Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
412 lượt xem

Tiểu sử Nguyễn Du

Bạn đang quan tâm đến Tiểu sử Nguyễn Du phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Tiểu sử Nguyễn Du

tiểu sử của nguyễn du

Nguyên du tên tự là như, biệt hiệu là thanh hiền, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, tức ngày 23 tháng 11 năm dậu, tại phường bạch cau – thăng long. Sinh ra tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, làm quan Đại phu nhiều đời dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. đó là một gia đình có truyền thống yêu văn học và nghệ thuật.

Cha ông tên là nguyen nghiem, ông sinh ra tại làng Tiền Điện, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. ông tên tự là hy di, hiệu nghi hiền, biệt hiệu là cư sĩ hồng nhan, đỗ tiến sĩ, làm công chức. đại tu (tể tướng), tức là thừa tướng của triều đại nhà Lê. mẹ cô ấy là cô ấy. Trần Thị Tần (1740 – 1778), con gái kế, quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (nghìn Động), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. The Mrs. Qin là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiem, bà có tài ca hát. Năm Định Hợi (1767), khi Nguyên Du mới một tuổi, Nguyên Nghiêm được phong làm Thái tử, Thái tử, hàm Đệ nhất đẳng, tức là mùa Xuân công tước, nên Nguyên Du lúc đó. thời gian anh ấy sống trong sự giàu có.

nhà thơ lớn nguyễn du.

vào năm Mậu Tý (1780), Nguyên khanh là anh ruột của Nguyên Du, đang giữ chức Đốc trấn Sơn Tây, bị kết tội âm mưu vào năm Canh Dần, bị cách chức. buộc tội và giam ở nhà Quận công. Lúc bấy giờ, Nguyễn Du được một người họ hàng của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuân, người Sơn Nam Hạ (Nam Định) nhận về nuôi nấng, ăn học. Năm Nhâm Dần (1782), trinh nhân mất, hào kiệt lên ngôi, lập Trinh Tông lên ngôi. Hai người em của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được bổ nhiệm làm thượng thư bộ (tức là toan bộ công), còn Nguyễn Diêu làm tổng đốc Sơn Tây.

Năm Quý Mão (1783), Trạng nguyên khoa sơn nam, đỗ Tam giáp (Trung học). Ông được gả con gái cho Đoàn Nguyên Thục và được huấn luyện để trở thành người đứng đầu đội quân hùng mạnh của cha nuôi ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này, ông cùng mẹ Nguyễn Du là Nguyễn Đệ (sinh năm 1761) đỗ đầu khoa thi hương ở cung Phụng Thiên (Cử nhân), Nguyễn Khản được thăng Thiếu bảo đầu năm, cuối năm. năm được thăng chức để thực thi pháp luật. Tháng 2 năm 1784, hào quân khởi nghĩa, tôn Hoàng Tôn Lê Duy lên làm thái tử. Tư dinh của nguyen khanh ở quận bạch cầu, thang long, bị phá bỏ, nguyen khan phải đi ở ẩn và sống với anh trai của mình là nguyen dieu, cai quản sơn tay. Năm 1786, Nguyễn Khản lâm bệnh và mất ở Thăng Long. Năm 1789, Nguyễn Huệ Đại phá quân. Đoàn Nguyễn Tuân hợp tác với triều Tây Sơn, làm quan đến chức Thị lang. Hiện giờ Nguyễn Du đã về quê vợ (Quỳnh Ori, Thái Bình).

XEM THÊM:  Những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Victor Hugo nên đọc

Tháng 10 năm Tân Mão (1791), người anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh bị bắt và bị giết vì kháng chiến với Tây Sơn, dinh thự của họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị quân tây phá hủy. . Năm 1793, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền, cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh trai là Nguyễn Đệ đang làm thái tử ở viện tư và người em ruột của mình. pháp luật. -law, doan nguyen tuan. Năm 1794, Nguyễn Đệ được thăng tả hữu bộ binh, vào Quy Nhơn làm Đốc binh. Năm 1795, chúa Nguyễn đến Yên Kinh với tư cách sứ thần dự lễ thoái vị của Hoàng đế Càn Long nhà Thanh. năm 1796, ông trở lại được thăng chức vào hội đồng cánh tả của ủy ban trung ương của cơ quan vận động hành lang.

Mùa đông năm Kỷ Hợi (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo lệnh của Nguyễn Ánh, nhưng Quận công Nguyễn Thận bắt giam ông ở Nghệ An ba tháng. sau khi được trả tự do, anh ta trở về sống ở tien dien. trong thời gian bị giam cầm, ông đã viết những bài thơ lấy cảm hứng từ trái tim tôi (cảm hứng trong tù). Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du làm quan ở huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, thành phố Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Vài tháng sau, ông được thăng làm phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm 1803, Nguyễn Du được cử vào ải Nam Quan để tiếp sứ nhà Thanh tâu vua Gia Long. năm 1805, ông được thăng Đông các đại học sĩ (ngũ phẩm), tức là du đức hầu, nhậm chức Đô ngự sử. năm 1807, ông được bổ nhiệm làm thẩm phán cho việc kiểm tra trầm hương trong đại dương. mùa thu năm 1808, ông xin về quê. Năm 1809, ông được bổ nhiệm làm Tổng đốc (Đệ tứ) ở Quảng Bình. năm Quý dậu 1813, thăng tham chính, được cử đi sứ nhà Thanh làm chánh sứ. năm 1814, đi sứ về, ông được thăng chức Tham tri bộ Lễ. Năm Bính Tý (1816), anh rể của ông là Nguyên du là vu trinh vì liên quan đến vụ án của cha con tổng đốc Nguyễn Văn Thành nên bị đày ra Quảng Nam.

Năm 1820 (Canh Thìn), Gia Long mất, Minh Mang lên nối ngôi. Khi ấy, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đến nhà báo tang và cầu sắc phong, nhưng chưa kịp ra đi thì bị bệnh dịch, mất vào ngày 10 tháng 8 năm Kỷ Hợi (18 tháng 9). . , 1820) ở tuổi 54 tuổi. Mộ ông an táng tại Làng An, huyện Hương Trà (gần chùa Thiên Mụ). Năm 1824, ông được cải táng và đưa về quê hương Tiên Điền, Hà Tĩnh.

Năm 1965, ông được Hội đồng Hòa bình Thế giới của UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới và quyết định tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông.

XEM THÊM:  Phân tích Truyện Kiều của Nguyễn Du (ngắn gọn, hay nhất)

nguyen du đã sống một cuộc đời đầy bi kịch. Anh xuất thân trong một gia đình quý tộc giàu có, nhưng cơn lốc lịch sử đã quật ngã tất cả những căn bằng tía, đẩy anh vào cuộc sống lưu lạc, lưu lạc, tha hương. nhưng bi kịch lớn nhất là khao khát nghề nghiệp mà anh phải cố gắng thỏa mãn, nhưng cuối cùng anh phải chấp nhận một cuộc sống thường xuyên buồn chán, không hoạt động đam mê liên tục vì bất cứ lý do gì. Nguyễn du đã sống như một người dân thường trong thế giới và vì thế mà đồng cảm sâu sắc với mọi nỗi khổ đau của con người. Nguyễn Du nhìn cuộc đời qua con mắt của một người như thấy mình giữa giông tố cuộc đời, và điều này tạo cho tác phẩm của cô một chiều sâu chưa từng có trong văn học trung đại Việt Nam.

nguyễn du đã để lại một di sản văn học đồ sộ với những tác phẩm xuất sắc, ở tất cả các thể loại ông đều đạt đến độ hoàn thiện ở trình độ cổ điển.

<3 Nam trung tam ngâm vịnh gồm: 40 bài thơ là tập thơ được sáng tác khi ông làm quan với triều Nguyễn (1805 – 1813). bac hanh tap luc bao gồm: 132 bài tập phục vụ nhà vua đứng đầu phái đoàn sang Trung Quốc (1813 – 1814), tổng cộng 250 bài. thơ han có những kiệt tác như: khúc hạ thanh ký, khúc điều thấy (sở hành), khúc hát của người chơi đàn nguyệt (long thành, giả ca), hát rong ở thái. binh (thái lan). giả từ bi), chống lại bài hát “hồi sinh linh hồn” (phản lại bài hát “hồi sinh linh hồn”)…

danh thơ : nguyễn du có hai kiệt tác truyện kiều (đoạn trường tân thanh) gồm 3254 câu lục bát và văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu. viết theo thể song thất lục bát. Ngoài ra, nó còn có một số tác phẩm dân gian như văn tế sống của hai cô gái ở lâu đài, bài thơ về thác nước và lời nói của người thanh niên đội nón lá.

Nguyễn Du là một nhà thơ nhân đạo kiệt xuất với tấm lòng nhân đạo sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện thực một cách mạnh mẽ và sắc sảo. Sáng tác của nguyễn du là sự kết tinh thành tựu chữ Hán và danh ngôn của dân tộc, tổng hợp những tinh hoa của nhiều thể loại văn học để sáng tác truyện kí. Nguyễn du đã có những đóng góp to lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học Việt Nam đạt đến trình độ điêu luyện và cổ điển. từ đó ông xứng đáng được tôn vinh là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Tiểu sử Nguyễn Du. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *