Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
681 lượt xem

Giới thiệu về nhà thơ xuân diệu

Bạn đang quan tâm đến Giới thiệu về nhà thơ xuân diệu phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Giới thiệu về nhà thơ xuân diệu

xuan dieu là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học nước ta, ông là một trong những người có công lớn trong sự nghiệp hiện đại hoá nền thơ ca Việt Nam. Hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn một số bài văn mẫu lớp 10: tả cảnh nhà thơ xuân sắc.

Hi vọng với 3 bài văn mẫu về nhà thơ xuân điều dưới đây sẽ giúp các em có thêm nhiều cách làm bài văn miêu tả lớp 10. Sau đây, xin mời các em cùng tham khảo. tài liệu.

bài tường thuật về nhà thơ xuân điều – mẫu 1

xuan dieu là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, một nhà thơ xuất sắc đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp hiện đại hóa nền thơ Việt Nam. anh ấy là một người đàn ông với tất cả trái tim, tất cả tâm trí, tất cả tâm hồn, người nhiệt thành cống hiến cuộc đời mình cho thơ ca, chạy đua với thời gian để giành lấy mọi khoảnh khắc của cuộc sống.

Nói đến xuân sắc (1916-1985), trước hết phải nói đến cuộc đời của nhà thơ. xuan dieu là bút danh, tên thật là ngo xuan dieu. cha là người ngoài xuân thọ, quê ở xã giao nha, nay là thị trấn, huyện can lộc, tỉnh hà tĩnh, đỗ đôi trung học phổ thông, về bình định dạy học, lấy chồng, sinh ra nguyễn thị hiep.xuan dieu in mo boi, tuy phuoc district, Binh Dinh province. Xuân Diệu ở quê mẹ khi còn nhỏ, lên mười tuổi thì sống với cha.

xuan dieu được đào tạo thường xuyên. Khi còn nhỏ, tôi học chữ thảo và chữ quốc ngữ với cha, sau đó tôi học trường Bưởi (Hà Nội) và trường Khải Định (Huế).

Năm 1940, Xuân Diệu đậu chức y tá Ty kinh chính và về Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) làm việc. Sau 4 năm làm công chức, anh xin nghỉ việc và chuyển đến Hà Nội kiếm sống bằng nghề viết văn. xuan dieu là người đứng thứ hai sau tan da, một người dám sống hết mình với sự nghiệp văn chương cao đẹp.

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu hăng hái tham gia các hoạt động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến. Năm 1948, Xuân Diệu được bầu vào ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Sau đó, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 1, 2, 3 (1957-1985). Ông được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ Báo chí (1983).

Xuân Diệu được nhận Giải thưởng Nhà nước Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt I – 1996).

sự thành công của xuân khảo được quyết định bởi nhiều yếu tố, nhưng không thể không kể đến ảnh hưởng to lớn của nhà thơ đối với sự nghiệp văn học của ông.

Xuân Diệu là một người có tinh thần lao động nghệ thuật say mê và bền bỉ từ nhỏ “cha ngoài, mẹ trong – cô thợ quàng khăn đỏ”. Xuân Diệu trước hết học được ở người cha, người thợ thủ công đức tính cần cù, nhẫn nại trong học tập, rèn luyện thành tài và lao động nghệ thuật. vào mùa xuân, học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo đồng thời là cam kết khắc khổ, là lý do sống và đam mê lớn.

người lu từng nhận xét về xuan dieu: “một tâm hồn đa tình và rất tình cảm”. sinh ra và lớn lên trên quê hương, sống giữa thiên nhiên phóng khoáng với sóng gió biển khơi đã ảnh hưởng đến tâm hồn thơ nồng nàn, sôi nổi của anh. anh phải sống trong hoàn cảnh khó khăn, lại là con của vợ lẽ, từ nhỏ đã phải xa mẹ và nhiều lần bị từ chối. Chính vì lẽ đó, thơ ông luôn thể hiện khát vọng tri âm của tâm hồn, khát vọng giao cảm mãnh liệt, sâu sắc với cuộc đời. trung thành với ý kiến ​​của một nhà phê bình đã đánh giá cao: “xuuuuu là nhà thơ của khát vọng giao cảm với cuộc đời.”

Về quá trình rèn luyện: Một mặt tiếp thu, học hỏi văn hóa phương Đông từ cha ông là một nhà Nho, tích cực tìm tòi kiến ​​thức cổ và văn hóa truyền thống. Mặt khác, Xuân Diệu là một học giả phương Tây đã tiếp thu một cách có hệ thống ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là các nhà văn Pháp và tượng trưng. do đó, có thể tìm thấy ở nhà thơ sự kết hợp giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại đông và tây trong tư tưởng và cảm nhận thẩm mỹ. trong đó yếu tố phương Tây hiện có ảnh hưởng sâu rộng hơn.

xuân sắc là một tài năng đa diện: làm thơ, phê bình văn học, phê bình văn học và dịch thuật. Đặc biệt, ông nổi tiếng là một nhà thơ được chú ý với mười lăm tập thơ. Đối với Xuân Diệu, làm thơ, văn xuôi không chỉ là khẳng định tài năng mà còn là cách giao cảm với cuộc đời, khẳng định sự tồn tại của mình trong cuộc đời.

Lao động nghệ thuật hơn nửa thế kỷ, tác giả Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp văn chương xuất sắc cho đời mình. Xuân điệu đã có những đóng góp to lớn trên mọi lĩnh vực, nhưng nói đến xuân khảo trước hết phải nói đến một nhà thơ, một cây đại thụ của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Có thể chia sự nghiệp thơ của Xuân Diệu thành hai thời kỳ: trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Xuân Diệu được coi là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào. thơ mới với hai tập thơ xuất sắc (1938) và Hương gửi gió bay (1945). xuân điểu đã mang đến một thi ca mới, một cảm hứng mới của một hồn thơ sống, yêu đời say đắm, thể hiện khát vọng giao cảm với cuộc đời một cách trọn vẹn nhất với một cái tôi cá nhân ý thức hết giá trị của bản thân trước thiên hạ.

nhà thơ thể hiện niềm đồng cảm, khát khao yêu đời, xuất phát từ quan niệm tích cực về cái tôi cá nhân, ý thức về sự tồn tại của chính mình trong cuộc sống và khát vọng sống cháy bỏng.

xuan dieu không muốn hòa mình vào biển đời, nhưng khẳng định mình là người đứng đầu trong số những người đàn ông đỉnh cao, “cô là một, cô là riêng biệt, cô là đầu”:

Thà một phút vinh quang rồi đột ngột qua đời, còn hơn buồn trăm năm

trong khi các nhà thơ mới khác lại đối chiếu cái tôi của mình với cuộc đời, như tìm về cõi thần tiên như luu, về quê như đoạn văn chương, xuân điều hòa cái tôi của mình với cuộc đời. cuộc sống trần thế, yêu cuộc sống, tận hưởng cuộc sống một cách say mê.

xuan mieu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Thơ xuân điệu luôn thể hiện lòng yêu đời, say mê cuộc sống, khát vọng làm chủ và tận hưởng những giá trị cao đẹp của cuộc sống. bản ngã huyền diệu của mùa xuân thoát khỏi quy ước cổ điển về vô ngã, nhìn cuộc sống bằng ánh mắt xanh lục, xanh lam và trẻ trung. thiên nhiên và con người có sức trẻ và tình cảm sâu sắc, một thế giới đầy hương vị, tinh tế và kỳ diệu:

của con bướm này đây, tuần này, tháng này, hoa đồng xanh đây này, cành lá rung rinh từ tổ anh đây khúc hát ân tình.

(vội vã)

thơ trung đại, tình gắn với nghĩa. Một số nhà thơ như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương nói đến tình yêu cả về tinh thần và thể xác, nhưng chỉ ở Xuân văn, khát vọng tình yêu được thể hiện với độ chín và mãnh liệt hơn, đem lại sức sống cho những ý tưởng đương đại, những ý tưởng mới mẻ và táo bạo.

Trong thơ mùa xuân huyền diệu, ý thức về thời gian bắt nguồn từ một quan điểm mới về cuộc sống. xuân diệu với một tâm hồn nhạy bén nhận thức được dòng chảy của thời gian một khi nó đã qua đi, nên nó luôn mang theo những nỗi ám ảnh và sợ hãi. nhà thơ muốn chạy ngược thời gian để mưu sinh, tận hưởng từng phút giây của cuộc sống, thể hiện khát vọng sống khỏe mạnh.

Bên cạnh tình yêu tha thiết với cuộc sống, thơ xuân còn thể hiện sự chán chường, hoài nghi và cô đơn. bởi vì xuan dieu là một nhà thơ, một nghệ sĩ có khuynh hướng lãng mạn, đòi hỏi sự hoàn mỹ, nuôi mộng tưởng của cuộc sống, luôn khao khát sự giao cảm cuối cùng và không giới hạn với cuộc sống, nên trước hoàn cảnh của xã hội, anh ta tầm thường và giả dối, sống ở một đất nước. không có chủ quyền, là một dân tộc không có tổ quốc, bị nô lệ bởi ham muốn ban phát nhưng lại thấy mình trong xã hội kim tiền, xuan dieu rơi vào trầm cảm và nghi ngờ. , cô đơn, “buồn và cô đơn ngay cả trong những điều ấm áp và vui vẻ”:

XEM THÊM:  Huy cận là nhà thơ của không gian

Tôi là một con nai bị mắc vào lưới và tôi không biết phải đi đâu trong bóng tối.

yêu đời, nghiêm túc với cuộc sống nhưng lại mang trong mình sự chán nản, hoài nghi, cô đơn. Hai trạng thái cảm xúc tưởng như đối lập nhưng lại rất thống nhất của một hồn thơ với khát vọng giao tiếp mãnh liệt với cuộc đời, của một cái tôi có thể nhận thức đầy đủ về sự tồn tại và giá trị của chính mình trên đời.

thơ xuân trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng thể hiện một cách tân nghệ thuật mới táo bạo. xuân diệu mang đến một nguồn thơ mới: thơ xưa khi viết về nỗi cô đơn thường tạo ra một không gian trống trải. từng trải, thiếu thốn về con người, nhưng đối với xuân điều, ngay cả khi con người và cảnh vật bên mình, nhà thơ vẫn cảm thấy cô đơn:

Mặc dù tôi nghĩ bạn là một và duy nhất tôi, tôi vẫn là tôi

(hết)

Tình yêu trong thơ xuân diệu kỳ không thể hiện những ám chỉ, ước lệ như những bài thơ xưa mà được thể hiện với ý nghĩa trọn vẹn và trọn vẹn nhất, là sự hòa hợp của tâm hồn và thể xác.

hình ảnh thơ mới táo bạo mang đậm ý nghĩa sinh sôi:

vầng trăng ác mộng luôn được nhà thơ đưa tay lên vuốt ve cho trọn vẹn.

thơ xuân với những hình ảnh đầy cảm xúc, được cảm nhận bằng tất cả các giác quan:

gió đẹp rì rào trong những chiếc lá xanh

có:

nước hoa, để gió cũng thơm

các từ mới, đậm và rất phương Tây được sử dụng:

nhiều hơn một bông hoa rụng khỏi cành

có:

trái tim tôi đã kết hôn với trái tim bạn

cách mới lạ để phá vỡ nhịp (4/2/1):

cả đàn giống như một gáo nước lạnh

<3

yêu là chết đi một chút trong trái tim vì đôi khi yêu nhưng chắc chắn sẽ được yêu.

có nhiều từ khó, câu hỏi, câu cảm thán. giọng nói nhiệt tình, say mê, đầy nhiệt huyết.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Xuân Diệu trở thành một nhà thơ cách mạng, hòa mình vào cuộc sống mới, nhiệt thành phục vụ cách mạng. thơ ca nở rộ với nhiều tập thơ lớn: chung (1960), mũi cà mau – nắm tay nhau (1962), khối hồng (1964), mắt em phú (1970), thanh ca (1982).

nếu trước đây, xuân điều mang trong mình nỗi cô đơn, hoài nghi đối với cuộc sống thì sau cách mạng, nhà thơ đã nhanh chóng hòa nhập và tìm được sự thấu hiểu cho mình. do đó, cảm hứng thơ là vui tươi và ấm áp.

<3

tình yêu có sự chung thủy, đoàn tụ, nghĩa tình, ấm áp. chủ đề phong phú hơn, mở rộng hơn. chắp bút cho đảng, cho nhân dân, một cuộc sống lao động mới.

nguồn cảm hứng mới, chủ đề mới, nội dung mới yêu cầu cách thể hiện mới. ngòi bút của mùa xuân không thể đi theo con đường cũ và quen thuộc. xuan dieu học ăn nói của người dân, ngôn ngữ giản dị, gần gũi với cuộc sống, tuy đôi khi còn vụng về và vô tư.

Anh không xứng đáng là biển xanh nhưng anh muốn em là cát trắng.

giọng điệu giàu chất thơ, không chỉ có giọng trữ tình mà còn là giọng ca hào hùng xa xưa của những ca khúc lịch sử như chong chóng hát cờ Tổ quốc hay mang hơi thở triết lý như trong nước mắt:

giọt máu tâm hồn là những giọt nước mắt vẫn rơi, biết bao giờ mới dứt được âm điệu của tình yêu như câu hỏi: ai có thể chia lìa đôi ta vì anh vụng về hay vì em? Có phải trăng vẫn đợi gió. lên hay mặt trăng đã đầy trên bầu trời? mái nhà?

Chúng ta cũng thấy trong thơ xuân sắc sau cách mạng, giọng thơ chính luận, trữ tình và trào phúng.

Ngoài sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết văn xuôi, nghiên cứu phê bình văn học và dịch thuật. bột thông vàng (1939) và trường ca (1945) là hai trong số những tuyển tập văn xuôi xuất sắc của ông. Xuân điệu còn để lại những tuyển tập tiểu luận, phê bình có giá trị: thơ, giới thiệu bình thơ, ca dao mới …

xuan dieu là một nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại, một nhà thơ lớn của dân tộc. bài học mà mùa xuân để lại cho đời là tinh thần lao động nghệ thuật, niềm tin yêu vào con người và lòng chân thành với văn chương. Dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng thơ Xuân Diệu vẫn hấp dẫn và lôi cuốn bao thế hệ người đọc.

bài tường thuật về nhà thơ xuân điều – mẫu 2

Cuộc đời của một nghệ sĩ gắn liền với những thăng trầm, có lúc được yêu, có lúc bị ghét. nhưng trên hết, nghệ thuật của họ vẫn trường tồn với thế giới qua hàng nghìn năm, người ta vẫn sẽ nhắc đến những nghệ sĩ đó để ngưỡng mộ và tri ân. Chúng ta sẽ không thể không nhắc đến Xuân Diệu như một nghệ sĩ lớn của dân tộc, người đã dìu dắt thơ ca qua bao thăng trầm!

xuan dieu sinh năm 1916, mất năm 1985, tên thật là ngo xuan dieu, thỉnh lấy bút danh là trạo nha, là tên làng quê anh. Cha ông là người Hà Tĩnh, nhưng ông lớn lên trên mảnh đất Quy Nhơn. bởi vậy, trong đó, là sự cần cù của người dân Hà Tĩnh, nắng gió miền biển lệ. chính quê hương đã trở thành nhân tố quan trọng tạo nên hồn thơ xuân. ông là con của một nhà Nho, ông được giáo dục trong bầu không khí của văn hóa Pháp. Vì vậy, thơ ông vẫn giữ được nét cổ điển của Việt Nam ngàn năm, nhưng mang đậm làn gió tây mới. đây chính là bàn đạp để xuân điệu trở thành ‘nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới’. chính anh cũng phải thừa nhận:

“Tôi nhớ rimbaud với các nhà thơ say rượu verlainehai”

xuan yao phát triển sự nghiệp rực rỡ nhất vào những năm 30-45 của thế kỷ 20. Chính lúc đó thơ ca bước vào quá trình đổi mới, cái tôi cá nhân được nâng cao hơn bao giờ hết. Với hai tập thơ “Thả hương cho gió”, Xuân Diệu đã trở thành một nhà thơ trữ tình lớn, được giới hoài niệm trìu mến gọi là “tác phẩm mới nhất trong các nhà thơ mới”. Tham gia vào Tự lực văn đoàn, Xuân Diệu với tư cách là thủ lĩnh của phong trào thơ mới. Sự nghiệp của ông còn được đánh dấu bằng truyện “son phấn”, tác phẩm “thơ dài” và hàng loạt bài phê bình văn học. Để lại một kho tàng văn học đồ sộ, Xuân Diệu dấn thân vào sự vĩnh hằng của thời gian. Cách mạng bùng nổ, Xuân Diệu lại làm nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia kháng chiến, giữ nhiều chức vụ quan trọng. Thành tích của anh đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật ghi nhận, đó là sự khẳng định tài năng lớn.

Nói đến thơ của xuân khảo, trần đăng khoa đã dùng ba từ “tài hoa, tinh xảo, sang trọng”. thơ ông chịu nhiều ảnh hưởng của văn học phương Tây, đặc biệt là tiếng Pháp, cả từ nội dung truyền cảm đến hình thức thơ. đó là lý do xuân điệu thường có những khám phá mới trong thơ mình. anh ta thường quan niệm rằng, theo thời gian tuyến tính, anh ta ra đi không trở lại. vì vậy, anh luôn tiếc nuối về quãng thời gian, tuổi trẻ của mình đã trôi qua. có một nhà thơ dừng chân giữa mùa xuân với bao nỗi niềm:

xuân đến nghĩa là xuân đi qua, xuân trẻ nghĩa xuân sẽ già

XEM THÊM:  Top 15 nhà thơ nổi tiếng nhất trong phong trào Thơ Mới Việt Nam

Không chỉ thời tiết, điều anh ấy tiếc nuối nhất chính là tuổi trẻ. với anh, con người trong lành, xanh tươi là đẹp nhất, đáng sống nhất. cái chết của tuổi trẻ có nghĩa là sự sống của con người không còn nữa:

làm sao tôi có thể nói rằng thanh xuân vẫn tiếp tục tuần hoàn nếu tuổi trẻ không hai lần trở lại

Quan niệm này bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng phương Tây: “ôi đau đớn, thời gian ăn đứt cuộc sống”.

Không giống như các nhà thơ cùng thời trốn tránh thực tại, xuân điều yêu mến đất trời, tìm vẻ đẹp xanh tươi của thế giới này. mà nhà thơ luôn khao khát được sống để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống:

Tôi ôm cánh tay của mình và biến chúng thành rắn, làm cho sợi dây da quấn quanh người. mùa xuân không muốn rời xa, mãi trong vườn chân đất bén rễ hút mùa dưới lòng đất

có lẽ chỉ đến mùa xuân, chúng ta mới có thể tận hưởng một đôi mắt xanh nhìn đời. không chỉ yêu đời, nhà thơ luôn muốn đắm mình trong tình yêu, khao khát tình yêu được đáp lại. không ngoa khi người ta gọi xuan dieu là “ông hoàng thơ tình”:

<3

Nói đến những nét đặc sắc về nghệ thuật của thơ Xuân điệu, ta không thể không nhắc đến tính truyền miệng đầy sáng tạo của ông. chịu ảnh hưởng của văn hóa phương tây nên nó thường có những từ mới như “suối rung lá lay”. thơ ông thường là sự tương tác mạnh mẽ giữa các giác quan “oái oăm hồng, anh muốn cắn em”. Nhà thơ Xuân Diệu đã thực sự thổi một luồng gió mới, trong lành và tươi sáng hơn vào thơ ca Việt Nam.

Ngoài thơ, xuan dieu còn viện đến truyện và phê bình như một cái cớ. truyện “phấn hoa thông vàng” của ông đánh dấu một tài năng viết truyện với văn phong tinh tế. Xuân Diệu còn được biết đến với “tam đại đại thi hào dân tộc”, “thơ ca”, “dao mới sắc”,… chính ông đã từng khẳng định: “Nhà văn tồn tại trong tác phẩm. Không có tác phẩm thì coi như nhà văn đã chết. Xuân điệu sử dụng thơ của mình vượt thời gian và không gian.

Thời gian sẽ trôi qua, nhưng đằng sau tâm hồn mỗi người vẫn còn đó một mùa xuân diệu kỳ. nhà thơ ấy đã chiếm được trái tim người đọc một cách say đắm như ngất ngây!

bài tường thuật về nhà thơ xuân điều – mẫu 3

Nhà thơ Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp thơ ca, có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam. đã mang đến cho nền thơ đương đại một luồng sinh khí mới, thể hiện một quan niệm sống mới cùng với những sáng tạo nghệ thuật đầy sáng tạo.

nhà thơ của tình yêu mùa xuân sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại tỉnh Bình Định. sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Hà Tĩnh. xuan dieu đã xếp hạng nổi tiếng thứ 79876 trên thế giới và thứ ba trong danh sách Nhà thơ tình nổi tiếng.

Sau khi tốt nghiệp cấp 3, ông ra trường tư thục và làm công chức tại Mỹ Thọ (nay là Tiền Giang), sau đó chuyển lên Hà Nội viết văn kiếm sống. Năm 1943, ông tốt nghiệp cử nhân luật và trở về làm công việc tư vấn kinh doanh tại Mỹ. uu.

Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, Đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, sau đó gia nhập Đảng Cộng sản. sau cách mạng tháng 8, ông làm việc ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí tiền phong của hội. Sau đó, ông công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, làm thư ký cho một tạp chí văn học ở Việt Bắc.

Xuân Diệu tham gia Ban chấp hành và là ủy viên thường trực Hội Nhà văn Việt Nam trong nhiều năm.

nhà thơ xuan dieu được mệnh danh là “ông hoàng của những bài thơ tình”. là một cây đại thụ của lĩnh vực thơ ca, chúng ta cùng tìm hiểu qua hai thời kỳ chính là trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. tác phẩm chính: tập thơ “thơ” (1938) và “gửi hương cho gió” (1945). nội dung của thơ xuân sắc giai đoạn này là: say mê thế giới bên ngoài, bộc trực, cháy bỏng, mãnh liệt khát khao giao tiếp với cuộc đời “vội vàng”, “khẩn trương”. nỗi cô đơn choáng ngợp của cái tôi nhỏ bé trong dòng thời gian không có giới hạn, trong không gian không có điểm kết thúc (lời của cô gái điếm). nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lí sống: lí do sống vội “vội vàng”. khát khao cháy bỏng được hòa mình trọn vẹn vào cuộc sống đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau, nỗi niềm trong nỗi nhớ mong được lãng quên thật phũ phàng khi đối mặt với kiếp “dại dột”, “nước đổ lá khoai”

sau cách mạng, thơ thần kì mùa xuân vươn tới những chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi nhỏ bé đến cái tôi chung của mọi người” (p.eluya). Xuân Diệu nay đã trở thành một nhà thơ hoạt động cách mạng đầy nhiệt huyết và tích cực, ông đã có những vần thơ hay trong giai đoạn đầu của mình. Xuân Diệu đón nhận cách mạng với “lá quốc kỳ” (1945) và “hội nghị miền núi” (1946) với tấm lòng tràn đầy niềm vui vì sự nghiệp lớn của cuộc đời, niềm vui lớn của cách mạng.

cùng với sự đổi mới của đất nước, điệu xuân đã có nhiều đổi thay trong hồn thơ

ý thức về cái tôi của công dân, của một nghệ sĩ, của một trí thức yêu nước trước hiện thực cuộc sống. đất nước đã truyền cho anh những nguồn cảm hứng mới. nhà thơ hăng hái viết về Đảng, Bác Hồ, quê hương đất nước Việt Nam, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thống nhất đất nước. tác phẩm tiêu biểu: tập “riêng và chung” (1960), “hai làn sóng” (1967), tập “hồn tôi có cánh” (1976) …

Từ những năm 1960 trở đi, Xuân Diệu tiếp tục làm thơ tình. thơ tình xuân tuyệt vời lúc này không hề cạn kiệt mà có thêm nguồn cảm hứng mới. trước cách mạng, tình yêu trong thơ của họ đa phần là xa cách, lẻ loi, chia lìa, tan vỡ… nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không còn là hai vũ trụ nhỏ nữa mà hòa đồng với mọi người. tình yêu lứa đôi hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước. xuan dieu nhắc đến nhiều tình cảm gắn bó thủy chung, hạnh phúc, sum họp, không cô đơn lẻ bóng (dấu ẩn), “biển”, “giọng”, “đứng vì em”).

Về lĩnh vực văn xuôi, có thể nói Xuân Diệu thực sự rất hóm hỉnh. Ngoài những tố chất thơ bẩm sinh ấy, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn xuôi. tác phẩm chính: “trường ca” (1939) và “phấn vàng” (1945). những tác phẩm này được viết theo phong cách lãng mạn, nhưng đôi khi ngòi bút nghiêng về chủ nghĩa hiện thực (“lò lửa rực lửa”, “tỏa hương kép”).

Ngoài ra, Xuân Diệu còn rất có tài trong lĩnh vực phê bình văn học và dịch thơ nước ngoài. tác phẩm tiêu biểu: “truyện thăm nước hung”, “triều dâng”, “kinh điển Việt Nam”, “tân dao sắc”.

Ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn học Việt Nam. vu ngoc phan từng nhận xét rằng “điệu hò là người mang lại nhiều điều mới mẻ cho nền thơ Việt Nam hiện đại”. Sự đóng góp của xuân khảo được thể hiện thường xuyên và toàn diện trên tất cả các thể loại và các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Vì vậy, có thể nói Xuân Diệu xứng đáng là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn.

Năm 1996, Xuân Diệu được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh lần thứ nhất về văn học nghệ thuật. Để tôn vinh và tưởng nhớ Xuân Diệu, tên của ông đã được đặt cho nhiều con đường và trường học ở nhiều thành phố lớn ở Việt Nam.

Nhà thơ Xuân Diệu từ trần ngày 18 tháng 12 năm 1985. Hiện nay, nhà lưu niệm và nhà thờ của ông được xây dựng tại làng Trào Nha, thành phố Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Giới thiệu về nhà thơ xuân diệu. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *