câu thơ trước, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn da diết trong lòng, nhưng chỉ khi nhìn thấy hình ảnh cánh chim trời, ông mới bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ quê hương da diết. ta thấy được tình cảm chân thành, gắn bó của nhà thơ với gia đình, quê hương, đất nước. Dù ở đâu đi chăng nữa, trong trái tim của người con xa quê hương vẫn luôn mong mỏi hình bóng những người thân yêu của mình …

trang dài, giang là sông, trang giang là sông dài, cũng là nỗi buồn bất tận của thi nhân. huy gần như lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh của bài thơ, từ đó bộc lộ nỗi buồn, nỗi nhớ da diết. Đọc bài thơ, chúng ta có thể thấy một khía cạnh khác trong thơ Huyan, đó là anh không chỉ viết hay, viết sâu về tình cảm, niềm vui mà còn viết rất xúc động, xúc động khi nói về nỗi buồn. đây là một nhà thơ đáng ngưỡng mộ!

7. cảm nhận 2 khổ cuối của bài thơ

người đọc biết rằng hồn thơ trốn chạy trước cách mạng là một nhà thơ đa sầu đa cảm, buồn trước nỗi đau của thế sự. đến với bài thơ “trang giang”, ta thấy một nỗi buồn da diết, cô đơn của tác giả trước cuộc đời. Đặc biệt, nỗi buồn ấy được tô đậm trong hai khổ thơ cuối của bài thơ.

<3

“bạn đi hết hàng này đến hàng khác?

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu quyền riêng tư

âm thầm, bờ xanh gặp bãi vàng ”

hình ảnh “trôi dạt” như cơn giông tố cuộc đời đang xô đẩy số phận con người nhỏ bé như hình ảnh cô đơn bị xô đẩy. con người không có khả năng tự vệ trước cuộc sống. từ “không” nhấn mạnh sự trống trải, thiếu thốn, mất mát. góp phần vào việc phủ định hiệu ứng. con sông là bức tường ngăn cách, phương tiện để vượt qua nó là “con thuyền” và “cây cầu”, khiến người ta bớt cảm thấy đơn độc. nhưng tựu trung lại là sự phủ nhận tuyệt đối “không cầu”, “không thuyền”, đó là sự khẳng định rằng không có dấu hiệu hay mối liên hệ nào để con người có thể gần gũi nhau, giá trị sống của con người sẽ bị triệt tiêu hoàn toàn nếu tước đi những thứ giúp con người đến với nhau thì cuộc sống không có gì là vô giá trị. có nghĩa là giúp mọi người xóa đi khoảng cách mà trong hoàn cảnh này hoàn toàn không có. cuộc sống con người tưởng chừng như bị hủy diệt, vì sống giữa cuộc đời mà không có sự kết nối, cảm thông, chia sẻ. hình ảnh “bờ xanh”, “bãi vàng” vốn dĩ là hai thứ nằm cạnh nhau mà không có mối quan hệ ràng buộc nào. “Lặng lẽ” chỉ hoạt động một cách lặng lẽ, không phô trương, riêng lẻ. tác giả đã gợi ra hình ảnh một khung cảnh hoang tàn, không có hơi ấm của tình người.

Khổ thơ thứ tư gợi lên cả tấm lòng của tác giả:

“lớp mây đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim cánh nhỏ, bóng hoàng hôn

trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói hoàng hôn cũng là hoài niệm ”

hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” có hình ảnh lớn, mang tầm vóc lớn lao. nhà thơ đã lựa chọn sử dụng những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, được lấy từ sự “đùn đẩy” của nhà thơ tang gia, đó là sự chuyển động từ trong ra ngoài: từng lớp mây trắng nối tiếp nhau mở rộng, tỏa về thành núi bạc. “Lớp lớp” là nhiều, chồng lên nhau, không có điểm cuối. hình ảnh những đám mây trắng hết lớp này đến lớp khác như bông bút bi nở trên bầu trời. mây trông như núi bạc, mây là núi, núi như mây. hình ảnh “cánh chim” là một công thức ước lệ trong thơ cổ, dùng cánh chim để gọi chiều, nói về tâm trạng của con người. hình ảnh “cánh chim” gợi sức sống cho cảnh nhưng đôi cánh của chú chim nhỏ đang cúi đầu không nâng đỡ được sức nặng của bóng hoàng hôn xa xăm tạo nên sự đối lập giữa bầu trời hùng vĩ của câu trước và cánh chim. của chú chim nhỏ trong câu dưới đây. dòng cuối “không khói sương cũng nhớ nhà” là tâm sự của tác giả về nỗi nhớ quê hương da diết. cách thể hiện nỗi nhớ: không nhất thiết phải có yếu tố nhớ mà vẫn nhớ vì nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm hồn nhà thơ. huy cận đứng trước non sông đất nước thể hiện tình cảm của nhà thơ đối với non sông đất nước. người đọc nhận ra nỗi cô đơn của tác giả trước cảnh quê hương mất nước, đây là dòng tâm sự thầm kín thể hiện tấm lòng yêu nước của nhà thơ.

“Tràng giang” là hình ảnh thiên nhiên đẹp nhưng đượm buồn, đặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ. tình yêu ấy mang những nỗi niềm thầm kín của tác giả. trong đó có cả sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, xứng đáng là bài thơ hay nhất trong tuyển tập “Lửa thiêng”.

8. cảm thấy đau đớn khi căng nước

nếu xuan dieu là nhà thơ của nỗi ám ảnh về thời gian, thì chạy trốn là nhà thơ của niềm vui của không gian. Đọc trang giang, không ai có thể phủ nhận rằng huy cận là nhà thơ buồn nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Nỗi buồn cố hữu trong tâm hồn cùng với cảm giác lạc lõng trước cảnh đất nước mất chủ quyền mà ông đã viết trong bài thơ Tràng Giang sau buổi tối dạo chơi trên bến tàu, Hà Nội. nỗi niềm ấy, cái tôi ấy được thể hiện rõ nét hơn trong khổ đầu của bài thơ:

“những con sóng lăn tăn mang theo nỗi buồn và nỗi buồn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

con tàu quay trở lại cánh đồng, buồn bã và đơn độc

một vài dòng củi từ một cành cây đã chết. ”

huy cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới 1939-1945, thơ của ông có tính cách và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội và triết học. ông làm thơ từ năm 1934, đăng thơ từ năm 1936 và có nhiều tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Lửa thiêng (1940), Bầu trời rạng rỡ mỗi ngày (1958), Hoa đất (1960), … là một bài thơ nổi tiếng của chạy trốn, sáng tác năm 1939, đăng lần đầu trên tờ báo ngày nay, sau đó được in trong Lửa thánh.

<3

những con sóng và những con sóng đau đớn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

Cảnh và tình người được thể hiện song song trong từng câu thơ. sóng trên mặt nước sông nhẹ nhàng vô tận, cũng như nỗi buồn của con người trôi theo thời gian. một “thông điệp” nỗi buồn day dứt lòng người. Với lòng trĩu nặng khi ngắm cảnh này, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng lan tỏa theo từng đợt. sự cân bằng của dòng sông gợi sự xao xuyến trong lòng người; nghệ thuật ẩn dụ đã làm cho sóng sông hòa với sóng lòng, sóng đời sông như vô tận, như thấy được sóng buồn trong lòng người, êm dịu vô tận. câu thơ của cuộc chạy trốn nhấn mạnh sự tương quan về sắc thái: sóng vô tận cũng như nỗi buồn không nguôi … và con thuyền trên sông, chỉ hướng “về phía trước”. “lênh đênh theo dòng nước” gợi sự trôi dạt theo dòng nước xót xa. hình ảnh con thuyền gợi lên một con người nhỏ bé cô đơn với cuộc đời vô định.

ở giữa dòng sông, điểm nhìn của tác giả hướng đến những con sóng nhỏ đang xôn xao dưới nước. dù có bao nhiêu sóng gió cũng xuất hiện rồi biến mất vào hư vô vĩnh viễn theo thời gian mà không thể lấy lại được. Từ xa xưa, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn không thể tách rời. tuy nhiên, bây giờ thuyền và nước chỉ song song với nhau, không ở bên nhau bao lâu, đi hết dòng sông vô tận. vì nước xuống trăm ngả, thuyền biết đi lối nào. tàu và nước giống như hai đường thẳng song song tách biệt và không bao giờ gặp nhau, điều này khiến người ta dễ liên tưởng đến cảnh chia cắt giữa con tàu và dòng nước chảy dưới đây:

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị mất trong một số dòng gỗ khô

câu cuối của khổ thơ cận huy đã mượn hình ảnh con thuyền lẻ loi lênh đênh trên sông để diễn tả nỗi cô đơn lạc lõng, đó là một nghệ thuật ngụ ngôn sâu sắc nhưng đọc đến câu thơ “vài dòng lạc lõng. trên cành tàn ”, ta thưởng thức rõ ràng tài năng và vẻ đẹp của thơ ông. khi nỗi buồn và nỗi cô đơn ngày càng ăn sâu vào tâm trí nhà thơ, nỗi cô đơn nay càng được nhấn mạnh trong sự nhỏ bé dần của những thứ có trong bài thơ. giữa sông lớn chỉ có con thuyền nhỏ, lạc lõng giữa sông giờ chỉ còn cành củi khô, nghe thật nhỏ bé và thương tâm.

9. cảm nhận của anh / chị về nhân vật trữ tình trong bài thơ Tràng giang

Trong phong trào thơ mới và văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu và Huệ Năng là hai nhà thơ lớn, những tên tuổi lỗi lạc có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. hai nhà thơ này là bạn thân, đến mức hiểu nhau, nhưng mỗi nhà thơ lại có một nỗi ám ảnh riêng, một suy tư riêng về cuộc đời. nếu mùa xuân huyền diệu suốt một đời thơ thì luôn ám ảnh thời gian, khắc khoải với lòng yêu đời nồng nàn, thiết tha. Huy Cận những năm trước cách mạng thường mang nỗi ám ảnh về không gian, với tâm hồn đa sầu, đa cảm, thơ anh luôn chất chứa nỗi buồn trần thế, mênh mang của một cái tôi trữ tình cô đơn, lạc lõng trong những lúc bấp bênh. Và cái tôi trữ tình buồn và đầy ám ảnh ấy đã hiện lên rất rõ trong bài thơ Tràng Giang, đã đưa tên tuổi Huy Cận sáng lên như một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ Thời đại mới. 1932-1941.

huy cận (1919 – 2005), tên khai sinh là Huy cận, là một nhà chính trị có nhiều năm công tác trong bộ máy nhà nước và cũng là một nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ mới. trước cách mạng, thơ ông hay nhưng nhiều khi mang nỗi buồn khôn nguôi của một cái tôi trữ tình đầy sầu muộn trước đất trời bao la, là những nỗi buồn cho kiếp người, cho đời, nỗi buồn cho sân khấu, đất nước đầy rẫy. của sự bối rối, phức tạp, sự bất lực của nhà thơ. sau cách mạng, thơ ông như được thay bằng một tinh thần mới, tươi vui, lạc quan, tôn lên vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, và cả những vẻ đẹp của thiên nhiên bao la, rộng lớn được ghi nhận ngợi ca nhiều hơn. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ bay bổng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Bầu trời tỏa sáng ngày nào.

Những nét buồn và cô đơn của cái tôi trữ tình đã hiện rõ trong những dòng mở đầu của bài thơ. nhà thơ cố tìm vật để khỏa lấp nỗi buồn trước cảnh trời rộng, sông dài trên cao. nhưng cảnh bên ngoài lại hiện ra với những con sóng, những con tàu trôi dạt và những cây củi mất tích quá nhỏ bé, đối lập với một vùng đất rộng lớn bao la. bài thơ dường như đã chất chứa quá nhiều nỗi buồn. có những gợn sóng nhỏ, một điệp buồn nhấp nhô nhưng được nhân hóa như thể làn sóng buồn đã lan tỏa khắp mặt sông. có một con thuyền, nhưng nó không nối với nước, từ con thuyền song song dường như đẩy nó trôi dạt, để nó tạo ra nỗi đau trăm phương. nhưng trên hết là cảm xúc của cái tôi trữ tình được gửi gắm qua hình ảnh cành khô ở cuối câu thơ. Khác với hai tài liệu cổ trước đó, củi lửa là một hình ảnh rất hiện đại. nó là một thứ rất trần tục, vô hồn, đã trở nên quá nhỏ so với số một và ngày càng mất đi khi bất định, bất lực khi đối mặt với một vài đường nét. nỗi cô đơn càng đẩy cao hơn sự bơ vơ, cô đơn của một thân phận, một kiếp người trôi nổi, bấp bênh.

Hình ảnh đám bèo lơ lửng trên sông dường như càng làm tâm hồn tác giả thêm sa sút. trốn chạy những khao khát gần gũi để được yêu thương, được bao bọc, nhưng bản tính hờ hững, trái tim lạnh lùng đã khiến bản thân nhà thơ rơi vào bế tắc.

câu thơ gợi cho chúng ta nhớ đến câu thơ tiêu đề của tou: “Yên ba giang thường sầu nhân sầu”. tuy được trích từ những bài thơ cổ nhưng những câu vọng cổ vẫn rất mới và rất hiện đại. nỗi nhớ quê hương da diết, xót xa được nhân vật trữ tình thể hiện trực tiếp. đằng sau nỗi nhớ quê hương là lòng yêu nước sâu sắc nhưng mãnh liệt của nhân vật trữ tình.

“Mây cao” và “núi bạc” xuất hiện gợi lên khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng vẫn hiu quạnh trong buổi chiều tà. giữa đất trời bao la, chỉ có một chú chim nhỏ chao liệng. ai cũng lẻ loi, cô đơn đến đáng thương và con người như chìm trong cái mênh mông của đất trời. cảm giác bâng khuâng của cánh chim lẻ loi hiện về nổi bật lên nỗi buồn nhớ thương da diết của cái tôi trữ tình dành cho quê hương đất nước. “lòng quê xao xuyến dòng nước”, hai chữ “bâng khuâng” thật đắt thể hiện sự bâng khuâng trong cả trí óc và tâm hồn. dòng cuối gợi nhớ về một tứ thơ tang tóc: “yên ba giang thương sầu”. nhưng ở gần đâu cần phải có “khói hoàng hôn” cứ canh cánh trong lòng “nỗi nhớ” bởi nỗi nhớ này, nỗi buồn này dường như luôn thường trực trong tim.

“Tràng giang” với giọng điệu trầm buồn, cảm xúc tinh tế đã làm nổi bật “cái tôi trữ tình” với trái tim cô đơn nhưng luôn đau đáu, yêu quê hương đất nước. theo “trang giang”, chúng ta không chỉ đồng cảm với tình cảm của nhà thơ mà còn cảm kích trước tài năng và tâm hồn đáng trân trọng của nàng thơ.

Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc 8 mẫu cảm nhận bài thơ Tràng giang siêu hay – Cảm nhận về bài thơ Tràng giang. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *