Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
751 lượt xem

Top 4 bài cảm nhận về bài thơ Thương vợ sâu sắc nhất – HoaTieu.vn

Bạn đang quan tâm đến Top 4 bài cảm nhận về bài thơ Thương vợ sâu sắc nhất – HoaTieu.vn phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Top 4 bài cảm nhận về bài thơ Thương vợ sâu sắc nhất – HoaTieu.vn

cảm nghĩ về bài thơ “thương vợ” là một trong những dạng câu hỏi thường gặp khi làm bài thi môn ngữ văn lớp 11. Trong bài viết này hoatieu xin chia sẻ tổng hợp cảm nhận về bài thơ “thương vợ”. vợ của bạn ”cùng với một bài luận. thể hiện cảm nhận về bài thơ tình hay và chi tiết nhất. theo dõi chúng tôi.

  • 8 bài phân tích hay nhất về tình yêu của người vợ bon chen
  • 4 bài phân tích hay nhất về hình tượng người phụ nữ

1. lược đồ cảm nhận bài thơ Thương vợ

i. mở đầu

– Đôi nét về tác giả tran te xuong và bài thơ thương vợ: đây là một trong những bài thơ hay và xúc động nhất của bạn tu bon viết về bà. bạn

ii. nội dung bài đăng

1. hai câu chủ đề

– Hoàn cảnh của bà: gánh vác gia đình, quanh năm bơi lội “sông ma bà”

+ thời gian “cả năm”: làm việc liên tục, không có ngoại lệ, năm này qua năm khác

+ Vị trí “sông mama”: địa hình nhô ra lòng sông không ổn định.

⇒ tình hình kinh doanh và công việc khó khăn, thăng trầm, bấp bênh, không ổn định

– lý do:

+ “tải lên”: chăm sóc hoàn toàn

<3

⇒ Một mình nuôi con là chuyện bình thường, nhưng phụ nữ cũng phải chăm sóc chồng mình ⇒ tình huống trái khoáy

+ Sử dụng cách dùng số độc đáo “một chồng” bằng “năm con”, anh thừa nhận mình cũng là một đứa trẻ đặc biệt. kết hợp với mẫu 4/3 để thể hiện nỗi vất vả của người vợ.

⇒ bà. Bạn là người sống có trách nhiệm và tình cảm với chồng con.

2. hai câu thực

– Lùi thân cò lặn lội: câu ca dao “con cò lặn lội bờ sông” có ý nghĩa nhưng sáng tạo hơn nhiều (cách lội ngược con cò để không lặn mất tăm. đầu hoặc thay con cò bằng thân con cò):

p>

+ “bơi”: khó khăn, nỗ lực, khó khăn, lo lắng

+ hình ảnh “thân cò”: gợi lên nỗi vất vả, cô đơn khi làm ăn ⇒ thể hiện nỗi đau thân phận, tướng số

+ “in vắng”: thời gian, không gian thật đáng sợ, đầy lo lắng và nguy hiểm

⇒ Những vất vả của bà càng được nhấn mạnh qua nghệ thuật ẩn dụ

– “wow … ship đầy”: gợi lên những cảnh chen lấn, xô đẩy và chiến đấu ẩn chứa những bất trắc

+ tàu đông: chen lấn, xô đẩy trong tình huống đông người cũng đầy nguy hiểm và lo lắng

– nghệ thuật đảo ngữ, tương phản, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ những hình ảnh bình dân nhấn mạnh sự vất vả của người bà.

⇒ cảnh đời thực của bà. bạn: không gian và thời gian choáng ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện tấm lòng nhân ái mãnh liệt của bà. bạn.

3. hai bài luận

– “một duyên hai nợ”: ý thức được rằng lấy chồng là duyên nên “au phải mệnh”, bon chen cũng ý thức được mình là “món nợ” mà người phụ nữ mình phải gánh .

– “ngày mưa”: chỉ cần chăm chỉ

– “five”, “ten”: số lượng nhiều tính từ

– “dám lo việc của dân”: chị Đức đã hy sinh thầm lặng cao cả cho chồng con, ở họ hội tụ rất nhiều đức tính cần cù, dũng cảm và nhẫn nại.

⇒ câu thơ vận dụng sáng tạo những thành ngữ, cách dùng từ tầm thường thể hiện đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng con của bà

4. hai câu cuối cùng

– không hài lòng với thực tế, bạn đã chửi rủa vợ mình:

+ “những người cha bạc mệnh”: tố cáo hiện thực xã hội quá bất công với người phụ nữ, đày đọa họ, để phụ nữ phải chịu quá nhiều vất vả

– nhút nhát:

+ “lấy phải chồng hờ hững”: việc bạn bon chen ý thức về sự thờ ơ của anh ấy cũng là biểu hiện của thói quen sống

– thừa nhận mình có khuyết điểm, ở với vợ nên vợ nuôi con, phụ chồng.

→ Từ tình yêu thương vợ đến thái độ đối với xã hội, bạn bon chen cũng nguyền rủa lối sống bạc tình bạc nghĩa.

iii. kết thúc

– khẳng định lại những đặc điểm tiêu biểu của nghệ thuật tạo nên thành công cho nội dung

– liên hệ, bày tỏ quan điểm và suy nghĩ của bạn về phụ nữ trong xã hội ngày nay

2. cảm nghĩ về bài thơ ngắn thương vợ

Khi nói đến những người châm biếm thời Trung cổ, điều đầu tiên mọi người nghĩ đến có lẽ là những điều cơ bản. quả thật, thơ ông có những nét trào phúng đặc biệt nhất, nó không dịu dàng mà sâu lắng như thơ nguyễn khuyển, nhưng chua chát, ông cười mỉa mai những điều đời thường. Cũng như Nguyễn Khuyến, Trà Tế Xương cũng có bài thơ tự cười mình, không chỉ cười xã hội mà còn cười chính mình. và đó là lý do tại sao nguyễn khuyển có bài tỏ tình, hy sinh mái nhà cũng có bài hát tình vợ. nhan đề bài thơ đã gợi lên tình cảm của nhà thơ đối với người vợ của mình, nhưng đồng thời nội dung bài thơ cũng thể hiện một tiếng cười về sự bất tài vô dụng của vị linh mục xương.

Hai dòng đầu của bài thơ nói lên nỗi vất vả của người vợ thân yêu. đó là sự chăm chỉ được thể hiện và mục đích của công việc đó:

“Tôi buôn bán quanh năm trên sông mẹ,

nuôi năm đứa con với một người chồng ”

Hình ảnh người vợ hy sinh xương máu hiện lên như bất kỳ người phụ nữ, người mẹ nào trong hình hài của một người phụ nữ ngày xưa với sự nghiệp kinh doanh. do đó, rất nhiều hình ảnh giản dị hay đẹp của phụ nữ thời xưa xuất hiện. Đó là hình ảnh người phụ nữ áo nâu gánh hàng trên đôi vai nhỏ đi chợ rồi từ chợ trở về nhà. người vợ của nhà thơ xuất hiện với hình ảnh tương tự, và điều đặc biệt là công việc này được thực hiện đều đặn qua hai chữ “quanh năm”. người phụ nữ đó làm việc chăm chỉ cả năm cùng một công việc năm này qua năm khác. Tuy nhiên, nơi đây không phải trên vùng đất bằng phẳng, mà là dòng sông mẹ, gợi lên sự gian khổ, hiểm nguy. như vậy, vợ của nhà thơ là một người không chỉ chiến đấu mà còn phải đối mặt với hiểm nguy. Nhưng tại sao bà Tú lại làm điều này, không chỉ để nuôi sống bản thân mà còn để chu cấp cho “năm con với một chồng”. ở đây nhà thơ tự cười một mình. số bằng con cái gánh vợ, không những thế, việc “quan tâm” còn thể hiện thêm gánh nặng của người vợ khác. giờ đây gánh nặng đó không còn đơn giản là tài sản của bạn nữa. nơi có năm người con với một người chồng.

Cho đến hai câu thơ tiếp theo, người chồng vẫn tiếp tục bày tỏ tình yêu của mình với vợ và những vất vả mà bà phải trải qua hàng ngày:

“bơi giữa hư không,

đến sớm trên mặt nước vào một ngày đông đúc. ”

Người chồng vốn được coi là trụ cột của gia đình không chỉ về mặt tinh thần mà cả tài chính, nay lại là gánh nặng cho người vợ. The Mrs. Bạn phải vượt qua những nguy hiểm khi đi bộ một mình qua những con đường vắng vẻ. hình ảnh con cò trong bài ca dao xưa tượng trưng cho người phụ nữ nghèo khổ đã được nhà thơ sử dụng trong bài thơ của mình. không biết bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm chực chờ và ăn tươi nuốt sống vợ. vượt qua những nguy hiểm và khó khăn, thưa cô. bạn vẫn đi chợ sông mẹt trên những con đò chật hẹp với tiếng kẻ mua, người bán. họ đang mặc cả từng xu để lo cho gia đình.

và sau đó nhà thơ nói lên số phận của mình với người vợ của mình và như thay mặt người vợ của mình để thở dài ngao ngán trước người chồng cưu mang như đứa con thứ sáu trong gia đình:

“một số phận, hai món nợ, một số phận,

năm nắng mười mưa, dám quản công. “

Người xưa quan niệm có duyên và có nợ, nếu hai người lấy nhau thì có duyên nợ từ kiếp trước, còn yêu nhau mà không lấy được nhau là duyên nhưng không nợ. . tại đây, ông đã có duyên với nhà thơ nên phải chịu biết bao gian khổ. Một chữ duyên, hai chữ nợ, hãy cứ để họ bên nhau. nhà thơ đã thể hiện nỗi vất vả của người vợ qua “năm nắng mười mưa”. câu thơ ấy dường như gợi lên nỗi vất vả mà trong các bài hát dân gian cũng ví von là “một nắng, hai sương”. bạn có thể thấy rằng chính lời kể cụ thể đó đã làm nổi bật lên nỗi vất vả của người bà. tuy nhiên, bà trông thậm chí còn xinh đẹp hơn khi bà không phải đối phó với gánh nặng đó. Bà yêu chồng, thương con, hy sinh hết mình cho chồng con mà không một lời than thở.

nhưng chính những lời than thân trách phận và những hy sinh đã khiến nhà thơ không thể yên:

“Cha mẹ sống cuộc đời bạc bẽo:

có chồng thì vô tâm không kém! ”

Tôi yêu người vợ trần truồng của mình và tôi đang cười nhạo chính mình và hai câu thơ cuối cùng này là những lời nguyền rủa mạnh mẽ nhất và sâu sắc nhất. tác giả không giúp được gì cho người vợ chân yếu tay mềm hơn mình rất nhiều, nghĩ rằng có chồng cũng không tốt. Phải chăng nhà thơ đang tự nguyền rủa và tự dằn vặt mình vì đã không giúp được vợ?

ở đây ta thấy nhà thơ cởi trần thể hiện tình cảm sâu nặng với vợ. bài thơ như một bức thư, một dòng nhật ký mà nhà thơ muốn gửi đến người vợ của mình. Đặc biệt, bản thân anh cũng nhận thức rõ sự vô dụng của mình và xấu hổ khi tự nguyền rủa bản thân. Tóm lại, dù thế nào đi nữa, thì ở đây chúng ta cũng sẽ biết được tâm trạng và tình cảm của vị linh mục xương dành cho vợ mình.

3. cảm nghĩ về bài thơ thương vợ – văn mẫu 1

Trong lịch sử văn học nước ta, không ít bài thơ viết về những người vợ. do đó, những bài thơ hay được viết với sự chân thực, sâu lắng, giàu cảm xúc về đề tài này lại càng hiếm. do đó, có thể coi mái ngố là trường hợp đặc biệt. trong thơ của mình, anh ấy nhắc đến vợ nhiều lần.

khi anh ta cầm một viên đá có một viên vàng cho mặt vợ. Mandarin hỏi mức lương của vợ mình. mang lại lịch sử của một trăm năm trở lại bàn. khi thì vuốt râu, nịnh vợ con. đôi khi anh ấy viết trên giấy và dán nó vào bưu điện. hỏi mẹ bạn xem bà ấy có bị câm hay không. hăng hái hơn, ngông nghênh hơn, nhà văn viết bài hy sinh để cứu sống vợ mình. nhưng phải nói đỉnh cao trong mảng thơ này của anh là bài thơ Thương vợ:

Tôi buôn bán quanh năm ở Río Madre

nuôi năm người con với một người chồng

chìm sâu vào sự vắng mặt

đầu tiên trên mặt nước vào mùa đông

một số phận, hai món nợ, số phận

năm nắng mười mưa mới dám quản công

cha mẹ sống cuộc đời bạc mệnh

Dù bạn có chồng hay không cũng không có gì khác biệt!

Đây là một bài thơ trữ tình trào phúng cảm động mang đậm màu sắc dân gian. để bày tỏ tình yêu, lòng biết ơn và sự kính trọng của mình đối với người vợ, nhà thơ đã miêu tả những khó khăn của mình, người phụ nữ đã quyết tâm nuôi con, nên chồng. qua đó, ông ca ngợi đức tính dũng cảm, đức hy sinh thầm lặng cao cả của một bậc hiền nhân.

Ở hai câu thơ đầu, anh bon chen nói về sự vất vả, nhẫn nại của người vợ một cách tự nhiên, gần gũi, hóm hỉnh, hóm hỉnh. anh vừa đặt gánh nặng chồng con lên vai vừa gián tiếp thể hiện tình cảm sâu nặng với vợ:

Tôi buôn bán quanh năm ở Río Madre

nuôi năm người con với một người chồng

hai câu là một tuyên bố về thời gian. Ở câu thơ đầu, bản thân công việc kinh doanh chưa đủ để thể hiện sự chăm chỉ, nhẫn nại, nhưng hoàn cảnh thời gian (quanh năm) và hoàn cảnh không gian (ở mé sông) đã nói lên điều đó khá rõ ràng. .

trong suốt cả năm, chỉ riêng hai tiếng đó thôi đã chứa đựng biết bao thời gian trôi đi bất tận, từ đầu năm đến cuối năm, dù mưa, gió, nắng, lúc nào cũng vậy. dù sao thì cô vẫn đang bận đàm phán. nó là một tình huống thời gian. còn tình hình không gian, và kinh doanh ở đâu? Đó là sông mẹ. Theo giáo sư Lê Trí Viễn, một vùng đất thừa của lục địa ba mặt là nước, đổ ra sông lúc nào không hay (Lê Trí Viễn – Bài giảng Văn học Đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1982). Bà Tú phải đi làm hết ngày này qua tháng khác, năm này qua năm khác, việc làm ăn của người mẹ bấp bênh không yên đó.

tại sao bạn phải làm việc chăm chỉ như vậy? câu thứ hai trả lời rõ ràng:

Một người chồng nuôi năm đứa con.

nhà thơ đã nâng người vợ của mình lên thành người trụ cột của gia đình. Toàn bộ gánh nặng mưu sinh đã đặt lên vai phụ nữ. bà làm việc vất vả cả năm trời, bất chấp nguy hiểm, khó khăn để nuôi năm người con và một người chồng, nghĩa là sáu miệng ăn mọi thứ, không kể bà. nhưng đồng thời anh ấy đã tự hạ thấp mình xuống mức của các cậu bé, hay nói đúng hơn là anh ấy đang ở cuối hàng sau năm để trở thành thứ sáu. “có chồng” thể hiện rõ là ăn bám, ăn ở với con. nhà thơ coi mình là gánh nặng cho vợ. Cách nói đó vừa hàm ý lòng biết ơn, tự hào nhưng cũng có chút tiếc nuối, ân hận xen lẫn sự mỉa mai mỉa mai.

tiếp theo là hai cụm từ tả thực, nhà thơ đã thể hiện tình yêu thương vợ của mình, miêu tả những vất vả, gian khổ nhưng cũng đầy dũng cảm của người bà:

chìm sâu vào sự vắng mặt

đầu tiên trên mặt nước vào mùa đông

mượn hình ảnh con cò cô đơn, khắc nghiệt trong ca dao xưa: con cò lặn lội bờ sông… được bàn tay nghệ sĩ tài hoa của mình anh đã trau chuốt thêm. Nếu như các bài ca dao thường dùng hình ảnh con cò để so sánh, gián tiếp với người phụ nữ, cụ thể hơn là người vợ, người mẹ lao động thì ở đây tuồng đã đồng nhất thân phận cò với thân phận của người vợ cò. nhà thơ dùng phép đảo ngữ của thân cò để nhấn mạnh sự vất vả, gian lao của người vợ. hơn nữa, cảnh nơi bến cò ở đây không phải chỉ là bến sông nào, có thể ồn ào, tấp nập hay vắng lặng, buồn bã mà được nhà thơ xác định rõ là một khoảng không. tất cả những điều chúng tôi vừa phân tích đều có ý nghĩa và đã nói lên những nỗi niềm thầm lặng của người vợ với số phận con cò.

Câu tiếp theo nói nhiều hơn về cuộc chiến kiếm sống của anh ta. Nếu bạn đi qua một ngày phà đông đúc (phà đông đúc hoặc tàu đông đúc), bạn phải chịu cảnh bị xô đẩy, xô đẩy để tìm lời nói thương lượng như bao người khác. đã là con nhà nòi thì có gì là bà mà cũng phải trau chuốt, gọt giũa. hơn ai hết nhà thơ thầm thương cảm cho cảnh ngộ và sự hi sinh thầm lặng của người vợ. chỉ vì gánh nặng cơm áo chồng con mà vội quên đi nguy hiểm, vất vả … câu ca dao này tuy không được trích dẫn trực tiếp từ bài ca dao nhưng vẫn phảng phất một nỗi niềm: “Em đi rồi. , mẹ tôi dặn tôi đi Nói này sông sâu đừng bến đò, đò đầy Đó là lời khuyên đàn bà nên giữ cho riêng mình Nhưng ở đây thôi, vì chồng con nên đành. sẵn sàng bỏ qua lời khuyên đó.

XEM THÊM:  Những bài văn hay viết về người bạn thân

chỉ với hai câu thơ với những từ ngữ gợi tả và xúc động, bon chen của bạn đã thể hiện rõ hình ảnh một người vợ làm ăn thất bát, một mình bươn chải trong nhiều hoàn cảnh không gian và môi trường khác nhau, khó khăn nhất, gian khổ nhất, đáng tiếc nhất, và khoảnh khắc xấu hổ nhất. nhiều người cũng cho rằng đây là hai dòng hay nhất của bài thơ. Theo giáo sư nguyễn đăng manh, với hai câu thơ này, tu bon không chỉ tóm tắt những vất vả, khó nhọc, vất vả của bà. tu mà còn gợi lên cảnh buôn bán ở chợ ven sông của tỉnh Nam Định một thời.

Nếu bốn câu thơ đầu đã phân tích hoàn toàn là những gì người đàn ông nói về vợ mình thì bốn câu tiếp theo lại thể hiện tiếng than thở và nhận trách nhiệm về mình. đúng hơn, ở đây nhà thơ không còn tả xiết nữa, ông đã đóng vai nhân vật viết lời than thở cho vợ một cách chủ quan hơn:

một số phận, hai món nợ, số phận

năm nắng mười mưa mới dám quản công

Thông thường, ngôn ngữ Phật giáo có một ý nghĩa rất rộng. trong quan hệ vợ chồng, nhân duyên là căn nguyên nên vợ chồng nên duyên hay vợ chồng. Từ ý nghĩa vừa nói, dân gian ta đã đúc kết thành đôi khái niệm trái ngược nhau: duyên và nợ (một duyên, hai nợ, ba tình). ..). do đó, trong dân gian “một duyên hai nợ” là chỉ số phận của một đời người phụ nữ. nhưng ở đây đối ngẫu với câu dưới đây. hai duyên nợ trong câu ca dao của bạn có một nghĩa khác: một và hai không còn là một tài khoản nữa mà là một tài khoản, một nhân duyên: chỉ có một, hai nhân duyên thì ít mà nợ thì nhiều. . cũng tốt khi cô ấy có thể kết hôn với anh ấy suy nghĩ cẩn thận. cũng đã chi tiêu nhiều hơn một chút so với những người bình thường. đó là tất cả. nhưng anh ấy là chồng, nhưng anh ấy là một kẻ tồi tệ, khoán trắng. tiền giao phó cho con gái của mình kiếm được; đã xin quan để kiếm tiền lương cho vợ … đúng là duyên nợ đời người. duyên thì ít mà nợ thì nhiều.

Sự vất vả, mệt nhọc của thân cò ở câu thơ trước đã được nâng lên thành nỗi nhọc nhằn, mệt nhọc của một số phận là số phận của cả một đời người nên thật nặng nề, chua xót. Nếu đó là số phận, bạn phải lo lắng. au có nghĩa là quả cam, nhưng nó cũng có màu cam. một câu thơ mà bạn bị lên án hai lần. không nhẫn nại được mười năm nắng mưa mới dám xử lý công. Dù có nắng mưa (năm nắng mười mưa), chị vẫn không quản ngại khó khăn, không quản ngại khó khăn. dám xử lý quần chúng không chỉ có ý nghĩa như vừa nói, mà còn thể hiện sự khiêm tốn. Nổi lên trong hai câu thơ này là đức hi sinh thầm lặng, nhẫn nại của người khôn. đây cũng là đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Tôi mới thấy tình yêu vợ của nhà thơ thật cảm động và sâu sắc biết bao.

cuối cùng, hai dòng cuối của bài thơ là một lời nguyền:

cha mẹ sống cuộc đời bạc mệnh

Dù bạn có chồng hay không cũng không có gì khác biệt!

Bỏ ngoài tai những lời nói của người bà, nhà thơ đã nguyền rủa sự kiêu ngạo và vô tích sự của người chồng, nghĩa khí của mình. tất cả nỗi đau của vợ cùng với sự bất lực, giận bản thân, giận đời đều dồn vào lời nguyền dày vò và thương tâm ấy. nhưng thực sự anh ấy có bạc bẽo và thờ ơ với vợ như vậy không? điều này thật khó trả lời.

nhưng sau tất cả, bài thơ này đã phần nào trả lời câu hỏi đó. hơn nữa, coi mình là kẻ trống cũng như kẻ thừa, kẻ hờ hững sống mà chết cũng đành, tuy là lời nguyền cho bản thân nhưng cũng là sự ca ngợi và ghi nhận công lao của người vợ. mặc dù đó là một từ bẩn thỉu, nhưng hai dòng cuối cùng vẫn mang đầy màu sắc vui nhộn. lời tự trách mình của nhà thơ cũng là một cách bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc đối với người vợ của mình. Anh ấy nói anh ấy sống bằng tiền, nhưng trái tim anh ấy không phải là tiền, anh ấy không thờ ơ với nó chút nào.

thương vợ thật là một bài thơ hay cho chúng ta hình dung về tình yêu thương chân thành và sâu sắc vô bờ bến của nhà thơ đối với người vợ tần tảo, chịu thương, chịu khó, hi sinh, chống chọi trong thầm lặng vì gánh nặng của chồng con. các con trai. Bằng một thể thơ trữ tình giàu hình ảnh, âm nhạc, ngôn ngữ tự nhiên và đậm chất dân gian, nhà thơ không chỉ thể hiện tình cảm ấy mà còn tạo dựng nên bức chân dung truyền thống bất hủ về người phụ nữ Việt Nam với tất cả những đức tính đáng quý là dũng cảm, cần cù, nhẫn nại, hy sinh.

4. cảm nghĩ về bài thơ thương vợ – văn mẫu 2

Nói đến thơ trào phúng, không ai có thể quên ông, một giọng thơ hiếm có, mạnh mẽ, hàm súc, sắc sảo và phê phán. Ian Vien từng viết: “Xương cười như mảnh thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Bôn không chỉ là một nhà thơ hiện thực như Nguyễn Tuân nói, chủ nghĩa hiện thực chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là trữ tình. trân trọng và nhớ đến tiếng thơ của cụ nhiều hơn, có lẽ bởi người ta được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, trân trọng những nhân cách mang nỗi đau khôn nguôi. buồn vì không có tiền cứu giúp một người ăn xin, một người đồng hương cùng cảnh ngộ, anh ta đã thề độc: “cha nào con nấy ăn năn”. mang nỗi hổ thẹn làm nô lệ cho người trí thức, ông chua chát nói: “có tài thì bắc! ngoảnh mặt nhìn nước” …

Anh ấy ở ngoài xã hội, nhưng trong gia đình anh ấy luôn bị dằn vặt bởi thói vô trách nhiệm, “thương vợ”, có một người chồng phải làm trụ cột gia đình, anh ấy tự mắng mình vì vai “vô tâm”. “.

Chắc hẳn những người cao tuổi hầu hết đều yêu thương vợ con, nhưng do một quan niệm nào đó, họ thường ngại bày tỏ tình cảm của chồng, đặc biệt là bày tỏ tình cảm với vợ trực tiếp qua giấy trắng mực, ngoại trừ văn học. Ở thế kỷ 20, có hai nhà thơ là Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã không ngần ngại bày tỏ tình yêu của một người chồng đối với người vợ của mình khi còn sống. nhưng về chủ đề này, tình yêu của người phụ nữ bon chen là bài thơ nổi tiếng nhất.

Hình ảnh nổi bật trong bài thơ là hình ảnh của hai con người: người vợ siêng năng, giàu đức hi sinh và người chồng rất hiểu, chia sẻ, yêu thương và kính trọng vợ.

Hai dòng đầu tiên trình bày nghề nghiệp của Mrs. bạn cũng như những trách nhiệm lớn lao của anh ấy:

Tôi buôn bán quanh năm ở Río Madre,

Một người chồng nuôi năm đứa con.

buôn bán là một nghề giống như bất kỳ nghề nào khác, mọi người hành nghề đó để kiếm sống. người xưa cũng coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu. nhưng công việc kinh doanh của bạn không như vậy. không có cửa hàng, cửa hiệu hoặc nhà hàng, nhưng “kinh doanh” của ông là ở “sông mama”. hai chữ “sông ma” gợi lên hình ảnh một mảnh đất nhô ra bờ sông, lẽ nào nước xuống, nước lên thì mất, đò qua có thành chợ không, mai mốt. hoặc muộn. . có hai ba gánh hàng, là nơi buôn thúng bán mẹt, vốn ít mà kiếm lời thì chắc chắn tiền cho thuê chẳng đáng bao nhiêu. Tuy nhiên, công việc vất vả đó, chị không chỉ chịu được một, hai buổi mà phải đeo đuổi “cả năm trời”. từ “cả năm” gợi ý một khoảng thời gian dài, 12 tháng, từ tháng Giêng đến tháng Mười Hai, cũng có nghĩa là năm này qua năm khác. sự vất vả đó dường như sẽ theo cô đến suốt cuộc đời, bởi vì việc kiếm một công việc thú vị khác hay đưa “công việc kinh doanh” của cô lên một tầm cao hơn cũng không giúp cô tốt hơn chút nào.

Công việc vất vả, thu nhập ít ỏi nhưng bạn phải lo cho một gia đình có sáu miệng ăn. hơn nữa, không phải sáu con mà là “năm con chung một chồng”, “năm con” là số nhiều, nhưng thế nào cũng có thể chịu được, lo cho chúng bạn chỉ cần một đĩa cơm, manh áo. nhưng người chồng, là “một”, nhưng chi bằng năm người con. đôi khi thậm chí nhiều hơn nữa! Mỗi lần đi thi, tiền lại ném vào lưng vợ, chưa kể lúc rượu chè, lúc cao hứng đi hát, tiền vợ cũng… bao nhiêu chi tiêu bấy nhiêu nhưng khi nào cô ấy cũng quan tâm. “đầy đủ”. Thật sự là người tháo vát, chiều chuộng chồng thật tốt!

<3

nuốt chửng ở phía xa,

trên mặt nước sớm vào mùa đông.

câu thơ gợi lên hình ảnh con cò trong ca dao quen thuộc:

… con cò bơi trên sông

gánh cơm khiến chồng khóc

… con cò đi ăn đêm

đặt nó trên một cành cây mềm và quay cổ về phía ao

Hình ảnh con chim nhân hậu, chăm chỉ lặng lẽ kiếm ăn trên ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng của những người phụ nữ cả đời chăm chỉ vì chồng con. nghĩ về bản thân.

trong thơ con cò không phải là con cò mà là thân cò. Nó không còn là một con vật cụ thể, mà là một số phận, một định mệnh, một cái gì đó thật mong manh, nhỏ bé trước bao vũ điệu của cuộc đời (thương con rùa / thân em như cá tráp / thân em như giọt nước) mưa…). quá yếu, quá bị động mà luôn lăn xả, chiến đấu. khi khoảng cách xa thì bơi được, khi đầy thuyền thì gặp cảnh khó khăn. hai tính từ đối nhau ở đầu hai dòng vừa có ý nghĩa tượng hình, vừa có ý nghĩa biểu cảm. có một người đàn bà gầy như thân cò, gánh trên vai một mình đi trên con đường lầy lội. hàng đã cất, xin tránh mưa gió làm hao hụt tiền bạc nên ra ngoài. và cũng chính cái thân cò bay ấy phải vỗ lông mở cánh, tranh cãi mua bán tranh, loay hoay tầng dưới mới tới được thuyền, chật vật ở tầng trên mới kịp ra chợ. ở những nơi đông người, bạn đổ mồ hôi, khi trống rỗng, bạn rơi nước mắt.

nhưng trong mắt bạn cô ấy là một quý cô, và với cô ấy không một lời phàn nàn nào, mà là một thái độ kiên nhẫn vốn có của phụ nữ phương Đông.

một duyên hai nợ,

Năm nắng mười ngày mưa mới dám quản công.

Các con số được sử dụng một cách khéo léo, theo thứ tự tăng dần và ngược lại: một, hai, năm, mười, gợi lên những khó khăn ngày càng tăng và nghị lực phi thường của người vợ gánh vác mọi việc. nó rất mạnh, nhưng thật đáng tiếc! Hầu hết phụ nữ dựa vào chồng để hạnh phúc, nhưng với một người bà, đó chỉ là một món nợ cho cuộc đời. nhân cách hóa nhân vật hy sinh chết chóc để nói lên những thiệt thòi của người vợ, nhưng đồng thời cũng thấy rõ đức tính hy sinh của người bạn đời. ở cuối hai câu thơ còn ẩn sau những khó khăn được đưa ra là lời tuyên bố: au phải mệnh / dám quản công. một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không thể nghi ngờ, một cách cư xử rõ ràng. Phụ nữ Việt Nam là thế, bà Tư Bốn là thế, họ coi “việc nhà chồng” là việc của mình, tự nguyện mang nặng đẻ đau.

cô ấy chỉ chịu đựng nó trong im lặng, vì vậy ông tôi đã đổ lỗi cho cô ấy:

cha mẹ sống cuộc đời bạc bẽo,

Có chồng hờ hững như không.

những bài thơ giống như những lời lẽ không hay. mà là một lời nguyền thực sự: “lối sống của cha mẹ …” Không phải người vợ phải chịu nhiều vất vả, thiệt thòi mà chính là người chồng tự chửi mình. từ “hờ hững” nghe thật chua xót. Cô lấy phải một người chồng tàn nhẫn, không giúp đỡ gia đình, vì vợ anh ta không thể làm trụ cột chính trong gia đình, anh ta bỏ vợ cho cô ta nuôi. đúng là có bồ mà không có chồng còn khổ hơn không có chồng. bài thơ có chút cay đắng trong thơ xuân hương:

cố gắng ăn xôi, xôi nguội rồi

nhận giấy phép làm việc miễn phí.

cơ thể này biết rõ điều đó

Tôi muốn ở lại đây trước.

Tóm lại, hình ảnh nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người phụ nữ hiện thân cho cuộc đời lam lũ, vất vả, hội tụ nhiều đức tính tốt đẹp: siêng năng, dũng cảm, nhẫn nại … quên mình vì cuộc đời chồng con.

có một người dường như không phải là ông. bạn, nhưng đôi mắt và trái tim anh ấy luôn hiện hữu. mắt anh thấy rõ mọi nhọc nhằn, cay đắng hàng ngày, và lòng anh thấu hiểu nỗi cô đơn, nỗi khổ thầm lặng của anh. bài thơ thương vợ là một lời tự kiểm điểm, tự nhận lại sự bon chen rất chân thành và nghiêm khắc của mình. mỗi câu thơ như một tiếng thở dài đau đớn của một người đàn ông vô cùng trách nhiệm, nhưng vô cùng tự vệ. đó là tấm lòng yêu thương, ngưỡng mộ và lòng biết ơn chân thành của người chồng đối với người vợ đã vì mình mà chịu nhiều vất vả.

5. cảm nhận về bài thơ thương vợ đầy đủ nhất

Hình tượng người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở của văn học cổ Việt Nam. tuy nhiên, thơ viết về người vợ với tình cảm của người chồng viết về người vợ đang còn sống thì hiếm hơn. và tran te xuong là một trong những trí thức hiếm hoi của thơ ca trung đại Việt Nam đã đưa hình ảnh người vợ tần tảo ngay từ khi còn là đóa hoa tươi thắm trên đường đời vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng, đề cao đức hi sinh. , sự khéo léo, chịu thương chịu khó của người vợ, người chồng, từ đó cũng thể hiện lòng biết ơn của chàng đối với người vợ của mình:

Tôi buôn bán quanh năm ở Río Madre,

Một người chồng nuôi năm đứa con.

chìm sâu vào sự vắng mặt

trên mặt nước sớm vào mùa đông.

một duyên hai nợ,

Năm nắng mười ngày mưa mới dám quản công.

cha mẹ sống cuộc đời bạc bẽo,

Có chồng hờ hững như không.

tran te xuong, thường được gọi là tu xuong, sống trong một thời kỳ quá độ đầy đói nghèo, nửa thực dân Pháp và nửa phong kiến. ông là một người thông minh, hiếu học, hào hoa, phóng khoáng, có tài làm thơ hay, nhưng ông lại đấu tranh theo con đường sử thi và nổi tiếng chủ yếu ở hai lĩnh vực thơ: trào phúng và trữ tình pha chút trào phúng sắc nét bắt nguồn từ trái tim. . của nhân dân, đất nước và thế giới. ông từng được mệnh danh là nhà văn châm biếm xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thế kỷ 20.

XEM THÊM:  Bài thơ tiểu đội xe không kính ngữ văn 9

Kho tàng thơ văn của tuồng không nhiều, chỉ có 100 bài thơ, chủ yếu là thơ lục bát, gồm nhiều thể thơ như bảy ngôn, lục bát, lục bát … và hàng loạt bài phú tế, câu đối. .. nhưng có nhiều bài rất đặc sắc, đạt đến trình độ cao cả về nội dung và nghệ thuật và được coi là những bài thơ bất hủ. minh chứng rõ nhất là bài thơ Thương vợ được viết theo thể thơ lục bát. bài thơ đề cập đến nhiều khía cạnh của xã hội, đồng thời cũng là tiếng nói tri ân chân thành và đáng thương của các bạn bon chen, nạn nhân của một xã hội vô lý đã biến con người trở thành con người không ra gì, cô và gia đình cô, đối với cô, qua mà người đọc cũng thấy được phần nào sự hy sinh to lớn của những người phụ nữ thời bấy giờ hay của những người bà đối với chồng.

ở phần đầu của vở kịch, tu bon trình bày hoàn cảnh và cuộc sống của cô. bạn, do đó bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với người vợ sáng sớm của anh ấy:

Tôi buôn bán quanh năm ở Río Madre,

Một người chồng nuôi năm đứa con.

mạch cảm xúc của bài thơ dần mở ra với bức tranh toàn cảnh đầy gian nan và trăn trở của bà. bạn tên thật là pham thi lun. tác giả đã sử dụng “cả năm”, một cụm từ chỉ khoảng thời gian dài lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của thiên nhiên để diễn tả nỗi vất vả vô bờ bến của người bà suốt ngày này qua tháng nọ, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. . Dù nắng hay mưa, họ vẫn không bỏ lỡ một giây phút nào. chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để lại trong lòng người đọc ấn tượng khó phai về hình ảnh người vợ cả tối dạ, quán xuyến mọi việc trong gia đình như một người bà. không dừng lại ở đó, cách cân đo thời gian này còn góp phần làm nổi bật không gian, địa điểm bán buôn của chị em. bạn thông qua hình ảnh của “sông mama”. địa hình “sông bàu” hiểm trở, đầy hiểm nguy khó lường vì đây chỉ là một mỏm nhô ra khỏi lòng sông, nơi người dân làng chài thường tụ tập buôn bán nên khi thời tiết khắc nghiệt, địa hình cũng khác biệt. Chúng dễ ăn mòn, gây ra rất nhiều vất vả cho Bà. khó quá, khó quá, nhưng thưa cô. bạn vẫn mạnh mẽ vượt qua, luôn cố gắng để gia đình êm ấm:

Một người chồng nuôi năm đứa con.

với giọng văn hóm hỉnh và tài năng trong nghệ thuật châm biếm, câu thơ thứ hai như một lời lên án gay gắt đối với xã hội phong kiến ​​xưa đã biến những người đàn ông vốn là trụ cột vững chắc của gia đình trở thành những kẻ bạc bẽo chỉ biết sống nhờ vào cuộc sống của mình. vợ, nhưng đặc biệt là “với lương của vợ:

Tôi nóng lòng muốn leo lên bậc thang,

hỏi anh ấy về mức lương của vợ anh ấy.

(quan trong nước – cơ bản)

Đôi vai của phu nhân vốn đã nặng nề nay càng nhân lên khi bà “bất đắc dĩ” trở thành trụ cột chính trong gia đình. hai chữ “đủ nuôi” là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu mà cũng không thừa tạo cho câu thơ một giọng điệu trang trọng nhưng cũng không kém phần tự hào diễn tả nỗi niềm tin tưởng tột độ nơi người bà khi chỉ với một “năm đầy tháng”. kinh doanh ở nơi bấp bênh, hiểm nguy nhưng bà vẫn đảm bảo được cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ cho “năm người con” và chồng. hơn nữa, cách đặt song song hai danh từ đếm được “năm” và “một” có vẻ không thuyết phục nhưng lại rất độc đáo và mới lạ. tu bon tự giễu cợt khi tự so sánh mình với “năm đứa con” vì là “con cá biệt” đã ngầm nâng địa vị của người vợ lên một bậc thiêng liêng khác là “người mẹ đảm đang” nhằm tri ân công lao của người bà trong cuộc. một cách hợp lý và chính xác hơn. Thêm vào đó, cấu trúc “năm” – “một” và phép liên kết “với” hàm chứa bao nỗi tủi thân, tủi cực, thể hiện sự cơ cực với đôi vai gầy và nhỏ bé của người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó trong khi cả hai. bên cưu mang “năm con”, “một đời chồng”, nhưng dường như khó khăn lại nghiêng về phía người chồng vô dụng bởi cái chế độ “trọng nam khinh nữ” bị coi rẻ trong xã hội cũ. Có thể nói, người bà “đủ ăn” bằng xương bằng thịt không chỉ chu cấp cho cậu “chăn ấm, nệm êm” mà còn chăm lo cho cậu đủ thứ xa xỉ đắt tiền để cậu phải trưởng thành vì cuối cùng. . , xương máu hy sinh vẫn là một cử nhân, một người chí khí đi thi:

nếm thuốc lá, nếm trà,

cao lau biết vị, hồng biết mùi.

(hỏi thần – bộ xương trần)

có:

Tôi đến chơi hôm qua,

giày “niềm vui” cho anh ấy, “phương tây” cầm.

(làm mất ô khi đang hát)

Hai câu đầu của bài thơ tuy chỉ tóm tắt trong mười bốn chữ nhưng đã thể hiện được hết những đức tính cao quý ở bà với sự chăm chỉ, cần cù, tận tụy đáp ứng mọi nhu cầu công việc trong gia đình. do đó, bạn xuong cũng khéo léo bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với bà. tu, và cũng phần nào lột tả được nỗi tủi thân của tác giả khi là một người đàn ông không thể làm gì để giúp vợ. phải liên quan đến “năm đứa trẻ”. Tôi rất xin lỗi!

Thấu hiểu nỗi lo toan, vất vả của người vợ đại gia, ông Tư Bốn nghĩ đến hình ảnh “con cò” xưa trong bài ca dao:

con cò bơi bên sông,

gánh gạo khiến chồng khóc.

(tiếng lóng)

để mô tả nỗi đau khổ mà bạn đang trải qua bằng hai câu thực:

chìm sâu vào sự vắng mặt

trên mặt nước sớm vào mùa đông.

Việc sử dụng “thân cò” chứ không phải “thân cò” như trong ca dao xưa vừa thể hiện cá tính riêng vừa thể hiện sức sáng tạo đương đại trong phong cách thơ của nhà thơ, đồng thời là bản sắc của bà. chị nói riêng và chị em phụ nữ nói chung với hình ảnh “thân cò” gầy gò để nói lên những vất vả nhọc nhằn trong cuộc đời của người phụ nữ trụ cột. Tiếp đến, từ “thân” tuy đơn giản nhưng nghe thật chua xót, nó luôn gợi cho người ta một điều gì đó thật nhỏ bé và đáng thương. và ngày xưa nhà thơ hồ xuân hương cũng xót xa cho trang khi nhắc đến chữ mệnh bạc “thân phận”:

cơ thể của tôi trắng và tròn trịa,

bảy chiếc nổi, ba chiếc chìm với nước ngọt.

(bánh nước)

“Khi khoảng cách” là một cụm từ rất đặc biệt bởi nó không chỉ gợi lên không gian hoang vắng, hiu quạnh đầy nguy hiểm ẩn hiện bên bờ sông lạnh lẽo lạnh lẽo lúc bấy giờ mà còn diễn tả nỗi lo lắng sâu sắc về thời gian. bâng khuâng và khi kết hợp với biện pháp nghệ thuật đảo ngữ từ “ly hôn”, hình ảnh giản dị, chân chất của một người phụ nữ chân trần mảnh mai sinh ra ở núi rừng, sông núi về đêm – khoảnh khắc mà những người phụ nữ khác đang hạnh phúc. chồng con, niềm vui say giấc nồng, mong kiếm thêm thu nhập trang trải cuộc sống ngày càng trở nên bình dị, tươi sáng hơn trong nỗi cô đơn đáng sợ nơi đất khách quê người.

nếu dòng thứ ba gợi lên nỗi vất vả cô đơn thì dòng thứ tư là cuộc vật lộn khó khăn của một người bà giữa thời buổi mua sắm tấp nập:

trên mặt nước sớm vào mùa đông.

một lần nữa, nghệ thuật đầu tư được sử dụng trong thơ tu hú, nhưng với từ tượng thanh “eoh” gợi lên sự hối hả, nhộn nhịp nhằm nhấn mạnh thói quen chợ búa và lòng tham của người phụ nữ “năm con”. với duy nhất một người chồng. mặt khác, hình ảnh “ngày đông” cũng góp phần mạnh mẽ vào việc xây dựng hình tượng một người phụ nữ cần mẫn, bận rộn và bon chen, xô bồ đã từng được nhắc đến trong các bài hát nổi tiếng xưa:

con ơi, hãy nhớ lời cầu nguyện này,

đừng vượt sông sâu, đừng vượt thuyền đầy.

Dù lời dạy chân thành của cha bà văng vẳng bên tai: “sông sâu chớ đò ngang”, bà vẫn nhất quyết tham gia vào cuộc chiến thầm lặng và bền bỉ của nhân dân. có những khoảnh khắc “oái oăm”, chen chúc nhau, tranh giành khách, mua sắm tràn lan với các sạp hàng khác, bất chấp lượng người qua lại, chen chúc khi “thuyền đã đầy” để tranh giành miếng cơm, manh áo cho chồng. . và con cái vì chỉ khi bạn quá bận rộn, cơ hội kiếm thêm thu nhập sẽ tăng vọt “trong gang tấc”, thậm chí bạn phải chịu đau đớn khi “đầu đội trời, chân đạp đất”, thân bại danh liệt. của người. ồ! Thật là một người phụ nữ hết mực yêu thương, hi sinh, bán hết tài sản để kiếm từng chút tiền lo cho cuộc sống của gia đình, thật đáng khâm phục!

đảo các từ phản ứng vừa tượng hình vừa biểu cảm “bơi”, “eo” ở đầu câu thơ, kết hợp với hai hình ảnh tương phản rất “khi vắng quảng cáo” – “bến đò đông đúc” trong hai cụm từ thực, sự hình ảnh một người phụ nữ tháo vát đổ mồ hôi giữa chốn đông người vì phải chiến đấu, rơi nước mắt trong cô đơn khi tìm được khách hàng hiện ra với tất cả niềm tự hào. nhà thơ mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần ngay cả trong những lúc khắc khổ nhất. hoàn cảnh.

Chuyển sang những dòng sau, bạn bon chen đóng vai một chủ thể trữ tình mượn lời tâm sự của người vợ để ngầm ca ngợi công lao thầm lặng của nàng đối với chồng và những đứa con mà nàng gánh trên vai:

một duyên hai nợ,

Năm nắng mười ngày mưa mới dám quản công.

Theo quan niệm phong kiến ​​xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa rất thiêng liêng về tình nghĩa vợ chồng do trời định sẵn, xuất phát từ duyên phận, từ sợi tơ hồng của ông bà ta trăng hoa:

cuộc sống của con người là trường tồn vĩnh cửu,

<3

nhưng đi vào thơ của một nho sĩ từng trải như tu bon, nét nghĩa ấy dường như mất đi nét cao quý mà trở nên nặng trĩu vô cùng như một tiếng than thở, khi “duyên” thì chỉ có một, mà “nợ” thì có hai:

đó là chồng của bạn, đó là vợ tôi,

Đó chỉ là một món nợ cuộc đời.

(tiếng lóng)

Ngoài ra, việc sử dụng song song hai thành ngữ cổ “một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” hoàn toàn trái ngược nhau về mặt từ ngữ: “một” – “hai”, “năm” – “Có”, vừa đối lập về mặt ý tưởng, không chỉ khiến nhạc thơ bỗng trầm lắng trước sự đau khổ của người bà tăng lên theo cấp số nhân mà còn thể hiện rõ tài năng văn chương điêu luyện của nhà thơ khi biết chắt chiu. vận dụng đầy đủ giá trị của thành ngữ. và những con số đơn giản để hiển thị hình ảnh của ba tu. có thể nói, dù trước mắt còn nhiều chông gai, “duyên nợ” nhưng anh chưa bao giờ dao động mà chỉ nhẫn nại gật đầu cho qua và ba chữ có đi có lại: “ôi có duyên phận. ”,“ Dám xử lý quần chúng ”đã chứng minh được điều đó, nguyên nhân dẫn đến việc người bà tần tảo, lặng lẽ cam chịu, tuy đơn giản nhưng cũng rất cao cả: đó là vì nhân duyên đã định sẵn và tương lai của những chú cún nhỏ mẹ và vợ giàu ngược đãi!

bằng sự đan xen giữa chất thơ và sự đan xen những thành ngữ đã đạt đến độ hoàn hảo về nội dung với những đảo ngữ rất tinh tế và những phép nhân rất chân thực, chính xác, nhà thơ tu bon đã khắc họa thành công chân dung người vợ kết tinh trọn vẹn đức hy sinh, nhẫn nại và truyền thống chịu thương, chịu khó của người phụ nữ Việt Nam. trong hai bài luận. qua đó, anh cũng ngầm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người vợ thân yêu của mình khi cô ấy quên đi cái tôi của mình và gánh vác mọi trách nhiệm của một người trụ cột trong gia đình. thực sự:

hãy để bọn trẻ đau khổ vì bạn,

Cô ấy có một người chồng phải gánh vác gánh nặng của gia đình chồng.

(kho tàng sáu chiếc bát phổ biến)

vì quá yêu vợ, quá yêu đời con gái mà cô đóng vai trụ cột, cô tự trách mình và qua đó cô cũng chửi rủa cay đắng và căm phẫn trước những định kiến ​​khắt khe “trọng nam khinh nữ. phụ nữ “khiến anh ta trở nên vô dụng:

cha mẹ sống cuộc đời bạc bẽo,

Có chồng hờ hững như không.

mạch cảm xúc của bài thơ dường như có sự thay đổi đột ngột khi giờ đây, bon chen của bạn không còn “núp bóng” sau những vần thơ ca ngợi vợ nữa mà đã xuất hiện để nói thay lời oán trách, trách chồng, trách phận. “lối sống cha mẹ” thực sự là một cách nói thô thiển, thô thiển nhưng lại rất phù hợp với lối thơ trào phúng. đó là giận đời, căm hận cuộc đời vì cái xã hội “tây phương vô lý” lúc bấy giờ không cho phép anh san sẻ gánh nặng gia đình với vợ.

Hơn nữa, ít ai biết rằng đằng sau lời nguyền được hóa giải đó là một bi kịch của một con người đầy uất hận, đau đớn và tê tái:

Có chồng hờ hững như không.

Bạn bon chen chửi “đời” nhưng cũng “chửi mình”, “chửi mình” bởi cái thói danh giá của kẻ trên đường danh lợi, cái tục gia trưởng chỉ biết ngồi than thở với đời mà không biết. nó. Xung quanh tôi có những người đang đau khổ vì tôi. Tư Bốn tự nhận mình là người vô tâm, “sống nhờ tiền” với vợ con, luôn “hờ hững” với trách nhiệm, vai trò của người cha, người chồng. tất nhiên là một “người chồng hạnh phúc”! tuy nhiên, nếu nhìn nhận sự việc một cách lạc quan thì sự bon chen của anh không đáng trách, nhưng rất đáng tiếc vì suy cho cùng, chính cái xã hội bẩn thỉu đã đẩy anh, một tài năng xuất chúng, vào ngõ cụt. dòng dõi, đã phải chịu đựng. Thật đau xót! :

con gái của tu viện kết hôn với một người bán hàng

<3

(người vợ sống trong văn học – bộ xương trần)

Hai câu kết lại tác phẩm là một lời tự chửi bới của ông tu bon nhưng lại mang ý nghĩa lên án sâu sắc của xã hội, giúp khẳng định tình cảm của ông đối với bà tu là không giới hạn. người chồng ấy tuy “lương vợ”, không “hám tiền”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước của chị trên đường đời và đặc biệt là luôn tỏ lòng biết ơn chồng với vợ. đoạn thơ kết thúc bất ngờ: thấm đượm nỗi buồn, nỗi bất hạnh trong hạnh phúc của chính tác giả mà dí dỏm, hài hước.

Tóm lại, bài thơ Thương vợ là một bài thơ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Bằng lời thơ giản dị nhưng trữ tình pha chút trớ trêu, Tú Xương không chỉ khắc họa chân dung tuyệt đẹp của người vợ tần tảo mà còn thể hiện vẻ đẹp nhân cách của nàng. thân hình và hình ảnh người phụ nữ cần cù, đảm đang là hình ảnh đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ: mộc mạc, đôn hậu, rắn rỏi và mạnh mẽ.

Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Top 4 bài cảm nhận về bài thơ Thương vợ sâu sắc nhất – HoaTieu.vn. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *