Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
809 lượt xem

Cảm nhận bài thơ Tây tiến của Quang Dũng | Top 4 bài văn hay chọn lọc

Bạn đang quan tâm đến Cảm nhận bài thơ Tây tiến của Quang Dũng | Top 4 bài văn hay chọn lọc phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Cảm nhận bài thơ Tây tiến của Quang Dũng | Top 4 bài văn hay chọn lọc

cảm nhận về thơ miền tây mời các bạn tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài thơ hay và cảm nhận về miền tây của nhà thơ quang dũng, từ đó cảm nhận được hình ảnh thơ về thiên nhiên, cuộc sống ấm áp, hình ảnh của những con người Tây Bắc đậm đà bản sắc và vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa, anh dũng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc của những người lính miền Tây.

hướng dẫn ôn thơ miền tây (quang dung)

phân tích chủ đề

– đề ứng dụng: phân tích và cảm nhận về nội dung và nghệ thuật của thơ ca miền tây.

– phạm vi tài liệu, dẫn chứng: chi tiết, từ ngữ, câu thơ … thuộc phạm vi bài thơ tây tiến (quang dung)

– phương pháp lập luận chính: phân tích, cảm nhận.

những điểm chính cần phát triển với bản sửa đổi phương Tây

luận điểm 1: cuộc hành quân của đoàn quân tây bắc thiên về tây bắc

Luận văn 2 : Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

luận điểm 3 : hình ảnh người lính miền Tây

luận điểm 4: một lời hứa, truyền tải cảm xúc của tác giả

lập dàn ý để cảm nhận bài thơ miền Tây

1. khai trương

– trình bày một số nét tiêu biểu về tác giả quang dung và những nét thơ của ông (vừa hồn nhiên, tinh tế, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, lãng mạn).

– Nêu một số đặc điểm chung của bài thơ Miền Tây: hoàn cảnh ra đời, giá trị nổi bật của nội dung bài thơ.

2. phần thân bài thơ tây du ký

a, con đường hành quân của đoàn quân tây tiến trên thiên nhiên Tây Bắc hai dòng đầu: nỗi nhớ thốt lên trong hai từ “tây tiến” là tiếng gọi thân thương, “nhớ anh”. . chơi vơi ”là nỗi nhớ thường trực, bao trùm khắp không gian.

– hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

+ từ cùng nghĩa của saigon, muong lat gợi ý sự xa xôi, hẻo lánh;

+ các từ tượng hình: ám chỉ “quanh co”, “sâu”, “ngọt”, “dốc”, “ngược … lên” gợi lên địa hình hiểm trở, quanh co, hiểm trở.

+ hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện độ cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có sự tài tình của người lính.

+ nhịp thơ ngắt thành hai câu “trên cao ngàn thước, dưới ngàn thước” gợi sự nguy hiểm tột độ.

+ các hình ảnh nhân hoá: “hổ vồ người”, “thác ầm ầm” gợi sự man rợ, man rợ; thời gian: “tối”, “đêm” những người lính thường phải đối mặt với hiểm nguy nơi rừng thiêng nước độc.

+ sử dụng hầu hết các phong vũ biểu để nhấn mạnh sự bất thường của địa hình.

– cảnh vật thiên nhiên cũng có lúc êm đềm, mang hương vị của cuộc sống: “nhà ai trộn …”, “cơm lam khói”, “mai tạm biệt mùa em …”, thanh tạo cảm giác nhẹ nhàng, bình yên.

– Hình ảnh hào hùng của người lính miền Tây “đạp không chịu thua”, “ngã mũ quên đời”: có thể hiểu ở hai câu thơ đơn giản là diễn tả giây phút nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân xa. , cũng có thể hiểu là sự yên nghỉ vĩnh hằng.

– Nhận xét: thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy hiểm nguy, đây là những thử thách đối với những người lính Tây Bắc khi hành quân.

b, những kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

– để kỷ niệm đêm tiệc thắm tình quân dân:

+ không khí đêm hội tưng bừng với những sắc màu rực rỡ, lộng lẫy: “thắp sáng”, “đuốc hội hoa”, “chuông phong người”; người quyến rũ: “ăn mặc giản dị”, “cô ấy e thẹn”.

+ tâm hồn người lính trỗi dậy, mê mẩn trong không khí ấm áp tình người: “nhạc về người chăn cừu dựng nên thơ”.

– cảnh sông nước, con người miền tây bắc:

+ vẻ đẹp huyền ảo, hoang sơ, linh thiêng: “chiều sương”, “hồn lau bến bờ”

+ những con người lao động giản dị, mộc mạc: “một bóng một cây”, phong cảnh hữu tình, rực rỡ: “bồng bềnh trên mặt nước, hoa lá đung đưa”

* nhận xét: Nhờ lối viết lãng mạn của mình, Quang dũng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống ấm áp, đậm đà bản sắc của con người miền núi Tây Bắc.

c, cảm nghĩ về hình ảnh người lính miền tây

– Chân dung của những người lính được miêu tả chân thực: “đoàn quân không mọc tóc”, “xanh tươi”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ, “oanh liệt”. hùng vĩ ”.

– Họ là những người có tâm hồn lãng mạn, trái tim đa tình, “mộng ở hà nội” / “đêm mộng hà hương thơm”, lấy hình ảnh người yêu ở quê hương làm động lực chiến đấu.

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hy sinh anh dũng của chị:

<3

+ cái chết đã được lí tưởng hoá như hình ảnh của những người anh hùng xưa: “áo chẽn”, “hành quân đơn”; thiên nhiên cũng phải gánh chịu thay vì những nỗi đau mà họ phải chịu đựng.

* Nhận xét: dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng người lính miền Tây vẫn có nét lãng tử, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp anh hùng, sẵn sàng hy sinh vì đất nước.

d, lời hứa, tình yêu của tác giả

– câu thơ gợi lại ý chí, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân miền Tây: “kẻ ra đi không lời hứa”, cũng là lời tiếc thương cho những đồng đội đã “hy sinh sâu nặng một phôi thai”.

– tình yêu, nỗi nhớ và tình cảm của tác giả luôn hướng về đoàn quân miền tây: và núi rừng Tây Bắc “người đi về phía tây… / hồn không về đáy”

3. kết thúc

– Giá trị nghệ thuật: lối viết lãng mạn, sáng tạo trong cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ

– tóm tắt giá trị nội dung: đoạn thơ đã tái hiện lại vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình ảnh người chiến sĩ kháng chiến dũng cảm, không sợ hy sinh nhưng cũng lãng mạn, mơ mộng.

& gt; & gt; tuyển tập văn mẫu phân tích bài thơ tây quang dũng

bản đồ tinh thần để cảm nhận thơ ca miền tây

sơ đồ suy nghĩ cảm nhận về bài thơ quang dung miền tây

Mẫu sơ đồ tư duy này sẽ giúp bạn ghi nhớ tốt hơn 4 điểm cũng như các lập luận cần thiết cho bài luận này. Để ghi nhớ tốt hơn các dạng bài về tác phẩm phương tây, bạn cũng có thể xem phần tổng hợp các ví dụ về sơ đồ tư duy phương tây

kiến ​​thức bổ sung

westward là tên của một tập đoàn quân được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với quân đội Lào để bảo vệ biên giới giữa Việt Nam và Lào và tiêu diệt quân Pháp của đối phương.

/ p>

– đến từ một người lính phương Tây: hầu hết họ là người Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên.

– Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng đã viết một bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ về đoàn quân đang tiến lên sau khi chuyển đi đơn vị khác.

– Quang Dũng từng nói về bài thơ “tây tiến” của mình như sau: “Tôi làm bài thơ này rất nhanh, đọc xong trước đại hội, được mọi người đón nhận rất nhiệt tình lúc đó tôi viết được như tôi.” cảm nhận về điều đó. Tôi không có tranh luận về thơ. ”

văn mẫu cảm thán bài thơ tây quang

cảm nghĩ về thơ miền Tây, bài văn mẫu 1

Dưới đây là bài văn cảm nhận khổ thơ thứ ba:

viết về phương tây: quang dung đã viết trong hồi ký của mình. và trong dòng ký ức ấy, nỗi nhớ đồng đội luôn khắc khoải, gợi lên những kỷ niệm, hình ảnh trân trọng, nghiêm túc, sâu sắc. ta thấy dòng hoài niệm về đồng đội, về tình cảm và tấm lòng của người lính miền Tây chạy qua bài thơ:

… quân đội không mọc tóc ở phương Tây,

quân xanh cầm con tôm hùm.

đôi mắt rực rỡ gửi những giấc mơ qua biên giới,

đêm mộng mơ trong vẻ đẹp tuyệt mỹ của thành phố Hà Nội.

biên giới rải rác và những ngôi mộ xa xôi,

ra chiến trường không tiếc đời xanh,

những chiếc áo choàng phản chiếu anh ấy trở lại trái đất,

<3

từ dưới chân núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu của bài thơ, hình ảnh những người chiến binh miền Tây hiện lên rõ nét:

Quân đội không mọc tóc ở trời Tây,

quân xanh cầm con tôm hùm.

Thoạt đầu, câu thơ tưởng như có chút ngang tàng, chút ngang ngược, đầy chất lính nhưng càng đọc càng thấy hiện thực khắc nghiệt hơn, mới thấy hết được những vất vả, gian khổ của miền Tây. quân đội. không mọc tóc: đó là hậu quả của cơn sốt rừng kinh hoàng khiến binh lính rụng hết tóc. rồi nước nhiễm độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ… mọi thứ tưởng chừng như kiệt quệ khiến quân xanh phải gồng gánh. hai câu thơ cho ta thấy một hình ảnh rất thực của những người lính miền Tây khi phải chống chọi với bệnh tật: ốm đau, rụng tóc … nhưng không vì thế mà mất đi vẻ oai phong lẫm liệt: mắt trợn trừng. … “

Đoàn quân mệt nhoài, xanh như lá nhưng vẫn còn nguyên vẻ hùng vĩ của rừng sâu. cái chói chang mãnh liệt là gửi ước mơ vượt biên và để “đêm mộng hà nội có dáng thơm”. Người lính miền Tây đa phần là những chàng trai thành thị khoác áo lính nên dù đi chiến đấu, gian khổ nhưng họ vẫn luôn mang và giữ cho mình một tâm hồn hào hoa, phong nhã, đằm thắm, hồn thơ. mơ về dáng người thơm tho là mơ về dáng vẻ thướt tha, quyến rũ, thanh lịch của những cô dâu thủ đô ngàn năm văn hiến. Có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này như một giấc mơ vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. nhưng thực chất đây là tình cảm rất chân thành của người lính, nó mang ý nghĩa nhân văn thực sự thể hiện ước mơ cao đẹp của con người về cuộc sống bình yên, hạnh phúc đã đẩy người lính đi xa.

cả đoạn thơ bốn câu, ba câu trên đều nói lên sự khác thường, dữ dội. Trái lại, câu thơ thứ tư lại đầy ngọt ngào, trữ tình và thơ mộng. bài thơ đã khắc họa những hiện thực rất khắc nghiệt nhưng không chỉ bằng bút pháp hiện thực mà thể hiện theo phong cách lãng mạn, cho ta thấy hình ảnh một con người không hề xanh xao, đau khổ mà oai phong lẫm liệt. Văn và thư pháp của Quang Dũng rất tài hoa. những từ “không mọc tóc, đôi mắt hung tợn, dữ tợn” thể hiện rất sâu sắc tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, dũng cảm của những chiến binh phương tây. Hoàn cảnh gian khổ, thử thách, gian khổ của một miền hiểm trở tăm tối không làm lay chuyển được những người lính phương Tây, họ vẫn giữ vững ý chí và quyết tâm cao. ở khía cạnh bi đát của hoàn cảnh, vẻ đẹp của ngoại hình và tinh thần vẫn nổi lên. Thông qua những yếu tố tưởng như đối lập, Quang Dũng đã lột tả được vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa hào hoa và tâm hồn đôn hậu, đa cảm của người lính miền Tây. núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, bước đi trong sự hùng vĩ và man rợ ấy, những người lính miền Tây như được tiếp thêm sức mạnh, kiên cường vượt qua gian khổ, hy sinh:

biên giới rải rác và những ngôi mộ xa xôi,

hãy ra chiến trường không hối tiếc …

Những người lính miền Tây không tiếc mạng sống của mình để chiến đấu vì Tổ quốc và sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho Tổ quốc mà không hề hối hận. họ ra đi nhưng lòng vẫn nhớ, vẫn mang theo tình yêu mơ ước của riêng mình, khi hi sinh thân mình “áo thay đi để trở về trần gian”. Với hai chữ “áo dài”, nhà thơ đã đề cao lòng dũng cảm, tái hiện vẻ đẹp cao quý, một vẻ đẹp như của những anh hùng thời xưa ở người phương Tây, vẻ đẹp ấy làm mờ đi hiện thực đói nghèo nơi chiến trường. rồi “anh về trần gian”, cái chết nhẹ nhàng như không, như trở về với những gì của quá khứ thân thương, quen thuộc, “anh về trần gian” là được sống mãi trong lòng quê hương, tổ quốc và sông thay lời chỉ sông núi, đã thốt lên lời hào hùng: “sông gầm khúc quân ca lẻ loi”.

cơn đau dữ dội đến mức, chỉ cần một tiếng “gầm gừ trầm mặc”, cơn đau như bị đè nén, quằn quại từ bên trong. không có nước mắt của đồng đội, chỉ là dòng sông mã với nỗi đau cuộn trào trong tim, chỉ là … chạy ngược về tim. cả bài thơ nói lên phẩm chất bi tráng nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những người lính miền Tây đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ da diết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.

Hình ảnh những người lính, tình đồng chí, đồng đội xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. chúng ta thường thấy những người lính chất phác và trung thực trong thơ văn điêu luyện:

áo sơ mi của tôi bị rách,

Quần của tôi có một số vết vá.

với nụ cười lạnh lùng trên khuôn mặt,

giày chân không …

có trong bài thơ hongyuan:

họ trong số chúng tôi,

người dân của bốn vùng đất,

chúng tôi gặp nhau khi còn mù chữ,

Họ đã biết nhau từ khi “một, hai” …

nhưng với sự tiến bộ của quang dung thì khác. bài thơ không miêu tả những người lính xuất thân từ dân cày mà là những chàng trai thành thị, học sinh, sinh viên khoác áo lính. với phương Tây. quang dung đã đưa người đọc trở lại một vực thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang vẻ đẹp hoang sơ, hiểm trở. và nổi bật giữa núi rừng Tây Bắc là hình ảnh những người lính miền Tây vượt qua mọi khó khăn gian khổ, sáng ngời ý chí anh dũng. Với tám câu thơ chứa chan tình cảm và nỗi nhớ, Quang Dũng đã đưa người đọc trở về một thời miền Tây với biết bao đồng đội thân thương của nhà thơ … tất cả đã giúp Quang Dũng tái hiện và khắc họa hình ảnh anh hùng của người lính đi về miền Tây. Với lối viết tài hoa, đầy nhiệt huyết, nhà thơ đã xây dựng nên hình tượng những chiến binh miền Tây không chỉ có vẻ đẹp hung hãn, dữ dội mà còn có vẻ đẹp hào hoa, anh hùng. và phía tây không chỉ thể hiện đầy đủ tinh thần thơ mộng của quang dung mà còn tỏa sáng với một thẩm mỹ khác thường.

& gt; & gt; xem thêm: cảm nhận về hình tượng anh bộ đội trong bài thơ miền tây

Cảm nhận bài thơ miền Tây, bài văn mẫu số 2

nguyễn đình thi từng viết: “thích một bài thơ là thích một cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, suy cho cùng là thích một người”. Giữa rừng thơ kháng chiến đầy màu sắc đang tỏa hương thăng hoa, “Tây Tiến” vẫn được độc giả rất yêu thích, đơn giản vì đó là “một cách nhìn, một cách cảm, một cách nghĩ”.

“Tây tiến” được coi là kiệt tác của đời thơ Quang Dũng. bài thơ được viết năm 1948, trên dải đất vôi, trong nỗi nhớ thiết tha về miền tây – đơn vị chiến đấu năm xưa – cũng là nỗi nhớ về núi rừng nằm rải rác ở phía tây Tổ quốc, tưởng như kỳ vĩ mà một thời nối tiếp thế. … cái không khí lãng mạn rất đỗi lãng mạn của những ngày đầu kháng chiến, tư thế hiên ngang, dũng cảm của những người Hà Nội hào hoa, giàu tình cảm đã được thể hiện đậm nét trong từng câu thơ, vừa không đầy nhạc tính, vừa trang trọng, cổ kính. tươi trẻ. .

Quang dung viết rất hay về nỗi nhớ: nỗi nhớ trỗi dậy từ những con đường tha hương, con đường cách mạng và kháng chiến, hướng về “huyện đồng”, về “xứ sở mây trắng”, về “ba đầu. vì nó xa lắm “và cũng là cái tên thân thương” về miền tây “:

“Sông Mã xa lắm, hãy đi về hướng Tây!”

câu thơ 7 chữ có 4 chữ là tên một địa danh. không có hình ảnh trực tiếp, nhưng nó vẫn âm vang trong không gian, dội sâu vào tâm trí. đó là tiếng gọi của quá khứ sâu thẳm không chịu yên trong lòng thi nhân. dường như kể từ lúc đó, chúng không còn là những địa điểm hồn nhiên và vô cảm trên bản đồ nữa. Từ bao giờ, những lời nói đó đã khiến Quang dũng cảm suốt đời. câu thơ xác định rõ hai không gian khác nhau: không gian thực và không gian hồi tưởng. nhưng dường như chỉ người đọc mới nhận ra rõ điều này, và đối với nhà thơ, khi anh nói “xa” là lúc hình ảnh của một quá khứ không xa đang chớm nở, nâng anh khỏi mặt đất của thực tại. do đó, toàn bộ bài thơ như một câu chuyện được bao bọc trong không khí hoài niệm của riêng nó.

những bài thơ về nỗi nhớ từ xưa đến nay khó kể hết. nhưng hiếm có bài thơ nào mà nỗi nhớ được diễn tả bằng những ngôn từ lạ lùng và giàu sức gợi như vậy:

“Hãy nhớ những ngọn núi, hãy nhớ chơi với chúng”

độc giả của “tây tiến” không thể quên từ “chơi nhớ chơi”. “Chơi vơi” là trạng thái nhớ nhung hay nhớ cảnh? đó là sự chênh vênh của những người phải rời xa nơi mình từng gắn bó hay là màn trập trùng xa xôi của núi rừng miền Tây? thật khó để chia tay! cả chủ thể và khách thể dường như đã trộn lẫn và cùng tồn tại trong cùng một từ “chơi với”. đó có phải là cùng một trạng thái hoài niệm chập chờn không?

mạch thơ chủ yếu là kết cấu của ký ức, của những hồi tưởng bất tận, của những hiện ra bất chợt, trong đó địa danh có khi chỉ là một dòng tên, có khi chỉ là điểm nhấn: ký ức. và ký ức luôn hòa quyện với con người, chúng song hành và dệt nên cả hai mạch: gian khổ và thơ mộng:

“xin lỗi vì đã hỗ trợ đội quân mệt mỏi

mường ngắt hoa vào ban đêm ”

thư pháp hiện thực đã mô tả một cách chân thực hình ảnh của một đội quân mệt nhoài, thấp thoáng trong màn sương. Và đêm sương ấy trở thành “đêm hơi” bay bổng qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Những ngọn đuốc soi đường như những bông hoa huyền ảo, lấp lánh và rực rỡ. sự khắc nghiệt của thiên nhiên được cảm nhận một cách thú vị trong hình ảnh hào hoa và lãng mạn.

giống như “tiên quân ca” và tất cả các cuộc hành quân, trong “tây hành”, chúng ta thấy hình ảnh những con đường nổi lên. con đường nối liền với các địa danh việt – lao, đọc lên xuống như hát, vừa lạ vừa hiện đại:

“đi lên một khúc cua dốc

lợn hút rượu, chúng ngửi thấy cả bầu trời

một nghìn mét trên, một nghìn mét dưới

nhà ai mưa xa ”

câu thơ “bờ dốc khúc khuỷu” có 7 chữ, trong đó có 5 từ láy và điệp khúc “ngân nga”, những điệp từ “ngân nga, thăm thẳm” đã gợi lên hình ảnh một con đường dốc, quanh co, gập ghềnh. vượt qua, vươn lên mãi mãi. từ “ngọt ngào” gợi cảm giác xa xôi, xa vắng. Đặc biệt, nhà thơ không phải là người chép lại cuộc đời trên trang thơ, mà mỗi câu chữ là một “quặng tinh luyện vàng” (maiacopsky) sục sôi, để “gom góp” trong những luống cuống của cuộc đời, chăm sóc và gieo trồng. thành phố. những bông hoa đẹp thơ mộng. những từ ngữ lấp lánh vừa ngạc nhiên vừa thú vị: “cồn mây”. không phải là mây phiêu diêu, mây phiêu du mà là “cồn mây” phía xa: “xứ mây xa cửa” (phủ). “Súng ngửi trời” mới được nhân hóa độc đáo và thú vị làm sao.

Câu thơ tiếp theo đột ngột bị cắt đôi, vẽ hai cuộc hành quân. điệp ngữ “ngàn thước” và nghệ thuật tương phản “trên và dưới” đã gợi ra vực sâu thăm thẳm dữ dội, gian nguy. Vì vậy, đọc thơ Quang Dũng không chỉ như có nhạc trong miệng, mà còn như được thưởng một hình ảnh. đó là lý do tại sao “họa trung hữu, nhạc trung hữu” là vì thế. nếu câu trước khó thì câu dưới nhẹ nhàng, câu trên nhẹ nhàng hơn, câu dưới nhẹ nhàng thì cảnh trên khó hơn, cảnh hiện tại yên bình: “Nhà ai hòa mưa xa. “. sự yên tâm lan tỏa trong âm thanh bằng toàn bộ câu thơ.

XEM THÊM:  Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn

khó khăn luôn được coi là thử thách vàng. chính vì vậy mới có câu “sóng vỗ / gian nan đều do anh hùng”. gian nan, thử thách là cái nền để làm nổi bật vẻ đẹp và tính cách của con người. họ không nản lòng khi đối mặt với nghịch cảnh, họ giữ được dầu trong cơ thể từ rất lâu:

“người bạn cáu kỉnh không còn đi lại nữa

rơi vào tay súng và quên đi cuộc sống ”

hai câu thơ như những bức tranh vẽ về người lính đầy ấn tượng. đây có thể là những lần hiếm hoi khi một người lính ngủ gật; nhưng đó cũng có thể là một sự thật đau lòng là người lính đã ngã xuống và không thể bước đi cùng những người bạn đồng hành của mình. sự hy sinh là có vì quang dũng không bao giờ trốn tránh thực tế. nhưng thực tế trong mắt anh ấy không bao giờ là đơn giản và nhàm chán. hàng loạt từ chủ động: “không bước nữa”, “quên đời”. biến mất mát thành chủ động chấp nhận, chấp nhận một cách tự tin và nhẹ nhàng, chịu đựng sự ngang tàng, ngạo mạn, ngạo mạn của những người lính trẻ đầy nhiệt huyết.

khi đó, tầm vóc của anh được đặt trong thiên nhiên hùng vĩ:

“một buổi chiều hùng vĩ gầm rú

vào ban đêm, những con hổ làm trò cười cho con người. ”

“Thác gầm thét, hổ rình mồi” là hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm vẻ hoang sơ, dữ dội và kỳ bí của núi rừng Tây Bắc. “Chiều, đêm và đêm” là những trạng từ chỉ thời gian được lặp đi lặp lại mãi mãi. sức mạnh của thiên nhiên ngự trị ở đây không phải chỉ là một sớm một chiều mà là “trời chiều, ban đêm”. nhưng đó cũng là thời điểm của các cuộc hành quân về phía tây. vì vậy, hai câu thơ miêu tả thiên nhiên tối tăm, huyền bí của núi rừng Tây Bắc càng làm cho chân dung người lính cao hơn, mạnh mẽ hơn.

cuộc hành quân không chỉ có gian khổ, khó khăn mà còn có những kỷ niệm ngọt ngào, êm đềm:

“Hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa em thơm mùi xôi ”

từ “miss oh” nghe như nôn nao, nghẹt thở! không phải “ôi nhớ” như câu cảm thán xưa; Nó cũng không thành thật, bằng lời nói “nhớ ơi, nhớ” hay “nhớ ôi” như một lời kêu gọi mọi người, mà là “nhớ ôi” như một tiếng khóc với chính mình. ta có thể nghe rõ trong bài thơ một nỗi nhớ bất chợt. những người còn nhớ không khỏi bật ra tiếng rên rỉ, nhưng “một tiếng vang ngắn ngủi bật ra khỏi miệng”. le dat đã từng nói: “Tôi tôn trọng những nhà văn làm việc với văn học để tạo ra sự ra đời của ngôn ngữ.” Quang Dũng là một trong những người như thế. đã tạo ra một ý nghĩa táo bạo nhưng rất nồng nàn trong một bộ từ mới: “bạn mùa”. “mùa em” khiến mai châu không chỉ là nơi gắn liền với những kỷ niệm thơm mùi xôi đầu mùa, của tình quân dân sâu nặng mà còn gợi nhớ đến hình ảnh những cô gái vùng cao duyên dáng. nay đây mai đó, miền Tây sẽ tàn lụi sau những thăng trầm của lịch sử, nhưng tiếng khóc ấy sẽ tiếp tục gieo vào lòng người đọc trong tương lai sau bao ký ức của một thời. “Western” tiếp tục sống trong hoài niệm và cũng sống trong hoài niệm.

Vào cuối đoạn đầu tiên, những ký ức chợt bừng tỉnh dường như mờ đi. một làn sóng mới chưa hình thành nên lúc này, ký ức được trải dài, nhẹ nhàng trải ra để những hình ảnh tươi tắn và “sắc nét” hơn:

“Doanh trại bốc cháy

này, bạn mặc chiếc áo vào lúc nào vậy?

chơi giai điệu của một cô gái nhút nhát

âm nhạc về người chăn cừu xây dựng nên hồn thơ ”

Nếu phần đầu của bài thơ chủ yếu nói lên sự vất vả, dữ dội của hoàn cảnh thì đoạn thơ này lại nhấn mạnh chất thơ giàu chất thơ của núi rừng miền Tây Tổ quốc. trong khó khăn, họ vẫn còn trẻ và vẫn thích tổ chức “lễ hội đuốc hoa”. Thật ra, nó có thể là một ngọn đuốc, nhưng trong cái nhìn lãng mạn của những người trẻ, nó sáng và rực rỡ, rạng rỡ, ấm áp và huyền ảo. chỉ cần một từ “rực” đã thắp sáng cả không gian, bừng lên niềm vui, và còn đánh thức cả một miền ký ức khi những người lính hôm nay chợt nhớ về.

“siem ao”, là một từ Hán Việt như một cái gì đó lộng lẫy và rực rỡ, bước ra từ thơ cổ với từ “nhìn em” là điều gần gũi nhất để bước ra từ những trang sách của cuộc đời. “behold” mang trong mình một trạng thái ngỡ ngàng, nhưng cũng có thể là một cái nhìn đầy nhiệt huyết và trẻ trung từ một con người tâm linh. “nhìn tôi” sống động và tươi mới như gần đây! một cụm từ “xây dựng tâm hồn thơ” đã xác lập vị thế của những chàng trai này: không chỉ dũng cảm mà còn yêu thơ. “hồn thơ” hay nàng thơ, phải chăng là vẻ đẹp của những cô nàng điệu đà yêu phong cách? hay là tiếng “kèn thổi làn điệu thiếu nữ e ấp, đêm lồng đèn lộng lẫy” chẳng phân biệt được đâu chỉ biết rằng tình yêu theo ký ức ùa về, nồng nàn, đắm say.

Những câu thơ sau đây là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên vùng cao:

“Những người đi đến xứ sương mù vào buổi chiều mù sương ấy

bạn có thể thấy linh hồn đang dọn dẹp bờ biển

bạn có thể nhìn thấy hình trên cây không?

nước lũ cuốn trôi những bông hoa ”

một từ, “sương sớm”, gợi lên cả thời gian và không gian. thơ cổ mỗi khi về chiều, về sương là một nỗi buồn xa xưa, một nỗi nhớ xa xưa bồi hồi: “dặm sương, liễu rủ khách”. (mrs thanh quan district). Nhưng thơ của Quang Dũng lại cho ta một cảm giác rất êm đềm và bình yên. một từ “đó” ẩn danh nhưng có ý nghĩa. từ “ấy” là ẩn danh vì dùng để chỉ một thời điểm nào đó, đôi khi ngay cả chủ thể cũng không xác định được: “ngày đó lòng tôi nghe được ý nghĩ của bạn” (xuân diệu), chính là “từ đó”, “mười lăm năm ấy” trong trí nhớ của bạn bè nhưng đó cũng là ngày không thể nhầm lẫn giữa vô vàn những buổi chiều vô danh khác trong cuộc đời: một buổi chiều mang tên ký ức, mang nỗi nhớ.

nhà thơ chỉ mất đi một chút trong sáng nhưng lại thu được ý nghĩa vô cùng to lớn. nó không phải là “cây sậy”, “cây sậy” hoặc “một phần của cây sậy” như được sử dụng bởi dr. chu văn son trong bài văn: “bên hoa” mà là “hồn cây mía”. “linh hồn” cũ đã viết mrs. huyện thanh quan: “hồn thu thao” khiến câu thơ không nhằm tả mà gợi, không cố ý mà vẽ. không nhìn thấy hình dáng cây mía nhưng có thể cảm nhận được cái hồn riêng của đại ngàn Tây Bắc. cảnh theo bức thư mà tan. một chút rõ ràng bị mất nhưng rất nhiều thi pháp được thêm vào.

Câu thơ cuối bộc lộ dáng người thướt tha, uyển chuyển của người con gái Thái giữa thiên nhiên thanh bình và thơ mộng. hình ảnh “hoa ban” không chỉ gợi lên hình ảnh vùng đất Tây Bắc ngàn hoa, mà còn là hình ảnh của vẻ đẹp. Có phải “hoa đong đưa” làm tình với gió nước khi đã nở cả đời mới buông? Hay đó là hình ảnh ẩn dụ về cái đẹp, của người con gái đang yêu nhưng thầm yêu trộm nhớ? câu thơ có duyên của cảnh, có người và có cả ánh mắt yêu thương của người xem không?

và sau đó chân dung của người lính miền Tây được thể hiện trực tiếp qua những nét chạm khắc rõ ràng và sắc sảo:

“quân tây không mọc tóc

quân xanh mạnh mẽ

đôi mắt rực rỡ gửi những giấc mơ qua biên giới

đêm mộng mơ ở Hà Nội đẹp đẽ và thơm ngát ”

Hai dòng thơ đầu của Quang Dũng vang lên với giọng điệu quen thuộc. sự thật hiện ra trực tiếp như trong “tiếng người lính” nên nó trở nên bất ngờ, và bất ngờ thay, sự trần trụi của hiện thực lại được nhìn nhận theo một cách khác. câu thơ không gợi ra bi kịch, mặc dù người ta hiểu rộng rãi rằng “không có lông mọc” và “da xanh” là hậu quả của bệnh sốt rét. Theo câu thơ của Quang Dũng, hễ chạm đến cõi thực là bay bổng trên đôi cánh lãng mạn. điệp ngữ “không mọc tóc” làm cho câu thơ trở nên rắn rỏi, có sức sống; câu thơ hàm súc; mọi người xuất hiện với thái độ chủ động, tư thế kiêu hãnh và ngạo mạn.

biện pháp ẩn dụ kết hợp với cường điệu “ác ôn” làm cho chủ thể hiện lên uy nghiêm, uy nghiêm như vua sơn lâm, khiến anh ta ốm yếu nhưng không yếu đuối: vóc dáng của những kẻ chinh phục. Hai dòng trên cùng mạnh mẽ bao nhiêu thì hai dòng dưới cũng mượt mà bấy nhiêu! nếu ở trên, tác giả thay thế “hoa mắt” bằng “tâm trạng tồi tệ” thì câu thơ dưới sẽ giảm đi rất nhiều sự mượt mà và chi tiết được đề cập, mất đi sự trong sáng và kì dị. câu thơ có “ước mơ” về người anh hùng mang trong mình ngọn lửa căm thù và khát vọng lập công, nhưng vẫn ôm trong mình một “ước mơ” nhỏ nhoi về cái đẹp.

tác giả không dùng từ “nhớ”: nỗi nhớ của người lính nông dân về “gốc đa giếng” (“đồng chí”), về “người vợ trẻ gánh cối xay canh đêm” (“nhớ” )) hay nỗi nhớ của nguyễn đình thi “chợt chới với trong mắt người tình”,… vì “nhớ” liên quan nhiều hơn đến tâm trạng, cụ thể “mơ” là vết tích của tâm hồn, mơ hồ. “vẻ đẹp thơm ngát” ấy chính là ánh sáng le lói trong ký ức, “tố cáo” mối tình và cuộc đời dạt dào của người lính vốn thường bị che lấp trong cuộc kháng chiến.

“những biên giới rải rác và những ngôi mộ xa xôi

ra chiến trường không tiếc đời xanh

chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

sông ngựa gầm vang cùng một bài hát ”

câu thơ là một trong những tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. ở một vùng đất xa xôi, những con người ấy chỉ là những tấm vải mỏng manh. bi kịch, mất mát trong chiến tranh là không thể phủ nhận. nhưng lòng nhân ái không khuất phục. bài thơ có sử dụng hệ thống từ Hán Việt: “biên cương”, “xa”, “chiến trường”, “tà áo”, “đơn độc” để không khí càng thêm uyển chuyển, lời ca êm đềm, giọng thơ hào sảng, hào hùng. , bi thảm. chủ động trở về: “không tiếc đời xanh” khẳng định bản lĩnh gan dạ của những người đàn ông coi cái chết nhẹ như cờ đỏ. hình ảnh “áo dài” gợi lại bóng dáng của những huyền thoại bên bờ sông. bản dịch: “oai hùng nhất của quá khứ không ngừng quay trở lại” và cách nói dưới đây làm cho người lính trông đẹp hơn.

Cái chết đối với họ, chỉ đơn giản là sự trở về khi họ đã sống và chiến đấu hết mình trong tâm thế bình thản và nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ quang minh chính đại này, người ta thường bắt gặp những biểu hiện tiêu cực “ngủ quên”, “buồn bã” hay “tĩnh mịch tư sản” ở đó. giọng điệu của nhà thơ, của những người lính phương Tây, quả thực rất đáng trân trọng. đó là biểu hiện lòng quyết tâm của những con người yêu nòi giống, sẵn sàng đổ máu, hy sinh vì nghĩa lớn. họ không phải là nạn nhân, những con cờ đen vô nghĩa trên bàn cờ chiến trường, mà là những “thần dân có ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng khoảnh khắc, biết mơ ước, biết hy vọng và khi cần thiết họ sẵn sàng cho đi. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự sánh ngang với những người lính đã hy sinh vì nghĩa lớn. sự ra đi của ông đã được ghi lại như một khúc tráng ca “độc nhất vô nhị” của dòng sông Mã đầy uy nghiêm, trang trọng. Chiều cao của con người được so sánh với chiều cao của vũ trụ.

Phần “đại âm” của “hành khúc” “về phía tây” gồm bốn cụm từ muốn tiếp tục hành trình ký ức vượt theo bước chân của vị quân tử lừng danh:

“đi về phía Tây mà không cần hẹn trước

đường lên đỉnh sâu và bị chia cắt

ai đã đi về phía Tây vào mùa xuân đó

linh hồn của kẻ lang thang không trở lại ”

Hai câu trên gợi lại lời hứa của đoàn quân miền tây khi lên đường: “đại chí chưa về tay không”. hai câu tiếp theo vừa là lời tự nhắc nhở, vừa ôn lại kỉ niệm để đi đến một khẳng định: không thể nào quên được chặng đường đã qua, dù có đi đâu vẫn gửi gắm tâm hồn mình. bởi ngày qua là kỷ niệm, là bạn đồng hành, là hiến dâng, là đời tư có cơ hội tỏa sáng trong cuộc sống chung của dân tộc, của cách mạng.

“Tây tiến” đầy hoài niệm, hay nói đúng hơn là hoài niệm. Đó cũng có thể coi là tâm nguyện của một thế hệ thanh niên sẵn sàng cống hiến cả một thời xanh tươi của mình cho Tổ quốc thân yêu. hiệu quả càng tăng thêm khi nhà thơ có thể “dung dị thiên cổ” (một loại hành) để cảm xúc, tình cảm không bị trói buộc mà có thể trải ra theo đầu bút, thành câu chữ. Hình ảnh thơ tuy đơn giản và quen thuộc nhưng khi áp dụng vào nhau trong cách sắp xếp quang dung lại tạo ra hiệu quả bất ngờ.

Nếu nói “thơ trung đại”, “thơ trung quyền nhạc” thì “Tây du ký” là một ví dụ điển hình. Với tài sử dụng và sáng tạo ngôn từ của mình, Quang Dũng khiến người đọc có cảm giác như “nhạc trong miệng”, như thưởng thức hình ảnh trong ngôn từ. thư pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn đã tạo nên vẻ đẹp hào hùng và bi tráng cho những câu thơ. Đó là hương vị của thơ quang dung: giản dị và bay bổng, không trau chuốt nhưng mới lạ đến bất ngờ. là “phương Tây”, chỉ đơn giản là cách nhìn đó, theo cách đó và với tư cách là người đó. chính vì vậy mà bài thơ có thể vượt ra khỏi quy luật băng hoại của thời gian và tồn tại cùng độc giả hôm nay và mãi mãi.

tham khảo : Tuyển tập các bài văn giới thiệu về hình ảnh người lính Tây giỏi để các bạn đạt điểm cao cho bài văn của mình.

cảm nhận bài thơ miền Tây, bài văn mẫu 3:

Nhận xét về thơ Quang Dũng, có ý kiến ​​cho rằng: “Tây Tiến là người con mạnh mẽ, dũng cảm của đời thơ Quang Dũng”. thực sự bài thơ đã để lại dấu ấn trong chặng đường cầm bút của nhà thơ, đồng thời để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đặc biệt về một thời hào hùng của dân tộc.

Quang Dũng vốn là một anh bộ đội hành quân đến vùng đất cực Tây của Tổ quốc, thấu hiểu sâu sắc những khó khăn và anh dũng của cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Vào giờ phút chia ly của đồng bào và chiến sĩ nơi phố phường Lựu Chanh, thơ ca miền Tây đã ra đời, thấm đẫm tình người, với bao nỗi niềm của lòng người. những khó khăn, gian khổ và những khoảnh khắc ấm áp tình đồng đội hiện lên trong tâm trí nhà thơ, gợi lên những cảm xúc sâu lắng.

quang dung mở đầu bằng những câu thơ chứa đựng nỗi nhớ và niềm khao khát:

“sông ma xa rồi, đi về hướng tây!

nhớ rừng, nhớ chơi vơi

saigon khao khát được lấp đầy đội quân mệt mỏi

mường ngắt hoa vào ban đêm ”

hình ảnh con sông Mã vừa thơ mộng, trữ tình nhưng cũng ẩn chứa những nét hoang sơ, hung dữ. không phải văn hóa, cũng không phải con người, điều đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là hình ảnh sông nước Tây Bắc như một biểu tượng cho mọi cảm xúc nhớ nhung. từ nỗi nhớ ấy, tiếng gọi: “đi về hướng Tây” không kìm nén được mà bật ra một cách mạnh mẽ. tiếng “ơi” ở cuối mỗi dòng như vọng lại, kéo dài dư âm của nỗi nhớ, lan tỏa khắp không gian và thời gian. nhưng càng nhớ, càng thương anh, càng hằn sâu nỗi đau hiện thực giờ sông Mã và Tây Bắc đã “xa vắng”. Đó là một thực tế bất khả xâm phạm, rằng các chiến binh phương tây sẽ rời bỏ vùng đất quen thuộc này để trở về thành phố và xây dựng cuộc sống mới.

Tiếp nối dòng ký ức ấy là hình ảnh cuộc hành quân gian khổ, bất khuất của đoàn quân miền Tây. sai khao, muong lat, muong hich là những địa điểm xa lạ và mới mẻ của các chàng trai Hà Thành. nhưng không phải vì khó khăn, không phải vì chưa quen mà vì quyết tâm đi theo tiếng gọi của Tổ quốc. con đường của cuộc hành quân dường như đầy thử thách và nguy hiểm. đó là hành trình vượt qua lớp sương mù giăng kín đường, vượt đèo, lội qua những địa hình hiểm trở.

“đi lên một khúc cua dốc

heo hút mây, súng ngửi trời

một nghìn mét trên, một nghìn mét dưới

nhà ai mưa xa ”

Thiên nhiên Tây Bắc luôn khốc liệt và khắc nghiệt theo từng chặng đường diễu hành qua đây. đặc biệt, quang dung còn rất tinh tế khi sử dụng hàng loạt từ ngữ tượng hình giàu sắc thái diễn đạt: “sâu thẳm, rắn rỏi, quanh co” để gợi lên những khó khăn của con đường đi bộ. đó là dốc cao, núi thẳng, đèo sâu như thách thức, đe dọa tính mạng con người. chủ sở hữu cần một chút bất cẩn quá khiến người ta phải trả giá bằng mạng sống của họ. đó là thực tế của cuộc kháng chiến và cũng là thực tế của chiến tranh vô nghĩa.

“người bạn cáu kỉnh không còn đi lại nữa

ném súng và quên đi cuộc sống!

buổi chiều gầm thét hùng vĩ

vào ban đêm khi những con hổ làm trò cười cho con người ”

Trên hành trình ấy, đôi khi bước chân chùn bước, mệt mỏi và gục ngã. đó có thể là giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của người lính sau bao khó khăn, gian khổ nhưng cũng có thể là khoảng thời gian xa cách cõi đời. họ không vì mạng mà “quên mình”: một con người thực sự bình đẳng, dũng cảm bước ra từ khói lửa chiến tranh. Quang dũng vô cùng tinh tế khi sử dụng cách nói giảm nói để khi mất mát họ không thấy xót xa, đau đớn. trong câu thơ chỉ có khí thế của một tinh thần chiến đấu kiên cường và một tâm hồn lạc quan, yêu đời, hết lòng vì đất nước, vì dân tộc. xung quanh nơi dừng chân của đoàn quân phía tây luôn tiềm ẩn những nguy hiểm rình rập. đó là bước chân của hổ dữ, chứa vua rừng, tiếng gầm dữ dội của thác nước. thiên nhiên vĩ đại là người bạn ở mọi bước của cuộc hành trình, nhưng đồng thời cũng là kẻ thù nguy hiểm đối với chiến binh phương tây.

<3

“Hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa em thơm mùi xôi ”

Tiếng gọi “nhớ ơi” không còn vang lên tha thiết như trên, nỗi nhớ giờ day dứt và cuộn sâu trong trái tim người lính. hình ảnh cuộc sống bình dị của con người hiện lên đầy yêu thương, ấm áp trong tâm hồn người lính trẻ. ẩm thực giản dị, khói thơm gợi nhớ về cuộc sống bình lặng và hạnh phúc.

“Doanh trại bốc cháy

này, bạn mặc chiếc áo vào lúc nào vậy?

chơi giai điệu của một cô gái nhút nhát

âm nhạc về người chăn cừu xây dựng nên hồn thơ ”

Ánh sáng của đêm hội đuốc hoa đã soi sáng tâm hồn những người lính, tiến gần đến sợi dây gắn kết cuộc đời người khác thành đồng chí, đồng bào, chỗ dựa vững chắc trên con đường lịch sử dân tộc. Những “em” thiếu nữ Tây Bắc xúng xính váy hoa, múa những điệu múa truyền thống làm say đắm lòng người? Giữa những căng thẳng của cuộc kháng chiến, những người lính vẫn hòa mình vào niềm lạc quan, yêu đời, tận hưởng không khí vui tiệc tùng của người dân Tây Bắc.

XEM THÊM:  Vợ nhà thơ Nguyễn Duy từ trần: Ứa nước mắt mà yêu nhau trọn vẹn…

“Những người đi đến xứ sương mù vào buổi chiều mù sương ấy

bạn có thể thấy linh hồn đang dọn dẹp bờ biển

hãy nhớ hình vẽ trên cột điện

nước lũ cuốn trôi những bông hoa ”

Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây tiến nơi đây đắm chìm trong khung cảnh thơ mộng, trữ tình. Hình ảnh thiên nhiên hiện ra trong ánh chiều tà với dòng sông, cây sậy đung đưa trong gió và hình bóng một con người nhỏ bé. đứng giữa đại ngàn, con người trở nên nhỏ bé, cô đơn trên chiếc xuồng, lặng lẽ trôi, gợi chút buồn man mác. cảnh sông nước thường gợi cảm giác cô đơn mênh mông, pha chút sầu muộn. đó là cảnh buồn hay lòng người đầy nỗi buồn. “Những người hạnh phúc không bao giờ hạnh phúc” (nguyen du).

sau những giây phút lãng mạn, nhạc điệu của bài thơ lập tức làm sống lại không khí bi tráng, tàn khốc của cuộc chiến tranh phi nghĩa. đó là:

“quân tây không mọc tóc

quân xanh mạnh mẽ

đôi mắt rực rỡ gửi những giấc mơ qua biên giới

đêm mơ trong cảnh đẹp thơm ngát của thành phố Hà Nội

biên giới rải rác và những ngôi mộ xa

ra chiến trường không tiếc đời xanh

người thay quần áo, tôi trở lại trái đất

sông ngựa gầm vang cùng một bài hát ”

Vào chiến trường, những chàng trai thành phố đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách không chỉ bởi thiên nhiên, mà còn trong cuộc sống hàng ngày. căn bệnh khiến những người lính xanh xao, hốc hác, tóc không mọc được. quang dung đã thấu hiểu và đưa vào thơ hiện thực tàn khốc của cuộc kháng chiến trường kỳ, gợi cho ta nhớ đến bệnh sốt rét rừng trong lời thơ của “đồng chí” chính nghĩa:

“Bạn và tôi đều biết cảm giác ớn lạnh

trán đẫm mồ hôi lạnh ”

sự thương tiếc được đưa lên một tầm cao hơn khi nhà thơ khắc họa hình ảnh “tấm áo quan phục anh về trần gian”. Không mất mát, không phải gục ngã, người lính ấy đã trở về quê hương sau bao ngày tháng anh dũng chiến đấu. đây chỉ là giây phút để bạn nghỉ ngơi và trở về nơi bạn đã sinh ra và lớn lên. bài thơ vẫn thể hiện niềm lạc quan và niềm tin vào tương lai của đảng và cách mạng. hình ảnh con sông ma lại hiện lên trong sự dữ dội, dữ dội. dòng sông gầm thét hay khúc ca dài ca ngợi tiễn biệt những người lính trẻ. họ đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình để giữ gìn nền hòa bình, độc lập của đất nước: “ra chiến trường không tiếc đời xanh”. đó là tinh thần chiến đấu anh dũng, cao thượng, chí khí cao cả của người lính năm xưa.

“đi về phía Tây mà không cần hẹn trước

đường lên đỉnh sâu và bị chia cắt

ai đã đi về phía Tây vào mùa xuân đó

linh hồn sẽ không trở lại. ”

chốt lại bài thơ, quang dung dành tặng những vần thơ ngọt ngào, chậm rãi cho bộ đội miền tây và đồng bào nơi cực Tây Tổ quốc. vào chiến trường không ai biết trước được tương lai, không hẹn ngày gặp lại, để lại nỗi nhớ khôn nguôi cho người ở lại, kẻ đi. phương Tây tiến bộ là tuổi trẻ, bạn đồng hành và lý tưởng của tuổi trẻ theo ánh sáng của đảng.

Bằng sự từng trải, nắm bắt hiện thực và ngòi bút hiện thực lãng mạn xuất sắc, Quang Dũng đã tái hiện trước mắt người đọc không khí hào hùng, oanh liệt của thời chống Mỹ. Bài thơ đã góp phần đưa Quang Dũng trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của nghệ thuật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975.

Cảm nhận bài thơ miền Tây, bài số 4

Cho đến nay, phía Tây vẫn là một đài thơ mộng bí ẩn. ma lực, âm hưởng thơ ca phương tây … không ai có thể lý giải hết được. Phải chăng vì ca từ, ý thơ, hình ảnh thơ giàu nhạc tính đã chứa đựng trong đó một hồn thơ rất mới mẻ, sâu lắng? con người nồng hậu, bút pháp tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã tạo nên một kiệt tác của thơ ca miền tây. Với Miền Tây, Quang Dũng đưa ta vào một thế giới đầy mùi hoài cổ, của những ảo ảnh ma mị. Với miền Tây, Quang Dũng đã xây dựng tượng đài người lính năm xưa trong cuộc kháng chiến 9 năm đầy gian khó nhưng rất đỗi hào hùng.

“Tây tiến” được viết nên từ một hồn thơ khoáng đạt và hào sảng. chính vì lẽ đó mà mỗi câu, mỗi chữ của tác phẩm đều thấm đượm một chất trữ tình vừa trẻ trung, vừa giàu tình cảm, yêu thương đồng bào. Bài thơ được khơi nguồn từ những cảm xúc trong giây phút nhà thơ chia tay đơn vị và đồng bào Tây Bắc tại bản Lựu Chanh. chính nỗi nhớ, sự lưu luyến của tình cảm đã trào dâng ngòi bút của người nghệ sĩ. bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa hiện thực và lãng mạn, “tiên sinh khí phách hiên ngang vinh hoa phú quý” (trần lê văn).

Mở đầu bài thơ, nhà thơ miêu tả trước mắt người đọc cuộc hành quân gian khổ, bất khuất của đoàn quân miền Tây qua vùng đất cực Tây của Tổ quốc.

“sông ma xa rồi, đi về hướng tây!

hãy nhớ những ngọn núi, hãy nhớ chơi với chúng.

Hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là sông ma và núi rừng Tây Bắc. Nó không còn chỉ là đất, là sân khấu mà giờ đây đã trở thành ký ức không thể phai mờ, là điểm đến của nỗi nhớ. cái gọi là “hướng Tây” dường như trải dài khắp không gian và thời gian, giải tỏa bao nỗi nhớ. Đó là Nỗi Nhớ Chơi vơi: Một sáng tạo độc đáo từ chính ngôn từ của Quang Dũng. với nhà thơ, nhớ về miền tây không dữ dội, nhấp nhô mà là những dư âm mênh mông, nghiêm trang và xao xuyến. nhưng giờ đây tất cả chỉ còn là kỉ niệm bởi “non sông gấm vóc” – đó là nhận thức của nhân vật trữ tình về hiện thực phũ phàng, phũ phàng, nhưng càng đi xa, nỗi nhớ lại càng đong đầy, day dứt. nỗi nhớ ngày càng hiện rõ qua nỗi nhớ của nhà thơ.

“xin lỗi vì đã hỗ trợ đội quân mệt mỏi

Muông hoa lát trở về vào ban đêm

đi lên một khúc cua dốc

heo hút mây, súng ngửi trời

một nghìn mét trên, một nghìn mét dưới

nhà ai ở xa đang mưa. ”

cuộc hành quân của đoàn quân miền Tây trải qua muôn vàn khó khăn, trở ngại và bản lĩnh, vô cùng tinh tế khi sử dụng hàng loạt tính từ “ngoằn ngoèo, sâu thẳm, rắn rỏi” để miêu tả. độ cao và độ sâu của đèo cao dốc về phía Tây Bắc. . Họ phải hành quân qua màn sương mù dày đặc che khuất tầm nhìn, họ phải vượt qua những con dốc, đèo cao, vực sâu thăm thẳm. Dường như chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể khiến bất cứ ai phải trả giá bằng mạng sống. những địa danh “sai khao, mường vĩ, pha chế, mường hách” có vẻ mới mẻ và xa lạ đối với các chàng trai Hà Thành. nhưng những khó khăn đó không ngăn cản được họ. trong bài thơ ta còn thấy phảng phất một tâm hồn bồng bột, lãng mạn. Trong những đêm hành quân gian khổ, họ vẫn nghĩ về hoa và mái nhà, từ đó thấy được tâm hồn trẻ trung, lạc quan, không bỏ cuộc trước khó khăn của người lính.

“người bạn cáu kỉnh không còn đi lại nữa

Hãy đội mũ bảo hiểm và quên đi cuộc sống! ”

Trên hành trình gian khổ ấy, có những người lính vì quá mệt mỏi đã cúi đầu gục đầu bên vũ khí. đó có thể là giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của những người lính sau một thời gian mệt mỏi, nhưng cũng có thể là giây phút họ tạm biệt thế giới. Nói đến lòng nhân ái, Quang Dũng không gợi cảm giác xót xa, rùng rợn mà vẫn toát lên tinh thần yêu đời, lạc quan yêu đời. họ không gục ngã trước bom đạn kẻ thù mà chỉ đơn giản là rời bỏ thực tại đen tối để “quên đời”. trong câu thơ, người ta thấy một chút gì đó ngang tàng, ngạo nghễ nhưng tràn đầy sức trẻ đặc trưng của những người lính ra trận.

“không đeo kính, có bụi,

tóc rắc bột trắng như cũ ”

“Không đeo kính, áo sơ mi của tôi ướt sũng

mưa, mưa xối xả như ngoài kia ”

( bài thơ về tiểu đội không kính – pham tien duat)

Dù ở thời điểm nào, tinh thần kiên cường, lạc quan luôn soi đường cho tinh thần của người lính. Không chỉ đối mặt với địa hình hiểm trở mà tính mạng của người lính còn bị thú dữ đe dọa:

“một buổi chiều hùng vĩ gầm rú

vào ban đêm khi những con hổ làm trò cười cho con người ”

không gian “chiều, đêm” gợi cảm giác u ám, u ám. giữa không gian ấy, nơi đóng quân của miền Tây sau những ngày chiến đấu ác liệt, anh luôn bị vây quanh bởi tiếng kêu dữ dội và tiếng bước chân lẩn khuất của con hổ dữ. chúng luôn ở xung quanh, đe dọa tính mạng của binh lính chúng ta. vượt qua bao hiểm nguy, tâm hồn người lính miền Tây vẫn hướng về những mái nhà, ngọn lửa ấm tình quân dân:

“Hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa em thơm mùi xôi rồi ”

Không còn là tiếng gọi “nhớ” mênh mang, tha thiết như trên, giờ đây, nỗi nhớ miền Tây đã quặn thắt, dội về trong lòng nhân vật trữ tình. trong nỗi nhớ ấy hiện lên hình ảnh những gian bếp nghi ngút khói, những hàng mai dịu dàng, ấm áp lạ thường. đặc biệt hơn nữa là có “bạn” ở đó. Thật khó để giải thích bạn là ai ở đây, một cô gái nghĩa tình đến từ Tây Bắc, một người yêu đang đợi ở quê nhà, hay những người dân tộc đang chờ tin chiến thắng trở về. Dù là ai, anh cũng là một phần tâm hồn người lính, là hậu phương vững chắc để yên tâm ra trận, giữ hòa bình, thống nhất đất nước.

Tâm hồn những người lính trẻ luôn vang mãi âm vang của đêm tiệc tưng bừng nơi mảnh đất Tây Bắc.

“Doanh trại bốc cháy

này, bạn mặc chiếc áo vào lúc nào vậy?

chơi giai điệu của một cô gái nhút nhát

âm nhạc về người chăn cừu xây dựng nên hồn thơ ”

Đối với mọi người, đây có thể là một đêm tiệc bình thường và vui vẻ, nhưng đối với dũng sĩ quang thì nó còn ý nghĩa hơn thế. là miền ký ức khó quên, là thời gian quý báu gắn kết tình quân dân, tiếp thêm sức mạnh cho đoàn quân ra trận. đêm hội náo nhiệt và sôi động với đuốc hoa, đốt lửa và những vũ điệu mê hồn. chỉ một từ “bập bùng” cũng đủ làm bừng sáng và thắp lên ngọn lửa niềm vui trong lòng những người lính xa quê. Họ rời quê hương vì nghĩa lớn, họ được đón nhận bằng tất cả tình yêu thương và sự nồng hậu của người dân Tây Bắc.

Trong không gian đó, hình ảnh “bạn” lại xuất hiện. có lẽ đó là những nét dịu dàng, đằm thắm của Tây Bắc trong trang phục dân tộc, những điệu múa truyền thống, là nguồn cảm hứng cho tâm hồn bao người nghệ sĩ. ấm lòng người chiến sĩ, bồng bềnh theo khói lửa, dựng nên bao mộng tưởng đẹp đẽ. đọc đến đây, dừng lại như hoàn toàn không có không khí bom rơi đạn nổ, họ đang sống những giờ phút tươi đẹp nhất của cuộc đời. sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên sự lãng mạn của trái tim con người.

sau đó, sau những giây phút sung sướng, họ chìm vào trầm tư khi đứng trước sự bao la của sông nước Tây Bắc.

“Những người đi đến xứ sương mù vào buổi chiều mù sương ấy

bạn có thể thấy linh hồn đang dọn dẹp bờ biển

hãy nhớ hình vẽ trên cột điện

nước lũ cuốn trôi những bông hoa ”

Cảnh vật trông thật thê lương, từ xế chiều đến không gian mênh mông hiu quạnh của dòng sông. giữa cái mênh mông và vô tận của đất trời chỉ hiện lên hình ảnh một người đàn ông trên chiếc xuồng. thật nhỏ bé, thật cô đơn và thật buồn. trong dòng nước, chỉ có những cánh hoa được nước mơn trớn, cành sậy rung rinh trước gió. Nước bỗng chậm lại hay lòng người bỗng sâu hơn và cô độc hơn? Nỗi buồn của cảnh có thấm vào lòng người hay nỗi buồn của con người tô màu cho cảnh?

nguyen du từng nói quả không tồi: “khi buồn người ta vui ở đâu?”. đứng trước sông nước Tây Bắc, người lính nghĩ đến dòng sông quê hương, nghĩ đến nhịp sống quê mình mà lòng nao nao nhớ nhà. những người lính ra trận không chỉ mang trong mình nhiệt huyết tuổi trẻ, tình yêu quê hương đất nước mà còn đầy ắp nỗi nhớ quê hương da diết. họ còn trẻ nhưng cũng đầy những chiêm nghiệm sâu sắc.

bước sang những câu thơ sau, vẻ đẹp dũng mãnh, dữ dội và bi tráng của người lính miền Tây được khắc họa rõ nét bằng lòng quả cảm.

“quân tây không mọc tóc

quân xanh mạnh mẽ ”

Nhà thơ đã sử dụng một cách khéo léo phép nói giảm trong việc miêu tả cuộc sống của người lính Tây Tiến. họ phải đối phó với căn bệnh sốt rét rừng khiến da xanh xao và không cho tóc mọc. hình ảnh này gợi cho chúng ta nhớ đến những câu thơ của “đồng chí”:

“Bạn và tôi đều biết cảm giác ớn lạnh

trán đẫm mồ hôi lạnh ”

Bệnh sốt rét rừng là một mối đe dọa nguy hiểm đối với binh lính, vì nó làm họ mệt mỏi và kiệt sức cả về thể chất lẫn tinh thần. nhưng viết về hiện thực ấy, nhà thơ vẫn ánh lên một tia lạc quan và nghị lực. những khó khăn và bệnh tật này không thể làm họ suy tàn hay dập tắt ngọn lửa căm thù đang bùng cháy đối với kẻ thù.

“Đôi mắt quyến rũ gửi những giấc mơ qua biên giới

đêm mộng mơ ở Hà Nội đẹp đẽ và thơm ngát ”

trong mọi trường hợp, tâm hồn họ cứ bay bổng theo tiếng gọi của khát vọng, của sự lãng mạn tuổi trẻ. tinh thần của người chiến sĩ luôn hừng hực, hừng hực khí thế, không ngừng mơ đến ước mơ chiến thắng, ước mơ lập lại hòa bình, thống nhất đất nước. Và điểm tựa của mỗi khát vọng ấy luôn mang hình bóng của người con gái Hà Nội yêu dấu. Những người lính đoàn Tây Tiến đều quê ở Hà Nội, thủ đô hoa lệ, nhưng họ gác lại mọi chuyện riêng tư, lên đường cứu nước. trong lòng vẫn nhớ mãi hình ảnh quê hương bên những người thân yêu. họ là động lực cách mạng của mọi cuộc kháng chiến.

khó khăn và mất mát tiếp tục bày ra trước mắt độc giả. viên bi một lần nữa tạo ra thặng dư là ba.

“những biên giới rải rác và những ngôi mộ xa xôi

ra chiến trường không tiếc đời xanh

người thay quần áo, tôi trở lại trái đất

sông ngựa gầm vang cùng một bài hát ”

Những chiến binh phương Tây đều là những chàng trai trẻ rời phòng họp và từ bỏ hoài bão tuổi trẻ để đi cứu nước. bước vào trận chiến, không ai dám chắc mình sẽ sống sót hay chết nhưng họ vẫn quyết tâm ra đi, và có lẽ nhiều người đã lưu lạc nơi xứ lạ. họ đã nằm xuống giữa vùng đất xa lạ, nhưng đó là sự hy sinh quý giá cho một thứ thân thuộc và cao cả: đất nước. không ký ức hay chôn cất, mọi thứ theo họ ngay khi đi ngủ chỉ là ánh hào quang của những người đồng đội cùng chung lý tưởng. họ trải chiếu cho mình, họ cũng tự đắp cho mình một tình yêu, một lời chia tay chân thành nhất. “trở về trái đất” – ba từ nghe đơn giản và quen thuộc. họ không chết, họ chỉ đơn giản là trở về quê hương, về nơi họ đã sinh ra và gắn bó với cuộc đời mình. dòng sông ma đã đón nhận họ một cách mãnh liệt, và cũng chính dòng sông ma đã đưa tiễn họ: “sông ma gầm thét khúc quân ca lẻ loi”.

Cả tuổi thanh xuân của họ đã cống hiến hết mình cho đất nước, nên khi trở về quê hương, họ cũng hiên ngang bước đi giữa cuộc hành quân Tây Bắc hiu quạnh. bài thơ không bi lụy mà thâm thúy hào hùng, oai phong lẫm liệt.

“đi về phía Tây mà không cần hẹn trước

đường lên đỉnh sâu và bị chia cắt

ai đã đi về phía Tây vào mùa xuân đó

linh hồn của kẻ lang thang không trở lại ”

kết lại bài thơ là lời hứa, là ước mong được trở lại mảnh đất Tây Bắc của nhân vật trữ tình hay quang dung. Dù xa xôi nhưng là nơi lưu giữ tuổi thanh xuân vang dội, nơi lưu giữ một phần tâm hồn của mỗi người lính. có phải vì thế mà dù đi xa nhưng tâm hồn vẫn lưu luyến nơi đây:

“khi bạn ở lại, đó chỉ là một nơi để sống

Khi tôi xuống đất, linh hồn tôi trở thành linh hồn ”

tran van đã từng nhận xét: “tây tiên là nam tử tiên sinh mạnh mẽ, dũng mãnh trong cuộc đời vinh hoa phú quý”. thực ra bài thơ là một khúc tráng ca vừa hào hùng, vừa lãng mạn, sâu lắng. Qua đó, người đọc thấy được tài năng trong lối viết và tình yêu tha thiết, chân thành của nhà thơ đối với quê hương, đất nước.

một số ý kiến ​​hay khác về nhà thơ quang dung và bài thơ phương tây

Bạn có thể sử dụng các câu sau trong bài phân tích và cảm nhận của mình để củng cố và làm rõ luận điểm của mình về tác giả và công việc mà họ làm trong bài viết.

– “Quang dũng là một nhà thơ Hà Nội, một nhà thơ Việt Nam, một nhà thơ của thời đại.” (Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội)

<3 (nhà thơ nguyễn thanh kim)

– “làn khói tài hoa có thể lột tả được sự dữ dội, anh hùng, đồng thời thể hiện sự tươi mới, sâu lắng, đau đớn mà không buồn.”

– “… bài thơ” Tây tiến “không chỉ là bài thơ tiêu biểu của sự nghiệp văn thơ vẻ vang, nó còn là niềm vinh dự, trở thành một” danh hiệu “nổi tiếng của một trung đoàn bộ đội. Bài thơ đã được khắc trên bia của đá., bia tưởng niệm các liệt sĩ và ghi chiến công của trung đoàn 52 miền tây tiến công mai châu ”. (thơ văn dài)

– “cảm xúc xuyên suốt cả bài thơ là nỗi nhớ: nhớ núi rừng, nhớ chơi vơi… qua nỗi nhớ ấy, cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội hiện lên như một bức tranh. (gs.nguyen dang mạnh).

– “Tây tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh” (vu thu huong)

– “… về hướng tây … nơi người dân miền tây, bộ đội miền tây, núi rừng miền tây đã vượt ra khỏi những cảm nhận ban đầu của tâm hồn thi sĩ dũng quang để đến với vĩ đại Nơi ấy, dòng chảy của cái lạnh và cái tình, cái hiện thực và cái lãng mạn, cái bi tráng và chất lãng mạn, một cuộc Tây tiến không chỉ đọng lại trong hoài niệm bước chân người lính … tất cả gợi ấn tượng về cái lạ, cái đẹp huyền ảo khó gọi tên … “(Đinh minh hằng,” vẻ đẹp văn học cách mạng “)

Xem một số chủ đề mở rộng:

  • so sánh hình ảnh đoàn quân ở tây bắc việt nam
  • so sánh thiên nhiên hiện ra tây bắc việt nam
  • cảm nhận vẻ đẹp khác nhau của tây bắc thiên nhiên ở phương tây

Hi vọng dàn ý chi tiết và tài liệu tham khảo cảm nhận bài thơ miền tây của quang dung sẽ giúp các bạn hoàn thành bài làm của mình một cách đầy đủ và thuận lợi nhất. . Ngoài ra, các em có thể tham khảo nhiều bài văn mẫu 12 khác được cập nhật thường xuyên tại doctailieu.com. Chúc các bạn luôn học tốt và đạt kết quả cao!

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Cảm nhận bài thơ Tây tiến của Quang Dũng | Top 4 bài văn hay chọn lọc. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *