Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
419 lượt xem

Phân tích 8 câu cuối trao duyên truyện kiều

Bạn đang quan tâm đến Phân tích 8 câu cuối trao duyên truyện kiều phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích 8 câu cuối trao duyên truyện kiều

Truyện ngôn tình là một trong những mảnh vỡ cảm động và đau thương nhất của kiệt tác truyện cổ tích truyện Kiều, trong đó nguyễn du đã chứng tỏ khả năng nắm bắt tâm lý nhân vật một cách tài tình, đồng thời cho ta thấy bi kịch của câu chuyện tình yêu. , bi kịch và nỗi đau về tâm hồn của nàng thủy chung trao duyên cho nàng thủy chung, nhất là 8 câu thơ cuối:

bạn đang xem: phân tích 8 câu cuối truyện kiều – truyện nguyễn du

“nay trâm gãy, gương vỡ lại lành, bảo ta làm tình! trăm vạn quân tình, chỉ có ngần ấy mối tình ngắn ngủi! sao bạc như vôi! Tôi phải để nước chảy và những bông hoa di chuyển khỏi làng. ôi kim lang! ôi kim lang! đủ rồi, tôi đã giúp bạn từ đây! ”

tên nguyễn du là phần tử tương tự, tên là thanh hiền. Quê cha ở Tiền Điện, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bắc Ninh, nhưng sinh ra ở Thăng Long nên Nguyễn Du dễ dàng tiếp thu những tinh hoa của nhiều nền văn hoá. tác giả là con một gia đình quý tộc lớn, làm quan lớn nhiều đời, có truyền thống làm thơ và say mê ca hát. anh sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động dữ dội của xã hội phong kiến. Cuộc đời đầy bi kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ và phải sống với người anh trai là Nguyễn Khản. gia đình ly tán, bản thân anh đã lưu lạc “mười năm gió bụi” ở quê vợ Thái Bình. nhưng chính những khó khăn, vất vả đó đã hun đúc cho anh vốn sống quý báu và vốn hiểu biết văn học dân gian sâu rộng. Nguyễn Du làm quan dưới triều Lê và Nguyễn. ông là một vị quan thanh liêm, được nhân dân yêu mến, kính trọng. sự nghiệp văn chương của ông rất rộng lớn với những kiệt tác ở nhiều thể loại: thơ chữ Hán, nguyên du có 3 tập gồm thanh thế thi tập, nam trung tam tạp, bac hanh tạp lục. trong thơ nôm, nguyễn du có hai kiệt tác truyện kiều và văn tế thập loại chúng sinh. đoạn trích truyện ngôn tình bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của truyện kiều.

sau khi thuyết phục thuy van nhận lời, anh đã tặng quà và cho tôi một vài lời khuyên. kiều còn sống mà như chết, nói chuyện với anh trai mà không biết đang nói chuyện với ai, cô rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm. nỗi bất hạnh hiện lên quá rõ khiến kiều rơi vào cảm giác tuyệt vọng tột cùng:

“Bây giờ trâm gãy, gương vỡ lại lành, hãy nói cho tôi biết cách làm tình”

“Chiếc trâm gãy gương” gợi tả tình yêu tan vỡ cũng như trái tim tan vỡ của thủy chung. việc sử dụng những hình ảnh ước lệ rất hiệu quả, qua đó tác giả đã thể hiện được nhận thức sâu sắc của mình về thảm cảnh hiện tại. Trước kia, chàng rất hạnh phúc với Kim Trọng: mối tình đầu đẹp như hoa như mộng, giờ chỉ còn lại nỗi đau khôn tả. “trâm” và “gương” là hai hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp của người con gái đang tuổi ăn tuổi lớn để ý đến vẻ đẹp của chính mình. điều mà kiều yêu bấy lâu, ấp ủ từng chút một để mong một ngày được mãi bên kim quý, nhưng trong phút chốc mọi mong ước và hy vọng đều tan tành. kiều đã nhận từ kim bao nhiêu “yêu thương” bấy nhiêu “làm sao biết được” vậy mà giờ lại thất hứa, nghẹn ngào, chua xót và ân hận về tình trạng của mình. Nguyễn du đã mở ra hai chiều thời gian hiện tại và quá khứ. quá khứ “đầy tình yêu thương” đầy hạnh phúc trong khi hiện tại đầy đau khổ, mất mát của những con người và sự bạc bẽo. sự tương phản nhấn mạnh, đào sâu thêm bi kịch và nỗi đau của người Việt Nam ở nước ngoài, càng tiếc nuối quá khứ, thực tại càng tủi nhục và thất vọng.

giờ mất hết rồi, kiều không thể làm cho mọi thứ trở lại như cũ, cô chỉ cố vui lên và an ủi mình và người yêu:

“Hàng trăm nghìn người cúi đầu trước đội quân số mệnh ngắn ngủi!”

Lời thú nhận của anh ấy thật đáng thương, tội nghiệp. trăm ngàn lạy tạ “ái quân”, người cùng nàng trải qua bao kỷ niệm yêu đương nồng nàn, say đắm, gắn bó bên nhau trăm năm, nhưng cuối cùng lại phản bội. Trước đó, anh chàng đã từng “cúi đầu” trước chị gái để cầu xin cô lấy anh làm vợ. nhưng “cái cúi đầu” lần này là một cái cúi đầu biết ơn, một lời xin lỗi rất đau đớn. Trước tình hình đó, Kiều vẫn không thể làm gì khác hơn là xin lỗi. Và cái cúi đầu ấy với Kiều đã kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi và đầy tiếc nuối. “Chỉ có bấy nhiêu mối tình ngắn ngủi”, Kiều thốt lên thấm đẫm vị đắng cay của cuộc chia ly. Đến lúc này, nàng kiều mới thấu hiểu nỗi cô đơn, tủi phận của mình giữa một thế giới đầy bất công. Việt kiều than thở trước sự hờ hững, khắc nghiệt của cuộc đời, than thở cho số phận nghiệt ngã, nghiệt ngã không thể duy trì hạnh phúc:

“Tại sao số phận bạc như vôi! Tôi phải để nước chảy và hoa di chuyển khỏi thị trấn ”

“Số phận bạc như vôi” là một số phận nghiệt ngã và tàn nhẫn. đó là một lời than thở, một lời than thở cho số phận của những người Việt Nam ở nước ngoài mà không ai có thể thấu hiểu hết được, một lời than thở chua xót và tuyệt vọng. rồi số phận người Việt kiều sẽ lênh đênh như bông hoa đẹp đã “trôi” trên dòng nước bẩn chảy xiết, lỡ làng, không thể cứu vãn được nữa. “nước chảy hoa trôi” có nghĩa là xuân đã qua, hoa đã tàn, tuyết đã tan, nghĩa là thanh xuân trinh nguyên của kiều nữ đã kết thúc tại đây. chưa kịp kêu oan, cô đã đồng ý hủy hoại cơ thể mình để đền bù cho người tình chung thủy vì đã phản bội lời thề của mình. cuộc đời quá cay đắng hay xã hội quá bất công, tàn nhẫn với những con người tài hoa bạc mệnh. Tất nhiên, cuộc đời là “nước chảy mây trôi”, cũng có giới hạn, nhưng sao nó bi đát, nghiệt ngã đến thế? Việt kiều quên đi nỗi đau của bản thân và nghĩ nhiều đến người khác, đó là đức hy sinh cao cả. Kiêu là người tỉnh táo nhất cuộc đời nên càng đau càng đau.

Trên đỉnh điểm của nỗi đau xé lòng, Kiều lại nghĩ đến chàng Kim. cái tên vàng vang lên vào lúc này như một tiếng kêu thảm thiết của một con người đang chống chọi với vực thẳm của cuộc đời mình:

“ôi kim lang! kim lang, dừng lại, tôi đã giúp bạn từ đây ”

Nhịp 3/3, 2/4/2 đau đớn, nghẹn ngào như những tiếng nấc thầm lặng. những câu cảm thán “ôi, ôi” là tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng của kiều. nhắc đến kim lang hai lần tỏ ra tức giận, ngột ngạt, đau đớn đến mê sảng. Nỗi đau của Kiều được đưa lên cao trào, tình cảm lúc này lấn át lý trí. Cô không thể nghĩ gì khác, cô chỉ có thể hét lên tên người yêu của mình trong đau đớn tột cùng. sự thật khiến Thủy kiều la lên “khựng lại” một cách chật vật, đau đớn cắt từng khúc ruột. điều đó cho chúng ta thấy rằng tình cảm của Thủy Kiều dành cho kim trong là rất lớn, rất sâu sắc, đúng với màu sắc.

với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, sử dụng từ ngữ tinh tế, đắt giá, cách diễn đạt thành ngữ giàu sức gợi cùng với việc sử dụng ẩn dụ, so sánh, liệt kê, tương phản. du đã thể hiện thành công số phận bi đát, nội tâm xáo trộn, đau khổ, cay đắng, đau đớn và tuyệt vọng trong câu chuyện tình yêu của nàng thủy chung. Bằng tài năng của mình, tác giả đã biến đoạn “hữu duyên” trở thành bài thơ bi tráng nhất trong lịch sử xứ kiều, đó là lý do câu chuyện vẫn còn nguyên vẹn dù sự việc đã trôi qua một thời gian dài.

phân tích 8 câu cuối đoạn tình trong truyện Kiều – văn mẫu 2

“Tôi cảm thấy nước mắt chảy quanh người thân của mình”

khi nói về văn học, standal đã viết: “văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội”. tác giả cũng đã từng nói: “Văn học không chỉ là văn học mà là cuộc sống, văn học không là gì nếu nó tồn tại suốt đời”, đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của văn học: phản ánh đời sống xã hội. đã thấm nhuần chức năng đó, ông đã sống trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động, một xã hội mà mọi thứ đều bị thống trị bởi đồng tiền, ông đã chứng kiến ​​nhiều cảnh bất công và vô cùng cảm thông với nỗi bất hạnh của người phụ nữ thời bấy giờ. thanh trường ”(truyện kiều) trong đó Đoạn trích“ trao duyên ”là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả, đặc biệt 8 dòng cuối của bài thơ đã thể hiện chính xác cảm xúc của tác giả người phụ nữ nước ngoài vì số phận của cô với kim.

nguyễn du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo kiệt xuất với “con mắt nhìn thấu sáu đời” và cốt cách “tấm lòng nghĩ cho ngàn đời”. Nguyễn Du, tên chữ như ý, hiệu là thanh hiền, quê ở làng Tiền Điện, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình nhiều đời, nhiều người làm quan lớn dưới triều Lê, Trịnh. cha ông là nguyễn nghiêm, làm tể tướng được 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tân, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài ca hát. Quê hương của Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, học giả, trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống khoa bảng, có nhiều tài năng về văn học. gia đình và đất nước là “mảnh đất màu mỡ” nuôi dưỡng thiên tài nguyễn du.

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp nhiều thăng trầm trong thời kỳ tam quốc loạn lạc: Sống chung với Nguyễn Khản (em cùng cha khác mẹ là Tể tướng của chúa Trịnh). ), Nguyễn Du Hãn bị giam cầm, bị lòng kiêu ngạo, phải bỏ trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ Tam giáp rồi làm quan ở Thái Nguyên. Chẳng bao lâu sau khi nhà lê sụp đổ (1789), nguyễn du lánh nạn về quê vợ ở thái bình, sau đó vợ mất, ông về quê cha, thỉnh thoảng ra bắc ninh về quê mẹ, nhất thời. ông sống vô gia cư ở thành thang. Hơn chục năm bôn ba trên đất Bắc, Nguyễn Du đã sống gần gũi với nhân dân và cảm nhận sâu sắc cái nóng, cái lạnh của kiếp người, nhất là nhân dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cán bộ, ăn xin… những người “xuất thân”. của xã hội. chính nỗi bất hạnh lớn lao của cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du, một nhà nhân đạo lớn.

ngoài “so thanh school” (kieu truyện); “văn tế thập loại chúng sinh” (văn tế cô hồn) và hai mục không rõ ràng là “văn tế nhị phẩm” (văn tế sống hai cô gái lâu năm) và “truyền miệng trai gái”. Nguyễn Du còn có ba tuyển tập thơ chữ Hán có giá trị. quầy bar ở hiên sau; sũng nước hỗn hợp nam trung bộ; phía bắc của lục địa. một số bài như “phản phúc”, “thái bình thương”, “long thành cầm giả” đã thể hiện rõ sự ưu ái của họ đối với số phận con người. những bài viết về thăng long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi nguyễn du đi qua đều toát lên vẻ u buồn.

Theo giáo sư Nguyễn Lộc, ở trang 455, ông viết: “Thời tân thanh… là truyện ngắn thơ lục bát, dựa theo tác phẩm Kim văn kiều truyện của thanh tam tài tử, Trung Quốc gồm 3.254 câu thơ. ..có giả thuyết cho rằng nguyễn du viết sử ở nước ngoài sau khi đi sứ (1814-20), có thuyết cho rằng nguyễn du viết trước khi đi sứ, có thể trong thời gian làm tổng đốc Quảng Bình (1804-09. Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận. Truyện Kiều đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam, nhiều nhân vật trong truyện Kiều trở thành điển hình cho con người của xã hội cũ, tiêu biểu như sở khanh, hoạn quan, tửu điếm, và tất cả đều nhập ngôn ngữ vn.

Giáo sư, giáo sư Lê Đình Ký, người được coi là “chuyên gia về truyện Kiều”, đã có những nhận xét thú vị: “Truyện Kiều nảy sinh từ những giá trị văn học đương thời và làm cho tác phẩm của Nguyễn Du gần gũi với chúng ta ngày nay, cả trong nội dung và hình thức nghệ thuật, nhưng tựu trung lại, nguyễn du vẫn là con người của thời đại, không thể thoát ra khỏi hoàn cảnh lịch sử, xã hội cụ thể của mình, cả về tư tưởng và phương pháp nghệ thuật, thể hiện ở khuynh hướng duy tâm hoá và phỏng đoán … điều này khó tránh khỏi trong hoàn cảnh chung của nền sáng tác, trong trình độ chung của tư tưởng nghệ thuật thời … trước và sau này, truyện kí vẫn là một di sản lớn, là đỉnh cao của văn học dân tộc xưa, quan điểm lịch sử cũng như giá trị văn học được minh oan vĩnh viễn cho phép chúng tôi khẳng định điều đó. ”

là một đoạn văn trích từ “truyện kiều”, “đổi duyên” gồm 34 dòng. đây là những câu thơ nằm ở câu 723 đến câu 756 trong kiệt tác của tác phẩm. Đoạn trích hướng người đọc đến với nhân vật trung tâm là Thúy Kiều trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt: Kiều phải bán mình cho phò mã học sinh chuộc cha sau khi gia đình bị vu oan. đêm hôm trước anh phải rời gia đình theo phòng trọ bán hương, kiều nhờ em gái thủy chung trả nghĩa kim trong; Phần còn lại của đoạn trích là những dòng viết về tâm tư, tình cảm của Thúy Kiều khi nghĩ về kiếp người và nhớ về Kim Trọng. Đoạn trích là tiếng nói nghiêm túc của Kiều về hoàn cảnh éo le của gia đình, về số phận và về mối tình đầu đẹp đẽ của mình.

Tiêu đề của đoạn trích là nói về tình yêu trao gửi, nhưng trớ trêu thay, đây không phải là cảnh ân ái lãng mạn của một người nam và một người nữ mà chúng ta thường thấy trong các bài hát nổi tiếng xưa. chỉ đọc để hiểu, “nhân duyên cho đi”, ở đây bạn phải gửi yêu thương, gửi yêu thương của mình cho người khác, nhờ người khác xây dựng lại mối tình dang dở của mình. Thuý Kiều Trước khi dấn thân vào cuộc đời lang bạt, bán mình cứu cha, nghĩ không thể giữ được lời hứa với người yêu, nàng đã xin chàng đi Thuý Vân thay chàng ở lại với chàng Kim. bài thơ không chỉ kể về câu chuyện tình yêu mà còn chứa đựng nhiều tâm tư nặng trĩu về thủy chung. Đặc biệt, thể hiện nỗi xót xa của người phụ nữ ở nước ngoài về duyên phận với chàng Kim, Nguyễn Du đã thể hiện ấn tượng trong tám dòng cuối của đoạn trích:

“nay trâm gãy, gương vỡ lại lành, bảo ta làm tình! trăm vạn quân tình, chỉ có ngần ấy mối tình ngắn ngủi! sao bạc như vôi! Tôi phải để nước chảy và những bông hoa di chuyển khỏi làng. ôi kim lang! ôi kim lang! đủ rồi, tôi đã giúp bạn từ đây! ”

Vì cứu gia đình, anh phải bán mình chuộc cha. nhưng khi làm như vậy, anh đã phản bội lời thề chung thủy, thủy chung son sắc và tình yêu quý giá của mình. hoàn cảnh buộc nàng phải nương tựa vào người em gái thuỷ chung như trả lại số phận, xin nàng thực hiện lời thề với kim trong mặc dù nàng thuỷ chung rất đau đớn, nó day dứt trong lòng và khiến nàng nhớ đến chị tôi như thể. ra đi mãi mãi “một lần và không bao giờ trở lại.” Sau khi kể hết nỗi lòng của mình với em gái, Kiều nhìn lại cuộc đời và đau đớn nhận ra một sự thật phũ phàng rằng so với quá khứ, hiện tại trái ngược đến đau đớn:

“Bây giờ trâm gãy, gương vỡ lại lành, bảo ta làm tình đi!”

giờ đây mọi chuyện đã vỡ lở, tôi đã lỡ thị, làm sao có thể nói hết những tình cảm nồng nàn đau thương, những kỷ niệm ngọt ngào ân tình năm xưa trao nhau? thành ngữ “gương gãy trâm” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là sự tan vỡ của trái tim thủy chung. tình yêu của hắn đối với kim loại quý giá càng ngày càng lớn, càng ngày càng nghiêm trọng, trong lòng càng thêm đau đớn, dày vò. Nguyễn du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương đồng” đã tạo nên một biểu hiện rất hiệu quả. Qua hình ảnh này, tác giả đã thể hiện sự nhận thức sâu sắc của em về bi kịch hiện tại. kiều bàng hoàng, chua xót so với quá khứ: kiều nữ những năm tháng mặn nồng với mối tình đầu đẹp như hoa như mộng, giờ đây những gì còn lại chỉ là nỗi đau và tiếc nuối khi bao nhiêu hứa hẹn đẹp đẽ trở về hư không.

“trâm” và “gương” tượng trưng cho hình ảnh đẹp của người con gái đến tuổi phải quan tâm đến khuôn mặt của mình khi tình yêu gõ cửa trái tim. nhưng điều mà cô ấy nâng niu và trân trọng để mong một ngày có thể trân trọng mãi mãi ở bên cạnh nhau (để cô ấy nhận ra điều mà cô và người yêu đã từng thề hứa từ giây phút “kể từ khi gặp kim” – “khi ngày còn sống và đêm thề ”) bỗng chốc, tai họa ập đến, mọi ước nguyện tan tành theo mây khói.

“Bao nhiêu tình” không thể đong đếm được trong miền ký ức thơ có sự hiện diện của thủy kiều và kim trong mà anh nhắc đến ở câu thơ tiếp theo càng làm tăng thêm sự tương phản đối với nỗi khổ của câu thơ trước mà anh vừa kể ở câu trước. một câu thơ. Khi cảm nhận 8 câu cuối của truyện ngôn tình, chúng ta thấy rằng nhìn vào hoàn cảnh của Kiều, chúng ta mới thấy được những gì mà tuổi trẻ của anh đã phải chịu đựng, đó là anh vẫn phải sống trong vòng tay yêu thương, che chở của cha mẹ. Tôi cảm thấy có lỗi với cô ấy, tôi cảm thấy có lỗi với cô ấy hơn.

<3 trong đau đớn và tuyệt vọng tột cùng, kiều đã nghĩ đến vàng. với cô ấy mọi thứ đều quý giá, niềm tin, hy vọng, sự an ủi, chia sẻ mọi thứ với cô ấy. Tuy nhiên, anh đã ở rất xa cô nên cuộc trò chuyện này với anh chỉ là tưởng tượng. Anh ấy đã đưa ra một lời than thở rất cay đắng và đau đớn khi đối mặt với thực tế phũ phàng:

“Hàng trăm nghìn người cúi đầu trước đội quân số mệnh ngắn ngủi!”

giọng ca than thở số phận, trách sự bất cẩn và nghiệt ngã của cuộc đời, than thở cho số phận thất thường, mong manh và nghiệt ngã của chính mình khiến mối tình tan vỡ chỉ là “ngắn ngủi”. Thế thôi “. Nói những lời ấy, Kiều thực sự trân trọng chấp nhận rằng mối tình giữa chàng và Kiều chỉ là những kỉ niệm ngắn ngủi, dẫu đẹp đẽ đến đâu. Qua cảm nhận 8 câu cuối của truyện ngôn tình, ta cũng thấy rằng tuỳ nàng. Để “thay máu cho nàng thay lời muốn nói” giúp nàng duy trì sự quyến rũ của mình, Kiều cũng rất thành khẩn khi bảo nàng “ngồi dậy” để chàng “cúi đầu”. , bây giờ, một lần nữa chân thành nhưng kiều gửi lời xin lỗi đến một người rất quan trọng với cô, kim. từ ‘wow’ ở đây khác với từ ‘wow’ trong đoạn đầu tiên. ‘wow’ là thuy kiều xin lỗi vàng, ăn năn, nói lời từ biệt. anh cảm thấy rằng số phận của mình là một số phận bạc. cô tự cảm thấy có lỗi với bản thân và đây cũng là sự đồng cảm của tác giả với thủy kiều. Kiều từng lời nói, từng hành động thể hiện trong bài thơ đã giúp hình ảnh người con gái mang nặng mối tình dang dở hiện hữu trên trang viết của nguyễn du mà không cách nào cứu vãn được.

thông điệp về sự ăn năn và từ chức “quá nhiều” là quá ít, nhưng nó không thể được mở rộng thêm nữa. thôi thì đành chấp nhận số phận của mình, nhân duyên ngắn chẳng tày gang, hạnh phúc quá mong manh, kiếp này lỡ có vợ, tôi xin từ biệt cõi âm. gọi là kim trong quân tình yêu, than thân trách phận với nhân duyên ngắn ngủi, tự cho mình là kẻ phản bội. đau đớn biết bao: đã trao tình thì xin anh trả ơn cho chàng trai mà nỗi buồn vẫn chất chứa trong lòng người con gái ngoại quốc. có lẽ, một lần nữa, nguyễn du đã chứng minh một cách tài tình quy luật tâm lý con người: cái gì đo được thì lắc thì ít, nhưng: lắc càng nhiều thì càng no! tình yêu vẫn như vậy, ngay cả khi nó bị cố tình bỏ rơi.

XEM THÊM:  Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với người

ở điểm này, Kiều đã nhận thức sâu sắc về sự cô đơn và số phận của mình giữa một thế giới đầy bất công:

“mệnh bạc, mệnh bạc như vôi, đành để nước trôi hoa dời phố”

thơ nghẹt thở, đoạn nào? bạc như vôi gì? câu thơ cho thấy thân phận thu nhỏ của người cô nương. hơn nữa, câu thơ còn là một điềm báo, một lời trăn trở cho tương lai đầy bất trắc phía trước. hình ảnh những “bông hoa” vốn là biểu tượng của người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là cô nương kiều diễm, nhưng những bông hoa ấy trôi trong làng, mông lung, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi về đâu. nỗi đau tăng lên, bao nhiêu cảm xúc bị kìm nén tràn ngập toàn bộ tâm trí. lời thơ dạt dào cảm xúc, thương tiếc cho số phận nghiệt ngã, cay đắng: lời thơ như ai oán, mặc cảm và trách nhiệm.

“Phận bạc” ở đây được dùng như một từ ngữ lên án toàn bộ xã hội phong kiến. nhưng dù vậy, cô cũng không khỏi “đành lòng” như một lời than thở, cam chịu số phận đau thương. Số phận của cô cũng được tìm thấy trong nhiều tác phẩm, chẳng hạn như tác phẩm kể về cô vũ nữ xui xẻo bị chồng bỏ rơi để tự tử, hay những cô con gái được phản ánh trong các bài hát nổi tiếng:

“Thân em như tấm lụa đào tung bay giữa chợ tìm đâu ra tay ai”

Bản thân nguyen du cũng thổn thức:

“Phụ nữ đau khổ khi nói rằng xui xẻo cũng là một từ chung”

tiếng than thở của kiều không ai trả lời được, đó là tiếng than thở chua xót và tuyệt vọng, hét lên chỉ để than trời! rồi số phận người Việt kiều sẽ lênh đênh như bông hoa đẹp đã “trôi” trên dòng nước bẩn chảy xiết, lỡ làng, không thể cứu vãn được nữa. “nước nở hoa” có nghĩa là mùa xuân đã qua, hoa rơi, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân đẹp đẽ, trinh nguyên của kiều nữ đã kết thúc tại đây. và sau đó, trong những giây phút cuối cùng của câu chuyện tình yêu, anh đã gọi điện cho người yêu của mình:

“ôi kim lang! ôi kim lang! Thôi đi, từ trước đến giờ tôi vẫn giúp bạn! ”

mỗi tiếng gọi người yêu mà Kiều thốt ra chắc cũng là số lần nàng chạnh lòng, đau khổ. những từ ngữ thể hiện nỗi đau, nỗi buồn cứ liên tiếp xuất hiện, nối tiếp nhau: “đoản mệnh”, “nhớ phố”, “cao sang”, “kim lang”, “bạc mệnh” đã tạo thành những làn sóng đau thương nhấn chìm cô gái tội nghiệp, một người đã cố gắng rất nhiều để không làm cô thất vọng. Có lẽ đây là lần cuối cùng chàng có thể gọi Kim Trọng là “Kim Lang” với sự nghiêm túc như vậy. Thủy kiều gọi kim trong hai lần, dường như mọi cảm xúc dồn nén đều được thể hiện qua tiếng gọi của người yêu chân thành. Kiều vẫn tự cho mình là thê thiếp khiến nỗi đau như dâng lên không dứt trong lòng. Sau cuộc đối thoại với Kim trong, nỗi đau tình yêu tan vỡ trào dâng trong lòng anh.

“đủ” là tiếng than thở ăn năn, day dứt. “thôi đi” cũng là một xác nhận về sự phản bội của anh ta. tiếng gọi của anh như một tiếng kêu thảm thiết và tuyệt vọng vì không có tiếng trả lời. người Việt kiều đã chiến đấu đến phút cuối cùng, dùng hết sức lực để thốt lên tiếng khóc cuối cùng: tiếng khóc than, tiếng kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa, bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Sau tiếng thét xuyên thấu ấy, Kiều đã ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên trữ tình: “Không lời, hồn đã ngất đi sau giọt máu. Một thoáng lặng ngắt đôi bàn tay đồng”. “Đánh tráo số phận” xong, bán mình cũng xong, rồi cũng đến bi kịch của thủy chung. “oh”, “oh” kim lang, thủy kiều nói tên người mình yêu lần cuối trong nước mắt, cô đau đến xé lòng khi biết chắc rằng từ nay cô đã mất anh mãi mãi.

sự thật đó khiến cho Thúy kiều gào thét “thôi đi” một cách đau đớn và đau đớn “đứt từng khúc ruột”. điều đó cho chúng ta thấy rằng tình cảm của Thủy Kiều dành cho kim trong là rất lớn, rất sâu đậm, chân thực đến muôn màu muôn vẻ. cuối câu trích “trao duyên”, có duyên nhưng không phải là tình. do đó, mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí trong lòng hải ngoại vẫn chưa được giải quyết triệt để. tội lỗi khi làm kẻ si tình, nỗi đau đó sẽ còn ám ảnh cô trong mười lăm năm lưu lạc.

Khi cảm nhận 8 câu cuối của truyện ngôn tình, người đọc cũng thấy rằng những câu cảm thán xen lẫn những tiếng nức nở thể hiện tình yêu của họ, nhưng trên hết là sự thương hại cho Kim. Trong cuộc tình tan vỡ của hai người, người nước ngoài đã nhận hết trách nhiệm và đổ lỗi cho mình và tự cho mình là kẻ lừa dối. lời yêu thương như nói lời cuối, tạm biệt. trước lời yêu thì yêu say đắm, nồng nàn, hạnh phúc, sau lời yêu thì tôi trắng tay, đôi lứa chia tay, tình yêu tan vỡ.

chủ nhân của Mong liên du ký (1820) được dịch bởi bui ky và tran trong kim, nhận xét: “… văn bản dường như máu chảy ở đầu bút, nước mắt thấm ra giấy, gây bất kỳ sự ngạc nhiên nào. khi đọc chắc hẳn bạn cũng thấy ngậm ngùi, đau quặn thắt ruột gan … những yếu tố như lòng người đã chết, lời kể da diết, tả cảnh, đối thoại. thành lập, nếu không có mắt nhìn thấu sáu cõi, trái tim nếu suy nghĩ ngàn đời cũng không thể có được loại bút như vậy. ”

Trong đoạn trích Trao duyên, nhà thơ đã khóc cho mối tình chân thật, trong sáng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Tình yêu giữa chàng trai ngoại và Kim Trọng là một tình yêu trong sáng, một tình yêu đẹp nhưng vì sóng gió trong gia đình, chàng Việt kiều phải bán mình chuộc cha, khiến tình yêu này bị chia cắt. anh phải khôi phục số phận của mình cho thuy van. Sự “hy sinh” của thuy kiều khiến mọi người cảm phục, tình cảm của thuy kiều khiến chúng ta cảm kích và yêu mến. đó chính là điểm tỏa sáng ở phẩm giá con người hữu tình, khiến nó sống mãi trong lòng người đọc.

Ngoài nội dung nêu trên, điều làm nên thành công trong việc truyền tải thông điệp mà tác giả gửi gắm còn nằm ở nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã vận dụng hiệu quả nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật những phẩm chất quan trọng của nhân vật. Ngoài ra, khi cảm nhận 8 câu cuối của truyện ngôn tình, chúng ta còn thấy được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình. Ngòi bút tài tình của nguyễn du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn ngữ điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du là một bậc thầy về ngôn ngữ.

trong lời tựa cuốn Từ điển truyện kiều (1974), giáo sư đạo duy anh viết: “Trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, nếu nguyên trai và ngữ âm là những người đặt nền móng. Trong ngôn ngữ văn học dân tộc, Nguyễn du với bộ lịch sử là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. thay đổi và đã thể hiện được khả năng diễn đạt một cách đầy đủ và sâu sắc … tĩnh, cửa hàng mẹ bắc ninh nhờ những điều kiện đó đã xây dựng nên một ngôn ngữ có thể nói là bao hàm những đặc trưng của 3 lĩnh vực quan trọng nhất của văn hóa đất nước của chúng ta trong quá khứ. ”

Tác phẩm của nguyễn du mang tư tưởng nhân đạo, hơn hết là sự quan tâm sâu sắc đến thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là lời buộc tội mà còn là khúc ca về tình yêu tự do trong sáng, ước mơ tự do và công lý. nhưng toàn bộ câu chuyện phần lớn là tiếng khóc xé lòng cho thân phận và nhân phẩm của những con người đang bị chà đạp, đặc biệt là phụ nữ. không chỉ ngậm ngùi, nguyễn du còn biết trân trọng, ngợi ca cái đẹp, với khát vọng sống, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Tư duy nhân đạo của Nguyễn Du đã khắc phục một số hạn chế của hệ tư tưởng, tôn giáo phong kiến ​​để khẳng định lòng tự trọng của con người. đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông mang đến cho văn học Việt Nam ở thời đại của mình, như lời khen ngợi của một người bạn phù hợp:

“Tiếng ai làm chấn động đất trời như nước vang vọng lời ngàn thu ngàn năm sau nhớ nguyễn du, tiếng ân tình như lời mẹ ru những tháng ngày”.

phân tích 8 câu cuối đoạn tình trong truyện Kiều – văn mẫu 3

Đoạn trích truyện kiều thể hiện nghệ thuật thư pháp tài hoa của Nguyễn Du trong việc khắc họa sâu sắc nội tâm của nhân vật. qua đoạn trích, chúng ta hiểu và thương cảm cho số phận của nàng thủy chung. 8 dòng cuối của bài thơ là một đoạn thơ ấn tượng trong việc tái hiện tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng của nàng Thủy Kiều.

Sau khi tin lời em gái mình để nối duyên với Kim Trọng, Thúy Kiều đã đau đớn bộc lộ nỗi lòng của mình. Đó là sự tuyệt vọng, đau khổ đến tột cùng khi phải buông bỏ tình yêu đẹp với chàng trai họ kim.

“giờ gương vỡ lại lành, hãy nói cho tôi biết cách ân ái”

trạng từ xác định thời gian “bây giờ” chỉ hiện thực đau thương mà kiều phải đối mặt và chịu đựng, đó là nỗi đau khắc cốt ghi tâm khi chứng kiến ​​tình yêu tan vỡ, chữ tình chưa bao giờ phai nhạt. nhưng do biến cố rơi vào cảnh chia ly, “gương gãy, trâm gãy” không gì có thể sửa chữa được. Tác giả khéo léo sử dụng thành ngữ “gương vỡ lại lành” như một ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ nhưng mong manh của Kim-Kiều.

Tình yêu dành cho Kim càng chân thật, mãnh liệt và lớn lao bao nhiêu thì nỗi đau mà cô ấy phải chịu đựng càng đau đớn bấy nhiêu. trâm gẫy, chiếc bình đã tan, không còn tình yêu nào có thể hàn gắn được nữa, niềm hy vọng nối kết tình xưa cũng không còn. kiều đau đớn nghĩ đến khoảnh khắc hạnh phúc “vạn người mê” của hai người trước đây. Đó là những kỉ niệm đẹp, những ấm ức mà cả Kim và Kiều đều có. đêm trăng thề non hẹn biển, uống cạn ly rượu hồng hẹn ước trăm năm, thưởng thức ánh trăng vàng, ngâm thơ, tấu nhạc,… tất cả hạnh phúc lớn lao xưa nay đều trở thành dĩ vãng. . quá khứ tan vào hư vô khi tình yêu chưa cạn mà buộc phải chia xa.

đau buồn vì tình yêu không trọn vẹn, nghĩ đến quý giá, kiều tự trách mình đã phản bội anh, đau lòng dằn vặt nói:

“Hàng trăm ngàn đội quân tình yêu chỉ tồn tại trong thời gian ngắn”

suốt cuộc đời, qua từng trang thơ của nguyễn du, chúng ta đều biết rằng kiều là người tri ân, chưa bao giờ phản bội ai. Ngoài ra, Kiều luôn dành tất cả những điều tốt đẹp cho những người mình yêu thương và tin tưởng. anh đã đổi hạnh ở đời để làm tròn chữ hiếu “làm con trước để báo đáp công ơn sinh thành”, không còn cách nào khác anh phải phụ lòng thành, mối lương duyên với kim trong. trong lòng cô luôn dằn vặt, tự trách bản thân khi cho rằng mình đã phá vỡ lời hứa ngàn vàng. Hành động “trăm ngàn lạy” cùng những lời lẽ nghiêm túc và cảm thán “nhân duyên ngắn ngủi, chỉ có bấy nhiêu” là lời xin lỗi đau đớn và đáng tiếc đối với Kim. Một người yêu quý và coi trọng tình yêu thiêng liêng, kim quý nên tự phê phán và dằn vặt đến mức độ nào?

sau những lời bày tỏ với anh thanh niên, kiều là sự than thở về nỗi tủi nhục của bản thân, sự e dè về thân phận của mình cho thấy kieu là người hiểu lẽ ​​đời, đó cũng là điềm báo của chị về mình. số phận tương lai không suôn sẻ trong cuộc đời tôi:

“Số phận bạc như vôi. Tôi đã phải dừng lại việc chạy hoa để nhớ thị trấn ”

tiếng than thở đầy uất hận trước nỗi đau của trạng như một lẽ tự nhiên khi cuộc đấu khẩu lên đến đỉnh điểm trong gia đình. những câu thành ngữ “bạc như vôi”, “hoa tàn như trôi nước” như một lời than thở, trách móc nỗi uất ức của người Việt Nam ở nước ngoài trước cuộc sống bất công, xã hội tàn nhẫn đã đẩy họ đến bế tắc, đau khổ và tuyệt vọng. chấp nhận “đã đành” thì “nước đã chảy” cũng là sự cam chịu, là biểu hiện của sự hi sinh của người con gái trước giông tố cuộc đời. và có lẽ, điều đó dường như chỉ ra một tương lai bất định, một định mệnh của số phận anh ta.

hai chữ “kim lang” chân thành chứa chan bao tình cảm trân trọng mà kiều dành tặng cho kim. điệp ngữ “kim lang” được kết hợp với thán từ “ơi”, “ơi” với nhịp 3/3 như tiếng khóc xé lòng của nàng kiều. từng âm tiết thốt ra giữa nghẹn ngào, đau đớn, rưng rưng, ​​nhuốm màu đau thương. lời tạm biệt cuối cùng của người con gái thủy chung, kính trọng và yêu thương ấy mang đến nỗi nhớ nhung, day dứt khôn nguôi:

“Đủ rồi, tôi đã giúp bạn từ đây”

Tám dòng cuối của đoạn trích tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được rất nhiều đức tính tốt đẹp ở con người. đó là lòng trung thành, lòng nhân ái, ý thức về bản thân và một trái tim khao khát hạnh phúc sâu thẳm trong thế giới. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm cũng được thể hiện rõ nét. đó là sự lên án xã hội phong kiến ​​bất công đã đẩy con người vào những bi kịch đau đớn. đó là tiếng nói đồng cảm với những số phận bất hạnh như kiều và thể hiện sự trân trọng những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. mặt khác, thành công về mặt nghệ thuật cũng là một điểm nhấn ấn tượng trong bài thơ. đó là phong cách miêu tả nội tâm tinh tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, so sánh, ẩn dụ, sử dụng kết hợp các thành ngữ bình dân và thể thơ lục bát quen thuộc, tất cả đã tạo nên một tổng thể đầy đủ, trọn vẹn và ý nghĩa. / p>

mối quan hệ số phận nói chung và tám câu cuối đoạn trích nói riêng đã góp phần tạo nên thành công cho kiệt tác truyện kí. tin tưởng rằng, trong tương lai, mối quan hệ với lịch sử xứ kiều sẽ giữ nguyên giá trị lâu bền và được nhiều thế hệ độc giả trân trọng, gìn giữ.

phân tích 8 câu cuối đoạn tình trong truyện Kiều – văn mẫu 4

Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ, một kiệt tác của nền văn học trung đại Việt Nam: lịch sử kiều. trong từng mảng tác phẩm, thông qua nhân vật thủy chung, tác giả đã truyền tải cả giá trị hiện thực và nhân đạo trong từng câu thơ. đặc biệt là trong đoạn trích Truyện ngôn tình, một đoạn trích tiêu biểu và cao trào trong bi kịch cuộc đời của Thủy Kiều, 8 dòng cuối được so sánh với tiếng than thở, tiếng khóc không thành lời của một kiếp người nhỏ bé chịu sự sắp đặt của số phận.

sau khi thuyết phục chị gái Thủy Vân chấp nhận mối quan hệ định mệnh với Kim trong, Thủy Kiều đã giao tất cả những kỷ niệm giữa cô và Kim trong cho Thủy Vân và khuyên nhủ cô bằng những lời từ tận đáy lòng. thủy kiều, trong lòng đau khổ, vô thức quên nói chuyện với bạn mà chuyển sang độc thoại nội tâm, đó là lúc hắn nhớ tới kim trong. 8 câu thơ tiếp theo là lời tiễn biệt đau đớn của kiều bào đối với tình nghĩa quân của mình.

“nay trâm gãy, gương vỡ lại lành, bảo ta làm tình! hàng trăm nghìn cái cúi đầu cho những người lính phù du. sao bạc như vôi? Tôi phải để nước chảy và những bông hoa di chuyển khỏi làng. ôi kim lang! oh kim lang “dừng lại, tôi đã giúp bạn từ đây!”

Có thể thấy, trong tám câu thơ trên, có năm dòng cảm thán, trước mắt người đọc là hình ảnh một người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng số phận đã đẩy nàng đến bước “đường xa”. của ngồi từ bỏ mọi thứ. Những vần thơ của thuy kiều đầy nỗi đau, chạm đến cảm xúc của người đọc. “trâm anh thế phiệt” dùng để chỉ một tình yêu đã bị rạn nứt, đổ vỡ một cách không thể hàn gắn, sửa chữa lại được. đó sẽ là một cuộc chia ly vĩnh viễn và không thể hàn gắn được. Tuy nhiên, trước đó, cô và Kim đã từng có một chuyện tình đẹp “vạn người mê” với bao kỷ niệm được trao nhau. bây giờ mọi thứ không còn ý nghĩa nữa, cô phải gạt bỏ nó, tự phủ nhận tình cảm đó để làm trọn đạo hiếu với cha mẹ.

Đối với Kim trong, “người tình” của cô, người đã tin tưởng và yêu cô hết lòng, cho đến bây giờ anh vẫn không thể ở bên cô trọn vẹn tình nghĩa vợ chồng, đó là điều khiến Thủy Kiều càng thêm day dứt và đau đớn. nàng không biết xin lỗi kim trong, nàng chỉ biết “trăm ngàn lạy”, gửi một cái cúi đầu bằng tấm lòng chân thành của kim trong, đây là cái cúi đầu tiễn biệt thánh thiện cho thấy nàng thủy chung rất trân trọng và chân thành với điều này. mối quan hệ. Chỉ mong sao Kim Trọng hiểu được lòng mình, số phận, hoàn cảnh của mình mà chấp nhận yêu em gái. Thủy kiều đã phải than thân trách phận với hàng loạt thành ngữ như “số phận ngắn ngủi”, “bạc mệnh”, “hoa trôi bến vắng” ám chỉ số phận nông nổi, bạc bẽo của Thủy kiều. người phụ nữ siêu phàm ý thức được thân phận đầy đau khổ, trôi nổi dang dở, nếu như quá khứ đầy ắp yêu thương thì nay trở thành hiện thực đầy đau thương và tủi nhục, số phận của nàng đã được chu toàn.

không còn là những con người lặng lẽ cam chịu, âm thầm chịu đựng số phận, nhân vật thủy chung của Nguyễn Du đã phá bỏ định kiến ​​xã hội đương thời, dám kêu lên trong đau đớn, không sợ hãi trước cuộc đời và số phận. tuy không thay đổi được nhưng ít ra cũng cho thấy thủy chung là người hiểu lý, nghĩa tình. Đặt mình vào hoàn cảnh buộc phải lựa chọn giữa gia đình và tình yêu, cô đã chọn hy sinh tình yêu để bán thân cứu lấy cha mẹ. giọng kim la hét “ôi kim lang! kim lang” là tiếng gọi đau đớn, ngột ngạt và có phần đau đớn đến tuyệt vọng, ta có thể tưởng tượng rằng thủy kiều đã trở thành người không hồn, đau đớn đến tận cùng. “dừng lại” coi như hết, không còn hy vọng gì nữa, không còn hy vọng gì nữa, bạn đành chấp nhận sự thật phũ phàng này. đây là kết thúc của tình yêu này, và thủy kiều đã chấp nhận mình là kẻ phản bội, không thể phủ nhận tình yêu của cô dành cho kim trong là nhiệt thành và chân thành, nhưng lòng hiếu thảo đã buộc cô phải lựa chọn hy sinh tình yêu, cô không còn cách nào khác. . Mặc dù đã nhờ Thủy Vân phụ trách mối nhân duyên này nhưng lòng của Thủy Kiều không được yên, cô đau khổ, than thở cho số phận của mình và than thở rằng cuộc đời thật bất công với cô. Dù cuộc đời khốn khó nhưng anh toát lên một nhân cách sáng ngời, luôn đòi hỏi cao về thân phận, yêu thương đối với người bạn đời nhưng cũng không quên đạo lý làm con.

Qua đoạn trích Duyên phận, ta cảm nhận được rằng: kiều kiều không chỉ là một hình tượng nghệ thuật, một số phận được tạo nên bởi bàn tay tài hoa của nhà thơ lớn, mà rất gần gũi với con người thật, với thiên nhiên đa chiều. tính cách. . tình yêu, nỗi đau và sự hy sinh của thủy chung khiến chúng ta không ngừng nghĩ về mình giữa cuộc đời, đồng cảm với những cay đắng, tủi hổ của số phận những người phụ nữ ở nước ngoài.

XEM THÊM:  Giá trị nội dung của tác phẩm truyện kiều

phân tích 8 câu cuối đoạn tình trong truyện Kiều – văn mẫu 5

Trong văn học trung đại, nhận thức về thân phận con người, cũng như lòng trắc ẩn và thương xót cho những mảnh đời bất hạnh dường như có phần hạn chế và không phải là một trong những chủ đề phổ biến nhất được các nhà văn, nhà thơ lựa chọn. Dù vượt ra ngoài khuôn khổ đó, chúng ta vẫn thấy Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc, dù sống dưới chế độ phong kiến ​​hà khắc, sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt, cũng như quan niệm trọng nam, khinh nữ vẫn rất nặng. Tuy nhiên, tư duy của ông đã đi trước thời đại mấy trăm năm, không chỉ đồng cảm, thương cảm với những số phận con người, nhất là những số phận của những người tóc đỏ, mà ông còn có một tầm nhìn rất tinh tế, nhân văn, trong việc khẳng định và phát huy giá trị. của phụ nữ, bao gồm cả sắc đẹp và trí tuệ. đồng thời cũng thầm lên án sự bất công, thối nát của chế độ phong kiến ​​đã xô đẩy những kiếp người dù có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuối cùng vẫn phải chịu đòn roi đau đớn. . Truyện Kiều được coi là một kiệt tác của nền văn học trung đại, cũng như toàn bộ nền văn học Việt Nam, với tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó và hai lĩnh vực giá trị hiện thực và nhân đạo được thể hiện qua những câu thơ có vần điệu, giọng điệu uyển chuyển, kể về cuộc đời của một cô gái tài năng và xinh đẹp. Trong đoạn trích Truyện ngôn tình, sau khi bi kịch xảy ra, Thuý Kiều buộc phải lớn lên phải gánh vác gia đình, không chỉ bán mình làm cớ cứu cha và em mà Kiều còn phải dứt tình bạc nghĩa vàng. . trao đổi tình yêu cho em gái của mình, điều này đã để lại cho cô ấy sự tổn thương và đau đớn lâu dài. điều đó được bộc lộ rất rõ trong 8 dòng cuối của đoạn trích, những dòng như một tiếng khóc thầm, một giọt nước mắt xót xa cho một kiếp người.

Tình yêu của thủy kiều và kim trong là một tình yêu đẹp đẽ và đẹp đẽ vì có đôi có cặp, trong khi tài sắc vẹn toàn của thủy chung “phải cầu tài mới rút được hai” thì kim trong cũng là người. học hành rộng rãi, một gia đình giàu có, học tại gia và một ngoại hình hấp dẫn. vì vậy, họ dường như đã hiểu nhau ngay từ lần gặp đầu tiên, không chỉ là tình yêu mà còn là bạn tâm giao. đặc biệt là trong truyện của kiều nguyên du, cô ấy cũng có cái nhìn khá phóng khoáng và táo bạo khi viết về chuyện tình kim trong và thủy chung. bênh vực quyền tự do trong tình yêu lứa đôi, khi cho phép cả hai quyết định một đời, thề ước có nhau, rồi những người Việt Nam ở nước ngoài khi bố mẹ về thăm quê đã vào nhà long trọng để đưa tiễn. tuyên thệ với người yêu của cô ấy. những chi tiết này có thể đã trở thành sự bất chấp, thiếu phép tắc trong xã hội cũ, nhưng dưới con mắt của Nguyễn Du, nhân vật thủy chung và tình yêu của anh phải có gì đó khác biệt và ấn tượng, hơn hết anh muốn tạo cho nhân vật của mình sự tự do. không chỉ ở thể xác mà còn ở tâm hồn, đó là sự tiến bộ của Nguyễn Du trong tư tưởng nhân đạo, yêu thương con người. Trở lại với đoạn trích Truyện ngôn tình, có thể thấy một Thúy Kiều thông minh, sắc sảo và cương quyết khi từng bước thuyết phục Thúy Vân giúp mình nên duyên với Kim Trọng. Sau khi mọi thứ đã ổn định, lúc này, kiều không còn giữ được vẻ cứng cỏi, điềm tĩnh, vững vàng nữa, anh trở về với dáng vẻ yếu đuối, bộc lộ nỗi đau khôn nguôi trong lòng tôi trước sự tan vỡ của tình yêu, trước nỗi đau về thân phận. nhưng đọc những câu cuối người ta có thể hình dung ra hình ảnh một cô gái gục ngã, bất lực với những giọt nước mắt tuôn rơi, đôi mắt long lanh và tuyệt vọng.

“Bây giờ trâm gãy, bình cũng vỡ, kể xiết bao tình! hàng trăm nghìn cái cúi đầu cho những người lính phù du. Tại sao miếng bạc như vôi? Tôi phải để nước chảy và những bông hoa di chuyển khỏi làng. ôi kim lang! ôi kim lang! đủ rồi, tôi đã giúp bạn từ đây! ”

Thủy kiều suy tư về chuyện tình của mình bằng những vần thơ đau thương “trâm anh gãy cành”, câu nói “trâm anh gãy cành”, đó là dấu hiệu của một cuộc chia tay không thể cứu vãn, một cuộc chia ly bế tắc giữa cô và kim trong, kiều. hiểu rằng trong khoảng thời gian xa cách này, có lẽ mai sau tình yêu sẽ không như ý, vì trâm gãy, keo không dính được thì làm sao bình tan? Dù bạn có cố gắng đến đâu, bạn cũng chỉ có thể nhìn thấy những vết sẹo dày đặc. Có thể nói, câu ca dao này không chỉ bộc lộ sự tuyệt vọng của thủy chung trước sự tan vỡ của tình yêu mà còn là những điềm báo về sự tái hợp sau 15 năm khao khát, mong mỏi, có lẽ “duyên vợ chồng cũng chính là duyên của tình thân. “.

chuyển sang câu thơ tiếp theo “kể xiết bao yêu thương!”, đó là khoảnh khắc thủy chung nhớ lại những kỷ niệm đẹp, ngọt ngào với kim trong, những đêm “hâm mộ thề nguyền”, thưởng trăng, ngâm thơ. . , hát và nghĩ rằng cuộc sống tươi đẹp này sẽ tồn tại mãi mãi, nhưng không ngờ khi một biến cố xảy ra, tất cả những giấc mơ đều tan biến thành hư không. nỗi đau và sự thất vọng trong tình yêu, đặc biệt là ở một cô gái trong mối tình đầu, thường rất sâu sắc và đau đớn. Nỗi đau này càng nhân lên khi Kiều buộc phải giữ vững lý trí từ bỏ hạnh phúc riêng để cứu lấy gia đình. do đó, những ký ức trước đây của anh ấy và càng đẹp đẽ và quý giá càng hạnh phúc, thì trái tim anh ấy bây giờ lại càng tan nát. Không chỉ dừng lại ở nỗi đau tình yêu tan vỡ, cò hương còn phải đau đớn khi trở thành kẻ phản bội, bỏ người yêu để lấy chồng, dù bản thân cô đã phản kháng. Thủy kiều thể hiện nỗi day dứt, ân hận trong hai câu “trăm ngàn lạy quân / Duyên phận ngắn ngủi”, hiểu được cuộc đời ở nước ngoài, ta chưa bao giờ thấy cô có lỗi, hay sống lầm lỗi. Với ai đó, Kiều luôn cố gắng để trở nên hoàn hảo với tất cả những người mình yêu thương và tôn trọng. Tuy nhiên, đối với Kim Trọng, nàng luôn mặc cảm vì sự phản bội của chàng, dù rằng Kiều cũng đã cố gắng trả ơn chàng Kim bằng cách trao cho Vân. Sự tự trách của Kiều trước hết xuất phát từ quyết định từ bỏ tình yêu của mình với chàng quân nhân, thứ hai là tình cảm sâu sắc và sự kính trọng của chàng đối với chàng trai Kim. bất cứ ai đối mặt với người mà họ quan tâm, dù chỉ một chút đau đớn cho người kia cũng khiến họ không khỏi bồn chồn, không yên. trong khổ thơ “trăm nghìn lạy anh bộ đội” lời “lạy” của chị Kiều là lời xin lỗi sâu sắc và day dứt, là lời từ biệt thiêng liêng đối với tình yêu và người cô yêu đang còn ở quê xa. . bởi vì ngày mai cũng vậy, khi thời hoàng kim trở lại, cảnh thủy chung vô tận đang chờ đợi anh, ai hiểu được nỗi đau và sự bàng hoàng đó, nhưng không còn lối thoát nào khác. Đồng thời, hai câu thơ này cũng thể hiện sự trân trọng và tấm lòng chân thành của nàng đối với kim trong, nàng cảm thấy mình đã phản bội mình nên chỉ còn cách cúi đầu, đặt mình vào vị trí thấp hơn, như một lời xin lỗi lớn hơn, hi vọng. Kim trong có thể hiểu được nỗi đau khi phải lựa chọn giữa tình yêu và lòng hiếu thảo của mình.

“một mối nhân duyên ngắn ngủi”

khổ thơ chính là sự bất lực trước nỗi tuyệt vọng của thủy chung khi phải chấp nhận quên đi mối tình sâu nặng của mình với kim, một mối tình ngắn ngủi nhưng đẹp như ánh trăng rằm mà có lẽ là cả một đời người. sau những lời đau lòng về tình yêu, kiều bẽn lẽn trở về với nỗi đau thân phận “sao mệnh bạc như vôi, đành để nước trôi, hoa dời làng”. Vì quá đau đớn, vì nỗi tủi nhục bị dồn nén, kiều không thể chịu đựng được và đã thốt lên một lời than thở cho số phận bất hạnh của mình. nghĩ đến một cô gái khoảng 15, 16 tuổi mà trong lòng xót xa, trong lương tâm có bao nỗi chua xót, đủ hiểu cô đã phải chịu đựng bao nhiêu áp lực tâm lý.

không chỉ vậy, tự nhận thức về nỗi đau thân phận còn là biểu hiện của trí thông minh, hiểu biết về lý lẽ của thủy chung. Nếu như những người phụ nữ xưa chịu đựng trong câm lặng, thì đến với thơ Nguyễn Du, người phụ nữ đã biết than thở, gào thét nỗi sầu, để phản ánh hiện thực xã hội, cũng như thực tế họ cần một lối thoát, mặc dù điều đó khó xảy ra. . hai chữ “hoa trôi nước chảy” là điềm báo chẳng lành về một cuộc đời trôi nổi, không biết trôi về phương nào, đang chìm trong cảm giác mất phương hướng, mông lung đến vô cùng. là một ẩn ý của tác giả về những sóng gió phía trước đang chờ đợi cô gái tội nghiệp, kém may mắn.

“ôi kim lang! ôi kim lang! đủ rồi, tôi đã giúp bạn từ đây ”

hai câu thơ cuối là lời từ biệt đau buồn, đau đớn của Thủy Kiều đối với người mà mình đã phản bội, cũng thể hiện tình yêu sâu đậm, lòng thủy chung và nỗi ân hận khôn nguôi. khi chuyện tình đã đứt gánh giữa đường không cách gì vãn hồi được. trong tiếng khóc, nỗi đau và sự tuyệt vọng ấy, người ta như thấy nước mắt nhuộm từng chữ, nỗi đau của quãng thời gian dài đầy ám ảnh. Người đọc không khỏi băn khoăn về số phận của nàng Thủy Kiều, vì điều gì đau khổ mà một cô gái có tất cả mọi thứ trong tay bỗng chốc sa ngã và cuối cùng trên đường đi, cô phải chịu nỗi đau chia ly, buồn tủi, tủi nhục và thất vọng. cũng. .

bạn có thể thấy rằng Thúy kiều là người con gái dường như có tất cả, nhưng cũng là người phải chịu đựng mọi nỗi đau của cuộc đời tương ứng với câu mở đầu của truyện Kiều rằng “trăm năm ở cõi người / thế chữ tài và chữ mệnh là phải ghét nhau ”. Ở những câu cuối của câu chuyện tình yêu, bạn có thể thấy hình ảnh một cô gái đối mặt với nỗi đau tận cùng, khi buộc phải từ bỏ tình yêu của mình và buộc phải phá bỏ lời thề của mình vì hai người yêu nhau ngoan đạo. từ. Hơn hết còn là sự tuyệt vọng, bất lực của Thúy Kiều khi đối mặt với những biến cố của cuộc đời mà bản thân không đủ bản lĩnh để đối mặt, cuối cùng đành phải chấp nhận viễn cảnh cuộc đời oan nghiệt. vô hạn.

phân tích 8 câu cuối đoạn tình trong truyện Kiều – văn mẫu 6

“Truyện kiều”: kiệt tác nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện thành công cuộc đời của nhân vật Thủy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời đầy trắc trở, sóng gió. Đoạn “trao duyên” là một trong những ví dụ điển hình cho thấy bi kịch tình yêu tan vỡ, số phận bất hạnh của Thúy Kiều và tài năng xây dựng, khắc họa tâm lý nhân vật của Nguyễn Du. Sau khi “trao gửi nhân duyên”, nàng Việt kiều chìm sâu vào thế giới đau khổ của riêng mình, nhớ nhung kim chỉ nam và mối tình dang dở. Qua tám câu thơ cuối, ta có thể thấy được ý thức về thực tại và nỗi thống khổ, xót xa của Thủy Kiều đối với kim trong:

“nay trâm gãy, gương vỡ lại lành, bảo ta làm tình! trăm vạn quân tình, chỉ có ngần ấy mối tình ngắn ngủi! sao bạc như vôi! Tôi phải để nước chảy và những bông hoa di chuyển khỏi làng. ôi kim lang! ôi kim lang! đủ rồi, tôi đã giúp bạn từ đây! ”

sau khi tặng vật lưu niệm tình yêu, khuyên nhủ thủy van, và lao vào độc thoại nội tâm, Kiều nhận ra bi kịch nghiệt ngã của thực tại và tâm sự với nỗi tuyệt vọng của mình. Anh ấy nhận thức rất rõ về quá khứ, hiện tại và tương lai. những thành ngữ “trâm gãy, gương vỡ lại lành”, “bạc mệnh như vôi”, “hoa trôi nước chảy” đã miêu tả sự tan vỡ, dang dở, trôi bạc của tình yêu và số phận con người:

“Giờ đây cây trâm đã vỡ gương còn mách bảo ta cách làm tình”

“trâm anh thế phiệt”: hai từ hoán dụ cho số phận người phụ nữ ở nước ngoài, hoán dụ cho một chuyện tình không thành, hoán dụ cho một số phận bất hạnh và đau khổ. “một số phận bạc như vôi” để thể hiện một số phận mong manh và tàn nhẫn. hơn nữa “hoa trôi nước chảy” đã nhấn mạnh đến sự lênh đênh, lênh đênh giữa giông tố cuộc đời. những câu thơ đã gợi lên số phận chung của kiếp “hồng nhan bạc phận” của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. danh từ chỉ thời gian “bây giờ” ngân vang nỗi buồn, nhấn mạnh sự đối lập giữa quá khứ – những năm tháng “êm đềm xếp nếp” và mối tình đầu đời đẹp như hoa mộng và sự xa cách, tan vỡ. miền ký ức “nhiều yêu thương” chưa kể đã lùi sâu vào tiềm thức, chỉ còn lại nỗi đau, nỗi niềm. tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập để nhấn mạnh sự đối lập giữa quá khứ ngọt ngào, tình yêu nồng cháy với hiện tại dang dở và tương lai đầy bất trắc, đẩy cô vào bi kịch không nơi nương tựa. rồi cô ấy nức nở nghẹn ngào:

“Hàng trăm ngàn đội quân tình yêu chỉ tồn tại trong thời gian ngắn”

tác giả đã sử dụng số lượng từ “một trăm nghìn” để ước lượng sự lớn lao, vô cùng trái ngược với “thế thôi” thể hiện sự nhỏ bé, hèn mọn, bất lực. tác giả đã lấy cái hữu hạn “nhiều lắm” đối lập với cái vô hạn “trăm ngàn” để nói lên tấm lòng thủy chung son sắt. đó là nỗi day dứt, lo lắng và đau đớn của người phụ nữ ở nước ngoài. đặc biệt là hành động “lạy tạ” một lần nữa xuất hiện trong đoạn trích “bùa ngải” đã thể hiện nhiều ý nghĩa sâu sắc. nếu như ở cung đầu với thủy văn, thủy kiều xuất hiện với thân phận là ân nhân của ân nhân, thì ở cung đầu có vàng, ta lại thấy được nỗi đau của anh. “trăm ngàn cúi đầu bái quân” ​​là lời xin lỗi, bày tỏ nỗi day dứt tội lỗi, mong nhận được sự thông cảm của kim trong; đó cũng là lời tạm biệt đầy giận dữ của người phụ nữ ở nước ngoài.

“ôi kim lang! ôi kim lang! đủ rồi, tôi đã giúp bạn từ đây! ”

Trong đoạn độc thoại nội tâm của mình, anh rút vào thế giới đau khổ của riêng mình, cất lên tiếng kêu đau đớn, tức giận và phẫn uất trước thực tế bất công và phi lý, nhưng đó cũng là tiếng kêu từ trái tim. với câu thơ 3/3, câu thơ như đứt làm đôi bởi sự nghẹn ngào, thổn thức. Những liên từ “ơi”, “ơi” kết hợp với việc lặp lại tên của kim trong hai lần đã cho thấy trái tim đang loạn nhịp và xót xa. từ láy nhấn mạnh nỗi đau tuyệt vọng, kết hợp từ láy là lời tiếc thương đau xót, thể hiện nhân cách cao đẹp của thủy chung. có lúc “trao duyên” anh bày tỏ lời trăn trối của người con gái chung thủy hóa ra là người yêu của anh. với tấm lòng nhân đạo, tác giả nguyễn du đã dùng nỗi đau để khóc, dùng nỗi đau để chạm vào trái tim người đọc.

Như vậy, qua tám câu thơ cuối của đoạn trích “Yêu xa”, ta thấy được bi kịch của tình yêu tan vỡ, số phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của thủy chung. Đồng thời, những câu thơ trên cũng là điển hình cho đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm “truyện kiều” qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo với ngôn từ trau chuốt, độc đáo.

phân tích 8 câu cuối đoạn trích Truyện kiều – văn mẫu 7

Chuyện tình chàng Kim: Kiều lúc đầu tưởng rằng mình sẽ được xinh đẹp nhưng số phận đưa đẩy, để cứu cha và em, Kiều buộc phải bán thân. lời thề và sự hứa hôn, kiều buồn đã vượt qua và trao lại cho em gái của thuy van. xung đột tình cảm và lý trí, loại đau đớn, chỉ là thương hại, chỉ là tình yêu. đoạn trích Trao duyên thể hiện rõ nỗi niềm ấy của người đàn bà ngoại quốc, đặc biệt, đọc 8 câu cuối của đoạn trích, ta không khỏi xót xa trước những lời nói xuyên thấu của kiều nữ:

“nay trâm gãy gương soi, làm sao mà vắt ra được nhiều tình yêu. … Dừng lại, tôi đã giúp bạn kể từ đó. ”

Đêm ấy ta đã thề thốt, đứa con đó, nhưng giờ đây tình yêu của chúng ta đã tan vỡ, bắt đầu “trâm gãy, gương vỡ lại lành”. Tình yêu đẹp đến nhường nào nhưng phải chia xa một ai đó khiến lòng người đau đớn, xót xa. hơn nữa, kiều là phận con gái, lại là người hết mực yêu thương, chung thủy, nỗi đau càng nhân đôi. buộc phải trao cho bạn tình yêu của mình là lựa chọn cuối cùng của Kiều dù trái tim cô ấy không thể, thực tế quá phũ phàng, trái tim cô ấy, trái tim cô ấy đang tan nát. từng câu từng chữ như một lời than khóc cho số phận, cho tình yêu của mình:

“một mối nhân duyên ngắn ngủi với biết bao điểm đến, sao mệnh bạc như vôi. Nước chảy, hoa dời phố”

Những thành ngữ “bạc mệnh như vôi”, “hoa trôi nước chảy” được tác giả vận dụng trong thơ để miêu tả thân phận bạc mệnh, bồng bột, trôi nổi của những người phụ nữ ở nước ngoài. xã hội bất công, những con người gian dối đã đày đọa cô vào chốn tăm tối, tại đây tình yêu của cô bước vào một mối tình “đoản mệnh”. Trước sự khắc nghiệt của số phận, dù muốn nhưng không thể đấu tranh, đành ngậm ngùi chấp nhận “tiền mất tật mang”.

Tôi thấy tiếc cho số phận nông nổi của một người phụ nữ thời phong kiến, một cuộc đời đầy may rủi không phải do mình lựa chọn:

“Thân em như nút chai trôi theo gió, sóng biết dạt về đâu.”

Thùy kiều tự so sánh mình như bông hoa giữa dòng, vô định, nhỏ bé và khao khát giữa mênh mông sóng nước. nơi mà những bông hoa sẽ “thị phạm” mối nhân duyên đẹp đẽ, nơi sẽ cập bến bờ hay trôi mãi giữa biển lớn.

nàng càng nghĩ càng đau, lòng nặng trĩu, nàng chỉ yêu bản thân mình, nhưng yêu kim đâm vào mười. anh ấy thấy rằng anh ấy đã phản bội người bạn tri kỷ của mình và xin lỗi qua nước mắt:

“này! Kim Lăng! kim lang, dừng lại, tôi đã giúp bạn từ đây ”

Những liên khúc ồ ồ kết hợp với hai tiếng lòng trĩu nặng của Kim Lăng, dường như bao tình cảm đã dồn hết cho Kim và Kiều trong hai tiếng gọi ấy. Việt kiều thừa nhận tội lỗi của mình, thừa nhận mình là kẻ bội bạc trong lòng trai trẻ, để rồi nỗi đau, nỗi cay đắng trỗi dậy, cồn cào trong lòng:

“đủ rồi, bạn đã có thẻ từ đây”

Lời xin lỗi cuối cùng xót xa khiến ai cũng xót xa cho cô. Trước chàng Kim, Kiều không trách số phận hay hoàn cảnh mà tự mình nhận lỗi về mình. điều đó thể hiện tâm trí và trái tim của anh ấy. Anh không còn nghĩ đến nỗi đau của mình mà mọi lo lắng đều hướng về Kim, người anh vẫn rất yêu.

8 dòng cuối của bài thơ là một nốt trầm của đoạn trích. người Việt Nam ở nước ngoài càng quý thì độc giả càng quý. Và trên hết, tôi cảm phục một cô gái có nhân cách cao đẹp, nghĩa tình và đáng kính.

Trên đây là những bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối đoạn trích Truyện kiều – nguyễn du. các em có thể truy cập website thpt soc trang để tìm hiểu nhiều bài viết bổ ích, phục vụ cho quá trình học tập và ôn thi.

được đăng bởi: thpt luna sóc

danh mục: giáo dục

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích 8 câu cuối trao duyên truyện kiều. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *