Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
456 lượt xem

Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều – Báo Quảng Bình điện tử

Bạn đang quan tâm đến Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều – Báo Quảng Bình điện tử phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều – Báo Quảng Bình điện tử

(qbĐt) – 1. đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của đại thi hào nguyễn du

Nguyễn Du (1765-1820), tên tự là hiệu thanh hiền, sinh ra ở kinh thành thăng long (nay là thủ đô hà nội). Thân sinh là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1776), quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, làm quan đến chức triều đình (chánh sứ) thời Lê; Mẹ là Trần Thị Tân quê ở kinh bắc – bắc ninh.

Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm từ chức Tể tướng, Nguyễn Du theo cha về quê. 13 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ. Năm 1783, Nguyễn Du thi đỗ Tam trường, được cha nuôi ở Thái Nguyên đào làm quan võ. sau đó, nguyen du kết hôn với bà. doan thi huu, quê ở thôn an hải, huyện quy định, thành phố sơn nam (nay là tỉnh thái bình), con gái của bác sĩ. doan nguyen thuc. Năm mất (1788), khi Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung, Nguyễn Du ở xa nhà anh rể là Đoàn Nguyên Tuân ở Thái Bình.

mười năm ở quê vợ là quãng thời gian “mười năm gió bụi”, bao cảnh cơ cực, cơ cực đã đến với Nguyễn Du. Khi cha vợ là Đoàn Nguyên Thục mất, con trưởng mất, Nguyễn Du và con út là Nguyễn Tú về quê cũ ở xã Tiên Điền. về quê, ngôi biệt thự của cha hoang tàn, hai anh em lùi lại, cụ Nguyễn du kêu lên “Hồng nhan vô tổ huynh đệ” (trở lại quân đỏ, dòng họ không còn, anh em ly tán). Nguyễn Du được người thân chia cho một mảnh đất ở làng Thuận Mỹ làm nhà ở. và cũng từ đây, nguyễn du có các biệt danh “hồng sơn hiep ho” (thợ săn ở núi đỏ) và “nam hải điểu do” (ngư dân ở bể bơi phía nam).

Năm Nhâm tuất (1802), Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du được phong là phủ dũng tri huyện (phủ khoai châu, trấn sơn nam); Tháng 11, ông được bổ nhiệm làm tri phủ Thường Tín, thành phố Sơn Nam, tỉnh Hà Tây. Năm Quý Hợi (1803), ông được cử cùng đoàn đi đón sứ thần nhà Thanh do vua Gia Long sắc phong. Mùa thu năm Giáp Dần (1804), Nguyễn Du cáo bệnh về quê. năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các Đại học sĩ, thụy là Du dực hầu (ngũ phẩm). Tháng 9 năm Đinh Mão (1807), ông làm giám khảo cuộc thi Hương ở hải dương, rồi xin về quê. Năm Kỷ Trị (1809), ông giữ chức Tổng đốc tỉnh Quảng Bình. Tháng 9 năm Giáp Tuất (1812), Nguyễn Du xin xa quê 2 tháng để xây lăng mộ cho người em là Nguyễn Nê. Tháng 2 năm Quý dậu (1813), mới kinh doanh được triệu đô, ông được thăng chức Tham tri chính sự, cử Học sĩ đi sứ sang Trung Quốc. Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814), Nguyễn Du về nước, có tập thơ “Bắc hành tạp lục”, được vua Gia Long phong làm Lễ bộ. Mùa thu năm Kỷ Mão (1819), ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường thi Quảng Nam, từ chối và được chấp thuận. Tháng 8 năm Canh Thân (1820), vua Gia Long băng hà, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ vào kho thóc báo tang và cầu sắc phong. Tuy nhiên, chưa kịp diễn ra thì ngày 10 tháng 8 năm Kỷ Hợi (6 tháng 9 năm 1820), Nguyễn Du lâm bệnh và qua đời tại Cố đô Huế, hưởng thọ 55 tuổi.

2. sự nghiệp sáng tạo

nguyễn du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học bất hủ, trong đó có chữ Hán và chữ nôm, trong đó khi sáng tác chữ Hán phải kể đến:

XEM THÊM:  Kiều tiếng Pháp | Nguyễn Du

Thanh hia thi thu (tập thơ cảm thán) gồm 78 bài, được viết chủ yếu vào những năm trước khi ông làm quan nhà Nguyễn. Nam Trung Tâm ngâm 40 bài thơ từ năm 1805 đến cuối năm 1812 do ông viết khi đang làm quan ở Huế, Quảng Bình và các trấn phía nam Hà Tĩnh. bac hanh tap luc (ghi chép trong một chuyến đi ra bắc) gồm 131 bài thơ, được viết trong một chuyến đi truyền giáo ở Trung Quốc.

Danh sáng tác kịch bản, trong đó có: Đoạn tân thanh (tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột), tức là tác phẩm truyện kiều, gồm 3254 câu thơ lục bát. bài văn tụng cô hồn được gọi là “văn tế thập phương chúng sanh”, tức là văn tế của mười loại người, nó là một bài tụng gồm 184 bài khấn được viết theo thể hai bảy sáu bát. bài thơ gồm 48 câu, cũng được viết theo thể song thất lục bát, với nội dung thay lời người con trai nón lá viết một bài thơ tình gửi cho người con gái phòng thay đồ. tản văn trường nữ lưu luyến gồm 98 câu, được viết theo thể văn …

3. tác phẩm lịch sử kieu

Kiệt tác “kiều truyện” của nguyen du nguyen được gọi là “đường trường tân thanh”. là một tác phẩm truyện thơ được viết từ cốt truyện “kim văn kiều truyện” của thanh tâm tài nữ (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc thời nhà Minh (tức là vào đời nhà Minh), Truyện Kiều là một bức tranh tuyệt vời về cuộc sống lúc bấy giờ nhà thơ đang sống. tác phẩm gồm 3.254 câu kể lại cuộc đời 15 năm lưu lạc, trôi nổi của nàng Thủy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng do gia đình biến sắc phải bán mình chuộc cha, sa chân vào chốn “hát bội”. hai lần, một cuộc sống lâu dài ”. hai lần bị thế lực phong kiến ​​chà đạp.

Về mặt hiện thực, vở diễn đã phơi bày bộ mặt của xã hội phong kiến ​​bất công, tàn bạo, đồng thời phản ánh nỗi đau khổ, bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​và Việt Nam.

Xét về giá trị nhân đạo, truyện Kiều là tiếng nói bênh vực lòng yêu tự do, khát vọng công lý và đề cao vẻ đẹp của con người. trong việc viết truyện kiều, nguyễn du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về tình yêu tự do, trong sáng, thủy chung trong xã hội, nhưng quan niệm về tình yêu và hôn nhân còn rất hà khắc. Tình yêu kim – kiều được coi là bài ca hay về tình yêu đôi lứa trong văn học dân tộc. Truyện Kiều còn là bài ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của tài năng, sắc đẹp, tình yêu thương, lòng hiếu thảo, tấm lòng nhân hậu, đức tính vị tha, lòng trung thành, chí khí anh hùng … thủy kiều, kim trong, tứ hải là hiện thân của những nét đẹp ấy. Thông qua nhân vật Từ Hải, người anh hùng liệt sĩ dám một mình chống lại xã hội tàn bạo, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lý, tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, đông người. Cùng với đó, Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án những thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống của con người. sức mạnh ấy được điển hình hóa qua những nhân vật như mã học sinh, sở giáo dục, tiểu thư, qua bộ mặt của một kẻ tham lam như hồ đồ… đó còn là sự hủy hoại, tiêu tan tiền của vào tay con người. bất lương tàn bạo, có sức mạnh đổi từ trắng thành đen, biến con người thành thứ hàng hóa để mua bán, chà đạp.

XEM THÊM:  Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du

Về giá trị nghệ thuật, nguyễn du đã kết hợp nhuần nhuyễn tinh hoa của ngôn ngữ hàn lâm với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. với truyện kiều, thơ lục bát Việt Nam và dân tộc đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thơ ca, là kết tinh của những thành tựu văn học nghệ thuật dân tộc về ngôn ngữ và thể loại. Đóng góp về ngôn ngữ của Nguyễn Du là có một không hai trong lịch sử.

Nghệ thuật trần thuật trong truyện kể cũng có nhiều tiến bộ, từ nghệ thuật kể chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, miêu tả tính cách nhân vật, miêu tả tâm lí con người. trong lời tựa của sách “kiều” xuất bản lần đầu năm 1820, chủ nhân mộng liên đường (nguyễn đăng tùy bút, 1795-1880) có viết: “… tốt như tấm lòng đau khổ, lời tự sự. khéo cảnh đã đành, chuyện đã định, nếu không nhờ con mắt nhìn thấu sáu cõi và tấm lòng suy nghĩ ngàn đời thì không thể nào có được ngòi bút ấy … ” .

Với những giá trị to lớn đó, hàng trăm năm nay, truyện kiều luôn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả, từ trí thức đến bình dân, chạm đến trái tim bao thế hệ người Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho nhiều sau này. tác phẩm thơ ca và âm nhạc.

Truyện kiều của Nguyễn du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi biên giới một nước, trở thành một phần tinh hoa của văn hóa nhân loại, để lại dấu ấn trên văn đàn Việt Nam trên nền thi ca quốc tế. Với tác phẩm Truyện Kiều nói riêng và tất cả các tác phẩm của Nguyễn Du nói chung, bao thế hệ người Việt Nam đã tôn vinh ông là Đại thi hào dân tộc và được Hội đồng Hòa bình Thế giới là Danh nhân văn hóa toàn cầu.

Khi đánh giá về lịch sử của kiều, trong lời tựa của cuốn sách “Truyện Kiều” (1974), giáo sư Đào Duy Anh đã viết: “trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, si nguyên trai và quốc âm thi. cụ là người đặt nền móng cho chữ quốc ngữ, cụ nguyễn du lịch sử là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta …

Dân trí GS-TS Lê Đình Ký, người được coi là “chuyên gia về truyện Kiều”, đã có những nhận xét thú vị: “Truyện Kiều nảy sinh từ những giá trị văn học đương thời và đưa tác phẩm của Nguyễn Du đến gần với chúng ta. ngày nay, về nội dung và hình thức nghệ thuật … truyện Kiều vẫn là một di sản lớn, là đỉnh cao của văn học dân tộc xưa. p>

Hiện tại, truyện kiều đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có hơn 10 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hàn có hơn 10 bản, tiếng Nhật có 5 bản …

(tiếp theo) (theo tài liệu tuyên truyền của ban tuyên giáo trung ương)

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều – Báo Quảng Bình điện tử. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *