Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
658 lượt xem

Phân tích 20 câu đầu bài thơ việt bắc

Bạn đang quan tâm đến Phân tích 20 câu đầu bài thơ việt bắc phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích 20 câu đầu bài thơ việt bắc

Phân tích 20 câu đầu của bài thơ Việt Bắc để thấy được cuộc trò chuyện thân mật bằng hình thức đối thoại quen thuộc giữa nhân dân Việt Nam với những người cách mạng về xuôi. với 20 câu thơ đó, những kỷ niệm đẹp giữa họ dường như cụ thể, chân thực và đầy cảm xúc.

Phân tích bài thơ Tiếng Việt 20 câu đầu gồm 2 dàn ý chi tiết kèm theo 7 bài văn mẫu hay được tải.vn chọn lọc từ những bài làm hay của các bạn học sinh trên cả nước. Thông qua tài liệu này, giúp các bạn học sinh lớp 12 có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao kỹ năng làm văn của mình từng ngày. Ngoài ra, các em học sinh lớp 12 có thể xem thêm nhiều bài văn hay khác trong chuyên mục 12.

lược đồ phân tích 20 câu đầu của bài thơ Việt Bắc

bản phác thảo số 1

i. giới thiệu:

– tác giả, tác phẩm hiện tại.

– đoạn trích giới thiệu.

ii. nội dung:

– hiển thị nền của bố cục.

– nhập vị trí của đoạn mã.

* phân tích:

– tám câu thơ đầu là giọng điệu nhớ nhung của cuộc chia tay:

+ bốn câu trước sử dụng cấu trúc điệp ngữ “Mình làm về mình, mình nhớ” là câu nghi vấn, gợi lại kỉ niệm “mười lăm năm mặn nồng”, về thiên nhiên đất nước Việt Nam. .

+ cách gọi “ta – ta” như tiếng lòng của một cặp đôi đang yêu khiến cuộc chia tay trở nên thân mật và dễ dàng. cách xưng hô cũng gợi nhớ đến những câu hát đối đáp, khiến những câu hát về cách mạng không khô khan mà đằm thắm, sâu lắng.

+ bốn dòng tiếp theo là nỗi nhớ của cả người ở lại và người ra đi, được diễn tả bằng những từ ngữ trực tiếp bộc lộ tâm trạng: “đau xót”, “xót xa”, “khắc khoải”; không khí của bữa tiệc chia tay thật thân mật và gần gũi: “áo chàm”, “nắm tay nhau”.

– mười hai câu sau, với cách sử dụng câu chuyện ngụ ngôn “hãy nhớ”, là một thông điệp dưới dạng một câu hỏi:

+ nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Nam những ngày kháng chiến: mưa nguồn, suối nguồn, mây trôi, bùn lấp, măng mai.

<3

+ nhớ về thời gian hoạt động cách mạng: chống Nhật, việt minh, tân trạo, hồng thái, …

+ đại từ “tôi” thể hiện sự gần gũi, thân thiết giữa kẻ ở và kẻ đi. nó giống như một cách để bày tỏ cảm xúc của bạn, thì thầm với sự chân thành.

iii. kết luận:

– tóm tắt lại vấn đề.

lược đồ số 2

1. mở đầu

– Giới thiệu sơ lược về tác giả cho huu: Là một nhà thơ lớn, nhà thơ trữ tình chính trị, thơ của ông luôn phản ánh những cuộc đấu tranh gian khổ nhưng cũng thành công của dân tộc.

– giới thiệu bài thơ việt bắc: hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính của bài thơ.

2, nội dung

* ý nghĩa tiêu đề

– viet bac là địa danh – là cái nôi của cách mạng Việt Nam thời tiền khởi nghĩa, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.

– viet bac là nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm giữa cán bộ cách mạng và nhân dân nơi đây.

* lời của người ở lại (20 dòng đầu tiên)

– tám câu thơ đầu là giọng điệu nhớ nhung của cuộc chia tay:

+ bốn câu trên, sử dụng cấu trúc điệp ngữ “Ta về mình ta nhớ” là lời cầu khiến, gợi lại những kỉ niệm “mười lăm năm mặn nồng”, về thiên nhiên đất nước Việt Nam. .

+ cách gọi “ta – ta” như tiếng lòng của một cặp đôi đang yêu khiến cuộc chia tay trở nên thân mật và dễ dàng. cách xưng hô cũng gợi nhớ đến những câu hát đối đáp, khiến những câu hát về cách mạng không khô khan mà đằm thắm, sâu lắng.

+ bốn dòng tiếp theo là nỗi nhớ của cả người ở lại và người ra đi, được diễn tả bằng những từ ngữ trực tiếp bộc lộ tâm trạng: “đau xót”, “xót xa”, “khắc khoải”; không khí của bữa tiệc chia tay thật thân mật và gần gũi: “áo chàm”, “nắm tay nhau”.

– mười hai câu sau, với cách sử dụng câu chuyện ngụ ngôn “hãy nhớ”, là một thông điệp dưới dạng một câu hỏi:

+ nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Nam những ngày kháng chiến: mưa nguồn, suối nguồn, mây trôi, bùn lấp, măng mai.

<3

+ nhớ quang trong thời gian hoạt động cách mạng: chống Nhật, việt minh, tân trạo, hồng thái, …

+ đại từ “tôi” thể hiện sự gần gũi, thân thiết giữa kẻ ở và kẻ đi. nó giống như một cách để bày tỏ cảm xúc của bạn, thì thầm với sự chân thành.

* lời của người đã khuất

– bốn câu thơ tiếp theo khẳng định định nghĩa về tình yêu thủy chung, mặn nồng “ta với ta, ta với ta”: thể hiện sự gắn bó, thấu hiểu nhau, khiến người ta đi theo mà ở lại.

– con người bày tỏ nỗi nhớ thiên nhiên Việt bắc: “trăng lên đỉnh núi, nắng chiếu lưng núi”, “sương khói làng xóm”, “rừng trúc”. , … thiên nhiên Việt Nam qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.

– nhớ con người việt bắc:

+ những con người dù gian khổ, khó khăn gian khổ vẫn một lòng thủy chung, chia sẻ mọi “đắng cay, ngọt bùi” trong cuộc kháng chiến: “chia củ sắn”, “cơm chung tấm áo nửa chăn. “Cùng nhau”.

<3

+ gợi hình ảnh những con người với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của người lao động: “mẹ”, “chị”.

– gợi lại hình ảnh quân dân Việt Bắc đoàn kết đánh giặc: “ta đánh tây cùng”, “cả chiến khu một lòng”; khí thế hào hùng của quân và dân ta trong các trận đánh: “trời rung đất rung”, “quân đi muôn nơi nhắn nhủ nhau”, “công dân thắp đuốc đi từng đoàn”,…

<3<3

* niềm tự hào, niềm tin vào viet bac cm (16 dòng cuối)

<3

– Bài thơ thể hiện niềm tin tưởng vào sức mạnh và sự lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng, niềm tự hào về chiến công của dân tộc Việt Nam.

3. kết thúc

– Khái quát giá trị nghệ thuật: sử dụng các hình thức dân tộc: thể thơ lục bát nói về tình cảm cách mạng, cách đối đáp, cách sử dụng linh hoạt đại từ (ta – ta), ngôn ngữ mộc mạc, giàu sức gợi…

– Nêu khái quát giá trị nội dung: bài thơ là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, bản tình ca về tình cảm cách mạng và cuộc kháng chiến.

phân tích 20 câu đầu của bài văn tiếng việt – văn mẫu 1

“Việt Bắc” là bài thơ lục bát 150 dòng của Tố Hữu, sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngày Hà Nội hoàn toàn giải phóng.

“viet bac” là một bản hùng ca và tình ca về cách mạng và kháng chiến. bài thơ sau có 20 dòng trong phần đầu của bài thơ “viet bac”:

khi về em có nhớ anh không … mâm tan, hồng thai, nóc nhà, cây đa.

bài thơ ghi lại cảm xúc của tôi khi nói lời từ biệt: Anh đi … Anh sẽ về … chúng ta có thể hiểu nhau như một người con gái Việt Bắc, một người đồng hương của dân tộc Việt Bắc; Tôi là một cán bộ kháng chiến, tôi là một người lính. Tôi đang được bao bọc, được bao bọc trong vòng tay yêu thương của mười hai chữ tôi.

bốn dòng mở đầu của bài thơ được nghe với những hồi ức tha thiết; những cảm xúc bị kìm nén trong lòng bỗng nảy sinh và trỗi dậy. chúng ta đang tự hỏi bản thân mình hoặc chúng ta đang hỏi trái tim mình trong suốt cuộc chia ly đó:

Anh có nhớ em khi anh về, em có nhớ anh khi nhìn dòng sông, có nhớ đài phun nước không?

Tình bạn giữa ta và ta không phải ngày một ngày hai mà đã được hàn gắn, đoàn kết “thắm thiết, thắm thiết” suốt mười lăm năm, từ ngày khởi nghĩa bắc sơn (1940) đến ngày bắc bộ. phát hành (tháng 10 năm 1954). cây, núi, sông, cội nguồn viet bac “có nhớ không?”. câu hỏi tu từ mở ra một bầu trời ký ức.

vận dụng sáng tạo những câu ca dao đã học và vận dụng sáng tạo, gợi cho người đọc nhớ đến hai tiếng quan họ, ta trong những câu hát giao duyên của trai gái làng quê: “Có nhớ em khi anh về – khi em về anh nhé. nhớ răng cười. Cái chất trữ tình dịu dàng ấy đã tạo nên vẻ đẹp trong bài thơ cũng như trong cả bài thơ.

Bốn câu thơ sau miêu tả không gian, thời gian và tâm trạng nghệ thuật của người ra đi và người ở lại. Bài ca tha thiết mà cồn, rừng, suối hát là của ai? Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” làm nổi bật đối tượng chia tay và màu cờ sắc áo Việt Nam. “Thầm trong bụng, bâng khuâng bước đi… nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay…” gợi lên bao nỗi nhớ da diết. các từ: “lo lắng, bồn chồn, bồn chồn” là tâm trạng của tôi, của tôi:

giọng nói của ai đó nghiêm túc bên cồn đất vặn vẹo trong bụng, anh bước đi không yên. Màu chàm, nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay …

trong mười hai dòng tiếp theo, các cặp từ: “Ta đi” và “Ta trở về” được hoán đổi cho nhau ba lần thật ấn tượng. cụm từ “nhớ” được lặp lại năm lần, kết thúc bằng lục bát, tạo cảm giác u uất, khắc khoải, trầm tư:

Khi em ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối, mây sương đưa em về, có nhớ chiến tranh muối mặn, thù dai không?

những gian khổ, những thiếu thốn, gian khổ khi cách mạng còn sơ khai, những ngày Bác về nước “khai hỏa” ở Pác Bó, Cao Bằng. “Mưa dầm thấm mây trôi” nơi chiến khu giữa vòng vây của giặc Pháp và Nhật đã trở thành kỷ niệm sâu sắc trong lòng người trở về. “liệu ​​cơm gắp mắm” khi ấy đã củng cố thêm tình quân dân, tình đồng chí, tình đồng chí, soi sáng lý tưởng chiến đấu cứu nước, cứu nhà, làm cho đế quốc thêm nặng ”đã khắc sâu trong xương tủy:

bạn sẽ chết! Giặc Pháp hung hãn xẻ thịt anh, em mới về.

(chuyển đến thị trấn – trận động đất ở nông quốc)

Ta đi về, ta đi xa để lại bao kỷ niệm cho mình, cho người ở lại, cho cảnh cây cối, núi rừng chiến khu. núi, kè, mai được nhân hóa, mang theo bao nỗi nhớ, bao nỗi niềm. những cảnh như bình yên, những từ “ngã”, từ “già” gợi bao nỗi bất lực, man mác và buồn bã:

Tôi về rồi, núi rừng lỡ mùa thu, mai già.

làm sao chúng ta có thể quên được tình yêu đất nước Việt Nam trong những ngày tháng gian khổ và hào hùng ấy ?:

Tôi đi đây, bạn có nhớ những lán xám xịt, đầy son phấn không

tou huu đã tạo ra những hình ảnh tượng trưng và tương phản (xám sạch / u sầu) để ca ngợi các dân tộc Việt Nam ở phía Bắc. Dù nghèo khó, thiếu thốn nhưng lòng yêu nước, yêu cách mạng vẫn thủy chung, đậm đà. Đây là những bài thơ hay và xúc động nhất về nỗi nhớ, lòng biết ơn và niềm tự hào đối với viet bac.

Việt Bắc là “lòng chảo”, “cái nôi” của cách mạng và kháng chiến, căn cứ địa của Việt minh trong kháng chiến chống Nhật, phong trào mới, nơi đội tuyên truyền giải phóng quân của Việt Nam tiến cống (tháng 12 năm 1944), là nóc đình Hồng Thái, nơi tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc (tháng 8 năm 1945). viet bac là chiến khu bất khả xâm phạm, thủ đô của gió ngàn: “núi trải tường sắt dày: rừng che bộ đội, rừng vây đoàn quân” làm bạn nhớ mãi không quên:

Đi về thì nhớ núi non, thuở kháng Nhật, còn Việt Minh, đi thì nhớ tan trạo, mái đình Hồng Thái, cây đa.

>

những địa danh lịch sử, núi non, đình làng, cây sung … đã trở thành ký ức sâu đậm trong lòng người dân Việt Bắc và những người trở về:

mười lăm năm, ai quên quê hương cách mạng dựng nước cộng hòa

Nét độc đáo của bài thơ là tác giả đã sử dụng rất tài tình biện pháp nghệ thuật đối xứng. tám câu được hình thành ở hai vế đối nhau (đối lập ít) làm cho ngôn ngữ thơ hài hoà và đẹp một cách cổ điển:

nhìn cây nhớ núi // nhìn sông nhớ nguồn? ngã, // măng cho già, rặng tre, // đầy ắp kỉ niệm chống nhật, // thuở ta còn việt minh, tân trạo, hồng thái, // Mái đình, cây đa.

Dòng trước, giống như toàn bộ bài thơ, có trường hợp từ tôi xuất hiện ba lần trong một dòng. không dễ gì phân biệt rõ chủ đề trữ tình trong ba từ đó. tôi cũng vậy, tôi cũng vậy, hai tâm hồn đã tin tưởng nhau:

– thôi nào, tôi nhớ bạn

– Tôi đi đây, tôi lại nhớ mình.

“viet bac” là đỉnh cao của thơ lục bát, cũng là một thành tựu đặc biệt của thơ ca kháng chiến. bài thơ trước tiêu biểu cho vẻ đẹp độc đáo đó.

ngôn ngữ thơ thấm đẫm ca dao, dân ca trữ tình và vẻ đẹp của nền thơ ca cổ điển dân tộc. lòng trung thành với bản thân, lòng biết ơn và niềm tự hào đối với chiến khu Việt Bắc và nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã tạo nên tính dân gian sâu sắc của bài thơ.

sau hơn nửa thế kỷ đọc đến “viet bac” của huu, chúng tôi càng xúc động và càng nhắc đến cụm từ “nhớ”. “viet bac” là một bản tình ca chung thủy. bài hát đó, bài học đó cho tuổi trẻ chúng ta trong thời kỳ đổi mới hôm nay, niềm tin vào tình yêu và nghị lực bước vào đời và biết sống đẹp.

phân tích 20 câu đầu của bài thơ việt bắc – văn mẫu 2

được ví von là “ngôi sao sáng nhất trên bầu trời thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ XX”. Với một đức tính cương nghị, Tú Hữu được mệnh danh là “nhà thơ của lí trí cách mạng”, “nhà thơ của đất mẹ Việt Nam”, “hồn thơ của dân tộc”. người đọc có thể xem ông là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thơ ca hiện đại. “viet bac” là đỉnh cao trong sự nghiệp của anh. 20 dòng đầu như những khúc hát nói lên tình cảm của nhà thơ một cách sâu sắc nhất.

trên thực tế, “viet bac” giống như một cuốn biên niên sử bằng thơ. tháng 7 năm 1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được tái lập thắng lợi, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, mở ra một trang sử mới cho đất nước. Tháng 10 năm 1954, cơ quan trung ương của đảng và nhà nước chuyển từ cơ sở về thủ đô. vào thời điểm lịch sử đó bài thơ “viet bac” ra đời. “viet bac” không còn là tình cảm riêng của người bạn mà còn thể hiện tình cảm của những người kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu cách mạng, đất nước và nhân dân.

câu thơ mở đầu bằng những từ ngữ ngọt ngào và sâu lắng:

“Khi trở về, anh có nhớ mười lăm năm mặn nồng ấy không? Có nhớ trông cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?”

câu thơ mở đầu cuộc chia tay giữa đồng bào bắc việt và cán bộ trở về đồng bằng. nó là một loại keo đã kết dính trong “mười lăm năm”. Đây là một thời gian dài để tăng cường mối quan hệ giữa hai bên, làm thế nào chặt chẽ? với hình thức cấu trúc hỏi đáp vừa dung dị, vừa chân chất là hình thức rất quen thuộc trong các bài hát dân gian. nhưng trong cảnh chia tay tan nát này, dường như nhà thơ chỉ mượn hình thức những bài ca dao để nói về nỗi niềm của mình. người việt bắc đang rạo rực, không biết cán bộ, chiến sỹ miền xuôi có nhớ về mình không, có nhớ về một thời “nhiệt huyết”, có nhớ về việt bắc với thiên nhiên tươi đẹp của nó. Đại từ nhân xưng “i – ta” quen thuộc trong ca dao là từ láy thích hợp nhất để diễn tả tình cảm chia ly đã gắn kết lâu đời. bốn câu thơ bốn chữ, bốn chữ nhắc một chữ, ta không thể tách rời như hình với bóng, càng làm đậm nét đạo lý thủy chung son sắt.

tiếp theo là tiếng nói của trái tim người đã khuất đáp lại người bị bỏ lại:

“tiếng ai nghiêm nghị bên bờ sông, quặn thắt trong bụng, bước đi không yên, Indigo, nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay”

tình cảm của người ở lại khiến người ra đi không khỏi “xót xa”, “bồi hồi”. họ không muốn đi bộ. thật khó để diễn tả cảm giác của mọi người lúc này. “nỗi buồn” là trạng thái tâm hồn chất chứa nỗi nhớ bao trùm cả không gian nhiều kỉ niệm, không dừng lại ở một kỉ niệm nào. còn “bồn chồn” cũng là từ để chỉ tâm trạng nhớ nhung, nhưng là trạng thái không thể kìm nén bên trong mà biểu hiện ra bên ngoài như một biểu hiện hồi hộp mong đợi. ở đây, tâm trạng ấy tái hiện trong bước đi của người đến và người đi trong “bước đi không yên”. doan thi diem trong “Chinh quyen ngâm nga” cũng nói về sự khắc khoải đó:

“bước một bước, sợi dây dừng lại”

hình ảnh “áo chàm” vừa gợi hình vừa gợi tả. nó là một hình ảnh hoán dụ mang nhiều tầng ý nghĩa. áo dài đề cập đến cả người Việt Bắc và toàn thể người Việt Bắc đưa những người cách mạng xuống miền xuôi. bài thơ “nắm tay nhau biết nói gì hôm nay” đầy sức biểu cảm. “nói gì hôm nay …” là không có gì để nói. anh ấy không thể nói được bởi vì anh ấy quá choáng ngợp và không thể nói được. những lời chưa nói đó có lẽ đều đã được gộp chung vào ba từ “nắm tay nhau”. “nắm tay nhau” là biểu tượng của tình yêu thương và sự đoàn kết. “nắm tay nhau” cũng đủ nói lên bao nhiêu cảm xúc trong lòng.

Thật tốt khi để những người ở lại trò chuyện. Chỉ vỏn vẹn 12 câu nhưng đều tập trung vào những kỉ niệm của những ngày cách mạng đầy gian khó nhưng có ý nghĩa sâu sắc:

“Em đi rồi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề ngập suối, mây mù sương? Em về anh có nhớ chiến tranh cơm mặn, chiến đấu bền chặt? Khi xưa, có nhớ những ngôi nhà xám xịt ?, lòng giàu có của lòng trai, nhớ núi non thời kháng Nhật, khi còn ở việt nam, khi đi việt nam có nhớ mái trạo, hồng thái, mái nhà. của cây đa?

đó là những kỷ niệm mà không ai có thể quên được. “Gạo ngâm muối” là hình ảnh trung thực được rút ra từ thực tế cuộc sống còn nghèo khó, thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. tuy nhiên, sống trong một hoàn cảnh khó khăn như vậy, nhưng mối hiềm khích giữa đất nước và đất nước không bao giờ nguôi ngoai. hai hình ảnh đó được đặt đối xứng với cùng một câu thơ tạo nên sự gắn bó đoàn kết chiến thắng kẻ thù. những người ở lại tiếp tục kể về những người đã khuất, nhắc về những năm tháng “quật cường”, “măng non để già”. với biện pháp tương phản “xám xịt hờ hững” với “in đậm lòng son” thể hiện sâu sắc nỗi nhớ nhung của người ở lại. những người ở lại kể về cuộc kháng chiến khi Việt minh cùng nhau chiến đấu. và những địa danh gắn liền với viet bac là không thể thiếu. Toàn Hủ đề cập đến những địa danh lịch sử nổi tiếng ở Việt Bắc với những sự kiện quan trọng gắn liền với chúng. Cây đa tan trạo là nơi Đội tuyên truyền giải phóng quân Việt Nam làm lễ xuất quân và là nóc đình Hồng Thái, nơi bác Hồ chủ trì cuộc họp quyết định khởi nghĩa tháng Tám. tác giả đã đặt hai địa danh này trong cùng một câu thơ nhấn mạnh tầm quan trọng cũng như ý nghĩa lịch sử của chúng. trong một bài thơ ngắn có 8 chữ “i” và 7 chữ “nhớ”, trong đó có câu thơ 3 chữ “i” được dịch rất nhuần nhuyễn và nhuần nhuyễn khi nói về những địa danh cách mạng từ đó đến nay. điều đó càng thể hiện tình cảm sâu sắc của những người ở lại và kể điều đó với những người ra đi.

Tóm lại, chỉ với 20 dòng thơ đầu, Tố Hữu đã khắc họa một cuộc trò chuyện thủ thỉ bằng hình thức đối thoại quen thuộc trong văn học dân gian phổ biến của nhân dân Việt Bắc và những người cách mạng. với 20 câu thơ ấy, những kỉ niệm đẹp đẽ giữa họ cứ lần lượt hiện về cụ thể, chân thực và đầy cảm xúc. giọng thơ thì thầm như nhắc nhở, níu kéo, như tâm sự. “viet bac” xứng đáng là bài thơ đỉnh cao trong sự nghiệp thơ ca của anh.

XEM THÊM:  Viết đoạn văn về bảo vệ môi trường lớp 5 (25 mẫu)

phân tích 20 câu đầu của bài thơ việt bắc – văn mẫu 3

tou huu là một trong những nhà thơ lớn nhất và tiêu biểu nhất của nền thơ ca hiện đại. “ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lí tưởng cộng sản.” tập thơ “việt bắc” là đỉnh cao của thơ phú và cũng là thành tựu chủ yếu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trong đó tập thơ “việt bắc” được coi là kết tinh của yếu tố nghệ thuật mạnh mẽ của ngòi bút. là bài ca tri ân của những người kháng chiến đối với quê hương, đất nước và nhân dân cách mạng, được thể hiện bằng cả nghệ thuật cổ điển và nghệ thuật hiện đại, với cốt lõi là truyền thống trung thành và đạo lý của dân tộc. .

được coi là người sinh ra để nghiên cứu các vấn đề chính trị, nhà thơ luôn theo sát các sự kiện cách mạng. Theo năm tháng thơ Tố Hữu, chúng ta có thể tái hiện những chặng đường hào hùng của Cách mạng Việt Nam. thơ của ông, về thực chất, là một “biên niên sử thơ”, như một số nhà nghiên cứu đã đánh giá. “viet bac” cũng không ngoại lệ.

Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, mở ra một trang sử mới cho đất nước. Tháng 10 năm 1954, cơ quan trung ương của đảng và nhà nước chuyển từ cơ sở về thủ đô. vào thời điểm lịch sử đó bài thơ “viet bac” ra đời. “viet bac” không còn là tình cảm riêng của người bạn mà còn thể hiện tình cảm của những người miền xuôi kháng chiến đối với chiến khu cách mạng, đất nước và nhân dân. một thực tế chính trị đã được chuyển thể thành thơ theo cách “đa cảm hóa”, đó là đặc điểm của trữ tình chính trị. Này. “

câu thơ mở đầu bằng những dòng ngọt ngào:

Khi quay lại, tôi nhớ về mười năm đó với trái tim ấm áp.

Đoạn thơ mở đầu cảnh chia tay, một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc trữ tình dồi dào. cảnh chia tay vẫn quen thuộc trong thơ ca cổ điển và đại chúng truyền thống đã được vận dụng khéo léo để diễn tả tâm trạng của thời đại. cuộc chia tay trọng đại của cán bộ đảng viên và chính quyền với Việt Bắc được ghi lại trong cuộc chia tay của một cặp vợ chồng: người ở lại chiến khu là cô gái việt nam, người về là cán bộ cách mạng. lịch sử chung đã trở thành lịch sử riêng, lịch sử cách mạng của đất nước đã trở thành câu chuyện tình yêu đôi lứa, sự tan vỡ bền chặt giữa những con người vốn đã rất thân thiết từ lâu:

“mười lăm năm” “mặn nồng” được thể hiện bằng một thể thơ giàu tính dân tộc. thể lục bát, cấu trúc câu đối, cách sử dụng đại từ nhân xưng “yo”, “ta” quen thuộc trong thơ bình dân, có khả năng “tự diễn đạt thuận tiện, theo tâm hồn chung của cộng đồng”. cộng đồng người Việt Nam “rung động sợi dây chung trái tim Việt Nam”. Tất cả những yếu tố này đã nói lên tình cảm thiết tha lưu luyến trong một cuộc chia tay đặc biệt: không xa để nhớ, chia sẻ nhưng cũng không xa để không biết.

I miss you about me “là một chuyện riêng tư và chung thủy, nhưng vì:

<3

khi đó không còn là về tình yêu đôi lứa nữa mà là câu chuyện về lòng trung thành và lòng biết ơn đối với đạo lý của dân tộc. câu thơ song thất lục bát có từ “mình” nghe như một nỗi niềm thương nhớ nhưng day dứt. Mối quan tâm lớn nhất của tôi khi chia tay là tình yêu chung thủy. điều duy nhất là: một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian. chỉ một khổ thơ đã tóm gọn cả một thời cách mạng, một trời cách mạng. tác giả đã chọn tình yêu lứa đôi làm góc nhìn để đi khắp đất nước Việt Nam với “mười lăm năm mặn nồng và nhiệt huyết ấy” từ thuở thiếu thời cách mạng đến khi trưởng thành vững vàng.

tiếp theo câu hỏi của cư dân là giọng của người cư ngụ:

âm thanh của một ai đó nghiêm túc ở bên cồn cát đang vặn vẹo cái bụng đang bồn chồn bước đi của họ. Indigo cho hội nghị, nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay

Người qua đường nghe câu hỏi, lòng đầy u uất, “khắc khoải” và một nỗi nhớ nhung da diết “khát khao”. tâm trạng lúc chia tay được thể hiện rất rõ qua sự liên kết giữa các điệp từ và cả trong âm điệu của câu thơ: hai câu đầu là nhịp 2/2 của thể lục bát đã vặn vẹo âm điệu 3/3:

“áo chàm / chia ly / tay trong tay / nói gì / hôm nay”

Sự hồi hộp của lòng người được khơi ra trong câu thơ thể hiện sự ngập ngừng nhỏ bé đầy tình cảm, tạo nên khoảng lặng biểu cảm cho những câu hỏi tiếp theo, dồn dập, nghiêm túc hơn để gây tiếng vang.

còn lại mười hai câu sáu tám là lời của người ở trọ, gồm sáu câu hỏi như để khắc sâu vào trí nhớ. mỗi câu hỏi gợi lại những gì đặc trưng nhất của đất nước Việt Nam qua những hình ảnh hấp dẫn được chọn lọc: mưa nguồn, suối nước, mây trời, những hình ảnh được chọn lọc vừa chân thực vừa thơ mộng; những câu thơ “lau sậy trời thâm xám” có khả năng chuyển hoá những khái niệm trừu tượng thành những hình ảnh cụ thể sinh động “mối thù nặng trĩu”. nghệ thuật nhân hoá cũng tạo nên sự sinh động cho hình ảnh thơ:

“Ta về núi rừng nhớ điếm rơi, mai về già”

tình cảm của những người hàng xóm mà họ đi chơi dường như được thể hiện sâu sắc hơn trong câu ca dao này, chỉ vỏn vẹn 14 chữ mà đã chứa đựng biết bao lưu luyến, nhớ nhung: sau khi ra đi, cả một vùng rừng hoang vắng, không ai nhặt trám. , măng không ai hái, cả núi rừng cũng mong ngóng. như thường lệ trong những cuộc chia tay giữa những người thân thiết, người ta thường có xu hướng đẩy thời gian vào dĩ vãng để không còn xa để nhớ, để chưa biết yêu. Trong bối cảnh xúc động này, dòng ký ức đẹp ùa về.

“Anh đi rồi, em nhớ mình quá trạo, hồng thai mái đình, cây đa”

Thoạt nhìn, cách tổ chức các câu thơ được lặp lại ở đầu 6 câu: Em đi rồi anh sẽ về. “go”, “back”, là hướng ngược lại, nhưng ở đây nó là cùng một hướng.

Phải chăng chính những niềm tin giản dị nhưng rất thực của người đi và người ở đã thổi vào câu chữ, tạo nên một chút rối rắm trong câu chữ, thể hiện mạch ngầm của văn bản trong chiều sâu của thơ: bỏ đi? để đặt lịch hẹn. Việt Bắc đã trở thành quê hương thứ hai của những người cán bộ kháng chiến.

những kỷ niệm được ghi nhớ đều là những kỷ niệm bên nhau trọn đời, những bức tranh vẽ người cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chung những khó khăn, thù hằn, nếu không thông minh, bạn rất dễ rơi vào cái gọi là “danh bất hư truyền” “. câu thơ. trôi đi, không thể đọng lại trong lòng người đọc. điều làm nên chất thơ của bài thơ “viet bac” cũng như của bài thơ này chính là âm điệu. chính là âm nhạc làm cho kí ức ngân nga, du dương, sâu lắng. trong tâm tưởng.Các yếu tố tạo nên bản nhạc tuyệt vời ấy không chỉ nằm ở những câu thơ lục bát rất chuẩn về nhịp mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần suất cao trong những câu thơ. khả năng diễn đạt rất cảm xúc những cảm xúc sâu lắng và khắc khoải của người ngồi, đồng thời tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ.

mưa từ suối và sông / mây có sương mù

gạo / thù hằn

nhồi / măng

tách / son môi

nhớ / tôi

tan / nhiều màu

những hình ảnh thơ đã thực sự mang một chất thơ nhờ âm điệu da diết, du dương, ngân nga qua những dòng thơ song song theo lối tiểu đối xứng, nó mang vẻ đẹp bác học cổ điển. đặc biệt câu hỏi ở cuối bài thơ có thể tách bạch hàm súc, sâu sắc:

“Em đi rồi anh sẽ nhớ em khi đi hong thai trên nóc nhà cây đa”

các đại từ “yo”, “ta”, được sử dụng trong câu đối thơ phổ biến, hiện được sử dụng với đầy đủ các biến số: khi tôi là tôi, khi “yo” là “tôi”, nghĩa ẩn là một, hiển nhiên. . nhưng ở đây có một câu lặp đi lặp lại ba lần lời nói của tôi: “Ta đi, ta có” nghĩa là người trở về, “Ta mất tích” nghĩa là người ở lại. câu hỏi đầy ẩn ý nhưng sâu sắc: quên cái “tôi” cũng là quên cái “tôi” ấy. cũng như ở phần sau, tác giả nhấn mạnh tinh thần chí khí trong câu trả lời khẳng định.

“khi ra đi, tôi nhớ nguồn nước biết bao và lòng biết ơn”

nhà thơ đã khai thác rất hữu ích từ “tôi” trong tiếng Việt. “Ta” vừa là ta vừa là ta, “Ta” cũng là thân cận, có thể coi là chính mình. đại từ nhân xưng vừa thống nhất vừa biến đổi, khiến tiếng “viet bac” như tiếng nói thương cảm vang vọng đồng điệu tâm hồn những người đã khuất.

sự thay đổi địa danh trong cách tổ chức câu ca: “Mái đình hồng thai, cây đa tân trạo” được viết thành: “mái đình tân trạo, cây đa mái đình” chứng tỏ tên riêng và tên thường. hoàn toàn giống nhau về ý nghĩa: bắc việt nam là quê hương cách mạng. nỗi nhớ về chiến khu “tân tiêu, hồng thái”, đã hóa thành nỗi nhớ quê mẹ “mái đình cây đa” những hình ảnh đã đi vào tâm trí người Việt Nam từ ngàn đời nay. “trong thơ bạn, cái riêng và cái chung dường như không có giới hạn, cái cũ và cái mới đan xen vào nhau, (nguyễn văn hạnh) trong đó là một trường hợp điển hình.

“viet bac” là một bài hát tình cảm, ngọt ngào và đằm thắm, rất tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ của Hoài Linh. đó tiếp tục là tiếng nói của tình yêu, nhưng là tình yêu đất nước, cách mạng, đồng bào.

Trong một câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp, ông thú nhận rằng: “Tôi yêu đất nước và con người của tôi. và tôi đang nói về đất nước của mọi người như thể tôi đang nói về người tôi yêu. ” vì thế, tình yêu hóa thành tình yêu “bắc việt” đã trở thành bản tình ca được nhân dân kháng chiến và cả dân tộc chia sẻ trong thời khắc lịch sử đáng nhớ.

phân tích 20 câu đầu bài thơ việt bắc – văn mẫu 4

bài thơ là nỗi nhớ, là nỗi lòng của người việt nam. bài thơ thể hiện một sắc thái riêng, một giọng thơ ngọt ngào, đậm chất ca dao. văn học dân gian, để chỉ con người và cuộc sống của cuộc kháng chiến. Qua hình tượng Việt Bắc, tác giả đã tôn lên phẩm chất cách mạng cao quý của quân và dân ta, khẳng định nghĩa khí thủy chung của cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

Bốn câu đầu là lời Việt Bắc nói với cán bộ, chiến sĩ khi xuất quân:

Bạn có nhớ mười lăm năm đến, nhớ cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ đài phun nước?

những từ chỉ “em – em” mộc mạc, gần gũi gợi nhớ đến những câu hát nổi tiếng: “Em về rồi, anh không về – Em túm dây áo, anh viết bài thơ”. “Mười lăm năm” là chi tiết tả thực cho biết khoảng thời gian từ năm 1940 trong cuộc kháng chiến chống Nhật và phong trào Việt Minh sau đó, đồng thời cũng là một chi tiết gợi cảm: nó thể hiện khoảng thời gian gắn bó nghĩa tình và Hoài cổ. . câu thơ mang dáng dấp của câu thơ – mười lăm năm bằng thời gian- kiều nhớ ta, mong ta (nhưng mười lăm năm ấy có biết bao nhiêu tình). tình cảm thấm nhuần văn học dân gian, thấm đượm tính cách siêu phàm. giai điệu ngọt ngào, giọng hát ấm áp, dạt dào cảm xúc. viet bac hỏi người về: “có nhớ cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn không?”. câu hỏi chứa đựng nỗi nhớ, nó chứa đựng một lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc – cội nguồn của cách mạng.

Bốn câu tiếp theo là cảm nhận của mọi người về:

âm thanh của ai đó nghiêm túc ở bên cạnh cồn cát đang vặn vẹo trong bụng họ, đi đi lại lại một cách bồn chồn. Indigo, nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay.

“khổ sở”, “lo lắng” là hai từ gợi cảm, diễn tả trạng thái cảm xúc buồn, vui, khao khát, mong mỏi, mong đợi… đồng thời lẫn lộn. viet bac lo cho cán bộ, chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ bên nhau, mười lăm năm đầy ắp kỷ niệm chiến đấu, nay phải chia tay về tiếp quản thủ đô Hà Nội (tháng 10 năm 1954), biết mang theo những gì, biết lưu lại những hình ảnh nào. , tâm trạng của người trở về vì thế khó tránh khỏi những nỗi thống khổ khôn tả. .

“Vết chàm đã chia cắt” là một ví dụ. Màu chàm, xanh lam và đen là đặc trưng của người vùng cao Bắc Việt. tác giả hướng nỗi nhớ về đất nước Việt Nam qua hình ảnh cụ thể: “Chiếc áo chàm”, chiếc áo đơn sơ, mộc mạc và chân chất của vùng quê nghèo vùng cao nhưng sâu nặng tình nghĩa đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. . đất nước.

câu thoại “hãy nắm tay nhau và nói những gì hôm nay …” đầy biểu cảm, không phải vì không có gì để nói, mà vì có rất nhiều điều muốn nói nhưng tôi không biết phải nói gì. ba dấu chấm lửng ở cuối câu là khoảng lặng trong khổ thơ để cảm xúc dạt dào, sâu lắng …

12 câu sau đây cuối đoạn trích là cảm nghĩ của viet bac:

Khi tôi ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối, mây mù trở về, anh có nhớ chiến tranh với miếng cơm chấm muối, thù dai không? núi rừng nhớ ai đánh rơi măng mọc già, vâng nhớ nhà rường xám, giàu lòng con ơi, nhớ núi non khi chịu nắng, khi ta còn ở việt minh khi ta đi, ta. nhớ ta tân trạo, hồng thai mái đình cây đa.

Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhở. hàng loạt câu hỏi tu từ thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc. nỗi nhớ của người gửi, gửi nỗi nhớ, gửi yêu thương như sau:

bạn lỡ bến khi con thuyền quay trở lại, rồi một đêm nó khăng khăng đợi thuyền.

viet bac nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ không quên những năm tháng gian khổ, tác chiến trong điều kiện vật tư, trang bị thô sơ, thiếu thốn.

Tôi có nhớ cuộc chiến tranh gạo muối, một cuộc tranh chấp gay gắt không?

“Miếng cơm chấm muối” là một chi tiết chân thực, phản ánh cuộc sống gian khổ của cuộc kháng chiến. và cách nói “giặc nặng” để hoàn thành nhiệm vụ chống thực dân, cướp nước đang đè nặng lên đôi vai của dân tộc ta.

<3

Tôi về rồi, núi rừng lỡ mùa thu, mai già.

hình ảnh “mai lấp ló, mai già” gợi lên nỗi buồn vắng vẻ: “trám thu, măng già” chưa ai thu hái. nỗi buồn như một cú thúc trong lòng những người ở lại.

Chia tay sau chiến thắng và trong bối cảnh chiến thắng đó, anh hiện rõ nỗi buồn và nỗi nhớ. viet bac vẫn “kiên quyết đợi tàu”, đồng thời khéo léo ghi nhớ “tấm lòng” của người cán bộ, chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật, thời Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên chăm lo cho sự nghiệp cách mạng.

Anh đi rồi, em nhớ mình quá trạo, hồng thai, mái đình cây đa.

câu thơ trước là nỗi nhớ, nỗi niềm viet bac. đoạn thơ trên tiêu biểu cho sắc thái của phong cách tiểu học, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, mang đậm phong vị dân gian. văn học dân gian, để chỉ con người và cuộc sống của cuộc kháng chiến. Qua hình tượng Việt Bắc, tác giả đã tôn lên phẩm chất cách mạng cao quý của quân và dân ta, khẳng định nghĩa khí thủy chung của cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

phân tích 20 câu đầu của bài thơ Việt Nam – văn mẫu 5

Bốn câu đầu là lời Việt Bắc nói với cán bộ, chiến sĩ khi xuất quân:

“Khi quay trở lại, tôi nhớ về mười lăm năm đó với niềm đam mê …”

từ “nhớ” đan xen trong cùng một cấu trúc câu hỏi tu từ, đầy nỗi nhớ. cách xưng hô “mình – ta” tác giả đã dùng những từ ngữ gợi tả tình yêu đôi lứa… mộc mạc, gần gũi,… “mười lăm tuổi” “mặn nồng” được thể hiện bằng yếu tố hiện thực. với thể thơ giàu tính dân tộc. thể lục bát, cấu trúc câu đối, cách sử dụng đại từ nhân xưng “yo”, “ta” quen thuộc trong thơ bình dân, có khả năng “tự diễn đạt thuận tiện, theo tâm hồn chung của cộng đồng”. Đồng Việt Nam “. Tất cả những yếu tố đó đã nói lên tình cảm lưu luyến thiết tha trong một cuộc chia tay đặc biệt: không xa. Giai điệu ngọt ngào, giọng ca trầm ấm, dạt dào cảm xúc. Viet bac hỏi về:

“Có về ta mới nhớ cây, nhớ núi, trông sông, nhớ nguồn?”

câu hỏi chứa đựng nỗi nhớ, trong đó có lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn của đất nước Việt Nam, cội nguồn của cách mạng. và nó cũng cho thấy người Việt Nam sống gần gũi với thiên nhiên, với những điều rất riêng.

Bốn câu tiếp theo là cảm nhận của mọi người về:

“giọng ai trầm tư bên bờ sông quặn thắt trong bụng, bước đi không yên. Indigo nói chuyện với nhau, nắm tay nhau biết nói gì hôm nay”

“tức tưởi, bồn chồn” là hai từ gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lý buồn, tủi, nhớ nhung, mong mỏi, mong chờ… đồng thời lẫn lộn. mười lăm năm cán bộ chiến sĩ Việt Nam, mười lăm năm gian khổ bên nhau, mười lăm năm đầy ắp kỷ niệm về những trận đánh, giờ phải chia xa làm nhiệm vụ mới về tiếp quản thủ đô, biết mang theo gì, biết lưu lại hình ảnh nào, trạng thái Tâm trạng của những người trở về không tránh khỏi một nỗi buồn khó tả.

“Áo dài chia ly” là hình ảnh ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của đồng bào vùng cao Việt Nam – tác giả đề cập đến nỗi nhớ Việt Nam qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo bình dị, chất phác và mộc mạc. và màu sắc của những miền quê miền núi nghèo nhưng sâu nặng tình nghĩa, đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.

câu thoại “nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay …” đầy biểu cảm – biết nói gì không phải vì không giải thích được gì, mà vì có quá nhiều thứ để nói và không biết phải nói gì . . ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là dấu lặng trên thanh nhạc để cảm xúc ngắn, dài, sâu lắng …

còn lại mười hai câu sáu tám là lời của người ở trọ, gồm sáu câu hỏi như để khắc sâu vào trí nhớ. mỗi câu hỏi gợi lại những gì đặc trưng nhất của đất nước Việt Nam qua những hình ảnh gợi cảm được chọn lọc: mưa nguồn, suối nước, mây trời, những hình ảnh được chọn lọc vừa hiện thực vừa thơ mộng: “Anh đi rồi, anh có nhớ những ngày …. mới dời đi, hong thai, mái đình cây đa. ” từ “nhớ” được lặp lại nhiều sắc độ ý nghĩa: nhớ là nhớ, nhớ là nhớ. hàng loạt câu hỏi tu từ thể hiện tình cảm sâu nặng đối với viet bac.

nỗi nhớ của người gửi, gửi nỗi nhớ, nhen nhóm nỗi nhớ theo kiểu “tàu nhớ bến – bến khắc cốt ghi tâm đợi tàu” viet bac nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ không quên những năm tháng gian khổ , tác chiến trong điều kiện vật tư, trang bị thô sơ, thiếu thốn.

“Tôi nhớ cuộc chiến tranh gạo muối, một cuộc tranh chấp lớn?”

“miếng cơm chấm muối” là một chi tiết tả thực, phản ánh cuộc sống gian khổ trong cuộc kháng chiến. và cách nói “nặng vai đánh giặc” để hoàn thành nhiệm vụ chống thực dân, cướp nước đang đè nặng lên đôi vai của dân tộc ta. cảm giác khao khát, khao khát được đi xa trong không gian núi rừng, gợi cảm giác dạt dào:

XEM THÊM:  Soạn bài Cảnh khuya, Rằm tháng giêng | Soạn văn 7 hay nhất

“Em về rồi, núi rừng nhớ nhung mai rụng, mai về già”

Tình cảm của những người hàng xóm đối với những người mà họ đi chơi dường như được thể hiện sâu sắc hơn trong câu ca dao này, chỉ vỏn vẹn 14 chữ mà chứa đựng biết bao lưu luyến, nhớ nhung: sau khi ra đi, cả một vùng rừng núi hoang vắng, không ai nhặt nhạnh. , măng không ai hái, cả núi rừng đang đợi bạn. nỗi buồn nhớ da diết như thúc giục lòng người ở lại.

chia tay sau chiến thắng và trong bối cảnh chiến thắng đó, anh ấy đã thể hiện rõ nỗi buồn của mình.

viet bac vẫn “kiên quyết đợi tàu”, đồng thời khéo léo ghi nhớ “tấm lòng” của cán bộ, chiến sĩ. không quên thời kỳ “kháng Nhật kiến ​​quốc”, không quên cội nguồn cách mạng, không quên chăm lo cho sự nghiệp cách mạng.

“Anh đi rồi, em nhớ mình da diết, hồng thai mái đình đa”

phân tích 20 câu đầu của bài thơ Việt Nam – văn mẫu 6

“Việt bắc” được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, nhưng trên hết, là một trong những đỉnh cao của thơ lục bát. bởi nó không chỉ thể hiện tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với cuộc kháng chiến và cách mạng mà còn kết tinh trong đó những nét đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của yếu tố. đó là những đặc điểm của chất trữ tình chính trị của thơ lục bát, tính dân tộc và màu sắc bình dân trong ngôn ngữ thơ lục bát. vì vậy, bài thơ không chỉ mang đến cho người đọc những nhận thức sâu sắc về niềm tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta mà còn mang đến cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ vô cùng mạnh mẽ. những đặc điểm này có thể được nhìn thấy từ những dòng đầu tiên của “viet bac”.

“Tôi sẽ quay lại, tôi sẽ nhớ bạn

……………………………..

tan tieu, hong thai, nóc nhà, cây đa “

Người ta thường nói đến một đặc điểm nổi bật của thơ tou tou, đó là tính trữ tình chính trị vì mỗi giai đoạn của thơ ca dường như gắn liền với từng giai đoạn cách mạng của dân tộc ta, từ thời “từ ấy” đến khi thành ”. của dan ”sau. nói tương tự cũng là nói về “viet bac”, bài thơ đã tạo nên một trong những đỉnh cao của thơ phú. bởi vì bài thơ ra đời từ một sự kiện chính trị rất lớn trong đời sống của dân tộc, đó là việc các cơ quan trung ương đảng, chính quyền, các cơ quan chiến khu, cán bộ, chiến sĩ kháng chiến sau khi khôi phục. hòa bình, viet bac ra đi trở lại và chiếm giữ thủ đô. Người bạn muốn trình chiếu “viet bac” để dựng lại bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến 9 năm đầy tự hào của dân tộc ta trên chiến khu viet bac, đồng thời ghi lại khoảnh khắc chia cắt giữa nhân dân Việt Nam và các cơ quan kháng chiến. nhưng bên phải không làm tổng kết cuộc kháng chiến, không công bố về sự thật chính trị đó mà đã ly khai hóa tất cả những nội dung thấm đẫm màu sắc chính trị đó. người ta đã đúng khi cho rằng thơ bầu bạn là loại thơ “đốt lòng thành khôn”, cho rằng chính từ những cảm xúc mãnh liệt của trái tim, người ta mới cảm nhận được chân lý của cuộc sống, chân lý của. cuộc cách mạng.

Để trữ tình hóa các sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, bằng cách viết “viet bac”, tou hu đã sáng tạo ra một cụm từ rất độc đáo, sáng tác từ bài ca dao của bài thơ. những người về nước, để từ những bài ca, tiếng hát ấy gợi lên ký ức về những ngày kháng chiến gian khổ, oanh liệt, từ những kỷ niệm đó, tái hiện lại quá trình trưởng thành kháng chiến, xây dựng hình ảnh của những con người, những bộ đội, hình tượng chú bộ đội. bởi vậy, ngay từ những câu thơ mở đầu, ta thấy được cuộc đối thoại tâm tình, những câu thơ đối đáp giữa “ta” và “ta” vô cùng thiết tha, thiết tha. người bạn đã sử dụng những cặp từ rất quen thuộc trong những bài hát nổi tiếng và những bài hát nổi tiếng để khiến cuộc chia tay trở nên dịu dàng như của một cặp đôi đang yêu. các từ “yo”, “ta” từ câu thơ mở đầu đến những dòng cuối luôn gợi lên tình cảm thắm thiết, không phai mờ giữa miền Bắc với cách mạng và kháng chiến.

ở buổi chia tay đầy nỗi nhớ và niềm uất hận của người Việt Bắc đối với người trở về, bài hát tiễn biệt được cất lên từ chính tiếng lòng của người ở lại. người bạn dường như có nghĩa là người Việt Bắc đã trung thành với cách mạng như thế nào. kể từ câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã vang lên 2 tiếng “em” thân thương… tiếng gọi “em” như muốn nói nỗi lòng của người việt không khỏi nhung nhớ người về, mà lại như đi sâu vào kí ức của những con người đầy ân tình. Cũng ngay từ câu thơ mở đầu, các từ “ta”, “ta” như quyện vào nhau như sự lưu luyến không muốn tách rời giữa người ở và người về. giọng điệu của câu thơ chủ yếu được tạo nên bởi âm thanh trùng điệp: “Anh nhớ em”, có tiếng “ta” ở cuối khiến cảm giác nhớ nhung lắng đọng trong lòng người lúc chia tay và lan xa.

cấu trúc của hai câu thơ mở đầu là cấu trúc của một câu hỏi tu từ, một câu hỏi gợi bao nỗi nhớ da diết, thiết tha, một câu hỏi kéo dài cả không gian của 15 năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng xoáy sâu vào tâm trí người nghe, nhưng ở đây câu hỏi gợi lên những cảm xúc hồi ức về 15 năm cách mạng đã cùng Việt Nam lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vì nó đã sử dụng ngôn ngữ tình cảm. hai chữ “mười lăm năm” nhắc nhở chúng ta về “sự khởi đầu” của tình yêu được nhắc đến trong câu thơ của luuweight:

“nỗi nhớ thuở ban đầu – ngàn năm có thể dễ dàng quên được”

làm sao người ta có thể quên được 15 năm mối tình đầu giữa cách mạng và người Việt Bắc. cùng với sức gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, tình cảm “hồ ly ngàn dễ quên”, câu thơ tiếp tục bằng những điệp từ “ngọt ngào tha thiết”. một đoạn thơ viết về 15 năm cách mạng, chiến tranh nhưng nồng nàn, nhưng nghiêm trang và trữ tình.

vẫn là câu hỏi mà người ở lại hỏi người về, vẫn là cách xưng hô rất trìu mến “mi” với “ta”, nhưng 2 dòng tiếp theo, đó là một câu hỏi bao trùm cả thế giới , không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian của kí ức 15 năm ấy, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền cao và miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. . một câu hỏi làm xao xuyến cả núi, rừng, sông, cả thế giới trong cảnh chia tay. dường như ở khắp mọi nơi lúc bấy giờ đều có sự hòa quyện giữa niềm vui và nỗi nhớ, bởi cuộc chia ly giữa “ta” và “ta” là một sự kiện trọng đại trong đời người.

Sự độc đáo của đoạn thơ không chỉ thể hiện ở cấu trúc câu nghi vấn, qua những câu ca dao, tình cảm mà còn thể hiện qua những hình ảnh viết theo thể phú, tỉ trong các bài ca dao. đọc câu thơ:

“ta có nhớ mình khi ta về mình – mười lăm năm mặn nồng nồng nàn – ta có nhớ khi ta về không? – khi ta nhìn cây, ta nhớ núi, khi ta nhìn sông. , Tôi nhớ đài phun nước “

Tôi nghĩ nó giống như một bài hát nổi tiếng:

“qua long dinh, cởi nón nhìn long thương – nhà nhiều ngói thương lắm – càng lấy cầu, soi cầu – cầu có bao nhiêu nhịp tim “

nhà thơ sẽ viết về những vấn đề chính trị nhưng vẫn thấm nhuần linh hồn của ca khúc bình dân và tập sách bình dân. bốn câu thơ như một khúc ca dao, chất trữ tình gắn liền với những lo lắng, trăn trở của người dân bị bỏ lại phía sau và của những người con nghĩa sĩ, những người vô cùng trung thành với cách mạng. phần tử đã chọn một cách nói để khơi dậy cảm xúc độc nhất vô nhị về “việt bắc”. dòng thơ trong những dòng mở đầu này cứ trôi chảy một cách tự do.

Ở lối hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng 4 dòng để nói lên tâm trạng của con người trong tương lai, tạo sự cân bằng với 4 dòng đầu của bài thơ, tạo nên sự cân bằng giữa lòng người với con người Việt Nam. miền bắc, befitting viet bac trung thành. trong bốn dòng thơ này, như có nỗi nhớ đáp lại nỗi nhớ, nghiêm trang đáp lại nỗi lòng, nỗi lòng không nguôi đáp lại nỗi ấm ức của người ở lại. trong mạch cảm xúc như của bài hát giữa một cặp đôi đang yêu, người bạn đã thả một câu hát rất tình tứ:

“giọng nói của người có mùi rượu nghiêm trọng”

một từ duy nhất “ai” cũng đủ để làm say đắm lòng người. từ “ai” không phải để hỏi vì bạn muốn biết ai; từ “ai” vẫn là đại từ chung, dùng để chỉ đối tượng không xác định vì ở đây cả “tôi” và “tôi” đều hát lời tiễn biệt đầy luyến tiếc này. chữ “ai” chỉ là cách nói để tăng thêm tình cảm, cho câu văn thêm lãng mạn. con người qua lại trong những cảm xúc như mở lòng, mở rộng lòng mình để đón nhận sự nghiêm trang của những tình cảm thủy chung ấy để rồi bộc lộ tình cảm của mình. đó là tình trạng “bụng réo rắt, đi không yên”. các từ “đau xót”, “lo lắng” diễn tả rất chính xác tâm trạng xúc động của người trở về. nỗi buồn là nỗi nhớ về cảnh, về người, về cuộc đời đã trở thành kỉ niệm của những ngày kháng chiến, những kỉ niệm vẫn còn đó, vẫn tràn về trong tâm trí mỗi người mỗi khi đến rồi đi. bước lui mà lòng vẫn như lưu luyến viet bac. và “khắc khoải” là từ đã ghi dấu tâm trạng của bước chân người đi, bước chân không muốn rời xa mảnh đất thân thương trong 15 năm qua. mỗi bước đi, mỗi bước hoài niệm, mỗi bước chân đều khắc khoải vì nỗi nhớ ấy.

Với câu thơ thứ ba của khổ thơ này, người bạn bất ngờ bộc lộ ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay. bởi với những dòng đầu của bài thơ trước, câu hát đối đáp như thể chỉ “mi” với “ta”, của đôi trai gái đang yêu, bỗng chốc cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay tuyệt vời của cả Việt Nam đối với nhân dân. khichien của một phép ẩn dụ:

“áo chàm chia ly”

tất cả các viet bac đều “bối rối” trong cuộc chia tay lịch sử đó. hình ảnh “chàm” dùng để chỉ hình ảnh của viet bac trong phép ẩn dụ. the viet bac “hoang mang” xuất hiện trong hai chữ “mang chia ly”. trong khi đó, câu thơ

“chúng ta hãy nắm tay nhau và biết phải nói gì hôm nay”

Nó không chỉ thể hiện sự lặng lẽ trong phút xúc động của người đi mà còn là sự ngập ngừng, ngập ngừng, lưu luyến trong bước chân của người về qua sự đột biến về nhịp điệu của câu thơ, bởi thể thơ lục bát, vốn có cấu trúc nhịp chẵn và nhịp đều, với sự ngọt ngào của bài hát chia tay đã chuyển sang nhịp lẻ: 3/3/2

“nắm tay nhau / nói gì / hôm nay”

nhịp đó khiến tôi nhớ đến cảnh tạm biệt trong đoạn thơ

“tiến một bước, giây dừng lại”

Sự thay đổi nhịp điệu của dòng cũng làm cho bài thơ trở nên mới mẻ trong cảm xúc của người đọc. câu thơ đảm bảo không khiến người đọc rơi vào nhịp điệu quá đều đặn trong suốt 8 dòng của bài thơ mà ngược lại trở nên mòn và nhàm chán.

sự tiếp nối của 12 câu thơ nằm trong mạch kết cấu của nỗi nhớ như một lẽ tất yếu, bởi đằng sau nỗi niềm trăn trở của người đi, kẻ về là khúc tình ca của các thi nhân. đi, là sự khẳng định lòng trung thành của cách mạng đối với viet bac. bài hát ấy đã làm lay động lòng người ở lại, tạo nên bao kỉ niệm, bao kỉ niệm ý nghĩa trào dâng trong tâm trí những người đã khuất. mười hai dòng thơ nối tiếp nhau tạo thành dòng thương nhớ dạt dào, thiết tha, đắm say. Mỗi cặp từ 6-8 gợi lên bao kỉ niệm về những ngày Việt Bắc sâu nặng, thắm thiết. còn 6 câu tiếp theo đều là câu hỏi như gợi lại nỗi nhớ nhung người đi về. mỗi câu 6 xưng hô “tôi”, các từ “tôi” nối tiếp nhau như một điệp khúc của tình cảm. và đặc biệt ở câu 6, chữ “tôi” nghiêm túc luôn gắn liền với chữ “đi” (ở đây cũng là đi, đi là về). từ “tôi”, từ “đi” luôn đi kèm với từ “nhớ”, mới thấy người ở lại kể về quá khứ như thế nào

“Tôi nhớ những ngày tôi đi, tôi nhớ chính mình khi tôi đi”

khi sử dụng từ “tôi”, một đại từ chỉ tiềm năng tình cảm và tình cảm, cũng cho thấy sự thay đổi linh hoạt trong cách nói, trong nhận thức về sắc thái ý nghĩa của từ này. ở đây “tôi” là tôi mà còn là “tôi”. tôi và tôi là 2 nhưng 1. nên người ở lại bảo tôi quay lại:

“Tôi sẽ nhớ bạn”

đây là bài thơ gợi những kỉ niệm về một thời cách mạng dựng nước cộng hoà nên mỗi câu 8 trong cặp song thất lục bát là một kỉ niệm không thể phai mờ, cũng như những kỉ niệm về những ngày gian khổ xây dựng phong trào đã qua ở bức tranh “buồn mưa lũ, mây trời”, về những tháng ngày “muối bỏ bể”, về những tháng ngày sôi nổi trong phong trào chống Nhật của thiếu nhi Việt Nam. những ngày bình minh và tưng bừng chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám nơi “mái đình hồng, cây đa mới”. nhưng điều đặc biệt ở câu 8 này là nhịp điệu giàu nhạc điệu của nghệ thuật đối lập. tác giả đã sử dụng triệt để nghệ thuật đối lập xuyên suốt 8 câu thơ ở đây, nghệ thuật đối lập làm cho âm điệu của câu thơ trở nên sắc nét và tạo ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc cho từng quan niệm thời đại.

là sự đối lập giữa các cụm từ như: “miếng cơm manh áo / kiên cường chiến đấu” để làm nổi bật sự đồng lòng giữa nhân dân với cách mạng. khó khăn chồng chất thù hận trước thực dân phát xít. đó còn là sự đối lập giữa cuộc sống vất vả và lòng người qua những hình ảnh tương phản

“màu xám, đầy son môi”

đó là những mặt đối lập làm nổi bật nỗi buồn của viet bac khi chia tay

“mai rụng đầy, măng già rụng”

Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong các câu ca dao, tục ngữ nhưng với yếu tố, nghệ thuật đã có những sáng tạo riêng. ở đây không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các mặt đối lập. ở đây là sự đối lập giữa các vế trong câu, nhưng cũng có những vế đối và vế đối trong một câu như “mưa nguồn / dòng lũ” và “mây / mù mịt”; có những biến thể trùng lặp tạo nên sự đối lập, như trường hợp “tân tiều, hồng thái, mái đình, cây đa” nằm trong những cụm từ tương đối cố định, đó là “xóm hồng thái đa, cây đa. trong giai điệu, một giai điệu được tạo ra từ nhịp điệu của câu thơ.

thơ ca gắn liền với “việt bắc”, đặc sắc trữ tình không chỉ nổi lên ở những câu thơ lục bát mang âm điệu nghiêm trang mà còn ở cấu trúc, ngôn ngữ luôn dạt dào cảm xúc. Vì vậy, bài hát mở đầu của “viet bac”, bài ca về cuộc chia tay vĩ đại gắn liền với đời sống chính trị của dân tộc, nỗi nhớ về những ngày tháng cách mạng, vẫn có sức lay động cảm xúc của người đọc, chạm đến trái tim của mỗi người. Tiếng Việt. người tại thời điểm đó tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Với câu thơ mở đầu này, chúng ta cũng thấy rằng “viet bac” của to hu rất giàu chất dân tộc, dân gian và âm nhạc.

phân tích 20 câu đầu của bài thơ việt bắc – văn mẫu 7

Sau hiệp định chung năm 1954, miền Bắc nước ta được giải phóng. Khoảng tháng 10 năm đó, các cơ quan trung ương của Đảng và Nhà nước rời Việt Bắc chuyển về Hà Nội. Nỗi nhớ giữa người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng là nguồn cảm hứng sáng tác bài thơ Việt Bắc gồm 150 câu lục bát, là bài trữ tình nhất trong tập thơ của nhà thơ cùng tên. .

đoạn mở đầu gồm 20 dòng thể hiện tình cảm gắn bó giữa những người trở về, tiêu biểu cho phong cách trữ tình chính trị của người bạn tou

giải lao:

lời người ở lại nói về em có nhớ anh không, mười lăm năm ấy mặn nồng, có nhớ khi trở về mình em trông cây có nhớ núi em trông. bên sông có nhớ nguồn không?

với cấu trúc bài tình ca, bài thơ miêu tả cuộc chia tay giữa nhân dân Việt Bắc và những người cách mạng. tình người trở về được thể hiện một cách thân thương qua các đại từ, gợi lên nỗi nhớ trong bữa tiệc chia tay.

Được vang lên như một nỗi day dứt khôn nguôi về dòng tin nhắn của người còn lại với những lời lẽ gợi cảm khi hỏi anh có nhớ em không, có nhớ không. mười lăm năm ấy gợi lên thời gian, cây cối, núi non, sông suối gợi không gian. thời kỳ hoạt động cách mạng và kháng chiến chống Pháp, không gian căn cứ địa cách mạng. phó từ thể hiện tình yêu thắm thiết mặn ngọt của bao kỉ niệm đẹp. những lời thương nhớ gợi lên nỗi nhớ…

tiếng người nghiêm túc bên cạnh rượu, trong bụng xoắn xuýt, bước đi không yên. Indigo cho buổi chia ly, nắm tay nhau và biết nói gì hôm nay …

Đây là giọng nói của người tôn kính. người dân khi nghe lại câu hỏi, lòng đầy lo lắng nên hồi hộp bước đi. chiếc áo chàm giản dị và chân chất. câu giữa bài thơ với nhịp nắm tay ngập ngừng-biết nói sao- hôm nay diễn tả nỗi niềm vướng víu không thể diễn tả được cảm xúc.

những người ở lại:

Mười hai câu thơ sau là tiếng Việt bac. giọng thơ điều tra, gợi mở trong thời gian, vươn mình trong không gian. nhớ lại những kỷ niệm xưa thuở mới cách mạng, thời kháng chiến chống Pháp.

những không gian, địa điểm dần hiện ra từ xa, nguồn mưa, dòng lũ, mây mù, xác định là trọng điểm vững chắc của chiến khu, rồi khơi dậy sức mạnh chiến đấu, chống nắng thời Việt, những mốc son lịch sử. như cái nôi của phong trào mới, hồng thai, mái đình, cây đa ra đời.

những chi tiết về đời sống và tình người: bát cơm ngập muối, đầy bùn, mai, mái rạ xám xịt … tái hiện từng chút một gợi lại sự thù hằn giữa hai bờ vai, trái tim. son không bao giờ phai.

nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ rừng núi nhớ ai …, lấp ló, măng mọc, điệp từ, mình đi, nhớ: nhớ, nhịp câu 2/4 – 4. / 4 đều đặn … gợi lên hình ảnh một con người u uất, bàng hoàng trước cảm giác hụt ​​hẫng trước sự ra đi, cảnh giác với sự lãng quên, nhắc nhở khắc khoải về ngày trở về với nỗi nhớ da diết, cội nguồn sâu lắng nhất …, sâu thẳm trong trái tim anh tình người, rộng lớn theo thời gian và không gian. Đây là cảm nhận của những người làm cách mạng trong không gian và thời gian của cuộc cách mạng.

bài thơ thể hiện những cảm xúc tuyệt vời của cuộc vượt thời gian. Đó là sự đoàn kết, thủy chung son sắt giữa nhân dân với cách mạng, từ phong trào Việt Minh đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc.

Bài thơ còn thể hiện chất trữ tình chính trị, đậm đà tính dân tộc của thành hu. phong cách đó đã có ảnh hưởng lớn đến thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích 20 câu đầu bài thơ việt bắc. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *