Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
555 lượt xem

Giá trị nhân đạo của tác phẩm vợ nhặt

Bạn đang quan tâm đến Giá trị nhân đạo của tác phẩm vợ nhặt phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Giá trị nhân đạo của tác phẩm vợ nhặt

phân tích giá trị nhân đạo trong truyện Vợ nhặt

hướng dẫn

đề: phân tích giá trị nhân đạo của truyện “anh nhặt được vợ” của Kim lân.

***

phân tích giá trị nhân đạo của người vợ được trân trọng

Năm 1945 đã trở thành một dấu son lịch sử không thể phai mờ đối với mọi người Việt Nam, thời điểm đó không chỉ đánh dấu sự huy hoàng của chiến thắng phát xít, thực dân và lật đổ chế độ Việt Nam mà 1000 năm phong kiến. đưa nước ta trở thành một nước tự do và dân chủ. đó cũng là thời kỳ ghi lại những đau thương, mất mát của dân tộc ta bị giặc ngoại xâm. Sự bóc lột dã man, tàn bạo của bọn thực dân phát xít và phong kiến ​​tay sai đã đẩy hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Trong hoàn cảnh đó, nhà văn Kim Lân đã tạo ra tình huống đi tìm vợ. tình huống này vừa để tố cáo tội ác của bọn bóc lột, vừa thể hiện sự cảm thông đối với nỗi thống khổ của con người, vừa thể hiện niềm tin vào con người: “cuộc sống dù có đau thương đến đâu thì con người vẫn là con người, vẫn thể hiện tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau, Họ vẫn chưa hết khát khao hạnh phúc, tôi vẫn hy vọng vào một tương lai tươi sáng ”. đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản trong một tác phẩm văn học chân chính, nó được tạo nên bởi tình người, sự cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ của con người, biết trân trọng và trân trọng những vẻ đẹp của con người hơn là tin vào khả năng leo trèo.

Vở kịch “nhặt vợ” đã thể hiện niềm xót thương cho cuộc đời bi đát của những người nghèo khổ trong nạn đói. nạn đói được so sánh với một trận lụt kinh hoàng. đường phố tối tăm và xuống dốc: “đói đi như ma”, “không khí còn nồng nặc mùi ẩm mốc của rác và mùi khét của xác người” và đặc biệt nhất là tiếng quạ kêu thảm thiết. Bằng những hình ảnh đau thương của nạn đói, tác giả đã tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít và phong kiến ​​tay sai. chúng đã đẩy con người vào đường cùng của cuộc đời, khiến nhiều người chết đói ..

Tác phẩm còn đi sâu khám phá, nâng niu và trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người. đàn tràng luôn khát khao hạnh phúc, ẩn sau hình ảnh một người đàn ông thô ráp, chỉ biết lao vào công việc là một người đàn ông cũng khao khát tình yêu. trong tình huống kéo xe hàng, anh vẫn pha trò để làm vui cuộc sống, anh nói đùa rằng nếu có người kéo xe với anh thì anh sẽ đãi mình một bữa xôi với chả giò. Cứ tưởng chỉ là trò đùa ngớ ngẩn mà cô ấy ra ngoài đưa đẩy, sau một hồi ăn hết hai cái bánh giò thì người phụ nữ đó đã theo về làm vợ anh. anh cũng nghĩ đến cái đói khủng khiếp đó, liệu có vượt qua được và thêm vợ không, nhưng “tsk”. niềm khao khát hạnh phúc đã khiến anh vượt qua cơn đói của cái chết sắp tới. trên đường về, gương mặt anh vui vẻ lạ thường. Thậm chí, Kim Uni còn đưa tình huống của câu chuyện lên cao trào bằng cách miêu tả khiến khán giả bất ngờ. chính anh cũng không ngờ rằng việc lấy vợ lại dễ dàng như vậy, chỉ với bốn bát bánh mà họ đã thành vợ thành chồng. nên khi đưa vợ về nhà, nhìn thấy vợ ở giữa nhà vẫn còn bàng hoàng. đến bây giờ anh vẫn băn khoăn: “vậy là anh ấy đã có vợ rồi…”. sáng hôm sau, anh thấy tay vợ đã dọn dẹp nhà cửa từ lâu. Anh không ngạc nhiên rằng anh đã có vợ cho đến ngày hôm nay, anh vẫn ngạc nhiên như thể không có. điều đó còn thể hiện ở ý thức bám trụ rất mãnh liệt thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt. Chỉ có một bản án tầm thường mà anh chấp nhận không cần người đàn ông xa lạ này làm vợ anh, coi thường cả ý thức danh dự và nhân phẩm của anh.

Không chỉ vậy, Kim Uni còn đi sâu vào ý thức vun đắp cuộc sống gia đình của mỗi nhân vật. với đàn tràng, anh nhận ra trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với hai người phụ nữ của gia đình. ngày hôm sau tính cách của nhân vật hoàn toàn thay đổi trở nên tử tế, chỉnh tề “nhà cửa ruộng vườn hôm nay đều quét dọn sạch sẽ ngăn nắp. Mấy bộ quần áo rách như tổ đỉa vẫn còn chạy tung tăng, mười mấy năm ở góc nhà bọn họ đã thấy bọn họ đem nhà để.” ngoài hiên Vẫn còn hai cái thùng nước phơi dưới gốc ổi đầy nước Đống mùn kéo dài qua hành lang hát sạch ”. Đó là sự thay đổi đáng kinh ngạc từ thị trấn và cảnh quan đến ngôi nhà vào sáng hôm sau. còn bà cụ tạo thêm niềm tin cho con cháu về những dự định tương lai, gà trống nuôi con, khuyên con cháu giàu khó ba đời, nếu ăn nên làm ra thì con cháu sau này sẽ sung sướng. và cuối cùng, có lẽ tình yêu của bà dành cho con trai và con dâu được thể hiện rõ nét nhất qua hình ảnh bát cháo yến. Mẹ già không còn gì trong hoàn cảnh này, vội vàng chạy vào bếp với vẻ mặt hớn hở bưng nồi cháo cám ra ăn.

kim lân đã soi sáng cho gia đình bà cụ niềm tin và hy vọng vào sự đổi mới. Trong bóng tối đau thương, tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng. dẫu biết lấy chồng là điều không nên xảy ra trong thời buổi đói khát như hiện nay nhưng bà cụ vẫn vui vẻ chấp nhận “thôi thì có duyên với nhau thì mới có phúc”. Kim lan đã khéo léo tìm ra cho bà lão đau khổ một câu nói vừa ẩn chứa sự từng trải của người già, sự bao dung của người mẹ, vừa là quan niệm cao đẹp của người Việt Nam: “dù cay đắng, khổ cực, luôn đón nhận mọi người, luôn kính trọng mọi người “. để rồi khi nhìn lại người vợ nhặt, bà không còn thấy bà là người xa lạ mà đã trở thành một người thân quen: “bà già ngậm ngùi nhìn bà, nay đã là con dâu, bà con trong nhà ”. lòng người mẹ rộng mở đón nhận một người đàn bà xa lạ, nhận cô ta làm con gái, họ hàng, con dâu. bà cũng nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng của các con: “Làm sao con biết được? người giàu ba họ, người khó ba đời. nếu nó lộ ra, con cái của bạn sau này sẽ đến… ”. an ủi con dâu: “Làm mấy mâm cơm cũng được, nhưng nhà mình nghèo khó ai nhận cả. Mừng là con đã hòa thuận rồi. Con đói thế này rồi”. Năm. Các bạn sắp kết hôn ngay bây giờ, vì vậy tôi rất tiếc. ” những lời tâm sự, bao dung của người mẹ đã làm vơi đi nỗi tủi nhục của người vợ. Chỉ một câu đó thôi cũng đủ để một người phụ nữ ngẩng cao đầu bước vào ngôi nhà này với tư cách là vợ và con dâu.

nếu trong vở kịch “chí phèo”, “lão hạc” nhân vật chính muốn giữ nhân phẩm thì phải chết, cái chết tuy đau đớn nhưng lại khiến lòng họ thanh thản hơn. hay chú gà trống ở bãi ngô “tắt đèn” đang lâm vào cảnh túng quẫn vì thuế cao và phải bán sữa cho một cụ già 80 tuổi và cuối cùng chạy quanh quẩn trong bóng tối không biết chuyện gì sẽ xảy ra … trước đó các tác phẩm cách mạng tháng 8 nhiều lần vẫn chưa tìm ra lối thoát cho các nhân vật của nó.

không chỉ vậy, kim uni còn thể hiện niềm tin sâu sắc vào nhân phẩm và lòng nhân từ của con người. Nhân vật của Tràng chỉ là một công nhân trẻ làm thuê để nuôi mẹ nhưng anh sẵn sàng chi tiền cho một người phụ nữ xa lạ với bốn tô bánh. anh hào phóng, rộng lượng và rất chu đáo với mẹ già. sống có tinh thần trách nhiệm. niềm tin ấy còn được thể hiện qua việc nhặt vợ, sự chuyển mình kể từ khi vào nhà. Nếu trước đây, người phụ nữ này cay đắng và tròn trịa, thì bây giờ cô ấy dịu dàng và cư xử đúng mực, nhã nhặn. khi gặp bà cụ chào hỏi, e thẹn. sáng hôm sau, cô ấy đang dọn dẹp nhà cửa. nhất là trong bữa sáng, dù là bát cháo cám nhưng nó vẫn vào miệng dù đôi mắt hơi nheo lại, vì không nỡ bỏ đi niềm vui của người mẹ già khốn khổ ấy. có lẽ biểu hiện sâu sắc của niềm tin vào cuộc sống phải qua bà cụ. bà hết lòng yêu thương con cháu, thương con dâu trong hoàn cảnh này. Không những vậy, bà còn băn khoăn không biết con trai và con dâu sẽ sống ra sao trong những tháng sắp tới. nhưng vượt qua hoàn cảnh đang xảy ra, anh luôn tạo niềm vui trong gia đình bằng những lời khuyên.

XEM THÊM:  Dịch truyện Kiều ra chữ Hán | Sài gòn thứ bảy | Báo Sài Gòn Giải Phóng

Với cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người dân sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Uni đã vẽ nên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết bi thảm của những năm này. từ đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. từ đó chúng ta có thể thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đây.

một số bài văn mẫu về giá trị nhân đạo của người vợ

mẫu 1:

tác phẩm “nhặt vợ” của nhà văn kim lân mang giá trị nhân đạo sâu sắc qua một tình huống có một không hai trong lịch sử đó là tình huống tìm vợ. tác giả cho chúng ta thấy cuộc sống tăm tối của người dân lao động trong nạn đói lịch sử năm 1945 và những khao khát mãnh liệt của họ. giá trị nhân đạo là giá trị tạo nên thành công của một tác phẩm văn học chân chính. nó được tạo nên bởi sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với các nhân vật của mình. những người nông dân nghèo, nghèo khó trong cuộc sống.

Tác phẩm bộc lộ rõ ​​những tình cảm đáng thương đối với kiếp người bi thảm trong nạn đói lịch sử giết chết hai triệu người. Thông qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra nạn đói kém và làm cho nhân dân ta khốn khổ. Câu chuyện được viết tại một khu dân cư, tất cả những người từ khắp nơi trên thế giới cùng nhau đến sống trong một khu định cư mới, trong cảnh nghèo nàn cùng cực của cảnh vật xung quanh và những ngôi nhà lụp xụp. trên đường vào làng, ánh sáng dường như vô cùng mờ ảo, len lỏi qua những người đi lại như những bóng ma. xác những người chết chưa được chôn cất nằm trải dài, bên cạnh những người sống vật vờ không còn chỗ ở, mùi xác chết bốc lên, rồi từng đàn quạ kéo đến khóc lóc thảm thiết. Ngoài ra, tiếng trống đánh thuế vang lên, lũ trẻ ngồi bệt ở góc phố không nhúc nhích vì đói và mệt không còn sức mà chạy.

Trong hoàn cảnh nghèo khó ấy, người ta lại tìm thấy một con người xấu xí như nhân vật, hai mắt nhỏ, hàm rộng, thô kệch làm nghề lái cần cẩu, nghèo khổ sống cảnh góa bụa, mồ côi. giá trị nhân đạo của các câu chuyện còn thể hiện ở niềm tin sâu sắc rằng các nhân vật trong vở kịch tin tưởng vào tương lai và sự thay đổi cuộc đời của họ. nhân vật anh hùng có vẻ ngoài xấu xí nhưng ẩn chứa sự cảm thông, yêu thương người khác, luôn đùm bọc, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khốn khó.

hoàn cảnh éo le nhưng vẫn hào phóng cho cô bốn bát bánh chưng, rồi lần sau gặp anh, cô cũng có vẻ gầy hơn, áo tơi tả cầm theo một cái thúng con. Có lẽ từ lúc đó, trong lòng cô nảy sinh lòng trắc ẩn, muốn cho người phụ nữ kia trông cậy vào mình và cả hai cùng trông cậy vào nhau, cùng cố gắng vượt qua cơn đói này. đó là nhân loại trong tràng con người. trong lúc nạn đói hoành hành, người chết như lá mục, thêm một người nữa là thêm một miệng ăn, nhưng đàn tràng vẫn sẵn sàng cưu mang nàng, đưa nàng về nhà chung sống.

Mẹ của ông lão còn là người có tấm lòng nhân đạo, nhân đạo. cô ấy yêu tôi rất nhiều. bà lão xuất hiện với dáng già lưng còng, mắt mờ, nhìn từ xa đã thấy một người phụ nữ trong nhà mà bà cho là giống con gà. nhưng khi đến gần nhà, thấy người phụ nữ kia đang chào hỏi với bạn, rồi nghe ông già giới thiệu “đây là nhà tôi”, bà cụ không còn chần chừ gì nữa. Tôi cảm thấy hơi tiếc cho số phận của anh ấy và của con trai anh ấy, người ta lấy nhau khi mọi việc suôn sẻ còn tôi lấy chồng trong lúc nghèo khó và túng thiếu. nhưng rồi anh cũng vui vẻ chấp nhận rằng anh suy nghĩ rất tích cực “cứ khó khăn thế này thì người ta có con chứ chỉ có con mình mới có vợ”. bà cụ nhìn mọi thứ rất rõ ràng và tích cực. anh tìm thấy niềm vui nhiều hơn là nỗi buồn khi anh trai tìm được vợ trong thời kỳ đói kém.

Chính người mẹ khốn khổ này đã luôn tạo ra môi trường hạnh phúc cho gia đình để con trai và con dâu được hạnh phúc và phấn đấu vượt qua giai đoạn nghèo khó này. bà cụ tội nghiệp ấy luôn động viên con trai và con dâu. Không ai giàu, không ai khó ba đời, chăm chỉ làm ăn, biết đâu nhờ ông trời thương cho nên mới ổn. Sáng hôm sau, gia đình chị từ khi lấy nhau nhà cửa đã thay đổi hoàn toàn, vườn tược sạch cỏ dại, mọi thứ thực sự là một gia đình dù còn nhiều nghèo khó đơn sơ. nhưng nó vẫn cho thấy rằng đó là một gia đình, ấm áp và chào đón. trong bữa cơm gia đình, hình ảnh nồi cháo cám đã ám ảnh người đọc rất nhiều, nhưng trên mâm cơm đạm bạc nghèo nàn ấy, mọi người đều nói về tương lai, nói về chuyện vui. họ cùng nhau chờ đợi một cuộc sống mới.

giá trị nhân văn của công việc làm nên niềm tin ở những người lao động nghèo khổ, thiếu thốn … đó là bản năng sống, là khát vọng hạnh phúc của mỗi con người. Nó thể hiện tấm lòng nhân đạo, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với người nông dân và nhân vật của ông.

mẫu 2:

“người vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc và độc đáo của kim đơn. truyện kể về một người đàn ông hàng xóm nghèo tìm vợ khi có nạn đói khủng khiếp, người đói đầy đường.

Những câu chuyện vừa phản ánh nỗi đau khổ, khát khao được sống, hạnh phúc của người nghèo, vừa kể lại số phận của những con người trong xã hội cũ, đêm trước khi cách mạng bùng nổ. giá trị lớn nhất của truyện “nhặt vợ” là giá trị nhân đạo.

Từ trước đến nay, trong văn học Việt Nam hiện đại, chưa có tác phẩm nào viết về nạn đói năm Ất dậu, 1945, viết hay và xúc động như truyện “nhặt vợ” của Kim Lân. nguồn cảm hứng của con người dồi dào từ đầu đến cuối câu chuyện.

truyện “nhặt vợ” phản ánh nỗi cơ cực của nhân dân ta và người nghèo năm dậu. nhóm người từ các khu vực phía Nam Nam Định, Thái Bình cùng đội chiếu ôm đến khi thành “xám như ma” nằm rải rác khắp các gian hàng trong chợ. những con quạ đen đậu trên ngọn cây và bay “như những đám mây đen” trên bầu trời. mùi xác chết thoang thoảng khắp xóm. người đói như xác lá. mỗi buổi sáng với ba hoặc bốn xác chết nằm bên vệ đường!

người đói và người đói không đơn độc! hai mẹ con, ngôi nhà “trống không, cheo leo” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. của ngôi nhà là một màn hình bị hỏng. xoong nồi, bát đĩa quần áo vứt bừa bãi trên giường, dưới nền nhà. tài sản khiến cô dâu mới thất vọng thở dài. “Bà cụ” mặt buồn “ông già” bước đi mệt nhoài “, đầu” khẽ ngả về phía trước “với bao nỗi lo toan, vất vả.” Những đứa trẻ phố chợ, trước giờ hư đốn “. , giờ “họ ngồi hờn dỗi góc phố, không động đậy”, trước cửa hàng tỉnh lẻ mấy cô “ngồi”. Đặc biệt là nhân vật “chợ”, cái đói lấy hết không tên, không tuổi, không gia đình, không. anh em ruột thịt. không quê hương. dáng người đáng thương, khốn khổ. quần áo “rách rưới như tổ đỉa” chị “gầy guộc”, mặt mũi cày “xám xịt”, chỉ thấy hai con đường trước làng. là vực thẳm, là cái đói, cái đói đã cướp đi tất cả của anh, nghe chuỗi nói “muốn ăn gì cũng được”, khi anh vỗ túi khoe “bố con” thì hai mắt “sưng vù” ngay lập tức. “thắp sáng”. tình huống ăn một hoặc bốn bát bánh thời điểm, có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng trách, ngược lại rất đáng tiếc. anh ta đói, anh ta đã nhịn ăn nhiều ngày, anh ta cần ăn, anh ta cần sống. Kim Lân thật nhân hậu khi nói về nhân dân, khi nói về cái đói và cái khát của người nghèo.

XEM THÊM:  Nghệ thuật tả cảnh của nguyễn du trong truyện kiều

xóm ngụ cư ngày càng “dột nát, heo hút”, những ngôi nhà thì “canh, tối”, những gương mặt “hốc hác”. bữa cơm đón bạn gái mới của cụ già là một nồi cháo cám. một cô gái ở giữa nạn đói giống như một thứ dùng một lần mà có thể “nhặt được”. chàng cưới không bằng cau, không lá trầu, không có “quýt tám tháng, quýt cưới năm tháng, cau đèo bòng”. khi về nhà chồng, đứng trước mặt mẹ chồng, cô con dâu mới “khép nép”, “cúi mặt vuốt áo rách”. trong đêm tân hôn, tiếng “gào thét” của những gia đình có người mới bị bỏ đói nghe thật chói tai, đau đớn. vào buổi sáng sớm, tiếng trống tài chính vang lên từng hồi “nhanh lên, nhanh lên.” Bằng những chi tiết hết sức chân thực và tiêu biểu, Kim Lân đã thể hiện sự xót thương, lo lắng cho số phận của những người nghèo khổ trước nạn đói khủng khiếp. quý hơn, Người đứng về phía nhân dân, về phía dân nghèo, vạch trần và tố cáo tội ác của bọn Nhật, Pháp, bắt chúng nhổ lúa, trồng đay, bắt chúng phải nộp thuế, bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, gây ra nạn đói chiến tranh năm dậu khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

Truyện “nhặt vợ” đã thể hiện tấm lòng trân trọng hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống nhặt vợ và hoàn cảnh xoay quanh cô bạn gái mới quen. chỉ vài câu “hữu ngôn vô nghĩa”, bộ ba bốn bát bánh bèo mà lại nhặt được vợ! anh nhặt được vợ nhưng cũng phải đánh liều: “thế này, không có đâu!”. Anh cho rằng cây lúa này tự kiếm ăn còn khó, vẫn “đậu”. Trên đường về nhà, người vợ mới tìm được xin phép mẹ già, anh mừng như mở cờ trong bụng. Kim Lân miêu tả ánh mắt và nụ cười vụng về của người con trai để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới tìm được của người vợ. dấu hai chấm “phở không bình thường”. anh “cười toe toét”. mắt “sáng quắc”. đôi khi khuôn mặt của anh ấy đang “chiến đấu với chính nó”.

Hình ảnh cây tràng và chiếc chợ dạo cùng nhau trông thật bắt mắt. cô nàng khoe hai má lúm đồng tiền rồi phì cười và bị thị “quất” bằng câu ngôn tình: “khỉ gió”. hạc cổ tắt ngọn đèn nhỏ, bị người bán mắng: “nhanh thế. bẩn quá!”. những tập này rất hay để nói rằng tình yêu mạnh hơn cái chết.

Cảnh mẹ chồng gặp con dâu mới thật cảm động. vượt qua hủ tục ăn hỏi, cưới xin không mấy mâm cỗ, cụ bà thương người đàn bà xa lạ, thương con, thương thân, chấp nhận lấy một người bạn gái mới: “thôi thì có phận ở đời với nhau, em cũng vậy. hạnh phúc “. tình yêu của anh bao la, anh nghĩ:” Nếu người ta đối mặt với bước khó khăn và đói khổ này, họ chỉ có thể lấy con trai của họ. Nhưng con trai tôi chỉ có thể có một người vợ … “với sự dịu dàng và yêu thương anh ấy gọi là bạn gái mới” con trai “. Lòng đầy thương cảm, bà nói với hai con:” Năm nay đói lắm rồi. Các con lấy chồng ngay, mẹ xót con lắm … “. qua đó hiểu sâu sắc hơn lý lẽ sống. những người lao động nghèo gặp thiên tai đã nương tựa vào nhau, sẻ chia yêu thương, sẻ chia vật chất để vượt qua mọi thử thách, hướng về ngày mai với niềm tin và hy vọng: “ai giàu ba họ, ai khó ba đời …” độc giả cảm thấy rằng ngọn đèn “vàng úa” chiếu từ trần căn lều đêm tân hôn của đôi vợ chồng là ngọn hải đăng của hy vọng và hạnh phúc.

bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất của truyện “nhặt vợ”. bà già gọi nó là “pho mát … ngon.” ông tự hào nói với hai con trai của mình, “xóm chúng tôi thậm chí không có cám để ăn.” qua bữa cháo cám, anh kể đủ chuyện vui vui sau này. cảnh gia đình mẹ con vô cùng “ấm êm” hạnh phúc sau này, vợ chồng, con cái được thưởng thức những bữa cơm thịt, cá thơm ngon hơn nhưng không bao giờ quên được bữa cháo cám sáng hôm ấy. vị cháo cám tuy “đắng” mà ngọt, chan chứa bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi với người dân quê, hiểu sâu sắc tâm lý, tình cảm của họ. Thế hệ mai sau có biết được cái đắng cay của đời cha, cảm nhận được hương thơm của cuộc đời, của tình mẹ, … mà không một món ngon nào có thể sánh được?

kim lan đã nói lên những tình cảm hay nhất, ấm áp nhất về sự đổi đời của người nông dân Việt Nam. mừng vì anh có vợ, lũ trẻ tinh nghịch reo lên: “ông chồng vui tính”. với việc họ có vợ, người dân khu phố chợ cảm thấy “có cái gì đó lạ lẫm và sảng khoái đang thổi vào cuộc sống tối tăm và đói khổ của họ”. bà cụ mừng vì con trai có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tắn “rạng rỡ hơn”. vợ anh trở thành một người phụ nữ “có chừng mực”. Nó giống như bước ra từ một giấc mơ. anh tỉnh dậy với cảm giác “mềm mại bồng bềnh”. hạnh phúc đến không ngờ. việc anh ta có vợ sau một ngày đêm, nhưng “anh ta vẫn ngỡ như chưa có”.

sự thay đổi của cuộc sống cũng được phản ánh trong cảnh quan. mẹ và vợ dậy sớm quét dọn nhà cửa, ruộng vườn. tiếng chổi quét sàn. hai thùng chứa nước đã được đổ đầy nước. Những đống mùn phủ kín các hành lang đã được dọn dẹp sạch sẽ. mẹ chồng, con dâu mới, con trai ai cũng muốn góp sức mình vào việc sửa sang mái ấm gia đình hạnh phúc. họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ về sự sống, hạnh phúc và sự đổi đời. cảm thấy mình đã “thành người”, cảm thấy mình phải có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này!

một chi tiết rất thú vị là sau khi nghe tiếng trống khai thuế, họ báo rằng ở thái nguyên, bắc giang, dân không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật để chia cho dân đói. và nhìn thấy trong tâm trí anh ta “một lá cờ đỏ đang vẫy”. cuộc cách mạng sắp tới. cơn đói sẽ bị loại bỏ. hình ảnh lá cờ đỏ ở cuối truyện không chỉ nêu bật giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan nổi bật, như một điềm báo về một ngày mai ấm no, hạnh phúc.

<3 Có ai tìm được vợ chưa? nạn đói do người Nhật và người Pháp gây ra đã xóa sổ tất cả cuộc sống và nhân phẩm của con người. một chân lý đã được khẳng định: khát vọng tình yêu và hạnh phúc, khát vọng sống mạnh hơn cả cái chết. hương vị ngọt ngào của cuộc sống và tình người ấm áp đã toát lên giá trị nhân đạo của truyện “nhặt vợ” mà chúng tôi trân trọng.

———————————————————————-

»để biết thêm thông tin:

theo bailamvan.edu.vn

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Giá trị nhân đạo của tác phẩm vợ nhặt. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *