Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
724 lượt xem

Nhà thơ Trần Tế Xương – Một nhân cách văn hóa – Báo Nam Định điện tử

Bạn đang quan tâm đến Nhà thơ Trần Tế Xương – Một nhân cách văn hóa – Báo Nam Định điện tử phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Nhà thơ Trần Tế Xương – Một nhân cách văn hóa – Báo Nam Định điện tử

Nhà thơ Trần Tế Xuân (tức là tự bon chen) sinh ra là Trần Duy Uyển tự tử, mang trong mình một người con trai, một giấc mơ, sau khi thi đỗ trung học phổ thông với bút danh là tu xuong, sinh ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ (5 tháng 9 năm. 1870), tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, sau là phố Hàng Nâu, nay là phố Minh Khai, huyện Vỹ Xuyên, thành phố Nam Định. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, cha là Trần Duy Nhuận, làm quan Thừa tuyên Đốc học Nam Định. Vợ ông là phò thị nam, cũng là con gái của một gia đình giàu có, gốc ở phương đông (hải dương), được coi là đại diện cho những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa, giỏi việc, cần cù, yêu thương. thương chồng, thương con, nhẫn nhịn, “một duyên, hai nợ, một phận / năm nắng mưa, dám quản việc công.” chị là người “nghị lực”. chồng để thỏa mãn ý muốn của một người đàn ông. về học hành thi cử, làm thơ và giao lưu: “anh ấy nói nợ là thế / nhưng anh ấy vẫn giàu có cả đời”, “đây là người bạn tâm giao lâu đời nhất / người khách hạng hai đó” …

Người dân đến tham quan Di tích lưu niệm nhà thơ Tú Xương tại số 280, phố Minh Khai (thành phố Nam Định). Ảnh: Viết Dư Người dân đến tham quan Di tích lưu niệm nhà thơ Tú Xương tại số 280, phố Minh Khai (thành phố Nam Định). Ảnh: Viết Dư

Thời nhà thơ Trần Tế Xương sống là giai đoạn bi phẫn nhất của dân tộc, phong trào yêu nước Cần Vương dần bị thoái trào; năm 1873 Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Định; năm 1884 triều đình nhà Nguyễn chính thức ký hàng ước dâng đất nước ta cho giặc Pháp. Là người học hành có chí, lại có tài làm thơ, cũng như bao nho sĩ trẻ, nhà thơ mang khát vọng học hành thành đạt để có cuộc sống tử tế. Năm 1886 lúc 16 tuổi ông đã đi thi hương, rồi kiên trì đeo đuổi đến tám khoa thi (vào các năm 1886, 1888, 1891, 1894, 1897, 1900, 1903, 1906). Có lẽ phong cách phóng khoáng, không tuân thủ theo lối văn khuôn sáo cử nghiệp, cộng với cách thức thi cử “chọn nhân tài” của chế độ thực dân phong kiến đương thời, nên ông lận đận mãi. Phải đến khoa thi thứ tư, niên hiệu Thành Thái thứ 6 năm Giáp Ngọ 1894, khi đã 24 tuổi, ông mới đỗ Tú tài thiên thủ, lấy thêm cuối bảng. Những mong chăm chỉ đèn sách để có tấm bằng cử nhân cho đỡ tủi phận nghiên bút, thoát cảnh “thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ”, lần thi cuối cùng, niên hiệu Thành Thái thứ 18 năm Bính Ngọ 1906 ông còn đổi tên Trần Tế Xương bằng Trần Cao Xương nhưng vẫn không thành. Ông cay đắng nhận ra “cửa Khổng sân Trình” của cái buổi nhiễu nhương này, không có ngôi vị nào dành cho những người như ông. Ông đành chấp nhận số phận cuộc đời, phải sống trong môi trường thị dân đang bị chi phối sâu sắc bởi chế độ thực dân nửa phong kiến, nhiều giá trị đạo đức và nhân văn bị pha tạp hoặc đảo lộn.

Tuy nhiên, anh ta không ham mê lối sống thấp kém, nhu nhược và tầm thường. Anh đã chọn cho mình con đường “nhập thế” của một “nho gia – nho sĩ” mang trong mình dòng máu học sĩ bắc hà: “nhập thế không thành văn” (nhập đời không có chữ nghĩa). văn học) . những vần thơ ngạo mạn, châm biếm, cẩu thả, thực chất chỉ là cái mã nghĩa bề ngoài, nhưng ẩn chứa bên trong là niềm tự tin sâu sắc của một nhà văn đáng suy ngẫm trong thời đại của mình: “bầu trời không lấp lánh. với đài phun mưa / Đêm nào tôi cũng buồn ”,“ Tôi nghe tiếng ếch nhái bên tai / Giật mình tưởng ai đang gọi đò ”,“ ai chỉ cho tôi tình yêu này / Nói về ngọn đèn năm nào ”,“ ai cũng dễ ngủ / thức một mình chẳng vì gì “, ” trai trẻ, thủy chung, tình yêu / vì ai đó ngốc nghếch để mình ngẩn ngơ “… mr. ông nguyện sống với nghề thơ để rồi tự do chinh chiến trong cõi thơ được trời phú cho tài năng thơ ca và nghị lực sáng tạo. đó là hành vi văn hóa đích thực, ứng xử của một nhân cách văn hóa được gọi là nhân trần.

Anh luôn xấu hổ về bản thân, sự xấu hổ đáng xấu hổ của sự tự tôn. Xưa nay có nhiều bài thơ về việc học hành thi cử, nhưng được viết hay và thấm thía đến tận cùng nỗi xót xa của những người trong cuộc chân chính, thì đó phải là thơ của nhà thơ tu bon: “học hành tràn trề”. cơm chưa chín / không ăn ớt nên cay ”,“ đau quá / bỏng hơn lửa / lông cọp, thương tâm / xót xa, đáng thương ”… nhiều tâm sự của nhà thơ từ trước đến nay đọc lại nó vẫn nhói lên sống mũi, thương lắm cái ước muốn thi đậu để “mở mặt ra quyết vua biết / chạy danh để cha mẹ già”, ” anh ta đang cầm một viên vàng, để mặt vợ vang lên “…

XEM THÊM:  1 Số Nhà Thơ Trong Phong Trào Thơ Mới

chủ đề trong sáng tác của bài thơ không trừu tượng, mà lấy từ người thật, việc thật trong đời sống thực ở thành phố miền Nam lúc bấy giờ. nhà thơ luôn cảm thấy tủi hổ về kiếp nô lệ, khi chế độ thực dân phong kiến ​​bắt đầu “mọc sừng” ở mọi ngõ ngách của cuộc sống. đồng tiền chi phối mọi mối quan hệ xã hội, hủy hoại mọi thuần phong mỹ tục. những bậc hiền tài ở phương bắc “giang sơn gấm vóc” thực chất là những kẻ “văn võ song toàn” vô liêm sỉ, mua danh lợi, khoác lác, qua quýt lấy bơ thừa, cặn sữa; các quan chức thuộc địa, sống một cuộc đời buồn tẻ “sáng vác ô, tối nhặt ô”; hình ảnh những thầy bùa, những cô gái điếm, những con buôn hợm hĩnh, những nam thanh nữ tú… dưới ngòi bút của nhà thơ hiện lên với tất cả những dáng vẻ hợm hĩnh, lố bịch, lố bịch. thơ ông luôn mang đến sự ngạc nhiên thú vị, tiếng cười trong thơ ông sắc bén, xé toạc hình thức bên ngoài của vật thể, để nó lộ nguyên hình. có thể nói nhà thơ đã đóng góp cho văn học những nét thơ đầy ấn tượng về cuộc đời phức tạp, đồng thời đa dạng và cụ thể, chi tiết. qua đó, ông đã khái quát đặc điểm của một xã hội phong kiến ​​suy tàn do thực dân thống trị, chà đạp lên những phạm trù đạo đức thiêng liêng của một thời đại đã qua. nhà thơ cảm nhận được sự băng hoại đạo đức đang ngấm vào từng gia đình nơi đất khách quê người: “nhà kia lầm than, con cháu khinh cha / đàn bà ghét chồng / chồng như cục sắt / tham lam thở hơi đồng. ”… nếu đặt trong dòng chảy của văn học Việt Nam, hiếm có nhà thơ trào phúng nào có giọng văn cao, trầm và quyết liệt như bon chen của anh. đã có ý kiến ​​cho rằng: Thi nhân không cầm gươm rực lửa như các bậc bô lão, binh khí hữu dụng … nhưng lại có vũ khí riêng để đánh giặc, thơ sắc như gươm, uy lực. họ đâm trước rồi mới đâm kẻ thù, bọn trộm cướp và bọn bán nước.

Cũng có một đoạn tự họa quan trọng trong thơ ca về sự hy sinh xương máu. hình tượng nhân vật trữ tình tu hú trong thơ vừa là hình ảnh mang bản sắc riêng của nhà thơ, vừa là tấm gương văn học của một loại nhà Nho tài tử. Bên cạnh những bài thơ trêu đùa một kẻ ăn chơi, mạnh ai nấy làm, còn có những bài thơ đầy tình yêu thương vợ con, gia đình, lao động nghèo khổ, đồng thời cũng nghiêm khắc với tình yêu bạc mệnh của mình. quê hương nhưng bất lực. . nhà thơ cảm thấy vô cùng cô đơn giữa một xã hội xô bồ, hỗn loạn chạy theo giải trí, tiền tài và danh vọng: “thức trông sáng / sao đêm ru buồn”, “nước xanh dường như vắng vẻ / người ơi. bước qua trông bơ vơ ”,“ hỏi người chỉ thấy xanh / tóc xanh / chờ nước xanh xám hơn ”,“ lẻ loi giữa đường hiu quạnh / gặp ai đợi chờ ” … Những bài thơ anh viết trực tiếp hoặc gián tiếp về vợ – chị, em, như: thương vợ, đau mắt, mặc áo bông mùa hè, than nghèo, lòng tự trọng không bằng lòng, ở cữ. >… Tuy có hình thức châm biếm nhưng lại thể hiện tình yêu thương của mình một cách giản dị, chân thực, sâu sắc và đậm chất nhân văn.

đã sáng tác khá nhiều bài thơ, hầu hết là những bài thơ tên viết bằng bảy thứ tiếng, tứ tuyệt, sáu tám và bảy sáu tám. Ngoài ra, ông còn viết một số bài phú về văn chương, đặc biệt ông còn là một dịch giả tài năng và uyên bác, người đã góp phần làm sáng tỏ cái hay của nhiều bài thơ Đường của Trung Quốc. do đặc thù của ông mất đột ngột, không quy tụ được, không có di cảo nên thơ ông vẫn bị thất lạc và có thể có sự nhầm lẫn như các nhà phê bình đã đề cập.

Về mặt nghệ thuật, sáng tác thơ lục bát đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thơ ca dân tộc, từ bỏ những hình thức trừu tượng thông thường và những công thức quy phạm của nghệ thuật văn học trung đại. nhà thơ đã nâng ngôn ngữ đời thường lên thành ngôn ngữ nghệ thuật với tất cả tính biểu cảm, tính ngụ ngôn và vẻ đẹp thẩm mĩ của nó. thể thơ Đường luật được ông sáng tạo tự do qua những ngôn từ bình dân nhưng sâu sắc và tuân thủ nghiêm ngặt các quy luật của thể loại. Khi nghiên cứu những thành tựu của thơ độc thân trong mấy chục năm gần đây, tuy có một số chi tiết cần được khảo sát thêm để làm rõ như số lượng bài thơ, có hay không một số bài thơ được sáng tác không rõ nguồn gốc, nhưng hầu như “chúng ta cùng nói lời ”ai cũng khẳng định: thơ phong trần đã chiến thắng cả nghệ thuật trào phúng và trữ tình. trữ tình là cái gốc trong thơ của xương trần. truyện châm biếm không bao giờ khô khan và nhàm chán bởi nó được viết trên cơ sở những cảm xúc có thật. trào phúng không chỉ gây cười mà luôn có sức lay động sâu sắc với chiều sâu của cái nhìn sâu sắc. ông đã kế thừa những câu chuyện mỉa mai trong văn học dân gian, những câu chuyện cười, những trò đùa, những câu chuyện tình yêu, thơ lục bát … và nâng nó lên một chiều sâu trào phúng mới.

XEM THÊM:  Tiễn biệt Xuân Tâm - người cuối cùng của phong trào Thơ mới

Nhà thơ Trần Tế bon đã đột ngột qua đời vào ngày rằm tháng 12 âm lịch năm (28 tháng 1 năm 1907) sau một trận ốm nặng, khi ông vừa mới thi đỗ thứ tám. nhà thơ mới 37 tuổi, độ tuổi đầy bề dày, chín chắn của cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. ông đã được biến đổi trong cõi tâm linh của vùng đất thiêng thành một người đàn ông, nơi ông sống, thành tâm, hiến dâng tâm hồn, tài năng và sức lực của mình. chắc hẳn nhà thơ “cười chín suối”, khi người dân thành phố không những không quên ông, mà còn thấy được giá trị tinh thần của thơ ông, được thưởng thức hương thơm đặc trưng và sản phẩm thơ. ăn chuối, đọc thơ xương ”. mộ ông được đặt trang trọng ngay bên hồ, một con đường ven hồ đẹp, và một ngôi trường tiểu học mang tên ông … các học giả, nhà văn, nhà thơ lớn đã tôn vinh ông: “bon của ông xứng đáng là một trong những vĩ nhân của các nhà thơ trào phúng thế giới ” (GS albert smit – ông); “ trên bầu trời thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay, nếu chọn năm ngôi sao sáng nhất, thì bon chen của bạn là một trong số đó ” (chuyển phát nhanh jean – Pháp); xương của bạn là “thánh thơ” (nguyễn công hoan); “nghe thám tử trên mây của anh ta / trở lại văn học với một tú tài” (xuan dieu); “nhà thơ, nhà thơ có nhiều công lao trong quá trình lâu dài xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam ” (nguyen tuan); “có vẫn còn nhiều học sinh. hơn hết là học lòng yêu nước, thương dân, căm thù kẻ hại quê hương ” (che lan vien); “ Cái bon của anh ảnh hưởng đến em nhiều nhất nên em đã tôn anh là thầy và em. đặt cho anh ấy biệt danh hoặc bạn của bạn, mặc dù tôi không đậu trung học và anh ấy không có chút mỡ nào. ” (túi mỡ).

“nhiều vô cực” (!). nhà thơ ngắn trước hết là một con người thực, sống một cuộc sống thực sự nghèo khổ, vật lộn với thi cử và chết sớm, khi mọi thứ còn dang dở. do đó, đòi hỏi nhà thơ phải hoàn thiện, ngay cả những gì mình không thể có, hoặc không thể có thì mới thấy hết được những cống hiến to lớn của nhà thơ trên phương diện thơ ca và văn hóa. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Xuân Diệu xếp thi hào Tư Bổn thứ 5, sau tứ đại thi hào của dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Không phải ngẫu nhiên mà Bảo tàng Văn học Việt Nam lại chọn nhà thơ Tư Bổn trong số hai mươi tác giả quan trọng để đúc tượng đồng đặt trong Vườn tượng nhà thơ tại Bảo tàng Văn học Việt Nam ở Hà Nội. chúng ta tự hào về mảnh đất nam định đã hình thành nên truyền thống văn hóa nam định mang hồn cốt nam định, càng tự hào có một nhà thơ đã hy sinh một trong những nhân cách văn hóa kết tinh của truyền thống. hệ thống, một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ từ lâu đã trở thành ngôn ngữ tiêu biểu ở thành phố nam định: ong tu vi xuyen, ong tu thanh nam.

xin cảm tạ chí khí anh hùng của thi sĩ trần thế:

“Thật giả nam, một buổi xôn xao đèn xanh một cái, văn chương bình minh. trường thi ngậm đắng nuốt cay sống lâu đậm đà. tâm hồn sắc sảo và bị tổn thương, nhiệt thành, nghệ thuật chứa đựng tình yêu. tài lớn, phận mỏng, văn thơ không mỏng, ngạo nghễ giải nghĩa một tu xương ”.

nguyễn công thanh (vhnt chủ tịch tỉnh hội)

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Nhà thơ Trần Tế Xương – Một nhân cách văn hóa – Báo Nam Định điện tử. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *