Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
297 lượt xem

Cam nhan ve bai tho tay tien cua quang dung

Bạn đang quan tâm đến Cam nhan ve bai tho tay tien cua quang dung phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Cam nhan ve bai tho tay tien cua quang dung

<3 anh hùng, kiên cường, đồng thời kiêu hãnh và lãng mạn.

cảm nhận về thơ ca miền tây gồm sơ đồ tư duy với 8 bài văn mẫu hay nhất. tài liệu này sẽ giúp các em học sinh lớp 12 có nhiều tài liệu tham khảo, nâng cao vốn từ vựng, cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm tây du ký và bổ sung thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn nhằm đạt được mục tiêu đề ra. đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2022.

bản đồ cảm nhận bài thơ miền tây

TOP 8 bài Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến hay nhất - Văn 12

cách thực hiện bài đánh giá phương Tây

phân tích chủ đề

– đề bài: nêu cảm nhận của em về nội dung và nghệ thuật của thơ ca miền Tây.

– phạm vi tài liệu, dẫn chứng: chi tiết, từ ngữ, câu thơ … thuộc phạm vi bài thơ tây tiến (quang dung)

– phương pháp lập luận chính: nhận thức.

những điểm chính cần triển khai

luận điểm 1: cuộc hành quân của đoàn quân tây bắc thiên về tây bắc

Luận văn 2 : Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

luận điểm 3 : hình ảnh người lính miền Tây

luận điểm 4: một lời hứa, truyền tải cảm xúc của tác giả

ký họa để cảm nhận bài thơ miền Tây

bản phác thảo số 1

a. mở đầu

  • trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả quang dung và những nét thơ của ông (vừa hồn nhiên, tinh tế, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, lãng mạn).
  • nêu một số nét chung về thơ miền Tây. : hoàn cảnh ra đời của Người, giá trị nổi bật về nội dung của bài thơ.

b. nội dung bài đăng

a, đường hành quân của đoàn quân phía tây tiến vào vùng hoang vu tây bắc

<3

– hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

  • địa danh sai khao, mường lat gợi sự xa xôi, hẻo lánh;
  • các từ tạo thành: “quanh co”, “sâu thẳm”, “đáng yêu”, cụm từ “đang chờ xử lý”, nghệ thuật “dốc đứng” lên… dốc lên ”gợi lên địa hình dốc, quanh co, gập ghềnh.
  • hình ảnh“ súng ngửi trời ”thể hiện độ cao của núi. những ngọn núi mà người lính phải băng qua, nhưng cũng không có sự thông minh của người lính trong đó.
  • đường kẻ đứt làm hai “phía trên một nghìn thước, phía dưới một nghìn thước” cho thấy mối nguy hiểm tối cao.
  • li> hình ảnh tục: “hổ trêu người”, “thác gào thét” gợi sự man rợ, man rợ; thời gian: “tối”, “đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với nguy hiểm nơi rừng thiêng nước độc.
  • sử dụng hầu hết các bài kiểm tra để nhấn mạnh sự khó khăn. , địa hình gồ ghề.

– cảnh vật thiên nhiên cũng có lúc mềm mại, mang hương vị của cuộc sống: “nhà ai trộn …”, “cơm lam khói”, “mai châu đang mùa em …”, thanh tạo cảm giác nhẹ nhàng, êm đềm.

– Hình ảnh hào hùng của người lính miền Tây “đạp không chịu thua”, “ngã mũ quên đời”: có thể hiểu ở hai câu thơ đơn giản là diễn tả giây phút nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân xa. , cũng có thể hiểu là sự yên nghỉ vĩnh hằng.

– Nhận xét: thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy hiểm nguy, đây là những thử thách đối với những người lính Tây Bắc khi hành quân.

b. những kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

– để kỷ niệm đêm tiệc thắm tình quân dân:

  • không khí đêm hội tưng bừng với những sắc màu rực rỡ, lộng lẫy: “thắp sáng”, “hội hoa đuốc”, “kèn thổi sáo”; con người duyên dáng: “giản dị”, “cô liêu”.
  • tâm hồn người lính trỗi dậy, mê đắm trong không khí ấm áp tình người: “nhạc về người chăn cừu dựng nên thơ”.

>

– cảnh sông nước, con người miền tây bắc:

  • vẻ đẹp kỳ ảo, hoang sơ, linh thiêng: “chiều sương”, “hồn lau bến bờ”
  • người lao động chất phác, mộc mạc: “dáng trên độc mộc”, phong cảnh hữu tình, tràn đầy sức sống: “nước nổi hoa đung đưa”

– Nhận xét: nhờ lối viết lãng mạn của mình, Quang dũng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống ấm áp và hình ảnh đậm đà tình người của con người miền núi Tây Bắc.

c. hình ảnh người lính miền tây

– Họ là những người có tâm hồn lãng mạn, trái tim đa tình, “mộng ở hà nội” / “đêm mộng hà hương thơm”, lấy hình ảnh người yêu ở quê hương làm động lực chiến đấu.

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hy sinh anh dũng của chị:

    > cái chết đã được lý tưởng hóa như hình ảnh của những người anh hùng xưa: “áo chẽn”, “hành quân đơn”; thiên nhiên cũng phải chịu đựng thay vì nỗi đau của nó.

– Nhận xét: dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng người lính miền Tây vẫn có nét hào hoa, lãng tử. Họ mang vẻ đẹp anh hùng, sẵn sàng hy sinh vì đất nước.

d. lời hứa, gửi gắm tình cảm của tác giả

    “.
  • tình cảm yêu thương, nhớ nhung của tác giả luôn gửi lại cho đoàn quân hành quân tây: và núi rừng tây bắc” ai đi về tây … / hồn về đánh lũy tre không Tôi sẽ không trở lại “

c. kết thúc

  • giá trị nghệ thuật: lối viết lãng mạn, cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ sáng tạo
  • tóm tắt giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình ảnh người chiến sĩ kháng chiến dũng cảm, không sợ hy sinh nhưng cũng lãng mạn, mơ mộng.

lược đồ số 2

1. mở đầu

– trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả quang dung và những nét thơ của ông (vừa hồn nhiên, tinh tế, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, lãng mạn).

– Nêu một số đặc điểm chung của bài thơ Miền Tây: hoàn cảnh ra đời, giá trị nổi bật của nội dung bài thơ.

2. nội dung bài đăng

a. một bản tóm tắt

– Tay tien: là tên của một tập đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với quân đội Lào để bảo vệ biên giới giữa Việt Nam và Lào và tiêu diệt lực lượng của giặc Pháp.

– đến từ một người lính phương Tây: hầu hết họ là người Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên.

– Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng đã viết một bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ về đoàn quân đang tiến lên sau khi chuyển đi đơn vị khác.

b. đường hành quân của đoàn quân phía tây tiến vào vùng hoang vu phía tây bắc

<3

– hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

+ từ cùng nghĩa của saigon, muong lat gợi ý sự xa xôi, hẻo lánh;

+ các từ tượng hình: “quanh co”, “sâu”, “ngọt”, ám chỉ “dốc”, nghệ thuật “tựa lên … dốc” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, hiểm trở của địa hình.

+ hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện độ cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có sự tài tình của người lính.

+ nhịp thơ ngắt thành hai câu “trên cao ngàn thước, dưới ngàn thước” gợi sự nguy hiểm tột độ.

+ các hình ảnh nhân hoá: “hổ vồ người”, “thác ầm ầm” gợi sự man rợ, man rợ; thời gian: “tối”, “đêm” những người lính thường phải đối mặt với hiểm nguy nơi rừng thiêng nước độc.

+ sử dụng hầu hết các thanh để nhấn mạnh địa hình gồ ghề và gập ghềnh.

– cảnh vật thiên nhiên cũng có lúc mềm mại, mang hương vị của cuộc sống: “nhà ai trộn …”, “cơm lam khói”, “mai châu đang mùa em …”, thanh tạo cảm giác nhẹ nhàng, êm đềm.

– Hình ảnh hào hùng của người lính miền Tây “đạp không chịu thua”, “ngã mũ quên đời”: có thể hiểu ở hai câu thơ đơn giản là diễn tả giây phút nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân xa. , cũng có thể hiểu là sự yên nghỉ vĩnh hằng.

– Nhận xét: thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy hiểm nguy, đây là những thử thách đối với những người lính Tây Bắc khi hành quân.

c. những kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

– để kỷ niệm đêm tiệc thắm tình quân dân:

+ không khí đêm hội tưng bừng với những sắc màu rực rỡ, lộng lẫy: “thắp lửa”, “hội đuốc hoa”, “tiếng kèn nguy hiểm”; người duyên dáng: “ăn mặc giản dị”, “cô ấy ngại ngùng”.

+ tâm hồn người lính trỗi dậy, mê mẩn trong không khí ấm áp tình người: “nhạc về người chăn cừu dựng nên thơ”.

– cảnh sông nước, con người miền tây bắc:

+ vẻ đẹp huyền ảo, hoang sơ, linh thiêng: “chiều sương”, “hồn lau bến bờ”

+ những con người lao động giản dị, mộc mạc: “một bóng một cây”, phong cảnh hữu tình, rực rỡ: “bồng bềnh trên mặt nước, hoa lá đung đưa”

– Nhận xét: nhờ lối viết lãng mạn của mình, Quang dũng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống ấm áp và hình ảnh đậm đà tình người của con người miền núi Tây Bắc.

d. hình ảnh người lính miền tây

– Họ là những người có tâm hồn lãng mạn, trái tim đa tình, “mộng ở hà nội” / “đêm mộng hà hương thơm”, lấy hình ảnh người yêu ở quê hương làm động lực chiến đấu.

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hy sinh anh dũng của chị:

<3

+ cái chết đã được lí tưởng hoá như hình ảnh của những người anh hùng xưa: “áo chẽn”, “hành quân đơn”; thiên nhiên cũng phải gánh chịu thay vì những nỗi đau mà họ phải chịu đựng.

– Nhận xét: dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng người lính miền Tây vẫn có nét hào hoa, lãng tử. Họ mang vẻ đẹp anh hùng, sẵn sàng hy sinh vì đất nước.

e. lời hứa, gửi gắm tình cảm của tác giả

– câu thơ gợi lại ý chí, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân miền Tây: “kẻ ra đi không lời hứa”, cũng là lời tiếc thương cho những đồng đội đã “hy sinh sâu nặng một phôi thai”.

– tình yêu, nỗi nhớ và tình cảm của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân miền tây: và núi rừng Tây Bắc “người đi về phía tây… / hồn không về đáy”

3. kết thúc

– Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, sáng tạo trong cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ

– tóm tắt giá trị nội dung: đoạn thơ đã tái hiện lại vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình ảnh người chiến sĩ kháng chiến dũng cảm, không sợ hy sinh nhưng cũng lãng mạn, mơ mộng.

Cảm nhận bài thơ miền Tây – bài mẫu 1

viết về phương tây: quang dung đã viết trong hồi ký của mình. và trong dòng ký ức ấy, nỗi nhớ đồng đội luôn khắc khoải, gợi lên những kỷ niệm, hình ảnh trân trọng, nghiêm túc, sâu sắc. ta thấy một dòng hoài niệm về đồng đội, về gươm giáo, về tấm lòng của người lính miền Tây xuyên suốt bài thơ:

… quân tây không mọc lông, quân xanh cầm châu chấu. chói mắt gửi mộng qua biên giới, đêm hà nội mộng thơm. Điểm xuyết những bờ lăng nơi đất khách xa, chiến trường đi không tiếc đời xanh, áo bào thay áo trở về trần gian, ngựa sông gầm lên khúc độc hành.

từ dưới chân núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu của bài thơ, hình ảnh những người chiến binh miền Tây hiện lên rõ nét:

quân tây không mọc tóc, quân xanh kiêu hãnh.

Thoạt đầu, câu thơ tưởng như có chút ngang tàng, chút ngang ngược, đầy chất lính nhưng càng đọc càng thấy hiện thực khắc nghiệt hơn, mới thấy hết được những vất vả, gian khổ của miền Tây. quân đội. không mọc tóc: đó là hậu quả của cơn sốt rừng kinh hoàng khiến binh lính rụng hết tóc. rồi nước nhiễm độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ… mọi thứ tưởng chừng như kiệt quệ khiến quân xanh phải gồng gánh. hai câu thơ cho ta thấy một hình ảnh rất thực của những người lính miền Tây khi phải chống chọi với bệnh tật: ốm đau, rụng tóc … nhưng không vì thế mà mất đi vẻ oai phong lẫm liệt: mắt trợn trừng. … “

Đoàn quân mệt nhoài, xanh như lá nhưng vẫn còn nguyên vẻ hùng vĩ của rừng sâu. cái chói chang mãnh liệt là gửi ước mơ vượt biên và để “đêm mộng hà nội có dáng thơm”. Người lính miền Tây đa phần là những chàng trai thành thị khoác áo lính nên dù đi chiến đấu, gian khổ nhưng họ vẫn luôn mang và giữ cho mình một tâm hồn hào hoa, phong nhã, đằm thắm, thơ mộng. mơ về dáng người đẹp thơm là mơ về dáng vẻ thướt tha, duyên dáng, thanh lịch của những cô dâu thủ đô ngàn năm văn hiến. Có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này như một giấc mơ vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. nhưng thực chất đây là tình cảm rất chân thành từ người lính, nó mang ý nghĩa nhân văn thực sự thể hiện ước mơ cao đẹp của con người về cuộc sống bình yên, hạnh phúc đã đẩy người lính đi xa.

cả đoạn thơ bốn câu, ba câu trên đều nói lên sự khác thường, dữ dội. Trái lại, câu thơ thứ tư lại đầy ngọt ngào, trữ tình và thơ mộng. bài thơ đã khắc họa những hiện thực rất khắc nghiệt, nhưng không chỉ bằng bút pháp hiện thực mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn, cho ta thấy hình ảnh một con người không hề xanh xao, đau khổ mà oai phong lẫm liệt. Văn và thư pháp của Quang Dũng rất tài hoa. dòng chữ không mọc lông, dữ tợn, dữ tợn và đôi mắt sâu hút thể hiện tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, dũng mãnh của những chiến binh phương Tây. Hoàn cảnh gian khổ, thử thách, gian khổ của một miền hiểm trở tăm tối không làm những người lính phương Tây nao núng, họ vẫn giữ vững ý chí, quyết tâm cao. ở khía cạnh bi đát của hoàn cảnh, vẻ đẹp của ngoại hình và tinh thần vẫn nổi lên. Thông qua những yếu tố tưởng chừng như đối lập, Quang Dũng đã khắc họa được vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa hào hoa và tâm hồn đôn hậu, đa cảm của người lính miền Tây. núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, bước đi trong sự hùng vĩ và man rợ ấy, những người lính miền Tây như được tiếp thêm sức mạnh, vững vàng vượt qua khó khăn hy sinh:

Biên giới rải rác và những ngôi mộ xa xôi, chiến trường đi qua không hối tiếc …

Những người lính miền Tây đã không tiếc hy sinh để chiến đấu vì Tổ quốc và sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho Tổ quốc. họ ra đi nhưng lòng vẫn nhớ, vẫn mang theo tình yêu mơ ước của riêng mình, khi hi sinh thân mình “áo thay đi để trở về trần gian”. Với hai chữ “áo dài”, nhà thơ đã nâng cao giá trị, tái hiện vẻ đẹp cao quý, một vẻ đẹp như những chiến binh xa xưa ở người miền Tây, vẻ đẹp ấy làm mờ đi hiện thực đói nghèo. rồi anh “về với cõi trần”, anh chết nhẹ như không, như trở về với những gì thân thương, quen thuộc ngày xưa, “về với cõi trần” là được sống mãi trong lòng quê hương, tổ quốc và những sông las lời sông núi hát lời anh hùng bi tráng: “sông ma gầm lên khúc quạnh hiu”.

cơn đau rất dữ dội, chỉ cần một tiếng “lên xuống đau”, cơn đau dường như bị kìm nén, quằn quại từ bên trong. không có nước mắt đồng đội, chỉ là dòng sông thanh mai trúc mã với nỗi đau chảy qua tim, chỉ là … chạy ngược về tim.

Cả bài thơ nói lên phẩm chất bi tráng nhưng cũng rất đỗi anh hùng. những người lính miền tây đã được nhà thơ khắc họa bằng nỗi nhớ, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.

Hình ảnh những người lính, tình đồng chí, đồng đội xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. chúng ta thường thấy những người lính chất phác và trung thực trong thơ văn điêu luyện:

áo sơ mi của anh ấy bị rách ở vai, quần của tôi có vài miếng miệng và tôi vẫn cười lạnh, không mang giày …

có trong bài thơ hongyuan:

Chúng tôi, những người từ khắp nơi trên thế giới, biết nhau khi chúng tôi chưa biết chữ, chúng tôi biết nhau từ “một, hai” …

nhưng với sự tiến bộ của quang dung thì khác. bài thơ không tượng trưng cho những người lính xuất thân từ nông dân cày sâu mà là những chàng trai thành thị, những cô cậu học sinh, sinh viên khoác áo lính. Với Miền Tây, Quang Dũng đã đưa người đọc vào một vực thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang vẻ đẹp hoang sơ, hiểm trở. và nổi bật giữa núi rừng Tây Bắc là hình ảnh những người lính miền Tây vượt qua mọi khó khăn gian khổ, sáng ngời ý chí anh dũng. Với tám câu thơ chan chứa tình yêu và nỗi nhớ, Quang Dũng đưa người đọc về một thời miền Tây với biết bao đồng đội thân thương của nhà thơ … tất cả đã giúp Quang Dũng tái hiện và khắc họa hình ảnh anh hùng của người lính miền Tây. Với lối viết tài hoa, đầy nhiệt huyết, nhà thơ đã xây dựng nên hình tượng những chiến binh miền Tây không chỉ có vẻ đẹp hung hãn, dữ dội mà còn có vẻ đẹp hào hoa, anh hùng. và phía tây không chỉ thể hiện đầy đủ tinh thần thơ mộng của quang dung mà còn tỏa sáng với một thẩm mỹ khác thường.

Cảm nhận bài thơ miền Tây – bài văn mẫu 2

Năm tháng khói lửa trong chiến tranh gian khổ đã qua, nhưng những vần thơ, bài điếu văn về cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay. thơ ca trong thời kỳ kháng chiến luôn thể hiện những hình ảnh chân thực về những con người góp phần thống nhất đất nước, trong đó có những người lính Việt Nam. Bài Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay trong kho tàng thơ ca cách mạng. Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được khung cảnh hùng vĩ mà thơ mộng của núi rừng Tây Bắc và hình ảnh người lính miền Tây hào hoa, lãng mạn nhưng vẫn rất dũng cảm, anh dũng, hiên ngang hy sinh vì Tổ quốc. .

Bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng đối với đoàn quân Tây tiến mà ông đã đóng quân từ lâu. Không ngừng theo nỗi nhớ ấy, nhà thơ đã tái hiện lại hình ảnh núi rừng Tây Bắc bao la, hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.

“lên khúc cua dựng đứng, mây khói ngút trời, ngàn thước lên, ngàn thước xuống, xa xa có nhà ai đổ mưa”

con đường hành quân của những người lính là nơi có những ngọn núi cao “ngàn thước”, những con dốc dựng đứng “sâu thẳm”, hấp dẫn mà hùng vĩ. hình ảnh ngọn núi sừng sững hiện ra trước mắt người đọc cùng với mây trời bồng bềnh cũng thật nên thơ. lấp ló từ dưới những sườn núi cao ấy là hình ảnh những ngôi nhà của dân bản soi ra “mưa xa”. xứ sở hoa mai còn đẹp đặc trưng vào những “mùa xôi thơm”. đọc đến đây, người đọc như hình dung ra những thửa ruộng bậc thang chín vàng mênh mông báo hiệu một mùa bội thu với hương thơm ngào ngạt của xôi và những bát xôi dẻo.

mảnh đất miền Tây càng đẹp hơn trong những đêm giao lưu văn nghệ của nhân dân với hình ảnh “doanh trại tràn hoa đuốc”. những ngọn đuốc hoa tỏa sáng rực rỡ trong đêm núi rừng, những sắc màu rực rỡ của các cô gái vùng cao tạo nên một bức ảnh đa sắc về cả vẻ đẹp của núi rừng và cuộc sống con người nơi đây. Hình ảnh một đêm lửa trại đầm ấm, vui vẻ với đủ sắc màu, ánh đèn và tiếng “kèn cựa” của tiếng “kèn” đã làm nên chất thơ Tây Bắc hơn bao giờ hết.

Qua con mắt của nhà thơ, núi rừng Tây Bắc thơ mộng hơn như một hình ảnh đẹp với nhiều chi tiết nhỏ đáng yêu:

“Người đi buôn cau chiều sương mù ấy có thấy hồn lau bến bờ, có nhớ bóng dáng bên bờ sông, hoa nước đung đưa?”

cúc họa mi mang vẻ đẹp huyền bí với những buổi chiều mù sương, lau những bờ đung đưa theo gió, lấp ló trong sương chiều. Đặc biệt, một hình ảnh nhỏ bé nhưng đầy sức gợi, đó là những loài hoa của rừng như hoa mơ, hoa mận, phong lan… “đung đưa” theo “dòng lũ”. hình ảnh thân thương ấy cũng góp phần tạo nên thiên nhiên núi rừng miền Tây đẹp đẽ, thơ mộng đến mê hồn.

Với hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc và cuộc sống cộng đồng của người dân nơi đây, bài thơ còn khắc họa hình ảnh những người lính miền Tây hào hoa, tâm hồn trẻ trung, đôn hậu của những con người rất dũng cảm, bi thảm.

Những người lính Tây tiến xuất thân từ những trí thức trẻ là sinh viên, những người đã gác bút xuống, sẵn sàng chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. do đó tâm hồn họ rất tinh tế, trẻ trung là điều dễ hiểu. với tâm hồn tuổi trẻ của mình, người lính luôn lạc quan nhìn đời, đứng trên đỉnh núi như chạm vào mây trời, họ hài hước so sánh “súng ngửi trời”. nếu bạn bị ốm trên sa mạc, sương giá làm bạn rụng tóc, da xanh xao và vàng vọt, người lính vẫn có một cái nhìn lạc quan:

“quân tây không mọc tóc. quân xanh cầm châu chấu”

Tây quân tử yêu cuộc sống như thế này, cũng rất lãng mạn. Cần có cái nhìn tinh tế và tâm hồn lãng mạn, người chiến sĩ mới cảm nhận được vẻ đẹp của “mùa xôi thơm”, cảm nhận được vẻ đẹp của “sương sớm”, “hồn lau” và những bông hoa nhỏ. xinh đẹp “đánh đu” bồng bềnh giữa “dòng lũ”. và hẳn là họ có những giấc mơ bay “mộng đêm mây thơm” thật lãng mạn. mơ về bóng dáng kiều thơm cũng là nỗi nhớ của những cô gái Hà thành, nỗi nhớ về mảnh đất Hà thành nơi gắn kết anh em thuở cắp sách đến trường.

Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của người lính còn được thể hiện qua những buổi giao lưu văn nghệ đầm ấm giữa quân và dân:

“Người thanh niên thắp sáng hội hoa đăng, em đã áo luôn áo theo tiếng nhạc réo rắt của anh về người chăn cừu xây nên hồn thơ”

Người lính cũng say sưa, vui vẻ hòa mình vào không khí lễ hội Tây Bắc. vẻ đẹp của cảnh vật và con người trong sáng khiến người lính ngỡ ngàng thốt lên “này anh”. Qua mắt anh em, những ngọn đuốc tỏa sáng như những bông hoa rực rỡ. đến tiếng kèn, tiếng nhạc, người lính xây nên những “hồn thơ” đẹp đẽ, trong sáng. hai chữ “hồn thơ” càng khẳng định chất thơ, chất lãng mạn trong tâm hồn những người lính xuất thân từ những người trí thức này.

vẻ đẹp của người lính miền Tây càng trở nên đẹp đẽ, như một khúc tráng ca hào hùng về chủ nghĩa anh hùng, bi tráng trước sự hy sinh bất tử:

“trải bờ mả, xa chiến trường đời xanh không hối tiếc. áo bào thay phản chiếu trở về trần gian, sông ma gầm lên khúc độc hành”

nơi khói lửa bùng lên, sau những trận đánh lớn, biết bao chiến sĩ anh dũng đã ngã xuống. Hình ảnh “ngôi mộ biên ải xứ Viên” sử dụng từ Hán Việt càng làm cho bài thơ thêm cổ kính, hào hùng. câu thơ gợi lên hình ảnh những nấm mồ nằm rải rác nơi biên cương xa xôi sau những trận chiến ác liệt. nhưng nói lên hiện thực ấy, để nhà thơ khẳng định một điều rằng người chiến sĩ dù hy sinh đời mình vẫn không tiếc “kiếp xanh không hối”. nó như một lời thề son sắt của những người anh, thề “quyết tử để Tổ quốc sống”. người lính ra đi cũng hào sảng như những vị tướng năm xưa, trở về với quê hương thân yêu. câu thoại “ngựa sông gầm lên khúc ca một mình” mang vẻ đẹp hào hùng, nó như một khúc nhạc tiếc thương vang lên tiễn biệt người chiến sĩ. “Ngựa sông” cũng như cả nước thổn thức “gầm thét” trước sự ra đi của Người, cũng là đại diện cho nỗi đau trở thành sức mạnh để những người lính và những người bạn đồng hành của Người tiếp tục chiến đấu vì tổ chức một quốc gia độc lập tự do. ở điểm này, mạch thơ dường như phát huy tác dụng, kết thúc bằng một “khúc độc hành” tạo nên một bức tượng bi tráng về người lính miền Tây.

Đoạn thơ miền Tây đã rất thành công khi tái hiện thành công vẻ đẹp của thiên nhiên và con người núi rừng Tây Bắc, đồng thời khắc họa vẻ đẹp trẻ trung, lạc quan, tâm hồn lãng mạn và hình tượng hào hùng của người lính miền Tây. cực Tây khép lại với âm hưởng hào hùng, bi tráng như khúc tráng ca hùng tráng về một thời bom đạn đã đi qua nhưng vẫn còn sống mãi trong hàng triệu trái tim Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ miền Tây – bài mẫu 3

TOP 8 bài Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến hay nhất - Văn 12

Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt ngào đi cùng năm tháng. Và vẫn còn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của những người lính. Nó là một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu,phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

Có một thời gian, bom đạn ấy đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. những câu thơ mở đầu như lời kể của những năm tháng vang dội, từ những năm tháng chiến đấu gian khổ, những con người ấy qua dư âm của thời gian trở nên sống động và chân thực hơn bao giờ hết. bệnh tật, những bữa tiệc, những đêm canh gác “gửi ước mơ qua biên giới” và cả những tưởng tượng của những người lính trẻ đầy nhiệt huyết. càng đọc, nhưng càng đọc, chúng ta càng thấy hiện thực phũ phàng, mới thấy hết sự neo đậu, khó khăn của đoàn quân miền tây.

Giữa những khắc nghiệt, hình ảnh những người lính dường như thật hồn nhiên và đáng để chúng ta trân trọng. là người quê gốc ở Hà Nội trong chiến tranh, mặc áo lính thay cho nam sinh ra trận, dù đi chiến đấu, gian khổ vẫn luôn mang theo bên mình. , tâm hồn yêu thương, tâm hồn thơ mộng.

“sông ma đi xa về tây, nhớ núi rừng nhớ chơi vơi sương mai, lấp đoàn quân mỏi hoa đêm”

những khó khăn trở về của người lính miền Tây đã trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của quang dung. đó là những gian khổ mà người lính phải trải qua, chính những gian khổ đó càng làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của họ … những con dốc làm người ta phải lúng túng ngay từ cái nhìn đầu tiên, hai từ sâu sắc trong câu thơ, khiến khói của những con dốc càng thêm hiểm trở. không dừng lại ở đó, những hình ảnh binh khí, vũ khí của những người lính vui đùa cùng mây

“leo dốc, mây hút, súng ngửi trời”

Những gian khổ ấy đã khơi nguồn cho hình ảnh đẹp đẽ của những người lính ấy. Cũng có những khoảnh khắc mà sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt nhoài, gục đầu vào ba lô ngủ quên, bỏ lại bao gian khổ, hiểm nguy của cuộc kháng chiến Không còn sự cố thùng dầu nữa quả là một bức tranh đẹp. bài thơ có ý nghĩa giảm bớt cái chết và sự hy sinh của những người lính ấy. đó là vẻ đẹp bi tráng, vật hy sinh kia là cẩm thạch, nhưng ở trong cẩm thạch ấy ta thấy được vẻ đẹp tráng lệ vô hạn. họ có thể hy sinh nhưng trong tư thế rất nhẹ nhõm, “quên đời” ký ức về những bến đỗ mệt mỏi, ký ức về những buổi chiều thâu đêm với thú dữ réo rắt, nhớ những đêm mùa lúa chín bên mai châu.

Thơ Quang Dũng không chỉ bao gồm những gian khổ trên chiến trường, mà còn có những câu chuyện về bệnh tật và thời tiết khắc nghiệt. Không giấu giếm gì, nghèo khó hay những căn bệnh như sốt rét khiến toàn quân rụng tóc, anh dũng quang minh đã khai thác được một vẻ đẹp rất chân thật của người lính miền Tây, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu không bao giờ nguôi. hình ảnh quân xanh là hình ảnh của sự mảnh mai nhưng không yếu ớt mà vẫn quyết liệt. đôi mắt chói lọi gợi cho ta lòng căm thù giặc của những người anh hùng phương tây. đôi mắt ánh lên ngọn lửa hy vọng và tinh thần chiến đấu anh dũng, không một chút phó mặc cho số phận, có lẽ đó là sự canh cánh không ngủ được vì trăn trở biên cương hay mở to mắt nhớ những hồn ma ở nước ngoài. sự hy sinh của những người lính ấy, họ hầu hết là những trí thức ngày đêm nghĩ về quê hương với những bóng hồng không bao giờ phai trong tim ..

Sử dụng biện pháp đối đáp, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa được vẻ đẹp vừa anh dũng, dũng cảm, vừa hiên ngang, đa cảm của người lính miền Tây. chúng ta có thể nhìn thấy núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, bước đi trong sự oai hùng, man rợ ấy, và những người lính miền Tây như được tiếp thêm sức mạnh, vững bước vượt qua gian khổ, hy sinh. :

Biên giới rải rác và những ngôi mộ xa xôi, chiến trường đi qua không hối tiếc …

Những người lính miền Tây không ngại hy sinh bản thân, nếu có thể họ cũng không tiếc hy sinh thân mình để bảo vệ những người thân yêu ở hậu phương. khi ra đi họ vẫn nhớ, vẫn mang trong mình những hoài bão, ước mơ, khi hy sinh “áo bào sẽ đổi lại thành đất .. quê hương là nơi bạn sinh ra và cũng là nơi bạn trở về, quê hương. che chở cho họ mãi mãi bình yên trong giấc ngủ vĩnh hằng của Người, một lần nữa, hình ảnh dòng sông ma lại hiện ra, gầm lên khúc nhạc hành khúc, như trân trọng tiễn biệt linh hồn họ, đó không phải là trò chơi mà là tiếng gầm, nó càng tô thêm nét đặc sắc cho bài thơ.

lấy cảm hứng từ cuộc sống thực do chính tác giả sống, những chàng trai, học sinh, sinh viên thành thị hóa trang thành những người lính. Một lần nữa, Quang Dũng đã đưa chúng ta về với miền Tây đầy lãng mạn và bi tráng. dưới ngòi bút hào hoa của quang dung, hình ảnh những người lính miền Tây nhân hậu, giản dị và rất da diết. ở đây chúng ta cũng có thể nhìn thấy vẻ đẹp bi tráng của các chiến binh phương tây, hãy cảm nhận nó. vì vậy, chúng tôi ngày càng yêu mến nhiều người hơn đối với đất mẹ.

Cảm nhận bài thơ miền Tây – mẫu 4

nguyễn đình thi từng viết: “thích một bài thơ là thích một cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, suy cho cùng là thích một người”. Giữa rừng thơ kháng chiến đầy màu sắc đang tỏa hương thăng hoa, “Tây Tiến” vẫn rất được lòng độc giả, đơn giản vì đó là “một cách nhìn, một cách cảm, một cách nghĩ”.

“Tây tiến” được coi là kiệt tác của đời thơ Quang Dũng. bài thơ được viết năm 1948, dưới giàn vôi, trong nỗi nhớ thiết tha của người miền Tây – đơn vị chiến đấu năm xưa – cũng là nỗi nhớ về núi rừng rải rác phía Tây Tổ quốc tưởng như kỳ vĩ mà một thời đoàn kết. dũng quang. . Không khí lãng mạn đậm đà của những ngày đầu Kháng chiến, khí phách hiên ngang, dũng cảm của những con người Hà Nội hào hoa, giàu tình yêu thương đã được thể hiện đậm nét trong từng câu thơ đầy chất nhạc và chất. , vừa trang nghiêm, cổ kính, vừa tươi trẻ.

quang dung viết rất hay về nỗi nhớ, nỗi nhớ trỗi dậy từ những con đường tha hương, con đường cách mạng và kháng chiến, hướng về “huyện đồng”, hướng về “xứ sở mây trắng”. về một “ba vì nó xa” và cũng là cái tên thân thương “ở phía tây”:

“Sông Mã xa lắm, hãy đi về hướng Tây!”

câu thơ 7 chữ có 4 chữ là tên một địa danh. không có hình ảnh trực tiếp, nhưng nó vẫn âm vang trong không gian, dội sâu vào tâm trí. đó là tiếng gọi của quá khứ sâu thẳm không chịu yên trong lòng thi nhân. dường như kể từ lúc đó, chúng không còn là những địa điểm hồn nhiên và vô cảm trên bản đồ nữa. Từ bao giờ, những lời nói đó đã khiến Quang dũng cảm suốt đời. câu thơ xác định rõ hai không gian khác nhau: không gian thực và không gian hồi tưởng. nhưng dường như chỉ người đọc mới nhận ra rõ điều này, và đối với nhà thơ, khi anh nói “xa” là lúc hình ảnh của một quá khứ không xa đang chớm nở, nâng anh khỏi mặt đất của thực tại. do đó, toàn bộ bài thơ như một câu chuyện được bao bọc trong không khí hoài niệm của riêng nó.

những bài thơ về nỗi nhớ từ xưa đến nay khó kể hết. nhưng hiếm có bài thơ nào mà nỗi nhớ được diễn tả bằng những ngôn từ lạ lùng và giàu sức gợi như vậy:

“Hãy nhớ những ngọn núi, hãy nhớ chơi với chúng”

độc giả của “tây tiến” không thể quên từ “chơi nhớ chơi”. “Chơi vơi” là trạng thái nhớ nhung hay nhớ cảnh? đó là sự chênh vênh của những người phải rời xa nơi mình từng gắn bó hay là màn trập trùng xa xôi của núi rừng miền Tây? thật khó để chia tay! cả chủ thể và khách thể dường như đã trộn lẫn và cùng tồn tại trong cùng một từ “chơi với”. đó có phải là cùng một trạng thái hoài niệm chập chờn không?

mạch thơ chủ yếu là kết cấu của ký ức, của những hồi tưởng bất tận, của những hiện ra bất chợt, trong đó địa danh có khi chỉ là một dòng tên, có khi chỉ là điểm nhấn: ký ức. và ký ức luôn hòa quyện với con người, chúng song hành và dệt nên cả hai mạch: gian khổ và thơ mộng:

“sai mong muốn sương lấp đầy đội quân mệt mỏi với những bông hoa trong đêm khuya”

thư pháp hiện thực đã mô tả một cách chân thực hình ảnh của một đội quân mệt nhoài, thấp thoáng trong màn sương. Và đêm sương ấy trở thành “đêm hơi” bay bổng qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Những ngọn đuốc soi đường như những bông hoa huyền ảo, lấp lánh và rực rỡ. sự khắc nghiệt của thiên nhiên được cảm nhận một cách thú vị trong hình ảnh hào hoa và lãng mạn.

giống như “tiên quân ca” và tất cả các cuộc hành quân, trong “tây hành”, chúng ta thấy hình ảnh những con đường nổi lên. con đường nối liền với các địa danh việt – lao, đọc lên xuống như hát, vừa lạ vừa hiện đại:

“Lên khúc cua dựng đứng, mây khói ngút trời, ngàn thước lên, ngàn thước xuống nhà ai, từ xa đổ mưa”

câu thơ “bờ dốc khúc khuỷu” có 7 từ, 5 từ láy và điệp khúc “ngân nga”, những từ “ngân, sâu” đã gợi lên hình ảnh một con đường dốc, quanh co, gập ghềnh. vượt qua, tăng lên mãi mãi. từ “ngọt ngào” gợi cảm giác xa xôi, hẻo lánh. Đặc biệt, nhà thơ không phải là người chép lại cuộc đời trên trang thơ, mà mỗi câu chữ là một “quặng tinh luyện vàng” (maiacopsky) sục sôi, để “gom” lại trong những rãnh đời, chăm sóc và gieo trồng. thành phố. những bông hoa đẹp thơ mộng. những từ ngữ lấp lánh vừa ngạc nhiên vừa thú vị ấy: “cồn mây”. không phải là mây phiêu diêu, mây phiêu du mà là “cồn mây” phía xa: “xứ mây xa cửa” (phủ). “Pháo trời” được nhân hóa mới độc đáo và thú vị làm sao. câu thơ tiếp theo đột ngột bị cắt đôi, vẽ hai cuộc hành quân. điệp ngữ “ngàn thước” và nghệ thuật tương phản “trên và dưới” đã gợi ra vực thẳm đầy chông gai và hiểm trở. Vì vậy, đọc thơ Quang Dũng không chỉ như có nhạc trong miệng, mà còn như được thưởng một hình ảnh. đó là lý do tại sao “phải trung họa, phải trung nhạc” là vì vậy. nếu câu trước khó thì câu dưới nhẹ nhàng, câu trên nhẹ nhàng hơn, câu dưới nhẹ nhàng thì cảnh trên khó hơn, cảnh hiện tại yên bình: “Nhà ai hòa mưa xa. “. sự yên tâm lan tỏa trong âm thanh bằng toàn bộ câu thơ.

khó khăn luôn được coi là thử thách vàng. chính vì vậy mới có câu “sóng vỗ / gian nan đều do anh hùng”. gian nan, thử thách là cái nền để làm nổi bật vẻ đẹp và tính cách của con người. họ không nản lòng khi đối mặt với nghịch cảnh, họ giữ được dầu trong cơ thể từ rất lâu:

“Anh bạn béo ục ịch dừng bước, ngã mũ bảo hiểm quên đời”

hai câu thơ như những bức tranh vẽ về người lính đầy ấn tượng. đây có thể là những lần hiếm hoi khi một người lính ngủ gật; nhưng đó cũng có thể là một sự thật đau lòng là người lính đã ngã xuống và không thể bước đi cùng những người bạn đồng hành của mình. sự hy sinh là có vì quang dũng không bao giờ trốn tránh thực tế. nhưng thực tế trong mắt anh ấy không bao giờ là đơn giản và nhàm chán. hàng loạt từ chủ động: “không bước nữa”, “quên đời”. biến mất mát thành chủ động chấp nhận, chấp nhận một cách tự tin và nhẹ nhàng, chịu đựng sự ngang tàng, ngạo mạn, ngạo mạn của những người lính trẻ đầy nhiệt huyết.

khi đó, tầm vóc của anh được đặt trong thiên nhiên hùng vĩ:

“Vào buổi chiều, thác nước hùng vĩ ầm ầm.” vào ban đêm, con hổ làm trò cười cho mọi người.

“Thác gầm thét, hổ rình mồi” là hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm vẻ hoang sơ, dữ dội và kỳ bí của núi rừng Tây Bắc. “Chiều, đêm và đêm” là những trạng từ chỉ thời gian được lặp đi lặp lại mãi mãi. sức mạnh của thiên nhiên ngự trị ở đây không phải chỉ là một sớm một chiều mà là “trời chiều, ban đêm”. nhưng đó cũng là thời điểm của các cuộc hành quân về phía tây. vì vậy, hai câu thơ miêu tả thiên nhiên tối tăm, huyền bí của núi rừng Tây Bắc càng làm cho chân dung người lính cao hơn, mạnh mẽ hơn.

cuộc hành quân không chỉ có gian khổ, khó khăn mà còn có những kỷ niệm ngọt ngào, êm đềm:

“nhớ nhé, ta sắp chuyển cơm khói hương mai đến mùa thơm như xôi nếp nương”

từ “miss oh” nghe như một âm thanh nghẹt thở, buồn nôn! không phải “ôi nhớ” như câu cảm thán xưa; Nó cũng không thành thật, bằng lời nói “nhớ ơi, nhớ” hay “nhớ ôi” như một lời kêu gọi mọi người, mà là “nhớ ôi” như một tiếng khóc với chính mình. ta có thể nghe rõ trong bài thơ một nỗi nhớ bất chợt. những người còn nhớ không khỏi bật ra tiếng rên rỉ, nhưng “một tiếng vang ngắn ngủi bật ra khỏi miệng”. le dat đã từng nói: “Tôi tôn trọng những nhà văn làm việc với văn học để tạo ra sự ra đời của ngôn ngữ.” Quang Dũng là một trong những người như thế. đã tạo ra một ý nghĩa táo bạo nhưng rất nồng nàn trong một bộ từ mới: “bạn mùa”. “của mùa em” khiến mai châu không chỉ là nơi gắn liền với những kỷ niệm thơm mùi xôi đầu mùa, của tình quân dân sâu nặng mà còn gợi nhớ đến hình ảnh những cô gái vùng cao duyên dáng. nay đây mai đó, miền Tây sẽ tàn phai sau những thăng trầm của lịch sử, nhưng tiếng khóc ấy sẽ tiếp tục gieo vào lòng người đọc trong tương lai sau bao ký ức của một thời. “Western” tiếp tục sống trong hoài niệm và cũng sống trong hoài niệm.

Vào cuối đoạn đầu tiên, những ký ức chợt bừng tỉnh dường như mờ đi. một làn sóng mới chưa hình thành nên lúc này, ký ức được trải dài, nhẹ nhàng trải ra để những hình ảnh tươi tắn và “sắc nét” hơn:

“Doanh trại bừng sáng đuốc và hoa, tôi luôn mặc hết áo, nghe nhạc về người chăn cừu xây nên hồn thơ mới thấy sợ”

Nếu phần đầu của bài thơ chủ yếu nói lên sự vất vả, dữ dội của hoàn cảnh thì đoạn thơ này lại nhấn mạnh chất thơ giàu chất thơ của núi rừng miền Tây Tổ quốc. trong thời kỳ khó khăn, họ vẫn còn trẻ và vẫn thích tổ chức “lễ hội đuốc hoa”. Thật ra, có thể là một ngọn đuốc, nhưng trong con mắt lãng mạn của những người trẻ tuổi, nó sáng và lấp lánh, rạng rỡ, ấm áp và huyền ảo. chỉ một từ “cháy” đã thắp sáng cả không gian, thắp lên niềm vui, thậm chí còn đánh thức cả một miền ký ức khi những người lính hôm nay chợt nhớ về. “Siêm áo” là một từ Hán Việt giống như những gì lộng lẫy và rực rỡ, bước ra từ thơ cổ với từ “nhìn em” là điều gần gũi nhất để bước ra khỏi trang đời. “behold” mang trong mình trạng thái ngỡ ngàng, nhưng cũng có thể là ánh mắt nồng nàn, trẻ trung từ một con người tâm linh. “nhìn tôi” sống động và tươi mới như gần đây! một cụm từ “xây dựng hồn thơ” đã xác lập vị thế của những chàng trai ấy: không chỉ dũng cảm mà còn yêu thơ. “hồn thơ” hay nàng thơ, phải chăng là vẻ đẹp của những cô nàng điệu đà yêu đời? hay là tiếng “kèn thổi làn điệu thiếu nữ e ấp, đêm lồng đèn lộng lẫy” chẳng phân biệt được đâu, chỉ biết rằng tình yêu theo ký ức ùa về, nồng nàn, đắm say.

Những câu thơ sau đây là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên vùng cao:

“Những người đi chơi châu bản vào buổi chiều mù sương ấy, thấy tâm hồn đang lau đôi bờ, thấy bóng người lững lờ trôi theo dòng nước và những bông hoa đung đưa”

một từ, “sương sớm”, gợi lên cả thời gian và không gian. thơ cổ mỗi khi về chiều, về sương là một nỗi buồn xa xưa, một nỗi nhớ xa xưa bồi hồi: “dặm sương, liễu rủ du khách”. (mrs thanh quan district). Nhưng thơ của Quang Dũng lại cho ta một cảm giác rất êm dịu và bình yên. một từ “đó” ẩn danh nhưng có ý nghĩa. từ “ấy” là vô danh vì nó dùng để chỉ một thời điểm nào đó, đôi khi ngay cả chủ thể cũng không xác định được: “ngày ấy, lòng tôi nghe được ý nghĩ của bạn” (xuân diệu), chính là “từ đó”, “mười lăm năm ấy. “để tưởng nhớ người bạn. nhưng cũng là ngày không lẫn vào đâu được giữa vô vàn những buổi chiều vô danh khác trong cuộc đời: một buổi chiều mang tên nhớ, mang nỗi nhớ. nhà thơ chỉ mất đi một chút trong sáng nhưng thu được ý nghĩa bao la. nó không phải là “cây sậy”, “cây sậy” hoặc “một phần của cây sậy” như được sử dụng bởi dr. chu văn son trong bài văn: “bên hoa” mà là “hồn cây mía”. “linh hồn” cũ đã viết mrs. huyện thanh quan: “hồn thu thao” khiến câu thơ không nhằm tả mà gợi, không cố ý mà vẽ. không nhìn thấy hình dáng cây mía nhưng có thể cảm nhận được cái hồn riêng của đại ngàn Tây Bắc. cảnh theo bức thư mà tan. một chút trong sáng đã mất mà thêm nhiều chất thơ. câu thơ cuối bộc lộ dáng người thướt tha, uyển chuyển của người con gái Thái giữa thiên nhiên thanh bình, thơ mộng. hình ảnh “hoa ban” không chỉ gợi lên hình ảnh vùng đất Tây Bắc ngàn hoa, mà còn là hình ảnh của vẻ đẹp. Phải chăng “hoa đong đưa” làm tình với gió và nước khi đã nở cả đời để buông? Hay đó là hình ảnh ẩn dụ về cái đẹp, của người con gái đang yêu nhưng thầm yêu trộm nhớ? câu thơ có duyên của cảnh, có người có duyên và có cả ánh mắt yêu thương của người xem không?

và sau đó chân dung của người lính miền Tây được thể hiện trực tiếp qua những nét chạm khắc rõ ràng và sắc sảo:

“quân tây không mọc tóc, quân xanh dữ oai hùm mắt gửi mộng qua biên giới. mộng đêm trong cảnh đẹp hà nội”

Hai dòng thơ đầu của Quang Dũng vang lên với giọng điệu quen thuộc. sự thật hiện ra trực tiếp như trong “tiếng người lính” nên nó trở nên bất ngờ, và bất ngờ thay, sự trần trụi của hiện thực lại được nhìn nhận theo một cách khác. câu thơ không gợi ra bi kịch, mặc dù người ta hiểu rộng rãi rằng “không có lông mọc” và “da xanh” là hậu quả của bệnh sốt rét. Theo câu thơ của Quang Dũng, hễ chạm đến cõi thực là bay bổng trên đôi cánh lãng mạn. điệp ngữ “không mọc tóc” làm cho câu thơ trở nên rắn rỏi, có sức sống; câu thơ hàm súc; con người xuất hiện với phong thái chủ động, tư thế kiêu hãnh, ngạo nghễ. biện pháp ẩn dụ kết hợp với điệp ngữ phóng đại “sợ hãi” làm cho chủ thể hiện lên uy nghiêm, uy nghiêm như vua sơn lâm, khiến người tuy ốm yếu nhưng không yếu đuối: vóc dáng của những kẻ chinh phục. Hai dòng trên mạnh mẽ bao nhiêu thì hai dòng dưới cũng trơn tru bấy nhiêu! nếu ở trên, tác giả thay “chói mắt” bằng “buồn” thì câu dưới sẽ giảm hẳn sự mềm mại và chi tiết được nhắc đến, mất đi sự trong sáng và kì dị. câu thơ có “ước mơ” về người anh hùng mang trong mình ngọn lửa căm thù và khát vọng công danh nhưng vẫn nuôi một “ước mơ” nhỏ nhoi về cái đẹp. tác giả không dùng từ “nhớ”: nỗi nhớ của người lính nông dân về “giếng đa” (“đồng chí”), về “người vợ trẻ gánh cối xay canh đêm” (“nhớ”) hay nỗi nhớ của nguyễn đình thi “chợt bâng khuâng ánh mắt người tình”,… vì “nhớ” liên quan nhiều hơn đến tâm trạng, cụ thể “mơ” là dấu tích của tâm hồn – mơ hồ. “vẻ đẹp thơm ngát” ấy chính là ánh sáng le lói trong ký ức, “tố cáo” mối tình và cuộc đời dạt dào của người lính vốn thường bị che lấp trong cuộc kháng chiến.

“trải bờ mồ, xa chiến trường, đời xanh không hối tiếc. Tấm áo thay hồi hướng về trần gian, ngựa sông gầm khúc đơn ca”

câu thơ là một trong những tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. ở một vùng đất xa xôi, những con người ấy chỉ là những tấm vải mỏng manh. bi kịch, mất mát trong chiến tranh là không thể phủ nhận. nhưng lòng trắc ẩn không khuất phục. bài thơ sử dụng hệ thống từ Hán Việt: “biên cương”, “xa”, “chiến trường”, “áo dài”, “độc tôn” làm cho không khí thanh thoát, lời ca êm đềm, giọng thơ, hào hùng, bi tráng. chủ động trở về: “sống xanh không tiếc đời xanh” khẳng định bản lĩnh anh dũng của những người đàn ông coi cái chết nhẹ như cờ đỏ. hình ảnh “áo dài” gợi lại bóng dáng của những huyền thoại bên bờ sông. bản dịch: “oai hùng nhất thời không ngừng hiện về” và cách nói dưới đây càng làm cho vẻ đẹp của người lính trở nên đẹp đẽ hơn. đối với họ, cái chết chỉ đơn giản là sự trở về khi họ đã sống và chiến đấu hết mình trong tâm thế bình thản và nhẹ nhàng. Xưa nay, khi nhắc đến những câu thơ quang dung này, người ta thường bắt gặp những biểu hiện tiêu cực “ngủ quên”, “buồn bã” hay “ôn hòa tư sản” ở đó. giọng điệu của nhà thơ, của những người lính phương Tây, quả thực rất đáng trân trọng. đó là biểu hiện lòng quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu, hy sinh vì nghĩa lớn. họ không phải là nạn nhân, những con cờ đen vô nghĩa trên bàn cờ chiến trường, mà là những “thần dân có ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng khoảnh khắc, biết mơ ước, biết hy vọng và khi cần thiết họ sẵn sàng cho đi. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự sánh ngang với những người lính đã hy sinh vì nghĩa lớn. sự ra đi của ông đã được ghi lại như một khúc tráng ca “độc nhất vô nhị” của dòng sông Mã đầy uy nghiêm, trang trọng. Chiều cao của con người được so sánh với chiều cao của vũ trụ.

Phần “đại âm” của “hành khúc” “về phía tây” gồm bốn cụm từ muốn tiếp tục hành trình ký ức vượt theo bước chân của vị quân tử lừng danh:

“miền tây đi về hướng tây, người đi không hẹn ước. Con đường đi sâu người ta mở ra, hướng về miền tây, mùa xuân ấy, hồn người đi không trở lại”

Hai câu trên gợi lại lời hứa của đoàn quân miền tây khi lên đường: “đại chí chưa về tay không”. hai câu tiếp theo vừa là lời tự nhắc nhở, vừa ôn lại kỉ niệm để đi đến một khẳng định: không thể nào quên được chặng đường đã qua, dù có đi đâu vẫn gửi gắm tâm hồn mình. bởi ngày qua là kỷ niệm, là bạn đồng hành, là hiến dâng, là đời tư có cơ hội tỏa sáng trong cuộc sống chung của dân tộc, của cách mạng.

“Tây tiến” đầy hoài niệm, hay nói đúng hơn là hoài niệm. Đó cũng có thể coi là tâm nguyện của một thế hệ thanh niên sẵn sàng cống hiến cả kỷ nguyên xanh cho Tổ quốc thân yêu. tác dụng ấy càng được nâng cao khi nhà thơ có thể “tuồng cổ” (một kiểu hành) để cảm xúc, tình cảm không bị trói buộc mà có thể trải ra theo đầu bút, thành câu chữ. hình ảnh thơ tuy giản dị, quen thuộc nhưng khi áp dụng vào nhau trong cách sắp xếp quang dung lại tạo ra hiệu quả bất ngờ. nếu nói “thơ trung đại”, “thơ trung quyền nhạc”, “tây tiến” là một điển hình. Với tài sử dụng và sáng tạo ngôn từ của mình, Quang Dũng khiến người đọc như có “nhạc trong miệng”, như thưởng thức hình ảnh trong ngôn từ. thư pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn đã tạo nên vẻ đẹp hào hùng và bi tráng cho những câu thơ. đó là hương vị riêng của thơ quang dung: nó giản dị và bay bổng, không cầu kỳ, nhưng mới lạ đến bất ngờ!

anh ấy thích “tây tiến”, đơn giản là anh ấy thích cách nhìn, cách cảm nhận và yêu thương người đó. Chính vì vậy mà bài thơ có thể vượt ra khỏi quy luật băng hoại của thời gian và tồn tại cùng độc giả hôm nay và mãi mãi.

Cảm nhận bài thơ miền Tây – bài mẫu 5

Nhận xét về thơ Quang Dũng, có ý kiến ​​cho rằng: “Tây Tiến là người con mạnh mẽ, dũng cảm của đời thơ Quang Dũng”. thực sự bài thơ đã để lại dấu ấn trong chặng đường cầm bút của nhà thơ, đồng thời để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đặc biệt về một thời hào hùng của dân tộc.

Quang Dũng vốn là một anh bộ đội hành quân đến vùng đất cực Tây của Tổ quốc, thấu hiểu sâu sắc những khó khăn và anh dũng của cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Vào giờ phút chia ly của đồng bào và chiến sĩ nơi phố phường Lựu Chanh, thơ ca miền Tây đã ra đời, thấm đẫm tình người, với bao nỗi niềm của lòng người. những khó khăn, gian khổ và những khoảnh khắc ấm áp tình đồng đội hiện lên trong tâm trí nhà thơ, gợi lên những cảm xúc sâu lắng.

quang dung mở đầu bằng những câu thơ chứa đựng nỗi nhớ và niềm khao khát:

“sông ma xa rồi, về tây ơi! nhớ núi rừng nhớ vờn sương giăng đầy đoàn quân mỏi mòn hoa đêm”

hình ảnh con sông Mã vừa mang vẻ thơ mộng, trữ tình nhưng cũng ẩn chứa nét hoang sơ, dữ dội. không phải văn hóa, cũng không phải con người, điều đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là hình ảnh sông nước Tây Bắc như một biểu tượng cho mọi cảm xúc nhớ nhung. từ nỗi nhớ ấy, tiếng gọi: “đi về hướng Tây” không kìm nén được mà bật ra một cách mạnh mẽ. tiếng “ơi” ở cuối mỗi dòng như vang lên, kéo dài dư âm của nỗi nhớ, lan tỏa khắp không gian và thời gian. nhưng càng nhớ anh, thương anh bao nhiêu thì càng hằn sâu nỗi đau hiện thực nhưng vó ngựa, tây bắc thì “xa”. Đó là một thực tế không thể thay đổi, rằng các chiến binh của phương tây sẽ rời bỏ vùng đất quen thuộc này để trở về thành phố và xây dựng một cuộc sống mới. tiếp nối dòng ký ức ấy là hình ảnh cuộc hành quân gian khổ, bất khuất của đoàn quân miền Tây. saigon, muong lat, muong hich là những địa điểm lạ và mới đối với giới trẻ Hà Thành. nhưng không phải vì khó khăn, không phải vì chưa quen mà vì quyết tâm đi theo tiếng gọi của Tổ quốc. con đường của cuộc hành quân dường như đầy thử thách và nguy hiểm. đó là hành trình vượt qua lớp sương mù phủ kín đường, trèo đèo lội suối qua những địa hình hiểm trở.

“lên khúc cua dựng đứng, mây khói, súng ngửi trời lên cao nghìn mét, xuống nhà người nghìn mét, mưa tầm tã từ xa”

Thiên nhiên Tây Bắc luôn khốc liệt và khắc nghiệt theo từng chặng đường diễu hành qua đây. đặc biệt, quang dung còn rất tinh tế khi sử dụng hàng loạt từ ngữ tượng hình giàu sắc thái diễn đạt: “sâu thẳm, rắn rỏi, quanh co” để gợi lên những khó khăn của con đường đi bộ. đó là dốc cao, núi thẳng, đèo sâu như thách thức, đe dọa tính mạng con người. chủ sở hữu cần một chút bất cẩn quá khiến người ta phải trả giá bằng mạng sống của họ. đó là thực tế của cuộc kháng chiến và cũng là thực tế của chiến tranh vô nghĩa.

“Anh bạn béo ú dừng bước, ngã súng, quên đời! chiều thác hùng vĩ gầm thét đêm cọp giễu nhại lòng người ”

Trên hành trình ấy, đôi khi bước chân chùn bước, mệt mỏi và gục ngã. đó có thể là giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của người lính sau bao khó khăn, gian khổ nhưng cũng có thể là khoảng thời gian xa cách cõi đời. họ không vì mạng mà “quên mình”: một con người thực sự bình đẳng, dũng cảm bước ra từ khói lửa chiến tranh. Quang dũng vô cùng tinh tế khi sử dụng cách nói giảm nói để khi mất mát họ không thấy xót xa, đau đớn. trong câu thơ chỉ có khí thế của một tinh thần chiến đấu kiên cường và một tâm hồn lạc quan, yêu đời, hết lòng vì đất nước, vì dân tộc. xung quanh nơi dừng chân của đoàn quân phía tây luôn tiềm ẩn những nguy hiểm rình rập. đó là bước chân của hổ dữ, chứa vua rừng, tiếng gầm dữ dội của thác nước. thiên nhiên vĩ đại là người bạn ở mọi bước của cuộc hành trình, nhưng đồng thời cũng là kẻ thù nguy hiểm đối với chiến binh phương tây.

<3

“nhớ nhé, ta sắp chuyển cơm khói hương mai đến mùa thơm như xôi nếp nương”

Tiếng gọi “nhớ ơi” không còn vang lên tha thiết như trên, nỗi nhớ giờ day dứt và cuộn sâu trong trái tim người lính. hình ảnh cuộc sống bình dị của con người hiện lên đầy yêu thương, ấm áp trong tâm hồn người lính trẻ. ẩm thực giản dị, khói thơm gợi nhớ về cuộc sống bình lặng và hạnh phúc.

“Doanh trại bừng sáng đuốc và hoa, tôi luôn mặc hết áo, nghe nhạc về người chăn cừu xây nên hồn thơ mới thấy sợ”

Ánh sáng của đêm hội đuốc hoa đã soi sáng tâm hồn những người lính, tiến gần đến sợi dây gắn kết cuộc đời người khác thành đồng chí, đồng bào, chỗ dựa vững chắc trên con đường lịch sử dân tộc. Những “em” thiếu nữ Tây Bắc xúng xính váy hoa, múa những điệu múa truyền thống làm say đắm lòng người? Giữa những căng thẳng của cuộc kháng chiến, những người lính vẫn hòa mình vào niềm lạc quan, yêu đời, tận hưởng không khí vui tiệc tùng của người dân Tây Bắc.

“Những ai đi chơi gò má vào buổi chiều sương mù ấy, thấy tâm hồn đang dọn dẹp bờ bến, họ nhớ bóng dáng trên gò bồng bềnh theo dòng nước và những bông hoa đung đưa”

Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây tiến nơi đây đắm chìm trong khung cảnh thơ mộng, trữ tình. Hình ảnh thiên nhiên hiện ra trong ánh chiều tà với dòng sông, cây sậy đung đưa trong gió và hình bóng một con người nhỏ bé. đứng giữa đại ngàn, con người trở nên nhỏ bé, cô đơn trên chiếc xuồng, lặng lẽ trôi, gợi chút buồn man mác. cảnh sông nước thường gợi cảm giác cô đơn mênh mông, pha chút sầu muộn. đó là cảnh buồn hay lòng người đầy nỗi buồn. “Những người hạnh phúc không bao giờ hạnh phúc” (nguyen du).

sau những giây phút lãng mạn, nhạc điệu của bài thơ lập tức làm sống lại không khí bi tráng, tàn khốc của cuộc chiến tranh phi nghĩa. đó là:

“hành quân tây, quân không mọc tóc, quân xanh dữ oai hùm mắt gửi mộng qua biên giới. mộng đêm hà hà dáng thơm rải bên bờ mộ, xa từ nơi chiến trường, đời xanh vô ưu. ăn mặc thay thảm, trở về đất, sông ma gầm thét. về đường đua một mình ”

Vào chiến trường, những chàng trai thành phố đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách không chỉ bởi thiên nhiên, mà còn trong cuộc sống hàng ngày. căn bệnh khiến những người lính xanh xao, hốc hác, tóc không mọc được. quang dung đã thấu hiểu và đưa vào thơ hiện thực tàn khốc của cuộc kháng chiến trường kỳ, gợi cho ta nhớ đến bệnh sốt rét rừng trong bài thơ “đồng chí” của chính nghĩa:

bạn và tôi đều biết từng cơn rùng mình, vầng trán đẫm mồ hôi ”

sự thương tiếc được đưa lên một tầm cao hơn khi nhà thơ khắc họa hình ảnh “tấm áo quan phục anh về trần gian”. Không mất mát, không gục ngã, người lính ấy đã trở về quê hương sau bao ngày tháng chiến đấu anh dũng. đây chỉ là giây phút để bạn nghỉ ngơi và trở về nơi bạn đã sinh ra và lớn lên. bài thơ vẫn thể hiện niềm lạc quan và niềm tin vào tương lai của đảng và cách mạng. hình ảnh con sông ma lại hiện ra trong sự dữ dội, dữ dội. dòng sông gầm thét hay khúc ca dài ca ngợi tiễn biệt những người lính trẻ. họ đã cống hiến tuổi thanh xuân để giữ gìn nền hòa bình, độc lập của Tổ quốc: “ra chiến trường không tiếc đời xanh”. đó là tinh thần chiến đấu anh dũng, cao cả, chí khí cao cả của người lính năm xưa.

“Tây đi Tây, mọi người ra đi không lời hứa.”

chốt lại bài thơ, quang dung dành tặng những vần thơ ngọt ngào, chậm rãi cho bộ đội miền tây và đồng bào nơi cực Tây Tổ quốc. vào chiến trường không ai biết trước được tương lai, không hẹn ngày gặp lại, để lại nỗi nhớ khôn nguôi cho người ở lại, kẻ đi. phương Tây tiến bộ là tuổi trẻ, bạn đồng hành và lý tưởng của tuổi trẻ theo ánh sáng của đảng.

Bằng kinh nghiệm, sự hiểu biết chân chính và ngòi bút hiện thực lãng mạn xuất sắc, Quang Dũng đã tái hiện trước mắt người đọc không khí hào hùng, oanh liệt của thời chống Mỹ. Bài thơ đã giúp Quang Dũng trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của nghệ thuật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975.

Cảm nhận bài thơ miền Tây – văn mẫu 6

Quang Dũng là một nhà thơ đa tài trên nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ ca, hội họa, viết văn. những tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn hào hoa, lãng mạn và trữ tình. tây tiến là tác phẩm tiêu biểu thể hiện phong cách thơ với hình tượng người lính hào hoa nhưng lãng tử.

Tây tiến ‘được sáng tác trong thời kỳ chiến đấu ác liệt của quân dân ta năm 1948 và được in thành tuyển tập Hoa dọc chiến hào. bài thơ miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên miền Tây ca ngợi người lính với tinh thần anh dũng, bi tráng.

đầu bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên miền tây với cách gọi thân thương từ xưa đến nay:

“sông ma xa rồi, về tây ơi! nhớ núi rừng nhớ vờn sương lấp đoàn quân mỏi, hoa về trong đêm.”

Ồ thán từ được kéo dài một cách nghiêm túc với giọng đều đều thể hiện sự dịu dàng. phải chơi vơi nỗi nhớ không thể nhào nặn mà bùi ngùi bao trùm cả không gian và thời gian. hai dòng đầu của bài thơ tác giả gợi lại những gì thân thuộc trong ký ức miền Tây. một con đường gian nan, gian khổ, khó khăn đã xuất hiện. vùng núi Tây Bắc với nhiều địa danh nổi tiếng: sông ma, sai khao, mường vĩ, mường hịch, pha luồng, mai châu gợi nên cảnh núi rừng hùng vĩ đầy hoang sơ. nhà thơ ngắt quãng 3/4 thời gian, tạo sự phân định rạch ròi hai hướng lên xuống trên con đường hành quân về miền Tây. từ ghép, từ láy được dùng để miêu tả khó khăn.

“leo lên một khúc cua dốc, hít mây, ngửi bầu trời.”

Khi chinh phục, dường như con người đang lơ lửng giữa biển mây. độ cao của bầu trời chỉ trong phạm vi của vũ khí. sự rộng rãi thoáng mát của không gian ùa vào. Thơ Quang Dũng không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí của tâm hồn người lính. những người lính miền Tây không chìm khuất trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên mà vươn lên đầy thử thách.

“cao nghìn thước, sâu nghìn thước, xa xa có ngôi nhà đang mưa”.

chinh phục được đỉnh núi để rồi chúng ta khám phá độ cao “nuốt mây ngửi trời”. cồn mây chứng tỏ mây núi chồng chất trên đồi dốc, sườn núi cao nên lối đi lẫn với mây khiến cho đường hành quân càng thêm dốc và phức tạp. ngửi trời là cách nói chơi của người lính, qua đó nhà thơ cho thấy tâm hồn trẻ thơ không ngại gian khổ của người lính, trời mưa đường xa, đây là một liên tưởng thú vị. Giữa núi rừng, một ngôi nhà ấm áp hiện ra khiến lòng người xao xuyến.

Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy nổi bật lên sự hy sinh anh dũng của người lính miền Tây:

“bạn nhờn bước không bước nữa, ngã mũ quên đời! Chiều thác ầm ầm hùng vĩ, trong đêm hổ rình mồi lấn lướt con người.”

cuộc tiến quân đầy thử thách của núi rừng khiến chúng tôi nghe rõ tiếng thở dồn dập của người lính ở từng chặng đường hành quân. họ là những gương mặt dãi dầu sương gió để rồi cuối cùng “gục súng quên đời”. từ “khô dầu” diễn tả hết những khó khăn vất vả của những người lính trên đường ra trận. người lính không thể tiếp tục bước đi cùng những người bạn đồng hành của mình. Ngoài ra, Quang Bravery còn miêu tả sự dũng cảm, anh dũng của những người lính không sợ quân thù.

“nhớ hương cơm lam, mai thơm hương nếp nương mùa”.

cuối hành trình gian khổ là hình ảnh cuộc sống thanh bình, êm ả.

Khói lam và hương thơm quyến rũ của gạo nếp gợi lên một cuộc sống bình yên và đáng mơ ước. Mai cúc bỗng trở nên quen thuộc nhờ câu thơ của quang dung và cách diễn đạt đầy hoài niệm: nhớ ơi tay đã …

phương Tây tiến lên đầy thơ mộng và trữ tình dưới ngòi bút của Quang Dũng:

“Doanh trại bừng sáng với đuốc và hoa, lo và này, bạn chưa bao giờ mặc áo sơ mi của mình. tiếng kèn xúc động cô gái thẹn thùng, nhạc về chàng chăn cừu bồi đắp hồn thơ. ”

Buổi liên hoan văn nghệ diễn ra vui vẻ với ánh sáng rực rỡ từ lễ hội đuốc hoa sáng rực lên ánh mắt bàng hoàng của người lính. giai điệu bí ẩn, nồng nàn và ngọt ngào mê hoặc lòng người. vẻ đẹp của một cô gái mềm mại và e ấp bên cạnh tiếng kèn sôi động. Những người lính phương Tây say mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp của màn đêm với tâm hồn trẻ thơ vui tươi.

“người đi sương sáo chiều hôm ấy, anh có thấy hồn lau bến bờ? Anh còn nhớ bóng dáng trên ngọn cây duy nhất, trôi theo dòng nước và những bông hoa đung đưa?”

nhà thơ hướng cảm xúc của mình về miền Tây sông nước. dòng người dịu dàng thướt tha bên một gốc cây vừa thể hiện sự lãng mạn trong hồn thơ, vừa vẽ nên ảo giác của nỗi nhớ, sự tinh tế của cảm xúc.

“quân tây không mọc tóc, quân xanh dữ dằn”.

Đoàn quân hành quân về phía Tây xuất hiện với tư thế oai phong “đáng sợ”, nhưng sự thật là người lính bị sốt rét kinh hoàng do thiếu thốn thuốc men, vật chất, chị em phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, nguy hiểm và thiếu thốn.

“ánh mắt đắm say gửi mộng qua biên giới, mộng trong đêm, hà nội hương thơm.”

Giữa khung cảnh khắc nghiệt, người lính vẫn mang tâm hồn lãng mạn của mình mơ thấy hình ảnh đẹp của người con gái Hà Nội. giấc mơ về một hà nội yên bình vô cùng lãng mạn và cũng là động lực tinh thần cho đoàn quân miền tây.

khát vọng chiến thắng, sự hy sinh anh dũng của người lính miền Tây được thể hiện qua câu thơ:

“lác đác mép mồ đất xa, chiến trường ra đi không tiếc. áo bào thay mình trở về đất, sông gầm khúc độc hành.”

Nguyện vọng của anh ấy là rời đi và hy sinh bản thân. đó cũng là lí tưởng cao đẹp trong con đường gian khổ của người lính. “áo bào chỉ đất cho anh” nói lên sự hy sinh cao cả của người lính. dòng sông mã được kết hợp với tiếng gầm tượng trưng cho một cái chết mang tính sử thi.

“tây tiến, người đi không hẹn, đường sâu. Người đi tây xuân, hồn không về”.

bài thơ kết thúc đầy xúc động. con đường tiến về miền tây, con đường chiến thắng thật là gian nan, sâu, xa và không có lời hứa hẹn nào dứt khoát. nhưng với tinh thần, ý chí chiến đấu của người lính chắc chắn sẽ đè bẹp quân thù.

Bài thơ sử dụng phong cách lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực khốc liệt của chiến trường, từ đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và ý chí cao đẹp của người lính Tây Tiến.

Tây tiến sẽ mãi là bài thơ trân trọng những ký ức đẹp đẽ của dân tộc, của một thời đấu tranh để có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày nay.

cảm nghĩ về thơ miền tây – văn mẫu 7

Quang dũng là một nghệ sĩ tài năng, đặc biệt là trong văn thơ. thơ ông thể hiện rất tinh tế một tâm hồn nhạy cảm, giàu chất lãng mạn, khả năng cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người ấm áp. “Tây Tiến” là một trong những bài thơ của Quang Dũng được sáng tác vào cuối năm 1948, khi ông chia tay đơn vị cũ là Đoàn quân miền Tây. ông đã tài tình thể hiện cảm hứng lãng mạn muôn thuở và tinh thần bi tráng của nhà thơ về những người lính hành quân lên miền Tây gian khổ mà hào hùng.

Bài thơ mở đầu bằng hai dòng đầy sức gợi:

<3

đây giống như một tiếng gọi hoài niệm, tác giả xướng tên dòng sông đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. nhớ những đêm ngoài núi Tây hùng vĩ. con đường đầy nguy hiểm và khó khăn. dốc lên dốc xuống dốc, trên núi cao hoang vu, vắng vẻ. Trước cuộc hành quân khắc nghiệt, nhiều người miền Tây bỏ mạng nơi phương xa, nhưng khi người lính hy sinh vẫn cầm súng sẵn sàng chiến đấu. Trong rừng sâu phải đối mặt với những con thú hung dữ. nhưng những người lính phương Tây không lùi bước, vẫn mòn mỏi và coi thường thử thách.

Anh nhớ những đêm tiệc tùng, mùi gạo nếp nương của đồng bào vùng cao, những bữa cơm nóng hổi của tình người, tình đồng đội, những sinh hoạt thường ngày, tất cả đều trở thành những kỉ niệm êm đềm. Buổi tối vui vẻ quây quần bên âm nhạc, đồng đội hò hét bên nhau, sống thoải mái và hạnh phúc.

bằng cách viết về miền tây, tác giả đang viết lại hồi ký của chính mình, những hoài niệm chân thành và trái tim đập rộn ràng về đồng đội của mình:

… đoàn quân không mọc tóc Tây, …….. áo dài thay áo trở về, ngựa sông gầm thét hành quân lẻ loi. ”

đi bộ qua những ngọn núi dốc, chúng tôi tìm thấy hình ảnh của những người lính. câu thơ mở đầu cho ta thấy một chút ngang tàng, một chút nghịch võ nhưng thực ra lại rất phũ phàng. Tại sao lính tây không mọc tóc, vì phải trải qua cơn sốt rét, sống đi chết lại, tóc không mọc được nữa? rồi lại ăn món hầm trong hố, nơi không có nước sạch, tóc nó cũng rụng hết. tiếp xúc với nhiều hóa chất độc hại, tóc không thể mọc được nữa. nhìn làn da xanh xao của chúng vì thiếu ăn, vì bệnh tật, chúng biến thành những mảng xanh hùng vĩ nhưng chúng không làm chúng ta sợ hãi mà xót xa. nhưng không vì thế mà mất đi vẻ uy nghiêm, họ vẫn chỉ một lòng một dạ, rồi họ gửi gắm ước mơ sang bên kia biên giới, gửi gắm nỗi lòng của mình cho người dân thành thị, cho người con gái mình yêu, cho cha mẹ và bạn bè của họ. Dù gặp khó khăn trên chiến trường, khó khăn nhưng những người lính rất yêu đời, họ mang khát vọng về một cuộc sống đầy niềm vui, hạnh phúc và bình yên bên người mình yêu.

Người phương Tây ra đi một lòng, không tiếc tuổi trẻ, vì họ quan niệm chiến đấu để tìm bình yên. họ luôn hướng về những người tốt bụng đang chờ đợi mình, luôn hướng tới tình yêu đẹp, hướng tới cuộc sống ấm no và tự do.

nhiều người hy sinh, không một mảnh chiếu để chôn thân, một chiếc áo mỏng thay cho chiếc chiếu, họ đã được chôn cất một cách tội nghiệp, nhưng sâu thẳm trong trái tim của người ở lại, họ vẫn sống. việc sử dụng “áo dài” làm cho bài thơ cũ hơn. anh đã ra đi mãi mãi, nhưng anh đã ra đi vì lý do sống của mình, một cái chết rất êm ái “trở lại dương gian”. trái đất như có mẹ, nhẹ nhàng ôm anh vào lòng, dù anh có chết ở nơi xa, đất mẹ vẫn ôm chặt lấy anh. người lính hy sinh, đất nước ôm anh, sông núi hát để tiễn biệt anh. chỉ có những dòng sông và vùng đất chứng kiến ​​cái chết của anh. hình bóng của nó đã hòa với sông núi, với quê hương.

bài thơ kết thúc nhưng giai điệu vẫn âm vang trong tâm hồn ta. bài thơ rất hay và ý nghĩa, cho chúng ta hiểu thêm nhiều điều về những vất vả, khó khăn, vất vả của các anh chị mới vươn lên có cuộc sống độc lập như bây giờ. Tuổi trẻ ngày nay phải học hỏi thế hệ đi trước để bảo vệ đất nước.

cảm nhận về thẻ – hiển thị 8

Quang dung: Một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, viết luận, vẽ. những tác phẩm của anh luôn để lại cho người đọc, người xem niềm xúc động khó tả, thể hiện tâm hồn của một con người lãng mạn, hào hoa và trữ tình. Trong số những công trình này, chúng ta không thể không kể đến Miền Tây. Bài thơ được Quang Dũng viết với những dòng hồi tưởng về nỗi nhớ người bạn đồng hành, gợi lại những hình ảnh thân thương và những kỉ niệm đầy thiết tha, sâu lắng.

bài thơ về phía Tây được sáng tác vào đầu cuộc chiến tranh ác liệt của quân và dân ta năm 1948. Bài thơ được in trong tập Hoa dọc chiến hào, miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng của Tây Bắc và ca ngợi những bài hát của những người lính với tinh thần anh dũng, bi tráng.

Mở đầu bài thơ, tác giả cho chúng ta thấy cảnh đẹp thiên nhiên miền Tây với cách gọi thân thương từ xưa đến nay:

“sông ma xa lắm, nên đi về hướng Tây! ………..

Thán từ “oh” được quang dung khéo léo đặt với giọng điệu nhẹ nhàng. “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ không thể nhào nặn mà cứ bùi ngùi bao trùm cả không gian và thời gian. hai dòng đầu bài thơ tác giả gợi lên những hình ảnh quen thuộc trong kí ức về một miền Tây. một hành trình khó khăn, gian khổ thể hiện khi đoàn quân tiến vào vùng núi rừng hoang sơ, hùng vĩ. Các địa danh nổi tiếng: sông ma, sai khao, mường vĩ, mường hịch, pha luồng, mai châu thể hiện sự bao la của Tây Bắc. nhà thơ quang dung sử dụng dấu ngắt ¾ để tạo ra sự phân định rõ ràng giữa các hướng lên và xuống trên con đường hành quân ở phía tây.

“lên khúc cua dựng đứng, mây khói, súng ngửi trời lên cao nghìn mét, xuống nhà người nghìn mét, mưa tầm tã từ xa”

Thiên nhiên Tây Bắc luôn khốc liệt và khắc nghiệt theo từng chặng đường diễu hành qua đây. nhà thơ quang dũng cũng rất tinh tế khi sử dụng các từ ghép, từ tượng hình giàu sắc thái biểu cảm, gợi lên những khó khăn khi phải vượt qua những dốc cao, núi thẳng, đèo sâu như thử thách, đe doạ thiên nhiên. phía tây bắc. Chỉ một chút sơ suất cũng khiến người ta phải trả giá bằng mạng sống của mình. đó là thực tế của cuộc kháng chiến và chiến tranh vô nghĩa.

“Anh bạn béo ú dừng bước, ngã súng, quên đời! chiều thác hùng vĩ gầm thét đêm cọp giễu nhại lòng người ”

Trong cuộc hành quân ấy, có những lúc mỏi mệt, bước chùn bước, giây phút hiếm hoi để những người lính được nghỉ ngơi sau bao khó khăn, gian khổ nhưng cũng có thể là khoảnh khắc tạm bợ, chia lìa những người bạn đồng hành để trở về bụi. tác giả không dùng từ “quên đời” mà dùng từ “quên đời” gợi lên khí phách hiên ngang, dũng cảm của kẻ sĩ. nhà thơ đã dùng phép đánh giá thấp để tránh mất mát, đau thương. thay vào đó là khí chất của một tâm hồn lạc quan, yêu đời, một tinh thần kiên cường chiến đấu vì quê hương đất nước. luôn có những nguy hiểm rình rập, đó là tiếng thác ầm ầm, tiếng chân cọp.

<3

“Nhớ nhé, mùa mai chúng ta đi hút ô mai thơm như xôi nếp nương”

</

“Doanh trại bừng sáng đuốc và hoa, tôi luôn mặc hết áo, nghe nhạc về người chăn cừu xây nên hồn thơ mới thấy sợ”

Ánh sáng của ngọn đuốc soi sáng doanh trại, tăng cường tình đoàn kết quân dân. lưu giữ không khí căng thẳng của cuộc kháng chiến, hình ảnh những người lính tiếp tục yêu đời, lạc quan, hết mình với đồng bào Tây Bắc trong ngày hội.

“Những ai đi chơi gò má vào buổi chiều sương mù ấy, thấy tâm hồn đang dọn dẹp bờ bến, họ nhớ bóng dáng trên gò bồng bềnh theo dòng nước và những bông hoa đung đưa”

Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên với ánh mặt trời lặn, những ngọn lau sậy đung đưa trong gió và bóng dáng con người cũng trở nên nhỏ bé hơn khi đứng giữa đại ngàn, gợi chút buồn man mác, cô đơn và hơi rung rinh. phản ánh.

sau những ca từ lãng mạn là giai điệu buồn bã và tàn khốc của cuộc chiến phi lý

“Tây quân không mọc tóc …… sông ngựa gầm thét hành quân lẻ loi”

đội quân của phương tây là những người trẻ đến từ thành phố, họ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách. đó là bản chất nguy hiểm, bệnh tật hoành hành khiến chúng gầy còm, xanh xao, lông không mọc được. và khi phải chứng kiến ​​sự hy sinh của đồng đội, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh “áo bào đưa anh về trần gian”. Không mất mát, không gục ngã, người lính ấy đã trở về quê hương sau bao ngày tháng chiến đấu anh dũng. bài thơ vẫn phản ánh niềm tin của đảng vào cách mạng. hình ảnh dòng sông ma ầm ầm như tấu lên khúc ca dài tiễn biệt người chiến sĩ. đó là tinh thần chiến đấu anh dũng và cao cả của người lính năm xưa.

“Tây đi Tây, mọi người ra đi không lời hứa.”

chốt lại bài thơ, quang dung dành tặng những vần thơ chậm rãi và vô cùng ngọt ngào cho đoàn quân tây tiến cùng đồng bào tây bắc. đã vào chiến trường thì không ai hứa hẹn điều gì, không đoán trước được tương lai, chỉ để lại nỗi nhớ da diết cho người ở lại. phương Tây tiến bộ là tuổi trẻ, bạn đồng hành và lý tưởng của tuổi trẻ theo ánh sáng của đảng.

Đoạn thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực khốc liệt của chiến trường, từ đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và ý chí cao đẹp của người lính Tây tiến. Bài thơ đã giúp Quang Dũng trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của nghệ thuật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975.

XEM THÊM:  Soạn văn lớp 7 bài thêm trạng ngữ cho câu

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Cam nhan ve bai tho tay tien cua quang dung. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *