Bạn đang quan tâm đến Hình tượng con hổ trong bài thơ nhớ rừng phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!
Video đầy đủ Hình tượng con hổ trong bài thơ nhớ rừng
top 6 bài văn nghị luận về hình tượng con hổ trong bài thơ Rừng Lữ Bố giúp các em học sinh lớp 8 tham khảo để có thêm nhiều ý tưởng mới cho bài soạn của mình. sâu.
Tác giả đã mượn hình ảnh con hổ để nói lên sự chán ghét hiện thực tầm thường, đồng thời thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm bài Cảm nhận về rừng, phân tích tâm trạng con hổ để hiểu sâu hơn. theo dõi bài viết dưới đây từ download.vn:
Hình ảnh con hổ trong bài thơ về rừng – bài mẫu 1
hình ảnh con hổ là hình tượng trung tâm trong bài hát “nhớ rừng” của lu lu, thấm đẫm trong từng câu, từng ý là nỗi “nhớ rừng” của con hổ. nỗi nhớ ở đây được thể hiện một cách rất mãnh liệt, đôi khi trở nên mãnh liệt ở nhiều khía cạnh ảnh hưởng chứ không phải là nỗi nhớ vu vơ, dửng dưng. nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ của một người anh hùng đã mất chứ không phải nỗi nhớ của một kẻ tầm thường nhỏ bé.
Ngay từ đầu bài thơ, ta thấy vị vua chúa sơn lâm thể hiện thái độ đau xót, căm giận trước số phận bất hạnh của mình:
“mài một khối lượng căm thù trong lồng sắt …” và “không biết xấu hổ, bị cầm tù trong nhục hình.” anh ta cảm thấy bẽ mặt khi phải trở thành “đồ chơi cho nhiều người” “mắt nhỏ” nhưng “kiêu ngạo” và “ngớ ngẩn”. không thể chịu được cảnh phải “sống chung với lũ gấu điên”.
Anh ấy ghét nó! Thật là nhục nhã! anh ấy ghét tất cả! vì nó nằm trong “lồng sắt”.
Niềm khao khát về rừng già của con hổ được thể hiện một cách mãnh liệt và sâu sắc nhất khi nó nhớ lại quá khứ vàng son và huy hoàng của mình trong tâm trạng hoài niệm.
anh ấy nhớ những hình ảnh đẹp đẽ, những âm vang của núi rừng:
“nhớ cảnh núi rừng, bóng cây cổ thụ với tiếng gió hú, có tiếng đài phun gào núi khi reo khúc dữ dội.”
Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy, anh như một vị thần núi. từ “cất bước” “dạn dĩ” đến “rung mình như sóng nhịp” từ “bóng lặng” đến “đánh thức mắt thần” soi sáng hang tối, anh là “chúa tể vạn vật”, anh hãy để mọi thứ “yên lặng”. im lặng.
nhớ những kỷ niệm của cuộc sống thường ngày trong rừng sâu, nhớ những khát khao, cháy bỏng. khi uống rượu dưới ánh trăng:
“còn đâu những đêm vàng bên suối, ta say sưa uống trăng
thời điểm tốt lành khi mặt trời mọc và chim hót tưng bừng. thời gian chờ mặt trời mọc để thu giữ không gian bí mật một mình, thời gian để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của giang sơn sau cơn mưa rừng dữ dội. Tóm lại, đó là một thời huy hoàng.
nhưng những thời kỳ huy hoàng đó đã là quá khứ. chỉ có một giọng nói vang lên: “ôi! thời oanh liệt còn đâu? Càng căm phẫn số phận mình lúc mất, càng hoài niệm về một quá khứ hào hùng, oanh liệt. Con hổ tỏ thái độ khinh người, khinh bạc thực giả. cuộc sống diễn ra xung quanh bạn:
<3
chỉ đơn giản là “sinh viên, bắt chước thiên nhiên hoang dã, từ trên cao, âm u và cổ kính”.
khinh thường với hiện tại, anh khao khát được trở lại chốn “đại ngàn” ngự trị trong rừng, trở về cuộc sống tự do tự tại, tự do chinh chiến, lang thang. nhưng trên thực tế, anh ta bị giam trong “lồng sắt”. chúa sơn lâm đành thả hồn theo giấc mộng ngàn thu ”để sống những giây phút huy hoàng, để tiêu tan những ngày tháng“ tẻ nhạt ”, ảm đạm.
con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua vì chán cuộc sống bị giam hãm, mất tự do.
trạng thái tâm hồn của con hổ, cũng là trạng thái tâm hồn của tác giả, tâm trạng của một lớp người trong xã hội bấy giờ (1931-1935) cảm thấy bế tắc trước cuộc sống, chán thực tại, khát tự do. và cuộc sống tự do, mặc dù không được định hướng rõ ràng. đó cũng là một thái độ sống cao quý và đáng trân trọng. rõ ràng bài thơ về rừng của nhà thơ là một bài thơ rất hay, bài thơ hay nhất của trào lưu thơ mới khi mượn hình ảnh con hổ để nói lên nỗi đau mất nước, nỗi đau chung của con người khi sống trong cảnh tù đày. , dưới ách thống trị của thực dân. Hình tượng con hổ mang một giá trị nghệ thuật vô cùng đặc biệt, nó không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên mà còn đại diện cho cả một xã hội, truyền đi những ý nghĩa sâu xa, ẩn chứa của tác giả.
Hình ảnh con hổ trong bài thơ về rừng – bài văn mẫu 2
nhớ rừng là bài thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. đó cũng là một bài báo gây được ấn tượng mạnh mẽ và lâu dài trong lòng nhiều thế hệ độc giả – tác giả của nó – nhà thơ thế giới, là một nhà thơ tài hoa, có nhiều đóng góp cho phong trào thơ mới. có thể nói anh đã nhập tâm hoàn toàn vào hình tượng con hổ trong bài, mượn con hổ để nói lên cảm xúc của một trí thức trẻ đối mặt với cuộc sống thân phận, nô lệ.
một khía cạnh rõ ràng của lời thú nhận đó là “sự sỉ nhục” của hiện trạng:
giờ bị lạc, bị làm nhục, bị giam cầm, làm những điều kỳ quặc, chơi những thứ màu đỏ, để chia sẻ với những con gấu điên, với một vài con báo chuồng may mắn.
sỉ nhục ở mức độ cao, biến thành oán hận, hận thù. anh mất tự do trong “lồng sắt”, anh phải “nằm dài nhìn ngày tháng trôi” mà không thể làm được gì, và cả “những con người kia”, tác giả muốn nói đến ai? Những người thực dân ngoài hành tinh có chế nhạo và coi thường không?
nhìn lên để chế nhạo tinh thần hùng vĩ của khu rừng
Trong quá khứ, Ngài từng là “chúa tể muôn loài”, là “đấng huyền diệu” ngự trị núi cao, rừng sâu. nay bị nhốt bằng củi, cùng thân phận “làm trò, đồ chơi” bị coi là lứa với lũ đầu gấu điên khùng, đôi ba tờ báo nổi! Thật nhục nhã và uất hận làm sao.
với “ngàn điều ân hận”, đó là thái độ ghét bỏ. và khinh bỉ cao như ghét, con hổ này không có gì ở giữa, nửa chừng. anh ấy ghét tất cả những cảnh tượng xung quanh mình, từ:
những cảnh chỉnh sửa tầm thường và giả tạo.
cho đến khi:
Dải nước đen ngòm như dòng suối không cho len lỏi chảy dưới nách những gò thấp.
bỏ qua toàn bộ môi trường được áp đặt nhân tạo mà “những kẻ này” đã thiết kế để thiết lập. anh ta nhận ra rằng toàn bộ sự việc chỉ là một sự nhại lại, một cách “nghiên cứu” nơi sinh sống thực sự của mình trong quá khứ, “cảnh núi sáng, cây cổ thụ, có gió hú, có tiếng suối reo vang núi”. quên, nhưng sẽ nhớ mãi. phải chăng con hổ ở đây một lần nữa phản ánh tâm tư tình cảm của chàng thanh niên Nguyễn Thế Lữ, người từng hoạt động trong một “hội kín” yêu nước? bất bình, phủ nhận nền văn minh “vui vẻ miền tây” đang thay thế cho những “vẻ hoang sơ” của những “bóng cây cổ thụ”, “những đêm vàng bên suối”, những “mặt trời xanh”… một cách nghĩa bóng là nhớ những giá trị văn hóa truyền thống. Của đất nước?
Nhưng có lẽ tâm sự trôi theo dòng chảy, điều thường xuyên đọng lại trong trái tim con hổ là khao khát – một khao khát vừa đau đớn vừa hùng vĩ. đó là “nỗi nhớ rừng” cao cả, thiêng liêng, đúng như tiêu đề của lá bài. dễ dàng nhận thấy hai đoạn thơ miêu tả nỗi nhớ này là trung tính và đậm đặc nhất: đoạn thứ hai và thứ ba của bài thơ là hai đoạn có cảnh huy hoàng hấp dẫn nhất, có nhạc điệu say đắm lòng người nhất. nhớ làm sao dáng xưa của ta “vươn cao, đậm đà, uy nghiêm, thân mình nhấp nhô như sóng nhịp nhàng” giữa “rặng núi rợp bóng, cây cổ thụ – có tiếng gió hú, có tiếng suối khóc ngoài núi”, đẹp đẽ, hùng vĩ biết bao. , Hùng vĩ! cách nhớ.
… đệm bên bờ suối say sưa uống ánh trăng?
… vào những ngày mưa gió, bốn bề đổi thay, chúng ta có thầm ngưỡng mộ sự đổi mới của giang sơn chúng ta không?
… bình minh của cây xanh và mặt trời,
tiếng chim hót, giấc ngủ của tôi có vui không?
những kỷ niệm mới thật lộng lẫy, hùng vĩ, thơ mộng!
Có thể nói, thế giới đã lấp đầy những lời nói của con hổ trong khu vườn này bằng những tâm sự của bao thế hệ cùng trang lứa với nhà thơ. và không chỉ một thế hệ. Ai là người Việt Nam còn chút lòng yêu nước, còn biết nghĩ mà không xót xa trước cảnh nước mất nhà tan? ai đã từng đọc lịch sử dân tộc, ít nhiều cảm nhận được “nền văn hiến lâu đời” của đất nước mà không ngán nền văn minh hào nhoáng xen lẫn thời thuộc địa thì không có ai là không trân trọng niềm hy vọng “vươn mình (…)”, “ngự trị” nơi “nước non hùng vỹ” của mình, tương tự như con hổ khác trong vườn bách thú vẫn chưa dứt “mộng vàng to lớn.
Hình ảnh con hổ trong bài thơ về rừng – mẫu 3
Với nhân vật con hổ trong vườn bách thú được miêu tả là một tính cách hung dữ, to lớn, day dứt và khát vọng, rừng ít nhiều đã hòa vào mạch đã cho thơ ca một kiệt tác. Tất nhiên, không ai dám đặt con hổ của bài thơ bên cạnh lời hứa ràng buộc hay xóm làng, quản ngục bị giam cầm. nhớ rừng chỉ là tiếng nói đau thương của một con người mất hết niềm tin vào tự do, mất hết ước mơ chiến thắng. con hổ ở đây không thể làm gì khác hơn là “nằm lại” trong lồng sắt, để “nhìn ngày tháng trôi”, và nói về những ngày huy hoàng mà họ đã chiến đấu như thể những ngày không bao giờ trở lại. cũng không ẩn chứa trong đó niềm khao khát huyền thoại được người anh hùng nguyễn huề thể hiện qua những vần thơ say đắm lòng người:
bay thẳng, muốn tìm mục tiêu, phá vòng vây, bạn của kim ô
có lẽ cũng không gượng ép được: nếu nói nhớ rừng với hình ảnh con hổ nằm, đã tạo nên tư thế của những con người thôi miên man suy nghĩ về hành động, những con người hăng hái với cách mạng. , nhưng tham vọng đóng góp vào sự thay đổi đã biến mất.
Tuy nhiên, con hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dẫu sẵn sàng đánh mất tự do nhưng không vì thế mà mất đi niềm kiêu hãnh. trong đau khổ, trong “tù ngục”, trong “tủi nhục”, anh vẫn biết phân biệt mình với những kẻ đã hoàn toàn đi vào tầm thường để đồng hóa vào tinh thần, ở đây không phải đặt vấn đề coi là “hành vi bình dân. “của hổ. , chỉ trích anh vì “không ưu ái những con vật như gấu, báo cùng số phận với anh và nằm cạnh chuồng của anh”, như có người bình luận. . ở đây, như con chim trong lồng, trong vũ hội bị xiềng xích và cả ở làng quê, sự đối lập giữa hai hạng người, hai lối sống là hình thức nghệ thuật thường được sử dụng để làm nổi bật những chiều kích cao siêu và đẹp đẽ của bi kịch. nguồn cảm hứng từ một tâm hồn đau khổ không chịu hạ mình trong bất hạnh.
du khách thế giới, ít nhất một lần trong đời, đã cố gắng xây dựng một hình ảnh thơ mộng như vậy. hổ rừng biết mình bại trận nhưng vẫn không chịu làm tôi tớ “tầm thường, giả dối” của cảnh ngục tù. nó bất lực, nhưng không hoàn toàn khuất phục và thỏa hiệp. anh ấy vẫn “ghét những cảnh không bao giờ thay đổi”, tức là anh ấy vẫn khao khát sự thay đổi. bị giam cầm trong lồng sắt chật hẹp, anh vẫn tha thiết vươn ra những chân trời rộng lớn của thế giới với “ước mơ lớn nhất”, và của thời gian với “nỗi uất hận vô bờ bến”. bài thơ cuối cùng vẫn thể hiện bản lĩnh phủ nhận hiện thực, dù chỉ là phủ nhận trong mơ.Sự xung đột, mâu thuẫn gay gắt, thường xuyên, không thể hòa giải giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa bên ngoài và bên trong, giữa thấp hèn và cao thượng là cơ sở cho cấu trúc của toàn bộ bài thơ. Tôi như nghe thấy từ nhớ rừng, một sự đan xen của bốn chương với sự luân chuyển và giao thoa của hai chủ đề tương phản, trong đó, chủ đề chính, chủ đề “nhớ rừng” đột ngột nhảy vọt sau một khoảnh khắc. nốt nhạc càng lúc càng chậm và buồn hơn ở chương đầu, rồi cứ to dần lên, cao trào với tất cả sự phấn khích của tinh thần rồi bỗng chốc nặng nề, nghẹn ngào. và cuối cùng ở phần hồi sinh, chủ đề chính trở lại, không còn hoành tráng như trước, sự nghiêm túc, những tiếc nuối. bài thơ kết thúc bằng lời kêu gọi nhiệt thành vào rừng từ một người đàn ông biết rằng mình sắp kết thúc cuộc vượt ngục trong tâm trí. do đó, bằng cách luôn chuyển đổi tình cảm và giọng điệu của bài thơ sang phía đối lập, nhà thơ đã tìm ra cách thích hợp để thể hiện trọn vẹn những cung bậc cảm xúc của một trạng thái tâm hồn cô đơn và day dứt. .
Hình ảnh con hổ trong bài thơ về rừng – mẫu 4
“Nhớ rừng” là bài thơ kiệt tác của lữ khách thế giới, nhà thơ tiên phong của phong trào “thơ mới”. Với tiếng nhạc du dương, với khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt với hình ảnh con hổ, bài thơ “Nhớ rừng” đã chinh phục mỗi chúng ta, đã chiếm lĩnh sâu thẳm tâm hồn của bao người trong hơn nửa năm thế kỷ qua. . .
Nhà thơ nói về con hổ với sự cảm thông và ngưỡng mộ. anh ta đang nằm trong lồng sắt của vườn bách thú. vị vua rừng trong ngục vô cùng cay đắng và uất hận, “gắp một khối hận”, muốn cắn, muốn nhai lại tất cả những ân oán, hận thù đã tích tụ thành “một khối” trong lòng bấy lâu nay. . chiều dài. . Làm sao để không ghét khi phải “nằm dài nhìn ngày tháng trôi” trong lồng sắt? làm sao không phẫn uất và chua xót khi “thần sơn lâm nguy nga” bị người đời “mắt cười híp mắt” chế giễu, biến thành “đồ chơi”, với đôi báo “vô tư” trong vườn bách tuyệt đẹp. ? du khách thế giới đã thể hiện tâm trạng cay đắng và căm thù của con hổ mất tích một cách kỳ lạ:
“ôm hận trong chiếc nôi sắt, cô nằm xuống và nhìn ngày tháng trôi qua (…) giờ cô mất mát, nhục nhã và bị giam cầm…” -.
như vậy ta càng thấy rõ: “anh hùng mất nết cũng hèn” (truyện kiều) ‘, chúng ta càng thấm thìa: “trên đời có muôn vạn điều cay đắng – chính là thà mất tự do “(nhật ký trong tù).
Năm tháng trôi qua, liệu chúa sơn lâm có thể nguôi ngoai nỗi nhớ rừng? nhớ “ngày xưa”, nhớ vương quốc “đất thiêng” nơi “ta” trị vì:
“nhớ cảnh rừng, bóng người, cây cổ thụ,
với tiếng gió hú, với tiếng đài phun gào núi “…
gợi lại tư thế cao sang, uy nghi của cái “tôi”, bước đi, thân hình nhấp nhô, bóng người lướt qua… tất cả đều “oai phong, lẫm liệt”. một từ “ta” vang lên đầy tự hào về chúa sơn lâm:
“chúng ta đứng dậy, bay lượn với sự táo bạo và uy nghiêm xung quanh cơ thể như một làn sóng, nhẹ nhàng chơi đùa với những bóng tối, những chiếc lá gai, ngọn cỏ sắc nhọn.”
thẩm quyền của “tôi” là tuyệt đối. cái gì cũng phải sợ, phải “im lặng” khi “mắt thần” “đã cau mày” của mình. Tôi biết “giữa vườn hoa,” tôi là chúa tể của vạn vật “:
“trong hang tối, khi đôi mắt thần đã cau lại, tất cả đều im lặng. Ta biết rằng ta là chúa tể muôn loài giữa chốn phồn hoa không tên và không tuổi.”
nỗi nhớ về rừng thiêng, nhớ về sức mạnh của chúa sơn lâm là nhớ về những năm tháng không thể nào quên. nỗi nhớ ấy là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng.
Lỡ vào rừng là nhớ về những kỉ niệm rực rỡ của một thời vàng son, một thời oanh liệt. cảnh tráng lệ. nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng:
“những đêm vàng bên suối còn đâu? …….- ôi! Giờ huy hoàng còn đâu?”
những từ lóng: “ở đâu những đêm vàng …”, “ở đâu những ngày mưa …”, “những bình minh ở đâu …”, “những buổi tối ở đâu …”, “Ở đâu bây giờ là anh ấy? ” nó xuất hiện nối tiếp năm câu hỏi tu từ tạo nên một giai điệu da diết, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc tình yêu, khát khao thiêng liêng về châu chấu, rừng núi và nỗi niềm của một thời oanh liệt. nó đã trở thành hoài niệm, quá khứ. chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ bình minh, nhớ hoàng hôn, nhớ suối, nhớ trăng. nhớ cảnh trong cơn mưa rừng. nhớ “cây xanh bóng mát”. nhớ tiếng chim hót tưng bừng lúc rạng đông. nhớ cái nắng chói chang lúc chiều tà… nỗi buồn ấy là nỗi buồn vì bị tước đoạt tự do, cũng là nỗi khát khao được tự do. la lu đã tạo nên những vần điệu giàu hình ảnh và âm nhạc, đầy cảm xúc để nói lên nỗi nhớ về linh thiêng hùm beo … một tiếng than chinh phục lòng người, đầy sức gợi và rung động:
“ồ! thời huy hoàng bây giờ ở đâu?”
Anh ấy bị suy nhược cơ bắp, anh ấy bị giam trong lồng sắt. Phải xa rừng mới nhớ rừng. Khi nào họ mới biết được nỗi đau và nỗi uất hận khi có thể biến mất? như một tiếng thở dài:
“Bây giờ tôi có một nghìn điều hối tiếc.”
phổ “thương nhớ cánh rừng, bóng xế, cây cổ thụ” rồi “uất ức” ghét những cảnh “không bao giờ thay đổi”, tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa “giả đố”, nhỏ nhen:
“hoa, cỏ xén, cây cỏ; dòng nước đen dài như suối, không cho len lỏi chảy dưới nách các gò đất thấp.”
căm phẫn cảnh ngục tù, chán ghét những cảnh vụn vặt, tầm thường do “kẻ kiêu ngạo kia” bày ra, con hổ nhớ da diết, không nguôi nhớ “cảnh non nước hùng vĩ”. Vương quốc của tự do là ngày nào:
p>
“Đó là một nơi giống như tầng hầm thánh nơi chúng tôi từng sống, nơi chúng tôi đã chiến đấu trong quá khứ.”
Đối mặt với hiện thực đau thương, con hổ chỉ biết thả hồn theo “giấc mộng ngàn thu”. vị vua của khu rừng được mệnh danh là khu rừng thiêng với nhiều tình yêu và lòng trắc ẩn:
“ôi cảnh rừng khủng khiếp của tôi!”
“Nhớ rừng” là một trong mười bài thơ hay nhất của thời “thơ mới” (1932-1941). thể thơ tự do, ca từ đẹp, hình ảnh nguy nga, tráng lệ. tiếng nhạc du dương, cảm giác “nhớ rừng” dạt dào. hình ảnh một con hổ đau đớn, tức giận, phẫn uất và khao khát về rừng được khắc họa một cách sâu sắc và đầy xao xuyến.
Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ (1934), nỗi nhục nhã, đau đớn, uất hận … của con hổ bị lạc trong rừng đồng điệu với thảm cảnh của nhân dân ta rên rỉ trong xiềng xích của chế độ nô lệ. nhớ rừng là khát khao sống, khát khao tự do. bài thơ hướng tới một thông điệp kín đáo và nghiêm túc về tình yêu quê hương đất nước. tư tưởng lớn nhất của bài thơ là cái giá của tự do. hình ảnh con hổ bỏ rừng là một biểu hiện tuyệt vời của tư tưởng lớn lao đó.
Hình ảnh con hổ trong bài thơ về rừng – bài văn mẫu 5
nhà thơ của thế giới, được biết đến như một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới đầu tiên. thơ ca thế giới được đánh giá là hồn thơ giàu chất lãng mạn. đến với bài thơ “nhớ rừng” của ông, người đọc hiểu được một tấm lòng yêu nước sâu sắc, qua hình tượng “con hổ”, tác giả đã mượn nó để nói lên sự ghê tởm đối với hiện thực tầm thường, và gửi gắm vào đó tình yêu Tổ quốc thầm kín. có thể nói, hình tượng con hổ trong bài thơ là một sự sáng tạo đặc biệt, qua đó tác giả đã gửi gắm những tâm tư tình cảm thầm kín của con người.
ở đầu bài thơ, hình ảnh con hổ hiện lên với sự kìm kẹp, giam hãm, vì ban đầu nó là chúa tể muôn loài, nay lại bị giam cầm trong một khối sắt lạnh lẽo, nhưng bên trong con hổ tràn. với lòng căm thù không nguôi:
“ôm một mớ hận thù trong cũi sắt nằm nhìn ngày tháng trôi qua”
“cái lồng sắt” được nói đến, thể hiện sự giam giữ tự do, một không gian giam giữ nhỏ hẹp và chật hẹp khiến con hổ “ôm hận”. Ngày tháng trôi qua trong chốn giam cầm, chúa sơn lâm mang trong mình vẻ oai phong lẫm liệt ngày nào giờ phải hiện hữu trong một không gian nhỏ bé, “phải lòng” những điều xui xẻo. con hổ mang trong mình bản chất của chúa sơn lâm, quen chinh chiến trong không gian rộng lớn của rừng thiêng nên khi phải giam cầm, sống như địa ngục, cảm giác “tủi nhục” nảy sinh, cảm giác. không đáng kể khi được chơi như một trò chơi, như một trò giải trí cho những ai “trố mắt chế giễu sự hùng vĩ của rừng già”.
con hổ sống trong điều kiện nuôi nhốt như vậy dường như không có lối thoát, luôn hướng về quá khứ oai hùng, oai hùng. đại từ nhân xưng “ta” được tác giả sử dụng theo kiểu con hổ càng thể hiện rõ bản lĩnh, sự oai phong, lẫm liệt của chúa sơn lâm một thời. con hổ luôn nhớ về một thời oanh liệt, vàng son của mình, khi “cao tay”, khi cảnh vật quen thuộc là “bóng mát, cây cổ thụ”. vẻ hùng vĩ ngày ấy thể hiện rõ qua tiếng gầm rú của núi rừng, tiếng kêu thảm thiết vang vọng phía xa. con hổ nhớ đến sức mạnh to lớn của mình, không liên quan đến cái tên mà người ta vẫn gọi ông: vua rừng. tư tưởng ngày ấy còn thể hiện qua những bước đi oai phong lẫm liệt, muôn loài vật phải nhún nhường, khiếp sợ. hình ảnh quá khứ của con hổ hiện lên với bao nỗi nhớ, cả nỗi nhớ da diết, về một thời oanh liệt, về đấu tranh.
sự ăn năn về quá khứ vàng son luôn thường trực trong trí nhớ của hổ, nhớ về núi rừng, nhớ về những đêm trăng sáng, hổ “say sưa uống trăng”. Một khung cảnh lãng mạn hiện ra: vua rừng sau một ngày ăn mồi no nê, cúi xuống uống nước trăng lấp lánh. và ngay cả những ngày rừng già, cây cối như bừng tỉnh sau cơn mưa, con cọp – với lời ca tụng là “chúa tể muôn loài”, cũng có những phút lặng mình, ngắm cảnh “núi non đổi mới”, cảnh vật thơ mộng, chim muông. ríu rít đón mặt trời, hình ảnh những chú hổ nhắm mắt, cảm nhận hơi thở riêng biệt của thiên nhiên, đất trời, luyến tiếc hoàng hôn, hướng mặt trời dần khuất, một không gian chuyển mình giữa ngày và đêm, để hổ tiếp tục một hành trình săn mồi đầy bí ẩn và say sưa, nơi được mệnh danh là quê hương của chúa sơn lâm, nhưng hỡi ôi, những khung cảnh trong hoài niệm ấy, giờ chỉ còn gọi là “thời oanh liệt”, vì nó đã không còn nữa, vì thực tại quá đối lập với những gì. từ quá khứ gọi tên nó, bây giờ con hổ phải sống trong một không gian đầy những sự sắp đặt tầm thường và giả dối:
“những cảnh đáng ghét không thể thay đổi, chỉnh sửa, những cảnh tầm thường, giả tạo …”
Sự chán ghét thực tại của con hổ được thể hiện rõ ràng và chân thực. trong mắt vua sơn lâm, cảnh suối, nước, hoa, cây cối, gò đất trông giống như cảnh rừng thiêng là giả, bởi nó chỉ là một bản sao sáo rỗng, đơn điệu và nhàm chán. con hổ vẫn đau đáu nhớ đến bệ hạ, kể cả “mỏ” rừng thiêng, như một sự khẳng định, như một vật sở hữu, thể hiện bản lĩnh và vị thế của một chúa sơn lâm dù gặp xui xẻo.
mượn hình ảnh con hổ, nhà thơ muốn gửi gắm nỗi xót xa trước hiện thực tầm thường, đơn điệu, đồng thời thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt, từ đó thể hiện tấm lòng yêu nước thầm kín, thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.
Hình ảnh con hổ trong bài thơ về rừng – văn mẫu 6
hãy nhớ rằng rừng rậm thế giới ra đời năm 1934, đó là thời kỳ đất nước ta còn sa lầy trong tủi nhục của những kiếp người nô lệ khốn khổ. nỗi đau mất nước từ lâu đã trở thành nguồn tiếc thương, căm hờn của nhiều thi nhân. Cảm nhận sâu sắc tình cảm dân tộc ấy, lữ khách thế giới đã mượn lời con hổ bị giam cầm trong vườn bách thú để nói lên nỗi u uất, lòng căm thù và khát vọng tự do mãnh liệt khỏi kiếp nô lệ khốn khổ. .
bài thơ được tác giả chia thành năm đoạn, trong đó khổ thơ đầu trùng với khổ thơ thứ tư, khổ thơ thứ hai ghép với khổ thơ thứ ba tạo thành một cặp ý kiến đối lập: cảnh vườn bách thú nhỏ bé giáp với. núi rừng hùng vĩ, đại ngàn nơi con hổ ngự trị, rong ruổi “ngày xưa”.
Đoạn thơ ban đầu đầy căm thù nhưng cũng đầy bất lực của con hổ. lòng căm thù đó là kết quả của sự dồn nén lâu dài trong môi trường chật hẹp và ngột ngạt. nó bực bội, khó chịu và vô cùng u uất. khổ thơ là sự chán chường trước thực tại, nỗi ngán ngẩm của “kẻ khác kiêu ngạo, ngu ngốc” dám “mở mắt chế giễu cảnh rừng hùng vĩ”. việc giam cầm “nhàn hạ” như một món đồ chơi đã trở thành nỗi ô nhục thực sự đối với chúa sơn lâm. khổ thơ thứ tư tiếp tục mở ra “nỗi uất hận” khi chúa sơn lâm hàng ngày phải chứng kiến những đổi thay tầm thường, giả dối. đó là những “cảnh quay trên không” có nghĩa là “bí ẩn”, nhưng chỉ là sự bắt chước một cách vụng về giữa sa mạc và nơi cao trong rừng.
Đối lập với cảnh trong vườn bách thú là cảnh chốn thâm u, hùng vĩ trong rừng già được mở ra ở khổ hai và ba. Ở nơi núi rừng, sông nước ấy, con hổ dạn dĩ, oai phong trong vai chúa sơn lâm. Đó là một nơi hoang vắng với rất nhiều loài hoa mà không ai có thể nhớ hết tên và tuổi. chốn thiên đường của chúa tể vạn vật đầy ắp kỷ niệm và những chiến công anh hùng thuở còn son rỗi. nhưng thật đáng buồn cho những chú hổ, những chiến tích đó giờ chỉ còn là câu chuyện từ “ngày xưa”. Chính vì vậy mà niềm khát khao, khao khát tự do của vị vua rừng được cuộn trào trong những dòng cuối bài thơ. đó là khát vọng trở về với uy danh đích thực, trở về với cuộc sống tự do trong rừng rậm.
vì vậy bài thơ là tâm trạng bi thương của chúa sơn lâm khi bị lưu lạc, mất tích, bị tù đày. bài thơ đặt trong bối cảnh lịch sử của đất nước những năm 30, nỗi tủi hổ, cay đắng và căm hờn của con hổ cũng đồng điệu với bi kịch của đồng bào ta trước xiềng xích của kiếp nô lệ.
Bài thơ minh chứng cho một thực tế sáng tác khá phổ biến của tầng lớp văn nghệ sĩ và cũng là một nét tâm trạng của tầng lớp tiểu tư sản ở nước ta lúc bấy giờ. những trí thức lãng mạn, những nhà văn, nghệ sĩ, giàu lòng yêu nước, nhưng đôi khi sự áp bức dã man của thực dân đã làm cho tinh thần dân tộc của họ dù muốn bộc lộ cũng chỉ tìm cách phản kháng, chỉ gián tiếp. nhớ rừng chọn lời con hổ nói lên lòng yêu nước, tinh thần dân tộc là vì lẽ đó. nếu chọn lời nói của con hổ, thế giới sẽ phải bớt bí bách trong nội dung tình cảm. Bằng cách này, tác giả có thể phô bày tất cả những gì “khôi hài” về hiện thực, từ đó thể hiện sự phản kháng hiện thực và khát vọng mãnh liệt về cuộc sống tự do của đồng bào ta.
hãy nhớ rằng khu rừng có cách thể hiện nội dung tình cảm tương tự như hứa hẹn tuổi trẻ hoặc muốn trở thành một kẻ ngốc. nội dung tư tưởng của bài thơ được thể hiện một cách gián tiếp nhưng sắc nét. hình tượng vua rừng với nỗi nhớ rừng, nỗi đau mất mát khôn nguôi cũng là bi kịch của quê hương, tình yêu đất nước tha thiết và khát vọng tự do.
Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Hình tượng con hổ trong bài thơ nhớ rừng. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.
Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/
Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.
Chúng tôi Xin cám ơn!