Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
532 lượt xem

Cảm nhận Đồng chí hay nhất (11 mẫu) – Văn 9

Bạn đang quan tâm đến Cảm nhận Đồng chí hay nhất (11 mẫu) – Văn 9 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Cảm nhận Đồng chí hay nhất (11 mẫu) – Văn 9

bài thơ của người bạn đồng hành tương trợ, tình bạn gắn bó với núi, vào sinh ra tử có nhau. với 10 lời bình về bài thơ đồng chí sẽ giúp các bạn hiểu sâu hơn.

Những người lính trong bài thơ đồng chí xuất thân từ những lĩnh vực khác nhau, những hoàn cảnh khác nhau nhưng họ có sự đồng cảm và thấu hiểu tâm tư, tình cảm của người khác. vậy mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây để củng cố kiến ​​thức môn văn lớp 9, ôn thi vào lớp 10 hiệu quả.

phác họa tình cảm của bài thơ đồng chí chính nghĩa

i. mở bài: giới thiệu tác giả bài thơ, đồng chí.

ii. thân bài: phân tích chi tiết tác phẩm và cảm nhận về bài thơ

1. cơ sở để hình thành tình bạn thân thiết của người lính

a. tình đồng đội của người lính nảy sinh từ sự tương đồng về xuất thân

– ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã lý giải cơ sở hình thành nên tình bạn thắm thiết, sâu nặng giữa anh và tôi – của những người chiến sĩ cách mạng:

“Quê hương tôi là nước mặn, thị trấn của tôi nghèo, cày trên đá.”

+ thành ngữ “muối chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”

+ giọng thì thầm, cảm giác như một câu chuyện

= & gt; các anh đến từ những vùng quê nghèo, lam lũ: biển mặn, miền trung, miền núi, đều thấy mình có một tình yêu Tổ quốc vô bờ bến. bạn là những người nông dân trong bộ quân phục, đó là sự đồng cảm của giai cấp.

– như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã, mộc mạc:

“Bạn và tôi là những người xa lạ từ khắp nơi trên thế giới không hề quen biết nhau”.

= & gt; Đến từ khắp mọi miền đất nước, là những người xa lạ, hai anh em đã hợp tác và trở thành một gia đình.

b. cùng mục đích, lý tưởng chiến đấu:

“súng vào súng, đối đầu”

– thông điệp, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng = & gt; tình bạn, tình đồng chí được hình thành trên cơ sở chung nhiệm vụ và lý tưởng cao đẹp. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã tề tựu dưới lá cờ quân, cùng kề vai sát cánh chiến đấu thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.

c. chia sẻ mọi khó khăn, vất vả

– tri kỷ của những người bạn thân được thể hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà gợi cảm: “những đêm se lạnh có nhau làm nên đôi tri kỷ”.

= & gt; Chính trong những ngày tháng khó khăn, anh em đã trở thành người bạn tâm giao của nhau, cùng chia sẻ cái lạnh giá của mùa đông, cùng chia sẻ khó khăn trong cuộc sống đầy gian khó.

– dòng thứ bảy của bài thơ “đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc đáo qua ngòi bút của Chính Hữu:

+ những dòng thơ độc lập, một câu đặc biệt gồm hai âm tiết có dấu chấm than, vang lên như một tiếng gọi nghiêm nghị, tạo nút, lắng đọng.

+ hai chữ “đồng chí” bình dị mà đẹp đẽ, là điểm hội tụ, kết tinh của bao tình cảm cao đẹp: tình giai cấp, tình bạn, tình người trong chiến tranh.

= & gt; dòng thứ bảy của bài thơ được hiểu là bản lề nối đoạn đầu và đoạn hai của bài thơ, nó là điểm nhấn, nó là mạch cảm xúc chung của cả bài thơ. có thể nói, hai từ “đồng chí” đơn giản đã ngân vang và mang một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.

2. biểu hiện và sức mạnh của tình thông công

a. Tình bạn thân thiết của những người lính cách mạng được thể hiện qua việc thấu hiểu tâm tư, tình cảm của người khác:

– các bạn là những người lính gác lại tình yêu của chính mình, lên đường vì nghĩa lớn, bỏ lại quê hương với bao lo toan, trăn trở.

– hai từ “để nó yên” = & gt; thái độ kiên quyết của người ra đi khi đã trong sáng lý tưởng, mục đích đã chọn: “anh em nhân dân quyết đi giết giặc lập công”.

– hình ảnh “bãi trống” gợi lên sự nghèo nàn, cơ cực của vùng quê lam lũ và nỗi trống trải trong lòng người ở lại.

– “gốc gác nhớ người lính” là một cách nói tế nhị và giàu sức gợi. quê hương nhớ người lính hay người đã khuất luôn nhớ về quê hương. biện pháp nhân hoá và hai hình ảnh hoán dụ đã thể hiện sâu sắc tâm tư, tình cảm của những người lính nơi mặt trận. Nhớ nước cũng là cách vượt lên chính mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.

b. họ là đồng chí của nhau, họ chia sẻ những khó khăn, gian khổ của cuộc đời quân ngũ

“Áo anh rách, vai em rách, quần rách mấy mảnh cười khổ, không có giày.”

= & gt; Những chi tiết hiện thực, những hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái hiện chân thực những khó khăn, gian khổ của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. anh em đã đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau chịu đựng … chính tình bạn thân thiết đã giúp anh em vươn lên từ “sương giá” của mùa đông chiến tranh để nụ cười rạng rỡ và yêu thương nhau nhiều hơn.

– hình ảnh “nắm tay nhau yêu thương” gợi nhiều sức gợi hơn tả với nhịp thơ uyển chuyển. Đây là một cách rất tốt để thể hiện tình cảm. “tay trong tay” để truyền hơi ấm của tình đồng hành, để truyền sức mạnh của tình đồng hành. cái bắt tay đó cũng là một lời hứa xứng đáng.

3. biểu tượng thông công

– tình bạn thân thiết trong bài “đồng chí” được Chính Hữu thể hiện rất hay qua những dòng cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng sương bên nhau chờ giặc đến”. vũ khí mặt trăng đang treo. “

– đây là hình ảnh đẹp về tình bạn thân thiết, biểu tượng cao quý của đời lính.

– sương giá: gợi lên sự khốc liệt, khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến tranh.

– “Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn:

+ “súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng như đối lập nhưng lại thống nhất – chân cứng, mềm – gần xa – thực và mộng – chất chiến đấu và chất trữ tình – anh bộ đội. và một nhà thơ.

<3

+ đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị mà thăng hoa trong tâm hồn người lính. hình ảnh này đã giúp nâng cao giá trị của bài thơ và trở thành tiêu đề của toàn bài thơ “đầu súng trăng treo”.

iii. kết bài: khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật mà qua đó cảm nhận của anh (chị) về tác phẩm.

bình luận ngắn của đồng chí

đồng chí là tiếng gọi trìu mến, chân thành, thể hiện trọn vẹn tình bạn thân thiết của người lính năm xưa trong kháng chiến chống Pháp. Cảm nhận được những cảm giác vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc đời chiến đấu ấy, người chiến sĩ công chính đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với ca từ chân thành và tình cảm, bài thơ đã để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.

Cả bài thơ thể hiện rõ tình bạn thắm thiết giữa các chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống đấu tranh gian khổ. họ là những người dân phố thị cần cù, chỉ quen “cày” ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì cùng chung lòng yêu nước, họ từ xa lạ đã gặp, bỗng trở thành người quen. người công bình đã nói về những người này bằng một bài thơ rất cảm động:

Quê bạn là nước mặn, thị trấn của tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá, đôi người xa lạ không quen biết nhau đánh nhau với tôi

tất cả họ đều đến từ những vùng đất khô cằn và nghèo nàn, “ruộng chua nước mặn”, “đất cày lên sỏi đá”. từ “lạ” gặp nhau. Điều thú vị là nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ” nên ý thơ được nhấn mạnh và mở rộng. “hai người” quá cụ thể. các cặp đôi là “cặp” một, nhiều người. mọi người trong đơn vị quân đội đều như vậy. hình ảnh những con người không hẹn mà gặp nói lên sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những người này đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ, cùng nhau chiến đấu. rồi họ trở nên thân thiết, hiểu nhau, quý mến nhau và gọi nhau là “đồng chí”.

“súng kề súng, sát đầu trong đêm lạnh có chăn, các đồng chí”

tình yêu ấy thật thắm thiết, thật chân thành. giọng thơ uyển chuyển, mềm mại, thì thầm với lòng người chợt đứt nhịp. từ đồng chí lại được tách ra thành một câu riêng, một đoạn văn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường này, tác giả đã làm nổi bật ý thơ. nó giống như một nốt nhạc chính trong âm nhạc, nâng cao sự cộng hưởng cảm xúc. câu thơ chỉ có một chữ đồng chí: giọng thánh thót. đồng chí đánh giá cao về nhiều thay đổi kỳ lạ trong mối quan hệ. người đang trở thành đồng đội.

Tình cảm ấy thể hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. khi ở bên nhau, họ kể cho nhau nghe những câu chuyện quê hương. chuyện “cánh đồng bạn thân sai đi cày”, “ngôi nhà không để gió lay” và chuyện “giếng nước nhớ anh bộ đội”… từ những cảm nhận ấy, chúng ta có thể hiểu rằng: Những người lính ngày nào còn có quê hương, họ có những kỷ niệm thân thiết về quê hương và khi ra đi, hình ảnh quê hương mang theo trong họ. họ cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi cùng nhau. trong công việc khó khăn, họ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong tình bạn. Làm sao họ có thể quên được những lúc ướt đẫm mồ hôi, cùng nhau chịu đựng từng cơn lạnh thấu xương? Đời lính nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Mặc dù áo anh ấy rách, quần tôi có vài miếng vá… dù trời lạnh nhưng miệng tôi vẫn cười. tình cảm chân thành và thắm thiết ấy không thể diễn tả bằng lời nói mà phải bằng những cái nắm tay. thật đơn giản và cảm động. không của cải vật chất, không khoa trương phô trương. những người lính thể hiện tình bạn thân thiết bằng cách nắm tay nhau. Chính những cái nắm tay thật chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩ cao cả và thiêng liêng của tình bạn thân thiết:

Đêm nay rừng hoang sương mù đứng bên nhau chờ giặc đến. đầu súng mặt trăng đang treo

Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa tượng trưng. tác giả tả cảnh bộ đội chờ giặc trong đêm sương mù. khẩu súng chĩa mũi lên trời với ánh trăng lơ lửng trên bầu trời như đang treo lơ lửng trên đầu súng. đồng thời “đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. đó là sự kết hợp giữa lối viết hiện thực và lãng mạn vừa thực vừa mộng, vừa xa vừa gần, vừa chất chiến đấu vừa trữ tình. người lính và nhà thơ. đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. tình bạn thắm thiết, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chinh chiến. những hình ảnh độc đáo, gây bất ngờ và thú vị cho người đọc. thể hiện trọn vẹn ý nghĩa cao cả về mục đích lý tưởng chiến đấu và tình đồng chí thiêng liêng của người lính năm xưa.

Với ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh hiện thực gợi sức khái quát rộng, Thẳng thắn thể hiện rõ quá trình phát triển tình cảm cách mạng trong quân đội. ở đây nhà thơ đã xây dựng hình tượng thơ từ những chi tiết có thật trong đời sống hàng ngày của người lính, không phô trương, không lãng mạn, thơ hóa, chính những nét hiện thực đó đã tạo nên thành công của tác phẩm. bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác và cách xây dựng hình tượng người lính trong thơ thời chống Pháp.

cảm thấy như một người đồng chí của chính nghĩa

Giữa những năm tháng ác liệt của chiến tranh, trên khắp các chiến trường bom đạn, tình đồng đội giữa những người lính cách mạng vẫn luôn nồng ấm và trong sáng. tác phẩm “đồng chí” của chính nghĩa là một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này. Ra đời vào đầu năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc trong Kháng chiến chống Pháp, bài thơ đã thể hiện sâu sắc tình đồng chí, tình đồng đội sâu nặng giữa những người chiến sĩ cách mạng. qua đó ta thấy được chân dung người lính rất chân thực, giản dị nhưng rất đẹp.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã nêu bật sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ cách mạng, từ cách gọi “đồng chí” vừa thể hiện tình yêu chiến đấu, vừa thể hiện ý tứ ẩn sâu trong anh. những suy nghĩ sâu sắc về tình bạn giữa những người cùng cảnh ngộ, gắn bó với nhau đi qua những năm tháng chiến tranh ác liệt. sự gắn bó hữu cơ giữa những người lính với vũ khí được xây dựng từ xuất thân và lý tưởng chiến đấu của họ. lời thơ giản dị, mộc mạc “quê mình ruộng chua nước mặn / dân ta nghèo đất cày lên đá” với giọng thơ trầm ngâm gợi tả hoàn cảnh, xuất thân của người lính. các anh đều là những người nông dân rũ bỏ chân lấm tay bùn tham gia kháng chiến, ngày đêm cầm chắc vũ khí, để rồi giữa họ có thêm mối liên hệ về lý trí và mục đích đấu tranh cao cả:

<3

tình người tri kỉ trải qua bao gian khổ, gian khổ của cuộc kháng chiến “đêm lạnh chung chăn chung gối” càng hun đúc ý chí chiến đấu giữa họ, tạo nên hình tượng độc đáo: “đầu súng kề súng”. cái đầu ”. sự tham gia vào mọi khó khăn của anh ấy bỗng chốc được thu gọn lại thành hai từ“ đồng chí! ”thật đặc sắc và sâu lắng, thể hiện sự kết tinh của một tình cảm rất đáng trân trọng. vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng hành.

họ là những người con ra trận vì tiếng gọi của Tổ quốc, bỏ lại những “công ruộng”, “bãi trống” – thân thương nhất của “nơi chôn rau cắt rốn”. họ đã chấp nhận hy sinh, nhất định theo đuổi lý tưởng giải phóng dân tộc với một thái độ kiên quyết, nhưng những người nông dân ấy vẫn luôn nhớ quê hương sâu nặng, bởi tình yêu quê hương đất nước luôn hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước và họ đã tạo nên sức mạnh tinh thần để những người lính vượt lên. mọi điều. khó khăn, gian khổ và thử thách khốc liệt trên chiến trường:

“bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, sốt, ớn lạnh, trán lấm tấm mồ hôi. Áo rách vai, quần tôi rách vài mảng tường không có giày”

Hình ảnh hiện thực tàn khốc của chiến tranh đã được tác giả khắc họa chính xác qua những nét vẽ về sự hiểm nghèo của bệnh sốt rét và những khó khăn, gian khổ của cái nghèo, cái khó. giữa những đêm đông gió rét nơi “rừng thiêng nước độc”, chỉ khoác trên mình chiếc áo rách vai, quần có “mấy mảnh vá”, “không có giày”, những người lính vẫn nêu cao lý tưởng chiến đấu. hình ảnh của bạn bỗng hiện lên đẹp đẽ hơn qua sự chia sẻ, cảm thông và yêu thương lẫn nhau: “yêu nhau bằng tay”. để cùng sức mạnh vượt qua khó khăn, họ đã động viên, truyền sức mạnh yêu thương bằng hành động tình cảm “tay trong tay”. hình ảnh đó mang ý nghĩa tượng trưng cho sự kết tinh vẻ đẹp của tình đồng đội, tình bạn:

“đêm nay rừng hoang sương giá đứng bên nhau chờ giặc đến. Đầu súng trăng treo”

Giữa không gian mây mù, hoang vắng, lạnh lẽo, hiểm trở của núi rừng bạt ngàn, sương mù giăng kín cành lá, người lính vẫn vững tay súng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. họ đã sát cánh bên nhau để lan tỏa hơi ấm của tình bạn thân thiết, sẵn sàng quyết chiến với kẻ thù. để rồi tầm vóc người lính bỗng cao to hơn bao giờ hết với hình tượng “đầu súng trăng treo”. người lính với vũ khí chiến đấu là vũ khí và vầng trăng gắn bó với nhau trong một mối quan hệ độc đáo. hai hình ảnh “đầu súng” trên mặt đất – biểu tượng của chiến trận, của chiến tranh và “vầng trăng” trên bầu trời đêm – biểu tượng của vẻ đẹp, thiên nhiên cùng tồn tại dựa trên sự liên kết qua từ “treo” đầy thú vị. hiện thực tàn khốc của chiến tranh không thể hủy diệt được tâm hồn lãng mạn và niềm vui, niềm tin, sự lạc quan của những người lính. hình ảnh thơ đặc sắc giữa đầu súng và vầng trăng đã tạo nên vẻ đẹp thơ mộng của không gian và vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của tác phẩm.

Như vậy, qua ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hình ảnh thơ chân thực, giàu sức gợi kết hợp với giọng thơ sâu lắng, xúc động, bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng người nông dân làng chài – người chiến sĩ cách mạng với phẩm chất của người chiến sĩ. đồng thời thể hiện rõ tình cảm giữa những người lính, tình đồng chí thiêng liêng, cao cả luôn tỏa sáng qua những năm tháng kháng chiến gian khổ.

cảm nghĩ về bài thơ của đồng chí

Văn học là một bức tranh muôn màu, nó hiện lên dưới ngòi bút tài hoa của một nghệ sĩ lấy chất liệu từ thực tế. văn chương không bao giờ hướng đến những thứ xa vời, hào nhoáng để thỏa mãn nhãn quan của người đọc mà thay vào đó, tiếp cận người đọc bằng tình cảm chân thành và chủ đề gần gũi. cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp không chỉ thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc mà còn thổi luồng sinh khí mới vào văn học đương đại. hòa mình vào môi trường ấy, chỉ với “đồng chí” như một hiện tượng xuất sắc trong đề tài người lính. cảm nhận bài thơ “đồng chí”, vừa đưa người đọc đến với thế giới thực nơi núi rừng biên cương tưởng như xa lạ nhưng lại thấm đẫm tình đồng đội bằng một thứ văn chương giản dị, mộc mạc.

Không thể phủ nhận rằng, để có được hai chữ “độc lập, tự do”, dân tộc ta đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng tuổi thanh xuân của cả một thế hệ qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Từ hiện thực đau thương, mất mát hình ảnh người lính đi vào thơ ca thời cách mạng như một tượng đài bất diệt, là nguồn cảm hứng dồi dào, không bao giờ vơi cạn, góp phần làm rạng danh đất nước cho bao thế hệ cầm bút. . và các nhà thơ. và duy nhất là một trong số đó.

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. những bài thơ của ông thường viết về đề tài chiến tranh và người lính bằng ngôn ngữ giản dị, giọng thủ thỉ, cảm xúc dồn nén, hình ảnh thơ tươi sáng. “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của chính nghĩa, được trích trong tập thơ “Đầu súng trên núi” viết vào đầu xuân năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. bài thơ đề cao tình đồng chí cao cả, thiêng liêng, sự đùm bọc lẫn nhau, vào sinh ra tử của những người nông dân áo lính giữa khói lửa.

với giọng thơ như một cách kể chuyện, với ngòi bút tài hoa, ngôn ngữ dung dị, đầy dung dị, anh đã trở về cội nguồn để kết thành tình bạn thân thiết:

“quê anh là nước mặn, ruộng chua, quê tôi nghèo, cày trên sỏi đá.”

Anh ấy và tôi xuất thân từ những người nông dân chân chất, mộc mạc. quê anh và thị trấn tôi nghèo, là nơi “đồng muối, đồng chua”, xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. việc mượn những chất liệu bình dân để nói về quê hương đất nước cùng với cấu trúc song song, đối xứng, sòng phẳng đã thổi hồn vào bài thơ làm cho bài thơ đầy chân tình, mộc mạc. Sự cảm thông và hiểu biết lẫn nhau có phải là yếu tố, bệ phóng cho tình bạn không?

“bạn và tôi là những người xa lạ từ khắp nơi trên thế giới không hề quen biết nhau.”

Cùng hoàn cảnh, cùng chung lí tưởng cao cả, anh em đã đi một con đường gian khổ nhưng cũng rất anh dũng. cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp là cơ duyên để anh em xích lại gần nhau, cho những trái tim yêu nước nồng nàn có cơ hội xích lại gần nhau, đưa họ thoát khỏi những người nông dân chân ướt chân ráo xa lạ chứ không phải chỉ là những người xa lạ. những chú hề quen thuộc trở thành bạn thân:

“súng bằng súng, đầu bằng đầu, những đêm lạnh giá cùng nhau làm nên một đôi bạn”

hai câu thơ có ý nghĩa hiện thực và biểu tượng. Những người nông dân khoác áo lính chiến đấu vì sự nghiệp chung của quê cha đất tổ đã xóa nhòa mọi khoảng cách về không gian, thời gian và vị trí Câu thơ: “súng kề súng, đầu kề sát” đã gợi lên tư thế trong đêm hành quân. . họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng kề súng, kề súng sát đầu” rất phổ biến, không chỉ ở sự gần gũi về địa lý mà còn ở chung tư tưởng, lý tưởng cách mạng. người bạn cũng nói về tình cảm của người lính trong tập thơ Việt Nam

<3

câu 7, 8 viết tắt bằng hai chữ “đồng chí” như nghẹn lại như bờ vai thủy chung, như tư thế vững chãi quy tụ trung tâm sức mạnh của niềm tin vững chắc. tìm thấy cảm xúc. tự hào nói lên tình đồng chí cao cả, thiêng liêng, cùng chung lý tưởng chiến đấu, những người nông dân nồng nàn yêu nước, hướng đến hai chữ độc lập, tự do cho dân tộc. những người công bình đã rất khéo léo trong việc sử dụng những từ như bên cạnh, gần gũi, thủy chung, để thể hiện sự gắn bó nồng nàn của tình yêu tin cậy và tình bạn đồng hành.

Những người lính ra đi đều có lý lịch và hoàn cảnh giống nhau. bởi vậy, nỗi nhớ và động lực của những người anh em nơi đầu mưa bom, bão đạn có chung hai chữ quê hương, càng làm sâu sắc thêm tình đồng chí:

anh sai bạn thân cày ruộng, nhà không gió lay nước giếng, rễ nhớ người lính ……

nếu hình ảnh người chiến sĩ trí thức trong quang dũng “đột phá miền Tây” rằng mảnh đất ngàn năm văn hiến, sẽ nhớ về hoa thơm, thì người chiến sĩ trong thơ chợ búa sẽ nhớ về giếng nước, mái đình, cây đa. nguồn gốc những chất liệu, hình ảnh bình dân “cây đa, bến xưa…” được Chính Hữu sử dụng một cách tinh tế, nhuần nhuyễn đã gửi gắm vào một vần thơ thật giàu sức gợi, nói ít mà gợi nhiều. , đầy nỗi nhớ con. quê hương. hai nỗi nhớ ở cả tiền phương và hậu phương, tình yêu quê hương đất nước, niềm thương nhớ nơi cội nguồn đã khắc sâu hai chữ “đồng chí”, là yếu tố góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần cho người lính vượt lên tất cả. gian nan thử thách, thậm chí liều mình dưới mưa bom, bão đạn.

Sự đồng hành, đồng hành trong cuộc kháng chiến chống Pháp là nguồn cảm hứng dồi dào cho sáng tác của các nhà thơ, nhà văn. và trong khó khăn, vẻ đẹp tình yêu của anh ấy càng tỏa sáng hơn bao giờ hết:

bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt, vầng trán đẫm mồ hôi

Bây giờ, tác giả đã đưa vào một số chi tiết hiện thực trong câu thơ. Đó là một chiếc áo rách, quần vá và không có giày. đoạn thơ thể hiện sự gian khổ, thiếu thốn vật chất của những người lính trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. không những thế, đây còn là cơn sốt rét rừng kinh niên mà những người lính phải chịu đựng. trong bài thơ “tây tiến”, quang dung cũng có nói đến bệnh này

quân tây không mọc tóc, quân xanh cầm châu chấu

nhưng trong cùng một hoàn cảnh, với việc sử dụng phép đối xứng giữa anh và em, chính nghĩa đã gợi lên sự đồng cảm, sẻ chia của những người lính đã kề vai sát cánh:

áo anh rách, vai anh rách, quần tôi vài mảnh cười lạnh không mang giày … yêu nhau nắm tay nhau

Những câu thơ này tưởng như kể và tả, nhưng khi chuyển sang câu thơ “thương nhau, nắm tay nhau” thì nó không còn là câu chuyện nữa mà nó là câu văn tả cảnh. có cái gì đó hơi gượng gạo, gượng gạo về tình cảm chân thật của người lính, cái hay của tứ thơ là sự lặp lại những cặp so sánh đối xứng một cách hồn nhiên “ta – bạn”, “áo – quần”, “tiếng cười rùng rợn – trần trụi. chân ”. hình ảnh người chiến sĩ-đồng chí từng bước vươn lên từ nghèo khó, vẻ đẹp tâm hồn càng bừng lên

ba câu thơ cuối là hình ảnh đẹp đẽ và hoàn hảo nhất của người chiến sĩ:

Đêm nay rừng hoang sương mù đứng bên nhau chờ giặc đến. đầu súng mặt trăng đang treo

Hình ảnh đó, nổi bật trên nền rừng mù sương là sự kết hợp của ba hình ảnh: chú bộ đội, khẩu súng và vầng trăng. tạo nên khung cảnh vừa chân thực vừa lãng mạn. hiện thực khốc liệt của sa mạc chiến tranh, khí hậu khắc nghiệt khi chịu cái lạnh thấu xương như ngàn mũi dao đâm vào da thịt, khi cái chết cận kề mà người lính vẫn bình tĩnh. , lặng lẽ bên nhau “đợi kẻ thù đến.” cách nói chính luận không chỉ cho ta thấy rõ hơn hoàn cảnh chiến tranh mà còn soi sáng tinh thần chiến đấu của người lính năm xưa. và trong không gian ấy, nhà thơ đã có một khám phá rất thơ:

“đầu súng trăng treo lủng lẳng”.

đây có lẽ là câu thơ hay nhất và thấm thía nhất khi viết về người chiến sĩ chính nghĩa. Lấy tư liệu từ thực tế, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, với mũi súng hướng lên trời trong đêm thanh tĩnh. hai hình ảnh tương phản. vũ khí là biểu tượng của sự chiến đấu gian khổ, hy sinh nơi hiểm nguy; Mặt trăng là biểu tượng của hòa bình mà những người lính luôn mong mỏi. “Mảnh trăng treo cổ bắn” là một hình ảnh thơ mộng, trong cuộc chiến đấu gian khổ, thậm chí hy sinh tính mạng vì độc lập của Tổ quốc, họ vẫn bình tĩnh, lạc quan, yêu đời. họ cùng nhau mơ về một ngày mai đất nước hòa bình. Ngay cả trong đêm tối mịt mù sương rừng và nhiều hiểm nguy, người lính kháng chiến chống Pháp vẫn mở rộng lòng mình để cảm nhận hình ảnh tuyệt đẹp của vầng trăng treo trên đầu súng. hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh chân thực nhất về người lính. Có thể coi đây là một bước đột phá về thơ ca với cảm hứng và vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca cách mạng thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. dùng hình ảnh ánh trăng để làm nổi bật tư thế điềm tĩnh, chủ động “chờ giặc đến”. Mọi khó khăn, gian khổ và không khí căng thẳng của chiến trận đã lùi xa để nhường chỗ cho vẻ đẹp rực rỡ và huyền ảo của ánh trăng trong thiên nhiên. và những ngọn núi hiểm trở.

XEM THÊM:  Bài văn kể về một lần em mắc lỗi

cảm nhận về bài thơ “đồng chí”, có thể thấy chính nghĩa đã thổi một làn gió nhẹ về tình đồng chí, tình đồng chí trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gian khổ. với sự kết hợp giữa phong cách hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, sử dụng chất liệu bình dân làm nên chất thơ mộc mạc, chân chất. hình tượng người lính năm xưa trong thơ ca vừa tỏa sáng vẻ đẹp của một tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

cảm nghĩ về bài thơ ngắn đồng chí

Bài thơ của đồng chí giống như cuộc trò chuyện giữa hai người lính trong một đêm lạnh giá dưới cùng một tấm chăn. có hai nhân vật trữ tình, và “tôi”, với những nét riêng và những đặc điểm chung, và thật thú vị khi thay tất cả các địa danh của “anh” bằng “tôi” (và tất nhiên). tuy nhiên, “tôi” được thay thế bằng “anh”), vần, nhịp điệu và nội dung tư tưởng của bài thơ hầu như không thay đổi. việc hoán vị được thực hiện dễ dàng bởi vì “anh ấy” và “anh ấy” tôi “rất giống nhau, bởi vì tác giả không có ý định nói về những đặc điểm cá nhân, những nét riêng của” anh ấy “và” tôi “. Mục tiêu theo đuổi của tác giả anh là đồng đội, là gương mặt tinh thần của đồng đội, nên khi đọc bài thơ, chúng ta thấy có người anh, người em, người tri kỷ, có người áo rách, người không vá giày.

những chi tiết thơ rất chọn lọc, gợi nhớ một thời những người lính vừa rời khỏi bờ ruộng, cánh đồng “áo trần đi săn giặc”, nhưng bài thơ không dừng lại ở sự xuất hiện của những người lính. “anh” qua “em”, nhà thơ muốn gợi ra, muốn khái quát những nét chung nhất để quê hương, con người, anh và em, từng chút một xích lại gần nhau, xích lại gần nhau hơn, đoàn kết, hòa nhập. cái này với cái kia. điều này được thấy rõ cả trong cấu trúc của từng dòng và xuyên suốt bài thơ:

quê hương của bạn … thị trấn của tôi …

sự đồng điệu trong cả hai câu thơ của bạn và của tôi dẫn đến sự gần gũi của “bạn và tôi” trong cùng một câu thơ, tiếp theo là hai người – một đôi, nhưng là một “đôi lẻ” – sau đó là “đôi bạn cùng thời”. và cuối cùng, sau sự gắn bó “súng đối với súng”, sau “đôi bạn tri kỷ” có một tình cảm mới thiêng liêng hơn đó là đoàn kết mọi người, thưa đồng chí. hai chữ “đồng chí” mới ấy như sự kết tinh, hội tụ những gì tốt đẹp, tinh túy trong tình cảm xã hội thế kỷ của con người bởi chúng là tình cảm của một đội quân chân đất áo nâu, đó là tình bạn chiến đấu của các nhà cách mạng.

Khổ thơ thứ hai của bài thơ trở về những nét riêng, những con người đoàn kết với nhau bằng tình đồng loại. đồng chí được hình thành từ những con người từ mọi miền, từ một làng quê nghèo “sỏi đá cày xới” của miền Trung hay miền núi, đến đồng bằng ven biển “chua mặn đồng bằng”. các đối tác xếp hàng trong khi kề vai sát cánh “đấu súng đối đầu.”

đồng chí bị thử thách gian khổ và bệnh tật (áo rách, quần vá, chân trần, sốt và mồ hôi trán).

compañero được nuôi dưỡng bằng tình yêu thương đối với người hậu phương (giếng nước, rễ nhớ người lính ra quân). đoạn thơ tiếp tục với những chi tiết khác nhau để làm nổi bật tình bạn thân thiết của những người lính, một lần nữa “anh” và “tôi” lại bối rối trước những gương mặt chung nam nữ đồng hành:

mỉm cười chua chát,

giày chân không

yêu nhau nắm tay nhau.

Những câu thơ không rõ chủ đề này nói về tình đồng chí – điểm sáng trong tâm hồn của những người lính vô danh. chỉ là một cử chỉ nắm tay với bao nhiêu ý nghĩa. tương giao là thế đấy, cách diễn đạt rất đơn giản, không ồn ào, nhưng sâu lắng. bàn tay nói lên sự im lặng của tình đoàn kết, gắn bó, cảm thông và cả lời hứa công đức.

những dòng thơ cuối cùng như một tượng đài sừng sững về tình đồng đội thiêng liêng. trên nền hùng vĩ của thiên nhiên, rừng cây trải rộng, bầu trời quang đãng, người lính đứng cầm súng và vầng trăng. Đây là hình ảnh có thật trong những đêm phục kích của tác giả, nhưng chính tầm cao tư tưởng và lý tưởng chiến đấu của quân đội cách mạng đã tạo cho hình ảnh một vẻ đẹp tổng thể và mang tính biểu tượng.

cảm nhận chi tiết bài thơ đồng chí

“đồng chí” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu mùa xuân năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, trải qua chặng đường nửa thế kỷ hun đúc hồn thơ của người chiến sĩ chính nghĩa.

hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ giản dị, giọng thủ thỉ, cảm xúc dồn nén, hình ảnh thơ rực rỡ, là những dòng thơ để lại nhiều bất ngờ cho độc giả trẻ ngày nay.

Bài thơ “compañerismo” đề cao tình đồng chí gian khổ, sự sống và cái chết của những người lính già, những người nông dân yêu nước đã chiến đấu trong quân đội trong những năm đầu gian khổ của cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp (1946-1954).

Hai dòng đầu của bài thơ có cấu trúc song song, đối xứng thể hiện hai “gương mặt” còn rất trẻ của những người lính, như thể tin tưởng nhau.

“quê anh là nước mặn, ruộng chua, quê tôi nghèo, cày trên sỏi đá.”

quê hương anh và thị trấn tôi nghèo, là nơi “đồng muối, đồng chua”, xứ sở “đất cày có đá”. mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, chính nghĩa đã làm nên lời thơ dung dị, chất thơ, đẹp đẽ như tâm hồn người thanh niên ra trận đánh giặc. sự cảm thông, đồng cảm và thấu hiểu lẫn nhau là nền tảng, là gốc rễ của tình bạn, tình đồng hành sau này.

Năm dòng tiếp theo mô tả một quá trình tình yêu: từ “một cặp đôi xa lạ” đến “trở thành bạn tâm giao”, rồi trở thành “đồng chí”. câu thơ biến hóa, 7, 8 chữ rồi rút lại, nén 2 chữ, cảm xúc của bài thơ như dồn lại, cô đọng. những ngày đầu đứng dưới lá cờ quân tử: “anh và em là một cặp xa lạ, từ trời cao không gặp”. cặp đôi gắn kết với nhiều kỷ niệm đẹp:

“vũ khí là vũ khí, đối đầu, những đêm lạnh lẽo cùng nhau làm nên đôi tri kỷ, đồng chí!”

“súng lục với súng lục” là cách nói cô đọng và tượng trưng: cùng chung lý tưởng chiến đấu; “anh và em” cùng nhau ra trận để bảo vệ Tổ quốc, vì độc lập, tự do và sự tồn vong của dân tộc. “head by head” là hình ảnh mô tả tấm lòng đầu tiên của người bạn tâm giao. câu thơ “đêm rét chung chăn thành tri kỉ” là một câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm của một thời khốn khó. chia ngọt sẻ bùi “trong đôi bạn tri kỷ.” “đôi bạn tri kỷ” là một người bạn rất thân, biết bạn cũng như biết mình. bạn chiến đấu để trở thành bạn tâm giao, sau đó là một chiến hữu! câu 7, 8 chữ bỗng rút gọn thành hai chữ “đồng chí” thể hiện niềm tự hào, xúc động, mãi ngân nga trong lòng, xúc động trước suy nghĩ về một tình bạn đẹp, tự hào về tình đồng chí thiêng liêng cao cả, cùng chung lí tưởng chiến đấu thủy chung. những chiến sĩ nông dân yêu nước ra trận đánh giặc. các từ ngữ được dùng làm vị ngữ trong bài thơ: bên, thân, xã, thanh – thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha tin cậy, tình đồng chí, tấm áo mỏng nhưng ấm của người tri kỉ, tình bạn sẽ mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, người sẽ không bao giờ bị lãng quên:

“ôi núi rừng thăm thẳm, tiểu đội đi đâu tìm trời mưa nhanh về đây nhớ cái lạnh đầu mùa, thấm tình Việt Nam…” (“chiều mưa đường 5” – tim)

Ba câu thơ tiếp theo nói về hai người đồng chí cùng chung một nỗi nhớ: nhớ ruộng, nhớ bạn cày, nhớ nhà, nhớ giếng, nhớ cây đa. mỗi hình ảnh chan chứa tình quê:

“Tôi sai bạn thân đi cày ruộng, nhà chẳng màng gió lay, giếng khơi, rễ thiếu người lính”.

Cây sung là hình ảnh thân thương của phố thị được nói nhiều trong các câu ca dao xưa: “Cây sung xưa, bến xưa… cây vả, giếng nước, sân đình…” được ứng dụng và đưa vào chất thơ rất phong phú, nói ít nhưng gợi nhiều, xúc động. Ngôi nhà, cái giếng, cái gốc có được nhân hóa, có nhìn thấy bóng người anh ngày đêm cặm cụi xông pha trận mạc không?

hay “anh bộ đội” vẫn ngày đêm ôm ấp hình bóng quê hương? vừa có nỗi nhớ hai bên chân trời, tình yêu quê hương đất nước đã góp phần hình thành nên tình đồng đội và sức mạnh tinh thần. Chúc cho người lính vượt qua mọi gian khổ, thử thách khốc liệt của thời máu lửa. hãy nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “không bao giờ trở lại”, Hoàng trung thông viết:

“bấm tính giờ con đi, mẹ thường nhắc: con biết bao giờ về? lúa xanh ngắt chân đập giữ quê hương. Mẹ thường nhắc: con biết bao giờ mới về? lúa xanh ngắt chân đập giữ quê hương. Nước từ bến cây đa sân đình. của longhouse, lời thề nhớ gặp trên đường

Bảy câu thơ tiếp theo chứa đầy những chi tiết rất chân thực phản ánh hiện thực của cuộc kháng chiến ban đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân ta vùng lên lấy lại núi rừng. rồi bằng đao, mác … nhân dân ta đã phải chiến đấu chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men… bộ đội ra trận “chân đất săn giặc ngoại xâm”. bệnh tật, sốt rét, “sốt ớn lạnh toát mồ hôi trên trán”:

“bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt, cơn rùng mình, trán ướt đẫm mồ hôi. Áo anh ấy rách vai, quần tôi có đôi chút cười lạnh mà không mang giày …”

Từ “biết” trong câu này có nghĩa là cùng trải nghiệm, cùng nhau chịu đựng khó khăn. các từ: “anh với em”, “áo anh… quần anh” xuất hiện trong câu thơ như một tình bạn gắn bó bền chặt và đẹp đẽ. câu thơ 4 tiếng với cấu trúc tương phản: “miệng khóc” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai người lính, hai đồng chí. bài thơ được viết dưới dạng liệt kê, những cảm xúc kìm nén chợt trào ra: “thương nhau thì nắm tay nhau đi”. tình yêu đồng hành được hiểu bằng cử chỉ gần gũi thân thương: “tay nắm tay”. anh nắm tay em, em nắm tay anh, để động viên nhau, cho chúng em tình yêu và sức mạnh, vượt qua mọi thử thách, “quyết chiến, quyết thắng”.

Đoạn cuối của bài thơ ghi lại cảnh hai người lính, hai người đồng đội ra trận. họ “sát cánh bên nhau chờ kẻ thù đến.” bối cảnh chiến trường là một khu rừng hoang vu sương giá. và, một đêm đông lạnh giá giữa núi rừng chiến khu. trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng “chờ giặc đến”, hai người lính vẫn “kề vai sát cánh”, vào sinh ra tử có nhau. đó là một đêm trăng tròn trên chiến trường, bỗng xuất hiện một bài thơ hay:

“đầu súng trăng treo lủng lẳng”.

người lính trên đường ra trận, “ngôi sao của vũ khí đội mũ”. người lính xung kích đánh giặc giữa đêm đông “rừng hoang sương gió” đã “đầu súng trăng treo”. Tôi chỉ có một giấc mơ, đêm trăng lặn, trăng treo lơ lửng trên không trung như treo đầu súng. vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của đất nước thanh bình. vũ khí biểu thị cho cuộc chiến đấu gian khổ và hy sinh. . ” đó là một hình ảnh thơ, để nói lên rằng trong trận chiến gian khổ, người lính vẫn yêu đời, nghĩa tình gắn bó với mình, họ mơ về một ngày mai đất nước thanh bình. hình ảnh “đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thơ mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được chính nhân đặt tên cho tập thơ – Hoa đầu mùa. trăng bắc việt, trăng trên núi ngàn chiến khu, trăng trên trời, trăng tỏa sáng trong làn sương huyền ảo. ông mượn vầng trăng để miêu tả sự tĩnh lặng của chiến trường, để làm nổi bật tư thế bình lặng “chờ giặc đến”. tất cả những gian khổ khốc liệt của trận chiến sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của vầng trăng, và đó cũng là vẻ đẹp thiêng liêng của tình bạn đồng hành và tình chiến đấu.

Bài thơ “đồng chí” mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, và vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, nên thơ khi nói về đời sống tinh thần. , về tình bạn thân thiết của anh – một người lính thủy chung thuở đầu kháng chiến.

ngôn ngữ thơ súc tích, giản dị như tiếng nói tâm tư của người lính. chính nghĩa vận dụng linh hoạt tục ngữ, thành ngữ, ca dao, tạo nên chất thơ giản dị, hồn nhiên và giàu ý nghĩa. sự kết hợp giữa lối viết hiện thực và màu sắc lãng mạn tạo nên hồn thơ người lính.

“Đồng chí” là một bài thơ rất đặc sắc viết về người lính già, người nông dân mặc áo lính, những anh hùng thời đại Hồ Chí Minh. bài thơ là một tượng đài chiến sĩ hào hùng, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.

suy ngẫm về toàn bộ bài hát, thưa đồng chí

<3 Bài thơ "đồng chí" ra đời năm 1948 sau khi chính nghĩa và đồng đội vừa trải qua chiến dịch thu đông Việt Bắc năm 1947. Bài thơ đã đề cập đến một tình cảm mới mẻ, thiêng liêng của người chiến sĩ, tình quân dân. Bác Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp là tình đồng chí.

bài thơ gồm hai mươi dòng thơ với ngôn ngữ giản dị, giọng điệu thủ thỉ, cảm xúc dồn nén, “tình đồng chí” ca ngợi tình đồng chí gian khổ, vào sinh ra tử của người lính Anh. các chú bộ đội, những người nông dân yêu nước đi đánh giặc. trong những năm đầu gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Đến bảy câu đầu, tác giả giải thích cơ sở hình thành mối tương giao, ngay từ đầu, mối tương giao bắt nguồn sâu xa từ xuất thân nghèo khó.

“quê bạn là nước mặn, thị trấn tôi nghèo, cày trên đá”

Hai câu thơ có kết cấu sóng đôi đối ứng như những lời tâm sự, thủ thỉ về quê hương của người lính. quê anh và quê em đều nghèo, nơi “muối chua”, “đất cày lên đá”, những câu tục ngữ, thành ngữ mượn để nói về nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, người ta vừa làm nên những vần thơ giản dị. , mộc mạc và đẹp đẽ như tâm hồn người thanh niên đánh giặc.

cùng cảnh ngộ với những người lính còn chung lý tưởng đấu tranh, giành độc lập tự do của Tổ quốc:

“súng vào súng, đối đầu”

Đó là điều khiến họ từ xa lạ trở nên quen thuộc với nhau và gia nhập hàng ngũ quân đội cách mạng.

“bạn và tôi là những người xa lạ từ khắp nơi trên thế giới không hề quen biết nhau”

đặc biệt là tình đồng hành nảy nở và đoàn kết hòa hợp, chia sẻ những khó khăn, niềm vui trong cuộc sống của người lính.

“những đêm lạnh giá cùng nhau làm nên một đôi tri kỷ”

Vào những đêm gió lạnh, những người lính trùm chăn, có thể tin tưởng nhau với nỗi nhớ quê hương, để từ những người xa lạ đã trở thành tri kỷ.

sau sáu câu thơ đầu, tác giả hạ một dòng đặc biệt: “đồng chí!” nó chỉ có 2 từ và một dấu chấm than nhưng ý nghĩa vô cùng biểu cảm, nó tạo thành một nốt nhấn, nó ngân vang như đây là tình cảm kết tinh từ mọi cung bậc cảm xúc, nó là đỉnh cao của tình bạn và tình người, bắt nguồn từ tình cảm truyền thống. , đồng thời là một sự gắn bó bền chặt. phần cuối của bài thơ.

mười hai câu sau đây là biểu hiện tình cảm của tình đồng đội và sức mạnh của tình cảm đó trong những người lính, tình đồng hành trên hết là sự thấu hiểu sâu sắc cảm xúc của người khác:

p>

“Tôi sai người bạn thân của mình đi cày nhà mà gió không lay”

khi lớp áo chung được phủ lên, tâm sự của nhiều người lính được mở ra, những câu chuyện kể về đồng lương, nhà cửa, người thân … đó là những hình ảnh rất gắn bó với người lính.

Đằng sau thái độ kiên quyết ra đi, những người lính vẫn gắn bó với quê hương:

à, chú rễ nhớ người lính

giếng nước, gốc đa là hình ảnh ẩn dụ cho người ở sau, mẹ già, vợ con canh cánh, nghĩ đến người xông pha trận mạc, đây cũng có thể nói là một bi kịch. nhớ người lính ôm hình bóng quê hương đất nước, bởi những gì bình dị, gần gũi nhất lại có sức gợi và gợi nhiều nhất.

những dòng thơ sau vẫn thể hiện một tình đồng đội thật cảm động, đó là tình đồng chí đang chia sẻ những gian khổ của đời lính:

“bạn và tôi biết từng vầng trán đẫm mồ hôi và run lên vì lạnh”

ở đây tác giả đưa vào câu thơ của mình hàng loạt chi tiết hiện thực, đó là áo rách, quần vá và chân trần, đó cũng là căn bệnh sốt rét rừng kinh niên mà người lính mắc phải. tất cả đều làm nổi bật sự thiếu thốn của người lính. đó cũng là những khó khăn chung của quân và dân ta trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng cái chính nghĩa ở đây không phải là đồng cam cộng khổ mà là thấu hiểu lẫn nhau trong đau khổ. các câu thơ có cấu trúc đối ứng, sóng đôi, thêm vào đó các từ “tôi” và “anh” cùng xuất hiện càng giúp thể hiện sự thủy chung, tương thân tương ái của người lính trong mọi hoàn cảnh.

khó khăn, nhưng họ vẫn tỏa sáng với nụ cười lạc quan “và cảm động hơn là vẫn truyền được hơi ấm của tình yêu thương” thương nhau … tay “, hình ảnh cái ôm tay tuy giản dị nhưng vô cùng gợi cảm, thể hiện sự sâu lắng. tình cảm của người lính, đồng thời gián tiếp thể hiện sức mạnh của tình cảm đó, như thể chỉ với một cử chỉ “nắm tay” người lính đã tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn.

ba dòng cuối của bài thơ là hình ảnh đẹp của tình bạn thắm thiết, là biểu tượng đẹp của đời lính:

“đêm nay rừng hoang sương giá đứng bên nhau chờ giặc đến. Đầu súng trăng treo”

trong hình ảnh, nổi bật trên nền cảnh rừng về đêm, sương và sương là ba hình ảnh liên kết với nhau: người lính, vũ khí, vầng trăng … ba hình ảnh này đã tạo nên một hình ảnh vừa xuất hiện chủ nghĩa hiện thực là lãng mạn, trước hết, hiện thực được thể hiện trong không gian và những tình huống cụ thể, thời gian: đêm nay, không gian: sương giá, còn hoàn cảnh là hoàn cảnh của những người lính: đứng gác cùng nhau. đợi kẻ thù đến, tất cả đều thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh, anh không chỉ phải chịu cái lạnh thấu xương như hàng nghìn mũi kim đâm vào da thịt, mà cái chết vẫn canh cánh bên anh vì nó có thể ở trong khoảng khăc. kẻ thù sẽ nổ súng và có thể một trong hai sẽ gục ngã, nhưng tình bạn thân thiết đã tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi khó khăn.

Như vậy, thông qua những câu thơ tự do có độ dài ngắn khác nhau, ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh thơ giản dị, chân thực và giàu ý nghĩa tượng trưng, ​​bài thơ Người đồng chí đã thể hiện đầy xúc động tình đồng đội sâu nặng của những người lính Anh trong thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh. chống Pháp là những người cao quý nhất, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.

cảm nhận bài thơ hay nhất đồng chí

đồng chí là một bài thơ cô đọng, “vị cứu tinh” trong từng hình ảnh, trong từng câu chữ. Bằng những chi tiết và hình ảnh rất thực, cụ thể nhưng đầy chắt lọc và khái quát, bài thơ đã xúc động thể hiện tình đồng chí thắm thiết giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng nhau chiến đấu để giữ gìn độc lập, tự do của Tổ quốc.

tất cả các bài thơ của đồng chí được phát triển xung quanh mối quan hệ giữa các nhân vật, anh ấy và tôi. ở đây, nhà thơ đã hóa thân thành những nhân vật trữ tình cũng là người bạn đồng hành thân thiết cùng anh thể hiện những tình huống, những tâm trạng, nỗi niềm của mình.

quê bạn là nước mặn, ruộng chua, thị trấn tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá

mối quan hệ bạn – tôi đã được giới thiệu ngay từ đầu. họ đều là những người nông dân mặc quân phục xuất thân từ những làng quê nghèo khó, lao động cần cù, gian khổ. những người dân nghèo này vừa được cách mạng giải phóng và nay rất gắn bó với sự nghiệp kháng chiến. sự gắn bó trong đoàn quân cách mạng giữa những người nông dân đến từ “tứ xứ” này cũng được những người bình nguyên đỏ thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu của hồi ký:

người tứ xứ gặp nhau khi còn chưa biết chữ, quen nhau từ ngày đầu, hai cánh tay chưa quen quân ngũ, còn cười kháng chiến …

từ “đôi bạn xa lạ” thành “tri kỷ”, từ “không quen biết nhau” thành “đêm lạnh chung chăn” tưởng như chỉ là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ, nhưng thực ra lại rất tự nhiên. tất nhiên vì những người này chiến đấu và chết vì một mục đích cao cả. hai câu thơ chứa đựng và liên kết nhiều hình ảnh sinh động:

đấu súng bằng súng, đối đầu qua đêm lạnh với chăn, trở thành tri kỷ

những người chính trực đã sử dụng một từ “cũ”, từ Hán Việt, để mô tả một cảm giác rất mới. từ “đương đại” đã làm nổi bật chiều sâu và độ bền của tình cảm ở đây. bản chất của bộ ba này là tình bạn thân thiết. vì vậy, từ “đồng chí” được tác giả tách thành một dòng thơ. đây là một chi tiết nghệ thuật quan trọng. nó là bản lề đóng mở, kết nối hai phần của bài thơ.

Có thể coi dòng thơ ngắn này là một lời kêu gọi chân thành và trang nghiêm từ tận đáy lòng của những người nông dân mặc quân phục vừa kết nghĩa mới (sau chữ “đồng chí” có dấu chấm than) . để hiểu hết ý nghĩa của lời kêu gọi đó, cần đưa nó trở lại hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ giác ngộ lý tưởng cộng sản, đồng chí đã theo đảng đoàn kết, anh dũng hy sinh để giành độc lập, tự do; trong những năm đầu của cuộc kháng chiến gian khổ khi toàn dân cùng hướng về lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà chết cho Tổ quốc sống” trong những năm tháng, nghĩa tình đồng chí, đồng đội là thiêng liêng, cao đẹp. được kính trọng (từ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ đã khác). sự thiêng liêng, trân trọng này càng được nhân lên bởi những người nông dân vốn là nhân dân lao động, lao động cá nhân, nay được cách mạng giải phóng và cuộc sống của họ được soi rọi trong ánh sáng thời đại mới. do đó, chúng ta có thể hiểu thêm tại sao chính hữu lại gọi bài thơ của mình là đồng chí mà không phải là một cái tên khác, chẳng hạn như “đồng chí”. thực ra từ “đồng chí” có nghĩa cao hơn, nhưng cũng sâu hơn. nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, nó còn là cốt lõi, bản chất của sự tương giao. về cuối cuộc trường kỳ kháng chiến chín năm, chứng kiến ​​sự anh dũng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, chính nghĩa dường như ý thức hơn về tình bạn, cụ thể hơn là tình bạn:

năm mươi sáu ngày đêm bom rơi đạn pháo, ta sẽ hiểu thế nào là đồng chí, đồng mình ở đây cùng nhau nhâm nhi ly nước, cùng nhau ăn cơm chia đôi, chia nhau một nắng, một mưa. vào buổi chiều, và chia sẻ một tin tức giữa anh chị em, đang đứng trong chiến hào chặt chẽ. trong gang tấc chia sẻ sự sống, chia sẻ cái chết … (giá mỗi mét đất)

Đó là một bước để biến mối quan hệ thông công trở nên cụ thể. và bây giờ (1948) khi bắt đầu cuộc kháng chiến, điều phải nhấn mạnh là sự gặp gỡ, kết duyên trong gian khổ thử thách. nhan đề bài thơ, cách tách một dòng chữ “đồng chí” mang ý nghĩa đó.

chỉ gom lại cảm xúc trong sáu dòng thơ trước, dòng thơ này từng chữ một đóng vai trò mở đầu cho phần tiếp theo. đối với nhân vật trữ tình (anh và tôi), từ “đồng chí” như một dấu ấn của một quan niệm mới mà toàn bộ phần hai của bài thơ là sự đứt đoạn, thấu hiểu nhau hơn để đồng cảm, gắn bó máu thịt hơn. và máu với nhau. đồng chí ấy đi gửi lại ruộng, tạm biệt giếng gốc để “bán” giữ gìn độc lập, tự do cho đất nước. người đồng chí đó cũng phải chịu “từng cơn lạnh sống lưng”, từng cơn “sốt, run lấm tấm mồ hôi trên trán”. người đồng chí đó là sự sẻ chia, động viên lẫn nhau trong hoàn cảnh nghèo khó của cuộc đời kháng chiến:

XEM THÊM:  4 bài văn tả mẹ gây bão: Thầy giáo chấm 10 điểm, bật khóc ngay khi đọc dòng đầu tiên | Báo Giáo dục và Thời đại Online

áo anh rách, vai em rách, quần có mấy mảnh cười khổ, chân trần thương nhau, nắm tay nhau

Tình bạn thân thiết khiến hai anh em thấy nhau và yêu nhau từ những chi tiết nhỏ nhất trong cuộc sống. điều đáng chú ý là họ luôn nhìn bạn, đầu tiên họ nghĩ đến bạn, và sau đó họ nhìn bạn, họ nghĩ đến bạn. từ đầu đến cuối bài đồng chí, trong đôi nhân vật trữ tình, anh luôn xuất hiện đầu tiên và đứng trước mặt tôi (lần thứ nhất: “quê anh… phố tôi”. lần thứ hai: “anh và em là một đôi của những người phương xa. ”lạ lùng” Lần 3: “Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh…” Lần 4: “Cái áo của bạn… cái quần của tôi…”). “Quy tắc” trên bề mặt ngôn ngữ ấy có phản ánh một vẻ đẹp trong chiều sâu của cảm xúc: thương người như thể thương thân, tôn trọng người khác hơn chính mình? nó hoàn toàn trái ngược với lối sống “ích kỷ” của giai cấp tư sản. thể hiện sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.

nếu các bạn yêu nhau trọn vẹn và quý giá. nhưng càng đau đớn, càng thiếu thốn thì càng thương yêu nhau, đó là điều đáng quý nhất ở người chiến sĩ cách mạng. sự ngắt nhịp của câu thơ trước ngắn và chậm. mỗi câu thơ. mỗi câu nêu một chi tiết rất cụ thể. từng chi tiết cô đọng lần lượt khắc sâu vào trái tim người đọc. khắc sâu ấn tượng và sau đó bộc lộ nhiều cảm xúc và tình cảm hơn ở dòng cuối cùng của đoạn văn:

yêu nhau nắm tay nhau

Đây dường như là cao trào của cảm xúc yêu đương của người lính. rất yêu nhau trong cử chỉ “tay nắm tay”. nhưng cũng hết mình, vô cùng nghị lực vì nghĩa cử đó chỉ có được khi người chiến sĩ nhận thức được đầy đủ tình hình đất nước kháng chiến và nghĩa vụ cao cả của mình. cử chỉ đó dường như chứa đựng sự tự nhận thức, tự nhận thức, tự cảnh báo và khuyên nhủ lẫn nhau. tình cảm không bốc đồng mà sâu sắc.

Đó là quá trình nhận ra tình bạn thân thiết, sự phát triển cao độ của tình yêu thương lẫn nhau dẫn đến cái kết độc đáo:

Đêm nay rừng hoang sương mù đứng bên nhau chờ giặc đến. đầu súng mặt trăng đang treo

ba câu thơ nói lên rất nhiều điều. đó là hoàn cảnh về đặc điểm không gian và thời gian chuẩn bị chiến đấu: đêm nay, rừng hoang, sương giá. đó là sự đồng hành trong gian khó, là tinh thần sẵn sàng ra trận: “kề vai sát cánh chờ giặc đến”. đó là hồn thơ của người chiến sĩ vệ quốc và nghĩa cử cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “trăng treo súng trường”.

Không phải ngẫu nhiên mà sau này, chính nghĩa đã đặt tên cho một tập thơ của mình là đầu súng trăng treo. Không phải tự nhiên mà hình ảnh này thường xuyên xuất hiện trên nhiều bìa sách, nhiều tranh sách của nhà xuất bản Quân đội nhân dân. nhà thơ đã tạo ra một hình ảnh độc đáo và có sức khái quát cao. đầu vũ khí tượng trưng cho chiến tranh, khói lửa; trăng treo hình ảnh thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và vầng trăng treo đã làm toát lên tâm hồn trong sáng, cao cả của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. chúng ta chiến đấu anh dũng, hy sinh gian khổ vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống hòa bình. hình ảnh và nhịp thơ này lúc bồng bềnh, ngập ngừng, lúc lại tạo hình, gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” là gian khổ mà cũng vui tươi, vừa thực vừa tượng trưng. toát lên một chất lãng mạn đậm chất cách mạng khó diễn tả thành lời.

nhanh chóng thoát ra khỏi cảm xúc lạc lõng ban đầu, người đồng chí, chính nghĩa đã đóng góp vào nền thơ ca kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. nếu như cách đây chưa đầy một năm, người lính kháng chiến còn đi vào thơ ca với “đôi giày vạn dặm”, “chiếc áo vinh quang” thì nay anh xuất hiện trong tình đồng chí với chiếc áo rách, chiếc quần có vài miếng vá, chân đi chân đất. và với một tâm hồn giản dị, yêu đời, yêu trong khó khăn. cũng đã thể hiện rõ nét phong cách thơ chính luận độc đáo: chữ ít mà gợi nhiều, ngòi bút biết trau chuốt, tập trung vào từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể vừa khái quát. Thơ cô đọng bên ngoài ẩn chứa vẻ nghiêm trang, hồn hậu. khốc liệt bên trong.

cảm nghĩ của em về bài thơ đồng chí

Tình cảm ấy thể hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. khi ở gần nhau, họ kể cho nhau nghe những câu chuyện quê hương. chuyện “Tôi sai người bạn thân đi cày ruộng”, “nhà vắng, để gió lay” và chuyện “giếng khơi, gốc nhớ bộ đội…”. rằng những người lính mỗi người một quê hương, họ có những kỷ niệm thân thiết với quê hương và khi ra đi, hình ảnh quê hương cứ mang theo trong tim. trong gian khó, họ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong tình đồng chí, làm sao có thể quên được những lần cùng nhau chịu đựng “lạnh sống lưng”, những lần “rét run”, vầng trán ướt đẫm mồ hôi. ”Cuộc đời người lính nghèo là thế. cứng cỏi nhưng không thiếu niềm vui. Dù “áo anh” đã “đứt vai”, “quần em” còn “mấy vạt áo”, dù thời tiết “se sắt”, miệng chị vẫn cười với những chi tiết rất thật, nhà thơ. đã miêu tả rõ nét cuộc sống và sự gắn bó của tình đồng đội, tình cảm chân thành ấy không được diễn tả bằng lời nói mà bằng “nắm tay”, “thương nhau nắm tay nhau”. là “bàn tay nắm lấy tay nhau”, chính đôi bàn tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả ý nghĩa thiêng liêng cao cả của tình bạn thắm thiết. bài thơ với nhiều nét miêu tả chi tiết nhưng không trần trụi, gợi lên hình ảnh “anh và em. ”được dán khắp bài thơ và hình ảnh“ thương nhau ”thật thấm thía nhưng chẳng biết làm gì, chỉ biết im lặng. tay.” Chỉ những người cùng chí hướng, cùng lý tưởng cao đẹp mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như vậy.

Toàn bộ bài thơ được viết bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực, có sức khái quát cao. cánh hữu đã thể hiện rõ sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội. ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình tượng thơ từ những chi tiết có thật trong đời sống hàng ngày của người lính, không phô trương, không lãng mạn, thi vị. Và đó là những đặc điểm thực sự tạo nên thành công trong công việc. bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác về cách xây dựng hình tượng người lính thời chống Pháp.

các đồng chí! Đọc xong bài thơ, trong lòng mỗi chúng ta đều lắng lại với những cảm xúc dạt dào. Chúng ta đã cảm nhận được tình bạn bền chặt ấy qua những vần thơ dịu dàng và nghiêm túc như bài ca tình cảm của người công chính. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã trải qua nhiều chặng đường mới, nhưng mỗi khi đọc lại bài thơ, đồng đội tôi như thấy rõ hình ảnh anh bộ đội năm xưa thực sự hiện ra. trong sáng đẹp đẽ, thật thân thương trong những bài thơ của người công bình.

cảm nghĩ về bài thơ đồng chí của chính mình

đồng chí của nhà thơ hội chợ là một bài thơ hay viết về người lính. Với giọng thơ giản dị, hình ảnh người lính trong bài thơ vừa được phác họa chân thực giản dị nhưng vẫn toát lên vẻ bùi ngùi. hào hùng, anh dũng của các anh hùng đất nước.

bài thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng đội trong khó khăn, chia sẻ bữa ăn, giấc ngủ, chăm sóc cho nhau trong những trận chiến chống sốt rét. khó khăn và thử thách nào cũng có thể xảy ra nhưng nhờ có sự đồng hành của mọi người, họ không cảm thấy đơn độc và trống trải.

“quê anh là nước mặn, ruộng chua, quê tôi nghèo, cày trên sỏi đá.”

Trong hai câu thơ này, hình ảnh những người lính xuất thân từ những vùng quê nghèo khác nhau, bôn ba bốn phương trời không biết bao nhiêu điều. Họ được quy tụ về đây dưới ngọn cờ của cách mạng, vì tình yêu quê hương đất nước. Họ có chung một lý tưởng lớn là muốn giải phóng quê hương khỏi bóng đen của kẻ thù.

từ những người hoàn toàn xa lạ, nhưng họ đã cùng nhau đến đây để đứng dưới lá cờ của đất nước. Họ đến đây với cùng một ước mơ, một ý chí, một bản lĩnh, một mục tiêu để chiến đấu. đó là hướng nòng súng vào kẻ thù để bảo vệ quê hương và những người thân yêu ở quê hương đang chìm trong gian khổ, lam lũ trước sự chà đạp của những kẻ mắt xanh không biết từ đâu đến thống trị đất nước ta. chúng bắt nhân dân ta làm nô lệ, chúng bắt cả nước ta phải sống trong cảnh thuộc địa khốn khổ.

“vũ khí là vũ khí, đối đầu, những đêm lạnh lẽo cùng nhau làm nên đôi tri kỷ, đồng chí!”

hình ảnh người cầm súng, đầu này vào đầu khác thể hiện họ có chung một mục tiêu đấu tranh, một lý tưởng sống chung. họ có kẻ thù chung của cả dân tộc. những người lính thân yêu của chúng ta hy sinh còn rất trẻ, họ mang trong mình những hoài bão lớn lao và một tình yêu nước lớn. họ sẵn sàng cống hiến cả trái tim và cơ thể để bảo vệ tổ quốc.

tình yêu Tổ quốc cao cả hơn tất cả, chính vì vậy mà họ bỏ đi những việc dang dở, những việc lo toan, nhưng họ quyết tâm ra đi vì lý tưởng bảo vệ độc lập của giống nòi, vì tình yêu Tổ quốc.

“Ta sai người bạn thân cày ruộng, nhà chẳng màng gió lay, giếng khơi, rễ nhớ người lính”. Anh và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt rét run, vầng trán ướt đẫm mồ hôi. áo sơ mi của anh ấy xé toạc vai anh ấy và quần của tôi có vài vết rách tạo nên nụ cười lạnh lùng … “

những người nông dân từ khắp nơi trên đất nước, ngôn ngữ khác nhau, phong tục khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau. nhưng tất cả đều đã cống hiến sức trẻ và trí lực để bảo vệ quê hương đất nước.

Họ ra đi khi tuổi đời còn tươi xanh, tâm hồn vẫn tràn đầy nhiệt huyết, dòng máu chảy trong người nồng nhiệt là những ước mơ, khát khao của tuổi trẻ. có những người đã ra đi. Tôi chưa từng nắm tay người con gái mình yêu, chưa một lần chạm vào. nhưng khi đất nước cần, mọi người sẵn sàng ra trận.

Họ ra đi như thế này, không tiếc tuổi trẻ của mình chỉ với một khát vọng duy nhất, đó là bảo vệ quê hương thiêng liêng, với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. những công lao, sự hy sinh của các anh sẽ luôn được các thế hệ mai sau ghi nhớ, công lao trời biển của các anh sẽ không bao giờ quên cho quê hương đất nước.

“đêm nay rừng mây bên nhau chờ giặc đến. vũ khí trăng treo.”

Những câu thơ này thể hiện sự tinh tế của chính nghĩa khi tác giả đã sử dụng hình tượng “đầu súng trăng đói” vô cùng nghệ thuật. chính nghĩa đã khéo léo vẽ nên một hình ảnh giữa một thứ vô cùng lãng mạn và thơ mộng là ánh trăng, với một thứ tượng trưng cho chiến tranh chết chóc, hình ảnh đầu súng trăng treo là một hình ảnh rất chân thực, xúc động, đẹp thể hiện tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ. . đó là hình ảnh thơ thể hiện tinh thần dũng cảm của những người lính dù khó khăn gian khổ vẫn yêu đời, lãng mạn.bài thơ “đồng chí” vừa mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng vừa thể hiện sự chân chất, giản dị của người lính trong chiến tranh. tác giả ngay thẳng đã phác họa hình tượng người chiến sĩ với tâm hồn cao cả, lãng mạn nhưng cũng đầy chất anh hùng và bi tráng.

cảm nghĩ về bài thơ đồng chí

Nói đến thơ ca thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, không thể không nói đến Đồng chí Chính Hữu. bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng trong những ngày kháng chiến gian khổ.

nhà thơ công bằng đã từng nói về tác phẩm của mình: “trong bài thơ đồng chí muốn nhấn mạnh đến tình bạn thân thiết. Trong suốt trận chiến, chỉ có một chỗ dựa dường như duy nhất để tồn tại. Ở đây, chiến đấu là tình bạn, tình đồng chí ở đây là tình bạn đồng chí . Không có đồng chí thì không làm tròn được trách nhiệm, không có đồng chí thì nói gì tôi cũng chết. Lâu lắm rồi. Bài viết đồng chí là lời tâm sự viết tặng đồng chí, gửi bạn nông dân. “

thực ra, không gian trữ tình trong tình đồng chí tuy lạnh nhưng không lạnh. hơi ấm tỏa ra từ tỉnh lẻ, từ tri kỷ, sát cánh, từ những con người có chung lý tưởng, mục tiêu. Đứng trong hàng ngũ của cách mạng, chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước, người lính vượt qua mọi khó khăn bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp lực. họ sống trong tình đồng đội, cảm ơn đồng chí, đồng đội.

Những đồng chí đó thường là “nông dân mặc quân phục”. sự tương đồng về bối cảnh giúp họ dễ dàng tiếp cận và đồng cảm với nhau:

quê ông là nước mặn, thị trấn của tôi nghèo, bị cày xới trên đá. bạn và tôi là một cặp xa lạ không quen biết nhau.

anh và em “quê khác ruộng, cũng như nghèo đất ruộng, anh quê ven biển:” ruộng chua nước mặn “em từ trên cao xuống” cày xới sỏi đá. đá “. hai người xa lạ, từ hai miền đất xa lạ trở thành tri kỷ:

súng bằng súng, đầu bằng đầu, những đêm lạnh giá bên nhau như một đôi tri kỷ

Những người “nông dân mặc áo lính” đó tự mình chiến đấu cho cuộc sống của mình, tự xếp mình vào hàng ngũ “những người lính cổ lỗ sĩ”. sự nghiệp chung của dân tộc đã xóa bỏ mọi khoảng cách xa lạ trong không gian nơi có không gian sống của mỗi người. “súng và súng” có nghĩa là cùng nhau chiến đấu, “đối đầu” có nghĩa là rất nhiều: không chỉ ở cùng nhau trong không gian mà còn chia sẻ ý tưởng và lý tưởng “(Trần định sử, văn học và đọc văn học, sđd.) cho khi họ đã chung chăn trong một đêm se lạnh, họ đã thực sự là anh em một nhà, nhà thơ đểu còn viết: “bát cơm chung, chăn có nhau” để nói về tình đoàn kết kháng chiến. ấm áp Tình thân không gì khác chính là hình ảnh chiếc áo bào chung, vì thế, tình đồng hành bắt nguồn từ tình bạn sâu sắc, từ những điều chung giữa “anh” và “tử”.

câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai từ: đồng chí. nếu không đề tên bài thì đó là lần duy nhất hai từ xuất hiện trong bài thơ, thưa đồng chí, tạo thành một câu thơ riêng. câu này có ý nghĩa quan trọng trong cấu trúc của cả bài. đánh dấu một cột mốc mới trong mạch cảm xúc và chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. sáu dòng đầu là tình bạn thân thiết, tri kỷ, ở đây nó nâng lên thành tình bạn thân thiết thánh thiện. tình đồng chí không chỉ có nghĩa là gắn bó khăng khít mà còn cùng chung mục đích cao cả. tình đồng chí-chiến sĩ hòa trong niềm thương cảm lớn lao của cả dân tộc. tự gọi mình là đồng chí có nghĩa là tuy là những con người cụ thể, với tư cách cá nhân, họ cũng có tư cách chiến sĩ, tư cách “một cây” trong hội “rừng”, nghĩa là mỗi người không chỉ là mình. hai tiếng là đơn giản, thân hình và khuôn mặt cao quý và vĩ đại, đó là lý do tại sao.

Ở phần sau của bài thơ, bằng những chi tiết và hình ảnh cụ thể, tác giả đã nói lên tình cảm sâu nặng của những người bạn đồng hành. Trước hết, họ có chung nỗi nhớ quê hương:

cử bạn thân cày nhà, dù gió lay gốc giếng nhớ người lính?

Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ quê, nhớ nhà, giếng nước, cây sung. nhưng cánh đồng như nhớ ai cày, nhà nhớ người gió rung giếng, cây vả cũng thầm nhớ người ra đi. nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. nói. “cái giếng, gốc nhớ người lính” còn là lời giãi bày nỗi nhớ về giếng nước, về cây đa. lòng yêu nước luôn thường trực, sâu đậm trong những người bạn đồng hành, cũng là sự đồng cảm của những người bạn đồng hành.

người lính tỏ ra cứng cỏi, quyết tâm đi theo tiếng gọi của núi sông, nhưng tình yêu Tổ quốc trong mỗi người không bao giờ phai nhạt. người lính, họ là những người bạn đồng hành:

bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, sốt, rùng mình, trán đẫm mồ hôi. áo anh rách, vai rách, quần em mấy mảnh cười đắng, chân trần thương nhau, nắm tay nhau.

p>

bài thơ kết thúc bằng hình ảnh những người bạn đồng hành trong thời gian thực, khi họ đang làm nhiệm vụ chiến đấu:

Đêm nay, rừng hoang sương giá kề vai sát cánh chờ giặc đến. đầu súng mặt trăng đang treo.

Đây có thể coi là một trong những hình tượng thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. ba câu thơ phác thảo một bức tranh vừa chân thực vừa thấm đẫm những ý tưởng bất chợt của phong cách lãng mạn.

Trong màu xám lạnh của cảnh đêm rừng sương mù, hình ảnh người lính – súng – trăng hiện lên. Dưới con mắt của người trong cuộc, người trực tiếp cầm súng, trong một sự kết hợp bất ngờ, cuộc đấu súng và mặt trăng dường như không còn xa trong không gian, trở thành:

“đầu súng trăng treo lủng lẳng”.

quan sát là thực tế và sự liên kết trong mô tả là lãng mạn. hình ảnh vũ khí tượng trưng cho hành động chiến đấu, tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc. vầng trăng tượng trưng cho vẻ đẹp thanh bình và thơ mộng. hình ảnh “đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa khái quát. về lập trường chủ động, tự tin trong chiến đấu. Nói rộng ra, hai hình ảnh đối lập nhau tạo nên biểu tượng của tình bạn, ý chí sắt đá bay bổng, chất trữ tình của dân tộc Việt Nam, cùng cảnh ngộ, chung lí tưởng, cùng lạnh lùng, cùng khổ, … những người lính – đồng chí đã sống và chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc, bài thơ đồng chí đã thể hiện rõ vẻ đẹp của một dân tộc đã sống và chiến đấu vì hạnh phúc và tự do.

phát biểu cảm nghĩ về bài thơ đồng chí

Bài thơ “đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu là một bài thơ rất đặc sắc của tác giả viết về đề tài người lính trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp ở nước ta. Bài thơ được viết khi chúng ta vừa giành được chiến thắng đại thắng thu đông năm 1947. nó thể hiện hình ảnh người lính rất giản dị, mộc mạc, chân chất nhưng không kém phần anh dũng, chống chọi trong nghịch cảnh nhưng đối nghịch. nhắm đến chiến thắng mà không do dự.

đồng chí biểu dương tình cảm đồng đội, đồng chí trong khó khăn hoạn nạn luôn có nhau, gắn bó, chia sẻ mọi buồn vui. Họ đều là những người nông dân, nhưng vì tiếng gọi của Tổ quốc thiêng liêng, họ đã rời bỏ quê hương thân yêu, người thân, gốc gác của mình để lên đường tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong hai mươi câu thơ thể hiện cuộc sống của những người lính trẻ, sự gắn bó của họ trong cuộc kháng chiến với giọng văn xúc động thể hiện tình cảm chân thành của những người lính.

“Quê anh là vùng nước mặn, ruộng chua, thị trấn tôi nghèo đất cày lên đá.”

Nơi tôi sinh ra và quê hương tôi là những nơi nghèo khó, nước mặn, ruộng chua, vô cùng nghèo nàn, đất toàn đá. Nó thể hiện một lĩnh vực vô cùng khó khăn, bởi sự bóc lột của thực dân đã làm cho nhân dân ta chịu nhiều khổ cực.

Những vần thơ giản dị, chân chất của tác giả đã đưa những người lính đến gần hơn với những người nông dân nghèo khổ. họ có một nguồn gốc chung, họ có một mục tiêu chiến đấu. đó là lý do tại sao tất cả họ đều nhanh chóng hòa hợp trên chiến trường.

Trong những câu thơ tiếp theo, tác giả đã tập trung thể hiện tình yêu thương và sự gắn bó giữa những con người xa lạ, từ phương xa, không hẹn ước gì ngoài việc gặp nhau ở cùng một nơi, nơi tuyến đầu của giông tố, nơi có nhiều hiểm nguy nhưng nghĩa tình. vô cùng ấm áp và sau đó họ trở thành những người bạn thân thiết, gắn bó với nhau.

bạn và tôi là một cặp xa lạ từ thiên đường gặp nhau bằng súng, đối đầu, vào những đêm lạnh giá, cùng chung một tấm chăn, các đồng chí! “

Hình ảnh so sánh độc đáo của tác giả vừa khi “đầu súng kề súng” mà “kề vai sát đầu” thể hiện sự gần gũi trong tư tưởng, ý định và mục tiêu lý tưởng của con người. những người lính trẻ vô cùng chan hòa, thể hiện một tình bạn thân thiết, thiêng liêng không gì có thể chia cắt.

Họ ra chiến trường với mục tiêu lớn lao của cuộc đời: bảo vệ quê hương, bảo vệ người thân, chống lại kẻ thù xâm lược. đó là mục tiêu sống, là con đường khát vọng của những người lính trẻ. họ cảm nhận được trái tim ấm áp của nhau cùng chung nhịp đập, chung nhịp đập vì đất nước thân yêu.

những căn bệnh khi băng rừng, leo núi, những cơn sốt rét trong rừng thật đáng sợ, nhưng họ vẫn chia sẻ với nhau mọi thứ, những đêm lạnh giá đắp chăn, uống chai nước, chia nhau miếng lương khô, trên hành trình vượt qua. rừng, núi. Những người lính đã phải cùng nhau trải qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, vì từ đó họ cảm thấy bạn bè trở thành người thân của mình.

<3

“Tôi sai người bạn thân đi cày ruộng, nhà chẳng màng gió lay, giếng khơi, gốc rễ thiếu người lính.”

Những người lính rời bỏ quê hương, bỏ lại những người thân yêu, những công việc còn dang dở, nhưng điều đó không khiến trái tim họ chùn bước mà ngược lại càng khiến những người lính trẻ kiên cường hơn, anh dũng hơn.

Hình ảnh quen thuộc của giếng nước, cây đa được tác giả gợi lên khiến câu thơ tuy giản dị nhưng càng làm tăng thêm sự hy sinh cao cả của những người lính khi họ phải bỏ lại tất cả và cả hai sẵn sàng tham gia chiến đấu.

p>

“anh và em biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt ớn lạnh, trán ướt đẫm mồ hôi. áo anh rách, vai anh rách, quần em mấy mảnh cười lạnh, không giày … yêu và dắt nhau qua bàn tay “

Trong cuộc hành quân, bộ đội ta đã phải vượt qua bao khó khăn, thử thách, sốt rét từ rừng về, hổ dữ đến quấy rầy người, ghẻ lở, bệnh lạ nơi rừng thiêng, nước độc. nhưng họ vẫn gắn bó, động viên nhau vượt qua khó khăn để hướng tới mục tiêu cuối cùng. Đó là ngày chiến thắng trở về, niềm vui của ngày khải hoàn.

hình ảnh “áo anh rách vai” đối xứng với “quần tôi có mấy vạt áo” thể hiện cuộc sống bấp bênh trong quân ngũ, nhưng họ không hề cảm thấy khổ sở, đơn độc, lạc lõng mà ngược lại, họ còn hơn khó khăn, họ cảm thấy mạnh mẽ hơn vì bên cạnh họ luôn có những người bạn đồng hành rất thân thiết, luôn quan tâm và chia sẻ với nhau.

Hình ảnh “nắm tay nhau yêu nhau” là một hình ảnh rất đẹp trong tình đồng đội, tình đồng chí của những người chiến sĩ cách mạng, thể hiện những con người không ruột thịt, ruột thịt hơn nhau trong cuộc kháng chiến.

Trong phần cuối của bài thơ, hình ảnh những người lính trong cuộc kháng chiến vô cùng anh dũng. họ đứng bên nhau và chờ kẻ thù đến, thể hiện thái độ luôn chủ động sẵn sàng chờ kẻ thù đến đánh, không lo lắng hay trốn tránh mọi chuyện.

“Đêm nay rừng mây kề vai, chờ giặc đến. vũ khí mặt trăng đang treo ”

Những người lính trên chiến trường gặp muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng trái tim họ luôn vững vàng, luôn dũng cảm hy vọng vào một ngày mai tươi sáng, mọi việc họ làm đều vì một nền hòa bình không xa Tổ quốc. những người lính ấy, họ đã không tiếc tuổi trẻ quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, khi tuổi đời còn rất trẻ, tuổi xuân chớm nở.

Trên chiến trường, cảnh rừng đổ vỡ ban đêm và ánh trăng chiếu rọi, lơ lửng trên đầu mọi người, khiến mọi thứ trở nên lãng mạn diệu kỳ. hình ảnh đầu súng trăng treo thể hiện sự lãng mạn, đó là một hình ảnh vô cùng tuyệt vời của một tác giả chính nghĩa, khi giữa bao gian khổ, khó khăn thường ngày người chiến sĩ vẫn ngẩng cao đầu. , sự lãng mạn, một tâm hồn hướng tới cái đẹp.

vầng trăng là biểu tượng thiêng liêng của vẻ đẹp hòa bình, còn hình ảnh vũ khí mang ý nghĩa của sự gian khổ, là vũ khí gây chết chóc. Hai hình ảnh này đối lập nhưng lại ở cạnh nhau tạo nên hình ảnh thơ vô cùng tinh tế và hấp dẫn người đọc.

bài thơ “compañero” vừa mang vẻ đẹp giản dị vừa thể hiện bản lĩnh của người lính trong kháng chiến, thể hiện tình cảm thiêng liêng cao cả của những người nông dân bỏ lại tất cả, ruộng đất hoang hóa, bà con tham gia chiến đấu, vì Tổ quốc. .

bài thơ “đồng chí” là một bài thơ rất độc đáo của tác giả khi viết về hình tượng người chiến sĩ và người nông dân, bài thơ như một tượng đài vô cùng tráng lệ thể hiện vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người chiến sĩ. > p>

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Cảm nhận Đồng chí hay nhất (11 mẫu) – Văn 9. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *