Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
1042 lượt xem

Ngôn ngữ bác học và bình dân trong truyện kiều

Bạn đang quan tâm đến Ngôn ngữ bác học và bình dân trong truyện kiều phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Ngôn ngữ bác học và bình dân trong truyện kiều

vÕ minh hải (đại học quy nhơn)

So với nhiều truyện cùng thể loại khác, truyện ngôn tình dường như là một thế giới đầy hương sắc, phức tạp và đa dạng. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt ngôn ngữ truyện kiều và khiến tác phẩm có giá trị lớn là sự kết hợp tuyệt vời giữa khuynh hướng bình dân và bác học trong ngôn ngữ của tác phẩm. đây có thể được coi là những khám phá tiêu biểu về ngôn ngữ của lịch sử hải ngoại dưới góc độ văn hóa. Thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, một số nhà nghiên cứu đã bước đầu phát hiện ra nội dung, tư tưởng, sự sáng tạo và những nét đặc sắc trong phong cách văn hóa của Đại thi hào Nguyễn Du.

keyword : ngôn tình, truyện hải ngoại, văn hóa hàn lâm, văn hóa đại chúng, nguyễn du.

Phân loại ngành : Văn học.

tóm tắt

So với ngôn tình của nhiều truyện ngôn tình cùng thể loại khác, truyện ngôn tình hay truyện ngôn tình dường như là một thế giới đầy hương sắc, phức tạp đa dạng và phong phú. xuất hiện xuyên suốt vở kịch, tạo nên giá trị to lớn của nó, là sự kết hợp tuyệt vời giữa hai phong cách là phổ biến và được học trong ngôn ngữ của vở kịch. có thể coi đây là những khám phá đặc trưng của ngôn ngữ, nhìn từ góc độ văn hóa. Thông qua kho tư liệu văn hóa, một số nhà nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu nội dung, tư tưởng, sự sáng tạo và những nét đặc sắc trong phong cách văn hóa của Đại thi hào Nguyễn Du.

từ khóa : ngôn ngữ, lịch sử kiều bào, văn hóa hàn lâm, văn hóa đại chúng, nguyễn du.

phân loại đối tượng : văn học.

xx x

1. khai mạc

hệ thống ngôn ngữ trong truyện Kiều là một thế giới phong phú, đa dạng và sâu lắng, là phức hợp của những giá trị văn hoá đa chiều, đa nghĩa và phong phú. một trong những lý do khiến nó tạo nên sự sinh động và hấp dẫn như vậy là bởi sự kết hợp tuyệt vời, nhịp nhàng, hợp lý và hợp lý giữa hai xu hướng văn hóa đại chúng và văn hóa hàn lâm trong ngôn ngữ của tác phẩm. Cùng với sự khẳng định giá trị bất biến của văn hóa bác học, sự trân trọng những giá trị văn hóa bằng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị của thơ ca dân gian Việt Nam đã giúp Nguyễn Du trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thế giới. đã đóng góp nhiều vào sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc. trong việc khái quát các triết lý về nghệ thuật và cuộc sống, ông thường tập trung vào việc sử dụng các điểm mạnh của kho ngữ liệu học thuật. Trong việc miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật, Nguyễn Du thường khai thác những giá trị của các văn bản văn hoá đại chúng. chính sự khai thác đó đã giúp ông khái quát được những khía cạnh độc đáo, cụ thể và chi tiết trong tâm lý nhân vật, một khía cạnh nghệ thuật đặc sắc mà nhà thơ đã dày công sáng tạo trong quá trình sáng tạo của mình. Những thành tựu to lớn mà tác phẩm của ông mang lại không chỉ làm phong phú và sáng tỏ ngôn ngữ văn học chữ Nôm nói riêng, mà còn có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến sự phát triển của ngôn ngữ văn học cổ điển Việt Nam nói chung. bài viết phân tích xu hướng văn hóa đại chúng và văn hóa hàn lâm trong ngôn ngữ truyện Nguyễn du kiều.

2. xu hướng văn hóa đại chúng trong truyện Kiều

nhiều nhà nghiên cứu khác nhau đã đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm bình dị, chân chất, mộc mạc, hấp dẫn, miêu tả chính xác và cụ thể của hệ thống từ ngữ dân gian (các lớp từ cổ, từ địa phương, từ thuần Việt hoặc các tài liệu ngữ âm Hán Việt đã được dịch và cấu trúc lại theo mô hình của chữ Việt) và các giá trị văn hóa, cũng như việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo và đổi mới hệ thống truyền thống này trong ngôn ngữ truyện Kiều. nó không chỉ phản ánh một cách khách quan nội dung, chủ đề của tác phẩm mà còn góp phần phác họa rõ nét hình tượng hiện thực đa dạng, phức tạp. Ngoài ra, qua các tài liệu văn hoá đại chúng, ngôn ngữ Truyện Kiều còn được khẳng định về mặt văn hoá thẩm mĩ, nó mang nét giản dị, mộc mạc, gần gũi với ngôn ngữ của nhân dân, phải có sức hấp dẫn với đông đảo độc giả. Đặc biệt, để khai thác thế mạnh về tính biểu tượng của ngữ liệu, nhà thơ tạo ra những “tập mờ” ngữ nghĩa, giúp phản ánh “những suy nghĩ hợp lý của nhân vật về những mâu thuẫn của văn bản”. kiếp người và số phận con người ”[1, tr. .83].

trong ngôn ngữ truyện kiều, ngoài hệ thống từ cổ, từ địa phương, từ lóng … thì lớp từ mang phong cách truyền khẩu dân gian và từ thuần Việt cũng được coi là kho ngữ liệu văn hóa dân gian. như my pham dan đã nhận định rằng [7, tr.345], “nói chuyện đám đông là cách nói chuyện đơn giản, thường ngày về cuộc sống vô cùng phức tạp và đầy biến động của mọi người ở mọi lứa tuổi. So với lớp từ Hán – Việt, lớp từ này vô cùng sinh động, có nhiều dạng, không ngừng được bổ sung qua các thế hệ và thời đại. bao gồm những từ thô tục và thô tục. Bằng tài năng tạo ngôn từ của mình, Nguyễn Du đã chuyển lớp “ngôn ngữ thô thiển” này vào kho tàng văn hóa bình dân của Truyện Kiều, góp phần tạo nên nét độc đáo về nhiều mặt, tính đa nghĩa của ngôn ngữ tác phẩm. Hệ thống ngữ liệu này không chỉ tạo nên sự chính xác, gợi cảm, hấp dẫn trong cách miêu tả mà còn giúp tác giả xác định, gọi tên đúng đối tượng, vấn đề được phản ánh và có sức khái quát. Có thể nói, Nguyễn Du đã sử dụng kho tàng ngôn ngữ bình dân vô cùng quý giá để giúp khắc họa cụ thể hình tượng xã hội muôn màu, muôn vẻ và thế giới nhân vật sinh động, tiêu biểu trong tác phẩm. dùng để nói lên suy nghĩ của thanh mai trúc mã, kế hoạch dự phòng của bọn họ là ở quanh thúy kiều trong đêm đầu tiên động phòng:

“Nước vỏ lựu, máu mào gà / màu vay vẫn còn nguyên.”

nước cốt vỏ lựu, máu lược gà, chưa đụng đến … là những “tiếng lóng”, từ chuyên môn của loại người chuyên làm nghề mai mối, buôn hương khiến người đọc nhận ra sự bất lương từ gã phò mã. nếu những lời nói xấu của bà thím là lời của những ông chủ nhà chứa, thì chúng ta cũng thấy rằng những lời mắng mỏ của thái giám còn “kinh khủng” hơn:

“tình cờ gặp cơn mưa bão / chợt nói: những giống bơ này biết than / những đứa con này chẳng nhân hậu / chẳng trốn tránh chúa, quân phang chồng / Vờn mèo vờn gà / Vờn vờn cái quái gì.” heck / Tôi đã bị bán để bán cửa của tôi / vẫn còn kinh khủng khi làm điều này / luật của điều đó là gì? / làm ơn cho tôi biết tay của bạn một lần. “

Qua 09 câu thơ trước, chúng ta đã nghĩ rằng đó không thể là ngôn ngữ của một tiểu thư hạng nhì, vợ của một quan lại và một thừa tướng, một quý tộc xuất thân từ gia đình hoạn quan. trong lời chửi rủa của mình, tiểu thái giám sử dụng toàn bộ những từ có đặc tính động từ dày đặc, là tiếng lóng của xã hội đen gypsy như: thờ bơ, che chở thần thánh, quân tử hỗn láo … đứa trẻ này, thái giám riêng tự xưng là mình. ông cũng sử dụng các thành ngữ như con mèo và con gà, những điều khủng khiếp phải làm … hoặc các từ bắt nguồn từ thành ngữ như quen thuộc (thân thuộc trong gia đình, một biến thể của thành ngữ “xấu thân”). Cũng vậy, cách dùng từ mây mưa của Nguyễn Du ở đây rất sáng tạo, nó không phải là chuyện trai gái mà dùng để chỉ nỗi giận hờn vu vơ của lão thái giám. trong truyện kiều, từ ngữ mang phong cách truyền khẩu chiếm một tỷ lệ tương đối (331 ngữ liệu) so với toàn bộ vốn từ của bài thơ. Điều này chứng tỏ, khi viết truyện kiều, Nguyễn Du đã có cho mình một vốn từ vựng vô cùng phong phú và đa dạng, ông biết tìm kiếm những nội dung ngữ nghĩa mới cho những dạng bài quen thuộc (lấy mây mưa là một ví dụ). trong những trường hợp cụ thể khác, nhà thơ đã sử dụng cách nói rất phổ biến, như “mười sa chi”, “cớ gì”, “bẩn thỉu”, “đừng tạt vào mặt”, “như bơ” để miêu tả sự cuộc sống rải rác, đa đoan, đa diện, một bức tranh phức tạp, những cách diễn đạt mộc mạc, có phần gượng gạo, yếu ớt, kém cỏi của các nhân vật và sự chiêm nghiệm của chính nhà thơ trong những câu chuyện về kiều.

XEM THÊM:  Tác giả tác phẩm bài truyện kiều của nguyễn du

bằng tiếng Trung, anh ấy viết:

“nhưng tôi không liên quan gì đến bản thân / số phận của tôi, vốn con người ở đâu?”

Để thể hiện sự đột ngột trong ngôn ngữ của người phụ nữ, cô ấy hạ bút:

<3

hoặc sai, để thể hiện sự kém cỏi của người chú, nhà thơ cũng hạ bút:

“làm thế nào nó có thể như thế này? Cố lên, ai bắt được tay tôi! ”

ngay cả khi bày tỏ những đánh giá, suy nghĩ của mình, tác giả cũng thường dùng những từ ngữ mang phong cách truyền miệng mạnh mẽ, gần với lời nói của người bình thường: “cuộc sống là như thế. ! ” . “Làm thế nào mà bạn có thể thông minh như vậy, thông minh như vậy, thông minh như vậy, thông minh như vậy?”

có thể nói, hệ thống ngữ liệu văn hóa này luôn chân thực, cụ thể và hấp dẫn người đọc. phản ánh tính cách và ngôn ngữ của nhân vật trong những tình huống cụ thể. Ngoài ra, nó còn giúp nhà thơ miêu tả sinh động một số môi trường xã hội thông tục, nắm bắt được những rung động tinh tế và những diễn biến nội tâm phức tạp của một số nhân vật và cả những uẩn khúc trong tâm tưởng của chính tác giả. Khi phân tích, nghiên cứu nguồn gốc phổ biến của ngôn ngữ Truyện Kiều, một số nhà nghiên cứu đã nhận xét chung về phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Du, họ cho rằng thơ ông gần với ngôn ngữ Nguyễn Du. nhà thơ đã nghiên cứu, tiếp thu và chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ dân gian. đây cũng là đóng góp to lớn của các danh nhân Nguyễn du và kiều nữ vào lịch sử phát triển chữ quốc ngữ. do đó, văn hóa bình dân và văn hóa học có thể coi là hệ quy chiếu, là điểm xuất phát của các hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ Truyện Kiều.

Theo chúng tôi, sắc thái bình dân trong ngôn ngữ truyện kiều là những nét, yếu tố thẩm mỹ được gợi mở thông qua hệ thống thành ngữ, tục ngữ, ca dao, hệ thống từ thuần Việt hoặc có yếu tố Hán Việt mang tính bình dị, giản dị. biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam. hệ thống ngữ liệu văn hóa đại chúng thực sự là một thứ ngôn ngữ văn học có khả năng biểu đạt và biểu cảm vô cùng phong phú. nó được nguyễn du vận dụng, truyền tải và khái quát một cách huyền diệu, phù hợp và uyển chuyển trong hệ thống ngôn ngữ của truyện kiều.

3. xu hướng văn hóa hàn lâm trong truyện ngôn tình

môi trường văn hóa cổ điển thời trung cổ được thiết lập trong khuôn khổ của nghi lễ. Văn hóa truyền thống Việt Nam dựa trên nguyên tắc của các phạm trù đạo đức Nho giáo, như lễ, trung, hiếu, nghĩa, tiết, nhân nghĩa, v.v. đó là những đặc điểm, biểu hiện cụ thể của tư tưởng, quan niệm sống. lương tâm xã hội của các quốc gia bị ảnh hưởng. bởi nền văn minh và văn hóa Trung Hoa. Không gian và bối cảnh đời sống văn hóa trong Truyện Kiều đã miêu tả và phản ánh thế giới quan của Chính thống giáo. Với bối cảnh văn hóa ấy, hệ thống ngữ liệu lễ nghi được tác giả sử dụng trong ngôn ngữ của tác phẩm luôn tuân theo những tính quy phạm chặt chẽ, thể hiện sự tôn nghiêm, cao quý, sang trọng của xã hội và con người thời bấy giờ. điều này đã ảnh hưởng đặc biệt đến thế giới các tác phẩm nghệ thuật và tạo nên vẻ uy nghi và trang nghiêm của lâu đài lưỡi từ những câu chuyện về kiều.

Trong quá trình phát triển văn hóa Việt Nam, sự tiếp thu và ảnh hưởng của văn hóa cổ điển Trung Hoa (hay còn gọi là văn hóa Hán, văn hóa) vào văn hóa Việt Nam là một hiện tượng lịch sử. . điều đó được phản ánh trong quá trình đô hộ hoá và phản dân hoá trong lịch sử nước ta. như nhà nghiên cứu phan ngoc đã nhận xét:

“Chấp nhận văn hóa Trung Hoa, người Việt chỉ tiếp thu những gì cần thiết từ văn hóa Trung Hoa để bảo vệ chủ quyền quốc gia, chứ không bắt chước nô dịch, dù nhìn bên ngoài khó có thể nói là không máy móc…” [4, tr .43].

sự giao lưu, tiếp xúc giữa các nền văn hóa và ngôn ngữ Việt – Hán, nếu ở giai đoạn đầu mang tính ép buộc, áp đặt thì là một phần của âm mưu đồng hóa văn hóa, nhưng ở giai đoạn sau là chủ quan, chủ động, tích cực. Các triều đại Việt Nam trong thời kỳ tự chủ đã xây dựng hệ thống chính trị, giáo dục, học viện, thi cử, … theo mô hình của chế độ phong kiến ​​phương Bắc. Vì vậy, về mặt văn hóa, Việt Nam đã tích lũy kinh nghiệm của văn hóa Trung Quốc.

Lịch sử văn học trung đại Việt Nam vận hành và phát triển trong một hoàn cảnh đặc biệt, vừa ly tâm vừa hướng về văn học và văn hóa cổ điển Trung Quốc. đó là quá trình tiếp thu học hỏi nhưng cũng là sáng tạo, Việt hóa và bồi đắp ngày càng rõ nét các đặc trưng dân tộc. Vì vậy, có thể nói, sự giao lưu văn hóa, ngôn ngữ Việt – Hán và đặc biệt là quá trình hình thành ngôn ngữ văn học thời trung đại đã để lại dấu ấn đậm nét trong các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam. Cụ thể, có hai hệ thống Hán Việt và ngữ liệu thuần Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật của thể loại thơ du mục và ngâm thơ Hán ngữ của văn học cổ điển Việt Nam. giá trị thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu (là bằng chứng, dữ liệu ngôn ngữ, có thể trích dẫn và khai thác để nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm) có nguồn gốc từ văn hóa học giả cổ điển Trung Quốc, văn hóa Hán học và văn học trực tiếp. đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ của lịch sử thơ ca hàn lâm. Nguyễn đức tồn tại trong các đặc điểm văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư tưởng, gọi những ngữ liệu này là “hiện tượng văn hóa cụ thể” [9, tr.215] hay “đơn vị văn hóa cụ thể” [9], tr.267]. do đó, không chỉ các nhà ngôn ngữ học quan tâm, yêu thích mà cả các nhà ngữ văn cổ điển cũng rất chú trọng đến hệ thống đơn vị mang một nội dung văn hóa đặc sắc này. Ngữ liệu này được coi là một dạng tín hiệu thẩm mỹ cụ thể, nó được sử dụng trong các bài thơ như một phương thức đặc trưng để bộc lộ cảm xúc trữ tình của cá nhân, tạo ra một thế giới mở riêng, theo thi pháp văn học trung đại Việt Nam. nghệ thuật sử dụng hệ thống ngữ liệu này không chỉ đảm bảo tính quy phạm, chuẩn mực, phản ánh đặc trưng của thể loại mà còn thể hiện chiều sâu của văn hóa cổ điển, chiều sâu và dung lượng khái niệm của nó. tóm tắt về cuộc đời của các tác giả văn học cổ Việt Nam.

Vào thời trung đại, do quan niệm sáng tác chịu ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo, văn học được sáng tác với mục đích chính trị và dạy cách cư xử trong cuộc sống. Cần tránh những điều thô tục dung tục. do đó, việc sử dụng các hình thức cụ thể của ngữ liệu văn hóa đã tạo ra một lĩnh vực thẩm mỹ đặc trưng cho các tác phẩm văn học cổ đại. đó là một hệ thống từ ngữ đã được sử dụng một cách khá trau chuốt, linh hoạt và đa dạng trong các tác phẩm tiêu biểu là truyện du mục và đặc biệt là truyện kiều. Bàn về vấn đề này, Đoàn Ánh Loan trong tác phẩm Kinh điển và nghệ thuật sử dụng kinh điển cho rằng hệ thống ngữ liệu (cụ thể là văn học cổ điển, văn học Hán học) bằng chữ Nôm đã được “công nhận”. các tác giả truyện ngắn, thơ sắp xếp các câu tám câu nhiều hơn sáu câu, tuy không khác nhau mấy, nhưng cũng cần lưu ý là một nét… nhưng giữa chúng luôn có sự liên kết chặt chẽ để thể hiện ý nghĩa cao nhất ”[5 , p. .56].

XEM THÊM:  Nhận định về nguyễn du và truyện kiều

sự tiếp thu và ảnh hưởng của văn hóa học thuật và đã góp phần hình thành nên bản chất tao nhã và trang nghiêm, một đặc điểm thẩm mỹ của ngữ liệu học thuật. đặc điểm này làm nảy sinh những hình ảnh, biểu tượng, biểu cảm cố định và truyền thống, sự phân định thứ bậc, sự lộng lẫy và trang trọng. chẳng hạn, nhà thơ đã sử dụng một số thuật ngữ và tư liệu rút ra từ quân sự, chính trị và các nguyên tắc cao để mô tả các sự kiện và sự kiện nghiêm trọng. Bài thơ “báo thù trả thù” của Thủy kiều là một ví dụ điển hình, tác giả đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ cụ thể để miêu tả lễ tiết quân tử [8, tr.224], một trong năm lễ nghi được quy định trong các nghi lễ cấp bậc trở lên, cụ thể là lễ cát tường. lễ (bảo quản, hôn), lễ treo (tang, tế), lễ xuất quân, lễ tiếp nhận (lễ tiếp nhận), lễ nhà (lễ mừng). đó là những từ thường được sử dụng trong lực lượng vũ trang như kiểm duyệt, chăn gia súc, chủ nghĩa tu viện:

“quân trung quân gươm giáo dài to / vệ trong thành, quân ngoài thành, quân sẵn sàng, uy nghiêm / Quân chặt, thần phủ sân. / hùm mở trung quân / từ công đến chồng người ngồi với nhau / lần đầu, trống phòng.

lính canh, lính canh là những đơn vị quân chính quy định trong quân đội thời phong kiến. chú đồng (hay còn gọi là dong bac, dong lao, đây là những nhạc cụ gõ, dùng để tạo ra âm thanh oai hùng khi xuất quân), tinh ký là hệ thống cờ hiệu dùng trong đồ sứ, canh giữ trời, hành động theo nghi thức xuất quân của một vị thống soái. hoặc chung chung. bái đường (còn gọi là hổ môn), cổng viên (viên môn) là trụ sở của thống chế, có tọa hổ (ghế da hổ), trung quan là một trong tam quân (tiền, trung, hậu hoặc tả. , giữa, bên phải). Với những cụm động từ tiêu biểu này, tác giả đã khắc họa thành công khung cảnh nghiêm trang, uy nghiêm và uy nghi của “cung đình tình đời”, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nghệ thuật chuẩn mực.

nguyen du mô tả cảnh nam nữ diễn viên gặp nhau qua sự xuất hiện của kim trong trong khai quang:

“tuyết màu lông ngựa / cỏ áo nhuộm bầu trời”. “Một bộ phim hài đi hàng dặm xanh / một vùng như hoa thủy tiên vàng”

bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội được nhà thơ phác họa qua những hình ảnh văn hóa rất đặc trưng của Trung Quốc và Việt Nam. Những người dân trong tiết thanh minh đi tu sửa lăng mộ và tìm kiếm những bóng dáng của quá khứ, tạo nên một không gian hoài cổ trong tâm tưởng. cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp ấy cũng là cái cớ để nhà thơ miêu tả một cách trọn vẹn chân dung một nhà Nho tài hoa theo quan niệm của Nho gia. có lẽ, trong bài thơ này, nguyễn du đã chọn hình ảnh thanh minh làm nền cho sự truyền thần của kim trong như một sự tương giao âm vậy. vẻ đẹp thiên nhiên trở nên thơ mộng hơn nhờ hình ảnh con người và hình ảnh con người trở nên sống động hơn nhờ thiên nhiên. thiên nhiên là chuẩn mực, con người là son phấn. mọi chất liệu miêu tả tầm quan trọng của vàng đều gắn với màu xanh: hài đi dặm xanh, cỏ pha áo nhuộm trời, một vùng như cây bồ công anh … đông – xuân – thanh – niên – tình là những từ với ý thức văn hóa, dễ liên tưởng với nhau, đó chính là điều tạo nên cho bài thơ và ngôn ngữ tự sự của tác giả một chất trữ tình, mềm mại, triết lý và chiều sâu văn chương. đồng thời, hình thức liên tưởng đó cũng tạo ra hàng loạt âm thanh đa âm, sự hài hòa ngữ cảnh của thể loại truyện du mục, và cảm nhận văn hóa cá nhân của tác giả. bản thân nó (tức là âm thanh đa âm) có thể tạo ra một tiềm năng ngữ nghĩa mà mỗi người đọc, khi tiếp nhận nó, sẽ tái tạo cho mình những kiểu tái tạo riêng biệt, tùy thuộc vào “phạm vi tiếp nhận”, chiều kích và chiều sâu văn hóa của mỗi cá nhân.

do đó, hệ thống ngữ liệu văn hóa học là tín hiệu mỹ học được hệ thống hóa, nó phản ánh sâu sắc hơn dũng khí, trình độ và chiều sâu văn hóa của tác giả. Đồng thời, hệ thống tín hiệu này cũng thách thức và đòi hỏi khả năng “giải mã văn hóa” của người nhận. Vì vậy, khi khảo sát hệ thống ngữ liệu của các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam, đặc biệt là các truyện danh học, hệ thống ngữ liệu này không chỉ là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn mà còn là rào cản nghệ thuật đối với người đọc. trang thiết bị cũng như hiểu biết về văn hóa cổ điển truyền thống phương Đông luôn là điều kiện cần thiết.

4. kết luận

Hệ thống ngữ liệu văn hóa trong truyện Kiều khá đa dạng và phong phú, chịu ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa, tư tưởng, nhận thức văn hóa và đặc điểm thẩm mỹ của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam. dưới áp lực của những ảnh hưởng đó, kho ngữ liệu đã biến thành những tín hiệu thẩm mỹ cụ thể, những phép điệp ngữ và những từ điển giàu tính khái quát và triết lý. hệ thống đó đã trở thành công cụ thẩm mỹ của các nhà văn, nhà thơ thời trung đại, nó không chỉ chuyển tải nội dung thẩm mỹ, tư duy về nghệ thuật, về cuộc sống mà còn thể hiện sâu sắc về văn hóa văn học, chiều sâu và tính giáo dục của các tác giả văn học.

tài liệu tham khảo

[1] trinh ba dinh (2013), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

[2] wu minh hai (2018), “Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hóa hàn lâm và văn hóa đại chúng đối với ngôn ngữ truyện ở nước ngoài”, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, số 7.

[3] Nguyễn Thúy Hồng (1995), Từ Việt và Từ Hán Việt trong ngôn ngữ Truyện Kiều, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1.

[4] le dinh cay (1986), “Sắc thái khoa học, sắc thái bình dân và tính thống nhất của ngôn ngữ truyện kiều”, Những vấn đề ngôn ngữ trong ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học – Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

[5] loan luan anh (2003), kinh điển và nghệ thuật sử dụng kinh điển, báo chí đại học quốc gia, thành phố hồ chí minh, thành phố hồ chí minh. Hồ Chí Minh.

[6] phan ngọc (1998), nghiên cứu phong cách của Nguyễn Du trong sử ký, nhà xuất bản thanh niên, hà nội.

[7] pham dan que (2013), thế giới nghệ thuật truyện kiều, nhà xuất bản thanh niên, hà nội.

[8] van trung thien (2006), nghi lễ, xã xuất bản văn học nghệ thuật Bắc Kinh.

[9] Nguyển ống tấn (2001), Đặc điểm ngôn ngữ và tư tưởng dân tộc và văn hóa, Báo chí Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 – 2019

thánh địa Việt Nam học ( https://thanhdiavietnamhoc.com )

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Ngôn ngữ bác học và bình dân trong truyện kiều. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *