Bạn đang quan tâm đến Phân tích 9 câu thơ đầu bài đất nước phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!
Video đầy đủ Phân tích 9 câu thơ đầu bài đất nước
Phân tích 9 câu đầu Đất nước Nguyễn Khoa Điềm gồm tóm tắt và 19 bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao. từ đó giúp các em có một bài văn ý nghĩa và ghi điểm nhờ sự sáng tạo, mang màu sắc cá nhân khi làm bài thi đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2022.
9 câu đầu về nước giúp chúng ta hiểu hơn về cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đã ngấm vào từng mạch máu tâm hồn. Điều đó càng khiến chúng tôi yêu đất nước mình hơn. Ngoài bài văn mẫu phân tích 9 câu đầu của bài Đất nước, các em còn có thể xem thêm: bài phân tích nét mới trong nhận thức về đất nước của tác giả nguyễn khoa văn, phân tích bài thơ đất nước.
lược đồ phân tích 9 câu đầu tiên của bài viết nước
1. mở đầu
có tác giả nguyen khoa diem, bài thơ “đất nước” và 9 dòng đầu.
2. nội dung bài đăng
“Lớn lên đã có”: Đất nước ra đời từ lâu đời như một lẽ tất yếu, trên nền lịch sử của những vị vua hùng mạnh đã có công dựng nước và giữ nước.
“Ngày xưa mẹ kể”: truyện cổ tích, bài học đạo lý làm người, ước mơ và khát vọng công lý của nhân dân → góp phần dựng nước.
p>
“Ăn trầu”: Phong tục dân gian ăn trầu đã gắn bó với chúng ta từ bao đời nay và nhắc nhở chúng ta về sự tích trầu cau.
“Biết trồng tre, biết đánh giặc”: nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm, truyền thuyết đáng tự hào của dân tộc Việt Nam và truyền thuyết về người anh hùng thiêng liêng.
“Tóc mẹ vén sau đầu”: một phong tục lâu đời của người Việt Nam, phụ nữ để tóc dài và chải đầu.
“Gừng cay mặn nồng”: gắn liền với câu ca dao nói lên tình cảm thủy chung son sắt của người dân Việt Nam.
“cái giáp, cái đăng, hạt gạo, xay, giã, xay, sàng”: những vật dụng quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam gắn liền với lao động sản xuất và nền văn minh lúa nước.
p>
→ đất nước là những gì được nhìn thấy trong cuộc sống của mỗi gia đình, của mỗi người: câu chuyện cổ tích của mẹ, miếng cau mẹ ăn, hạt gạo mà chúng ta ăn, ngôi nhà mà chúng ta đang ở .. . .
“Đất nước có từ ngày ấy”: đất nước có từ khi dân tộc biết yêu thương và sống có ơn, từ khi dân tộc có nền văn hóa riêng, từ khi dân tộc biết dựng nước và giữ nước, từ trong cuộc sống hàng ngày của con người.
→ ý thức về chiều sâu của lịch sử đất nước được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của người dân. đất nước được hình thành từ những gì nhỏ bé và gần gũi với cuộc sống của mỗi người, từ bề dày truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
3. kết thúc
tóm tắt nội dung, nghệ thuật và cảm nhận về đoạn trích.
……………..
quốc gia 9 câu đầu tiên
nguyen khoa diem là một nhà thơ lớn lên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. ông nguyên là bộ trưởng văn hóa thông tin, nay đã nghỉ hưu. tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại thành, Bài thơ dài trên vỉa hè. la patria là bài thơ trích từ chương v của thiên anh hùng ca “Mặt đường khát vọng” mà đỉnh cao là chiến trường bình đẳng năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường chiến đấu hòa nhịp với cuộc kháng chiến của dân tộc. đặc biệt được thể hiện qua 9 câu thơ đầu.
khác với các nhà thơ cùng thế hệ, thường tạo ra khoảng cách xa để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước, bằng những ngôn từ và hình ảnh cao cả, đẹp đẽ, tượng trưng. nguyen khoa diem đã chọn một điểm nhìn gần gũi để miêu tả một vùng quê tự nhiên, bình dị nhưng không kém phần linh thiêng và tươi đẹp. hình ảnh đất nước trong câu thơ đầu hiện lên đầy màu sắc và sinh động, lắng đọng trong tâm trí chúng ta qua những nét đẹp của phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam.
với nguyên khoa cử, đất nước nằm ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lịch sử của người mẹ, miếng trầu của bà, phong tục gia đình (tóc mẹ búi sau đầu) thậm chí cả lòng trung thành của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cây xà nu, cột nhà … tất cả những điều này đã tạo nên một nét gì đó gần gũi, thân thiết và bình dị trong đời sống con người chúng ta.
<3Theo lý giải của Nguyễn Khoa Điềm thì: “Đất nước là một giá trị trường tồn và vĩnh cửu, đất nước được tạo dựng, xây dựng qua nhiều thế hệ và được truyền từ đời này sang đời khác. thì "khi ta lớn lên, đất nước đã có!" (nguyen khoa diem – tác giả và tác phẩm). cách nói “đất nước đã có” thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử. đất nước cũng như trời đất, khi ta sinh ra đất ở dưới chân ta, trời ở trên đầu ta. tương tự như vậy, tôi không biết đất nước có từ bao giờ, nhưng khi chúng ta lớn lên, chúng ta thấy đất nước của chúng ta, nó hiện diện xung quanh chúng ta với những gì chúng ta yêu thích nhất.
hai dòng thơ sau miêu tả vẻ đẹp của đất nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục tập quán. Những từ như country “in”, country “started” là những từ miêu tả rất nhẹ nhàng sự ra đời của đất nước:
<3
Tác giả mượn chất liệu dân gian để miêu tả đất nước. đối với trẻ thơ là đất nước thân yêu qua câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… nghĩa là Đất nước đã có từ lâu đời. Đất nước có từ trước khi truyện cổ tích ra đời, và khi truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của chúng ta, chúng ta mới thấy đất nước hiện diện trong truyện cổ tích. Đó là đất nước của một nền văn hóa dân gian độc đáo với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. chính những câu chuyện, câu hát ru ngày xưa khi còn nằm trong nôi đã là nguồn mạch để chúng ta chăm chút cho nhan sắc, vẻ đẹp của mình và khi lớn lên chúng ta biết yêu quê hương đất nước, con người. Về ý nghĩa của truyện cổ đối với đời sống tinh thần của con người, nhà thơ lam thị mỹ cúc đã xúc động viết:
<3
(câu chuyện cổ tích của đất nước tôi)
không chỉ là “ngày xưa”, nguyen khoa diem còn nhận diện những ngày đầu ấy qua cuộc sống giản dị nhưng đậm chất Việt của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là tục ăn trầu: “Nước đầu có miếng trầu, nay ăn trầu”. Tại sao một đất nước tuyệt vời và vĩ đại lại chứa đựng trong một miếng trầu nhỏ? hình thức câu thơ hàm chứa cái phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí vì mọi điều lớn lao đều từ những điều nhỏ bé mà ra. Nếu không có suối, làm sao chúng trở thành sông, nếu không có sông, làm sao chúng trở thành biển. do đó nhắc đến “miếng trầu” là phải nói đến một điều gì đó sâu sắc. câu thơ gợi nhớ đến câu chuyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được coi là cổ nhất trong các truyện cổ. tục ăn trầu cũng từ truyện này mà ra. như vậy mới thấm thía miếng trầu giản dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm nhân dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, là vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt Nam. Từ tục ăn trầu cũng sinh ra tục nhuộm răng đen. hoang cẩm trong bài thơ “bên kia sông” cũng nói đến đặc điểm đó:
những cô gái răng đen cười như nắng mùa thu
Một đất nước không thể không có truyền thống, một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất nước lớn lên khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc”.
nhà thơ nghĩ song song với sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “đất nước lớn lên…”. từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ gợi cho ta liên tưởng đến sự tích Thánh Gióng mới lên ba tuổi đã biết xông pha trận mạc. chàng trai ấy đã nhún vai trở thành một chàng trai đồng thien vỹ nhổ tre làng ngà đánh giặc. Kể từ đó, thánh nhân đã trở thành biểu tượng sáng suốt của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. bạn cũng có thơ:
chúng tôi giống như ngày xưa khi thần dongwut lớn lên để đánh giặc an. sức dân khỏe như ngựa sắt. mọi người ghét tôi rèn thép thành một thanh chiến đấu.
(có thể)
Truyền thống vẻ vang đó đã trải dài trong lịch sử dân tộc cho đến ngày nay, trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, biết bao tấm gương trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. phải chăng đó là vẻ đẹp của những người chị đã tạc vào lịch sử Việt Nam những hình tượng anh hùng, hào khí bất khuất: võ thị sáu, trần văn trên, nguyễn văn đổi…
Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. cây tre mềm mỗi làng. nó như một sự chung sống của những phẩm chất nhân cách của con người Việt Nam: trung thực, giản dị, nhân hậu, trung thành, yêu hòa bình nhưng cũng kiên cường, bất khuất. cây tre sừng sững, bất khuất cùng chung ngọn lửa với dân tộc “một tiếng chiêng cũng đánh giặc Mỹ”, bởi:
<3
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm những yếu tố thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam:
<3
Đó là nét đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không kém gì các bà các mẹ với tục “búi tóc sau gáy” (phần tóc được búi cao sau gáy để tạo cho người phụ nữ vẻ đẹp nữ tính, rất riêng. gia phả riêng). vẻ đẹp đó gợi nhớ đến những bài hát nổi tiếng:
<3
nguyen khoa diem tiếp tục lưu luyến những dòng suy nghĩ về những con người đã sống, làm việc và đấu tranh hàng nghìn năm trên mảnh đất Việt Nam để gìn giữ và làm đẹp cho mảnh đất thân yêu. Ở đó, nguyên tắc ân nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ yêu nhau muối cay gừng”. thơ được thể hiện từ những bài hát nổi tiếng rất hay:
“với một đĩa muối và một chén gừng và muối, xin đừng quên”
có:
“muối ba năm muối vẫn mặn gừng chín tháng gừng vẫn cay. Tình ta trọn nghĩa dẫu ba vạn ngày không xa”
Thành ngữ “gừng cay muối vừng” được vận dụng đặc biệt trong một câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đẫm tình người. gợi lên lòng trung thành thủy chung trong cuộc sống. Quy luật tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng mặn, càng già càng già. quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau càng lâu thì tình nghĩa càng đong đầy. có lẽ vì vậy mà đất nước vẫn để lại dấu tích của cha ông ta với mái đình trống, núi vông phu… đi cùng năm tháng. của những bậc cha mẹ yêu nhau, đến “con giáp trụ thành tên”.
Câu thơ gợi cho người đọc liên tưởng đến phong tục làm nhà của người Việt. Tục làm nhà dùng kèo, giằng để giữ cho ngôi nhà chắc chắn, bền vững, chống mưa gió và thú dữ. nó còn là tổ ấm để mọi gia đình quây quần; sự siêng năng tích lũy trong cuộc sống. Từ đó, tục đặt tên con vì kèo, cột cũng ra đời.
Không chỉ có những nét đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, bao dung “Hạt gạo một nắng, hai sương, sàng dần”. câu hát gợi nhớ đến các bài hát nổi tiếng:
buổi trưa cày ruộng, mồ hôi như mưa, cày ruộng, cầm bát cơm đầy hạt thơm, đắng cay.
Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên sự cần cù, siêng năng của cha ông ta trong suốt những ngày dài bận rộn của cuộc sống canh tác lạc hậu. đó là truyền thống lao động cần cù và bao dung. Để làm ra gạo ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua rất nhiều công việc gieo trồng, xay xát và sàng lọc. thấm vào hạt gạo nhỏ bé ấy là giọt mồ hôi mặn mà của tầng lớp nông dân bao đời nay.
câu thơ cuối cùng khép lại một câu nói với niềm tự hào: đất nước có từ ngày ấy. “Ngày ấy” là ngày nào chúng ta không biết nhưng chắc chắn ngày đó là ngày chúng ta có truyền thống, phong tục, có văn hóa, nhưng có văn hóa là có đất nước. như anh ấy đã nói trước khi ra đi “rằng nếu bạn muốn yêu đất nước của bạn, bạn phải yêu những bài hát nổi tiếng”. ca dao, dân ca là nét văn hóa đặc trưng của Việt Nam, muốn yêu nước thì trước hết phải yêu và tôn trọng văn hóa của đất nước. bởi vì văn hóa là đất nước. thật đẹp và thật đáng quý, thật tự hào về những vần thơ giản dị và ngọt ngào của Nguyễn khoa điểm.
Thành công của đoạn thơ trên là do sử dụng nhuần nhuyễn những chất liệu dân gian như tục ăn trầu, tục cài tóc, tục đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. các nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao, tục ngữ, thành ngữ… tất cả đã tạo nên một bài thơ với không gian văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc. ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, ca từ nhẹ nhàng, giọng nói thì thầm vào lòng nhưng vẫn phảng phất hồn thơ triết lí.
nói tóm lại là cảm giác rất thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh đất nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nhận được cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang ngấm vào từng mạch máu tâm hồn ta. Điều đó càng khiến chúng tôi yêu đất nước mình hơn.
phân tích 9 câu đầu của đất nước
“Đất nước tôi gầy và lắng nghe nỗi đau của mẹ”
(đất nước của tôi – ta huu yên)
Tổ quốc và người mẹ là những gì thiêng liêng tạo nên cội nguồn, từ lâu họ đã trở thành nguồn cảm hứng cho nền văn học mang trên vai tinh thần yêu nước. Ở mỗi tác giả, chúng ta tìm thấy những cảm hứng khác nhau mà hình ảnh đất nước chưa bao giờ được lặp lại qua lăng kính cá nhân của các nghệ sĩ. Đến với Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước được cảm nhận một cách mới lạ, độc đáo qua một phong cách thơ giàu chất trữ tình, chất thơ giàu chất suy tưởng, nhiều triết lí. nhà thơ trí thức này đã dành toàn bộ chương 5 – Đất nước trong bản anh hùng ca khát vọng dài lâu để lý giải sự ra đời của đất nước qua nhiều khía cạnh lịch sử, địa lý, văn hóa dân gian để đi đến khẳng định đất nước này là đất nước của nhân dân. Trong dòng suy nghĩ này, nguồn gốc của đất nước xuất hiện trong 9 dòng đầu tiên.
<3
Đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước, khi đế quốc Mỹ đang dốc toàn lực đưa cuộc chiến tranh miền Nam lên cao trào và liên tục ném bom miền Bắc, trong hoàn cảnh khó khăn đó, điều đó là hết sức cần thiết. những con người hăng hái, sẵn sàng lao mình vào tuyến lửa, sẵn sàng chủ động, xuống đường đấu tranh vì hòa bình. Nguyễn Khoa Điềm đã tâm huyết viết bài Khát vọng vỉa hè với mong muốn thức tỉnh, thôi thúc thế hệ trẻ lao vào cuộc đấu tranh quyết liệt của quần chúng nhân dân. Với tấm lòng thiết tha với đất nước, với cảm xúc dạt dào của một cây bút không ngại khó khăn, Nguyễn Khoa Điểm đã bất chấp tiếng bom rơi ngoài boong-ke, không hề nao núng trước tiếng gào thét của động cơ phản lực. câu thơ giống như một mạch sống đang chảy.
Trong đoạn trích, quốc gia được viết hoa và cũng là chủ đề của toàn bộ chương. đất nước, thiên chức thiêng liêng gợi chiều sâu cảm xúc. đất nước còn là tình yêu sâu sắc của con người đối với những điều bình dị, đời thường. đất nước cũng gợi chiều dài từ quá khứ đến hiện tại và tiếp nối đến tương lai. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng cả cái nhìn sâu sắc của trí tuệ và sự rung động của tâm hồn để khám phá vẻ đẹp được mệnh danh là đất nước qua cuộc đối thoại chân tình giữa hai nhân vật “anh” và “em”. đây là sự hóa thân của tác giả, giới thiệu dòng cảm xúc tự nhiên của thơ, để từ tình cảm của “anh”, “em” đất nước hiện lên trong muôn mặt đời sống của người dân.
Để giải thích về cội nguồn của đất nước, nhà thơ đã khôi phục lại hình ảnh đẹp đẽ này từ quá khứ để nó hiện ra qua cái nhìn hiện tại.
“khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”
cái hay của một nhà thơ không phải chỉ là nói ra những điều mới, những điều lạ, mà những gì tưởng như quen thuộc, qua phẩm chất tư tưởng của một nhà thơ, đều trở thành những liên tưởng thú vị. đất nước có từ lâu đời, điều đó chúng ta không thể phủ nhận. tuy nhiên, vai trò của nhận thức về đất nước không phải của riêng ai, mà là của “chúng ta”, bao gồm cả tác giả và toàn thể người dân đất nước này. chúng ta thường sử dụng các cách diễn đạt quen thuộc để chỉ một thời gian dài như “khi tôi sinh ra” hoặc “khi tôi lớn lên”. về nghĩa, “khi tôi được sinh ra” dùng để chỉ một khoảng thời gian trước đó “khi tôi lớn lên”. tuy nhiên, nhà thơ sử dụng cách diễn đạt “để lớn lên”. Phải chăng nhà thơ muốn nói rằng chỉ khi chúng ta “lớn lên”, tức là đã hình thành ý thức, đã hoàn thiện về tâm hồn, trí tuệ thì đất nước mới thực sự trỗi dậy một cách trọn vẹn và trọn vẹn? Có như vậy chúng ta mới biết hứng khởi, yêu mến và tự hào về đất nước mình.
đất nước được sinh ra từ những câu chuyện cổ, những đặc điểm dân gian mà mỗi người đều thấm nhuần câu nói “ngày xửa ngày xưa”
“Đất nước của những năm trước… mẹ tôi thường kể cho tôi nghe về điều đó”
cũng như những cánh cò trong lời ru đi vào tiềm thức của mỗi đứa trẻ, những câu chuyện xưa bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa”, đó cũng là nơi bắt đầu tuổi thơ hồn nhiên, mơ mộng. giọng hát trầm ấm của mẹ khi hóa thân vào bà tiên, bà tiên như hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mùi cau. mỗi câu chuyện là hình bóng của dân tộc, là lời răn dạy, khuyên nhủ người đi qua “dĩ vãng” và con cháu mai sau nhớ về cội nguồn
“Chỉ có những câu chuyện cổ tích mới nhận ra khuôn mặt của cha tôi”
(lịch sử nước ta – lam thi my da)
Đất nước hiện lên trong truyền thống văn hóa, qua cuộc sống hàng ngày nó trở thành một nét đẹp trong phong tục.
“Đất nước bắt đầu từ miếng trầu, bây giờ ăn nên làm ra”
Miếng trầu cũng là từ truyện cổ tích, hình bóng người mẹ của nó cũng từ thuở sơ khai. Từ đó, mối liên hệ giữa văn hóa và phong tục tập quán cũng được hình thành. thói quen ăn trầu dần trở thành thói quen theo thời gian. vẻ đẹp của phong tục tạo nên văn hóa. và văn hóa trở thành máu thịt của chúng ta. miếng trầu gia tiên đi vào đời sống, từ câu chuyện kết nghĩa anh em, vợ chồng trở thành lễ vật không thể thiếu trong ngày cưới của người Việt. Miếng trầu còn gợi cho trẻ em về sự chân chất, cởi mở, mến khách, lịch thiệp của dân tộc mình: “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Mượn những chất liệu bình dân, Nguyễn Khoa Điềm vẫn khéo léo đan vào đó những cách kể ẩn ý. “miếng trầu ông ăn nay” không phải là “miếng trầu bà ăn ngày xưa”. nó là ý định tái tạo hoàn toàn quá khứ trong hiện tại. miếng trầu không chỉ hiện hữu trong quá khứ, trong tâm tưởng mà còn ở cả thời điểm “bây giờ”. Miếng trầu là biểu tượng của văn hóa, của bốn nghìn năm lịch sử và cũng là nét đẹp văn hóa dân gian. vẻ đẹp đó có linh hồn, nó có sự sống vĩnh hằng. bài thơ như một lời khẳng định chắc nịch rằng trong hiện tại quá khứ còn tồn tại, trong cuộc sống hôm nay vẫn còn bóng dáng của ngày hôm qua.
Ở đoạn thơ sau, nhà thơ đã khái quát quá trình phát triển của đất nước thông qua hình ảnh thân thuộc của cây.
“Đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre, biết đánh giặc”
Không cần vay mượn những câu chuyện xa vời, không cần tìm những hình tượng cao siêu, khắc khoải của thơ cổ, nguyễn khoa mục sử dụng những chất liệu giản dị từ cuộc sống nhưng cũng giàu chất suy tưởng. Cây tre đã gắn liền với cuộc sống của người nông dân Việt Nam từ bao đời nay. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái tranh, giữ đồng lúa chín” (thép mới). Cây tre của công việc, cây tre anh hùng, cây tre của ký ức tuổi thơ không gì có thể thay thế được. và tre xuất hiện trong truyền thuyết tứ bất tử về người anh hùng thiêng liêng đánh giặc an. Với ý nghĩa này, nhà thơ khẳng định, quá trình trưởng thành của đất nước là quá trình nhân dân ta chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất mà vũ khí bắt đầu từ cây tre.
Lịch sử đất nước không chỉ dừng lại ở văn học dân gian, ở truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, đất nước ta còn được viết lên trong cuộc sống hàng ngày, với những thói quen được hình thành từ việc làm.
“Tóc mẹ chải sau mái đầu cha mẹ yêu thương gừng cay muối mặn, con ruồi, cái sào làm nên tên hạt gạo phải xay, giã, nát, rây”
cắt tóc là một nét đẹp trong văn hóa cổ đại. Ngoài dấu hiệu phụ nữ nhổ tóc là người đã có gia đình, thì việc giật tóc gáy còn xuất phát từ đặc thù công việc nông nghiệp của chúng ta là thời tiết nắng nóng. những người phụ nữ để tóc dài, xõa ngang gáy đã trở thành một vẻ đẹp giản dị, tự nhiên không cầu kỳ nhưng toát lên vẻ thanh lịch nội tại. chính những nét đẹp bình dị, dung dị ấy lại là nhịp cầu nối đôi bờ để tình vợ chồng thêm sâu đậm qua hình ảnh “gừng cay muối mặn”. Sự tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là chắt lọc từ những câu thành ngữ dân gian cho rằng bản chất của một mối quan hệ hôn nhân là sự chung thủy.
“Chén muối đỡ một đĩa gừng muối xin đừng quên”
(tiếng lóng)
tấm lòng son sắt, sự chung thủy trong tình yêu vợ chồng qua bao gian nan thử thách, qua những tháng năm gian khó có nhau càng thêm thắm thiết, bền lâu. và cũng chính từ thái độ biết ơn đó đã trở thành động lực để ông bà, cha mẹ chúng ta vượt qua nghịch cảnh, xây dựng hạnh phúc gia đình trên nền tảng cái nghèo, cái khó. từ đó, thế hệ sau ra đời trong niềm vui giản dị. “Con giáp, cột tên”. bài thơ nhắc lại tục đặt tên con cháu xa xưa. không đòi hỏi và bóng bẩy, không vay mượn từ xa, chỉ lấy những thứ xung quanh mình, những điều bình dị trong cuộc sống như “cái giáp, cái trụ” để đặt tên. sự nổi tiếng đã gắn liền với cuộc sống của mỗi người từ đó. nghe tên thôi đã thấy xót xa khi thiếu thốn vật chất trong cuộc sống hàng ngày không thể đong đầy tình cảm gắn bó của con người với từng yếu tố tác phẩm, từng hình ảnh hiện diện trong suốt cuộc đời.
Nhắc đến công việc, đến cuộc sống vất vả của người nông dân, phải nói đến nghề chài lưới và công đoạn tạo ra hạt gạo. cây lúa đến với người nông dân Việt Nam như một đặc ân của đất mẹ dành cho những giọt mồ hôi mặn mà của bao thế hệ. ngày cây gạo nở hoa là ngày ước mơ về cuộc sống ấm no, hạnh phúc đến gần. Ở góc độ văn hóa, cây lúa là biểu tượng cho người nông dân Việt Nam. nhà thơ nhắc đến hạt gạo tái hiện phong tục trồng lúa nước của dân tộc ta từ bao đời nay.
“hạt gạo phải được xay, nghiền, xay, sàng”
không gian làm việc xuất hiện trong danh sách “nghiền, nghiền, nghiền, sàng”. từng công đoạn làm lúa từ giống ban đầu không hề đơn giản. chưa kể những ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” xuống ruộng sâu để cày, cuốc, cào, cuốc. không kể những giọt mồ hôi công sức để từ một mầm non xanh tốt đến một cây lúa chín vàng. ngay khi những hạt lúa thu hoạch đang phơi trước sân nhà, muốn trở thành gạo trắng cũng là một câu chuyện dài. “Này, mang một bát cơm đầy đi
cơm dẻo thì chua chua ”
(tiếng lóng)
vì vậy, bằng cách liệt kê quá trình đó, nhà thơ dường như cố gắng tạo ra không gian và sức nặng trong từng câu chữ để gửi gắm sức nặng của cả một quá trình gian khổ mà người nông dân phải trải qua. nặng với cối xay trong tay, với vồ giã gạo hàng đêm, và vẫn nặng trĩu khi hạt lúa hôm nay là giấc mơ rực rỡ của ngày mai. thành ngữ “một nắng hai sương” ám chỉ sự khắc nghiệt của thời tiết, đặt mình trước quá trình làm ra hạt gạo để nhấn mạnh rằng mọi thành tựu đều phải có giá của nó. niềm vui có được hạt gạo thơm phải đánh đổi bằng bao vất vả, nhọc nhằn. nói đến công việc, nhà thơ còn khéo léo gợi lên lòng biết ơn của những con người được hình thành trong khó khăn, gian khổ. Nhờ sự gắn kết, chia sẻ và yêu thương mà công việc dù khó khăn đến đâu cũng có thể cùng nhau hoàn thành.
cuối cùng để khẳng định công lao khai sinh ra đất nước, nguyễn khoa học đã sử dụng dòng thời gian vô hình để nói lên những gì có thể nhìn thấy được trong mỗi chúng ta.
“đất nước có từ ngày đó”. “Ngày đó” thay thế cho các thuật ngữ được đề cập trong phần trước. ngày bắt đầu từ câu chuyện xưa, tồn tại miếng trầu, ngày mẹ vén tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau quả ngọt, cũng là ngày sinh thành ra những đứa con của mình và cháu. Với cái tên mộc mạc để theo bước chân cha yêu hạt lúa chín vàng. “Ngày ấy” không được xác định rõ ràng, nhưng trong tâm thức của người Việt Nam rõ ràng đó là ngày mà chúng ta biết yêu thương nhau, biết trân trọng cuộc sống và biết sống vì nhau.
Việc tường thuật lịch sử hình thành một quốc gia, dân tộc đã có những ngành khoa học, nhưng sự tường thuật về cội nguồn khai sinh ra đất nước cần phải vang mãi trong lòng mỗi con người qua từng câu ca, tiếng hát. Từ góc độ này, 9 câu thơ đầu của đoạn trích Đất Nước đã đưa ra một cái nhìn thú vị về các yếu tố tạo nên đất nước. Với cùng một số câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sự kết hợp độc đáo giữa chất trữ tình và chất chính luận để thể hiện đất nước với chiều sâu tư tưởng. đồng thời, sự hiện diện của những chất liệu dân gian đã làm nên nét thơ mộng, gần gũi, mộc mạc như chính cuộc sống thường ngày của người dân lao động.
bài thơ cho ta cái nhìn khái quát về nguồn gốc hình thành đất nước theo lối suy tư của nhân dân Trạng nguyên khoa cử. để chúng ta, thế hệ trẻ hôm nay nhận ra rằng quê hương ở trong tâm hồn mỗi người, hiện hữu trong đời sống văn hóa, trong phong tục tập quán của người dân. đất nước còn là hiện thân của cuộc sống đấu tranh và lao động. Không chỉ vậy, Đất nước sẽ là ca khúc đầu tiên ca ngợi lối sống đoàn kết, yêu thương của người Việt Nam.
phân tích toàn bộ 9 câu đầu tiên của quốc gia
mẫu 1
Đất nước là một trong những đề tài gắn liền với thành công của nhiều nhà văn ở các thời điểm khác nhau, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến. chúng ta không bao giờ có thể quên hình ảnh đất nước hiện thân trong “hồn trại kinh thành”, đất nước bị giày xéo dưới chân giặc ngoại xâm trong thơ ca hoang dã hay hình ảnh đất nước nhỏ bé đau thương mà anh hùng, bất khuất “rũ bùn vươn lên sáng ngời” trong thơ văn Nguyễn Đình Thi. Đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta có thêm một khám phá mới về đất nước của ca dao và thần thoại. đoạn trích Đất nước nằm trong chương 5 của sử thi Mặt đường khát vọng. Với hình tượng trung tâm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cho người đọc thấy những suy nghĩ mới của mình trên hành trình lý giải cội nguồn của đất nước, đặc biệt là ở chín câu thơ đầu:
Khi chúng ta lớn lên, đất nước có nó. đất nước có nó trong “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ vẫn thường nói. Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn nên làm ra. đất lớn lên khi dân tộc ta biết trồng tre, đánh giặc đến chân tơ kẽ tóc. rồi đào sau mái đầu cha mẹ yêu nhau gừng cay, muối giàn, cái hậu làm nên tên tuổi hạt gạo phải xay, giã, dần, rây nước đã có từ ngày ấy …
Đất nước là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca, hình ảnh đất nước luôn có một vị trí đặc biệt, là hình ảnh cao quý và đẹp đẽ nhất của thơ ca. marxen prust: “một cuộc thám hiểm không cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”. Chính vì vậy mà với mỗi góc nhìn khác nhau, đất nước lại mang một vẻ đẹp và hình dáng khác nhau, đất nước hiện lên dưới muôn hình vạn trạng trong con mắt của nhà thơ. nếu các nhà thơ cùng thời chọn cách tìm kiếm cảm hứng về đất nước từ lịch sử qua các triều đại như:
khi nguyễn trai làm thơ đánh giặc, nguyễn du viết văn việt kiều khi nguyễn huệ cưỡi voi ra cửa bắc, hùng hục phá quân trong sóng bach đăng
hoặc những hình ảnh rất đẹp, rất đẹp:
đẹp vô cùng, đất nước ta, rừng cọ, đồi chè xanh, nắng ngọt, sông, ải, rặng, bến đò trôi bến nước, binh ca
nên nguyen khoa diem đã chọn cho mình một điểm nhìn rất mới, bình dị và thân thuộc mà qua đó đất nước dường như không kém phần tươi đẹp.
Với kết cấu tổng hợp – tổng hợp thấm đẫm một phong cách chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những tâm tư, tình cảm da diết về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương đất nước.
ở đầu bài thơ, nguyen khoa diem giới thiệu với chúng ta về lịch sử hình thành đất nước, theo đó đất nước hình thành từ những gì gần gũi và thân thuộc nhất.
khi tôi lớn lên đất nước có nó đất nước có nó trong “ngày xửa ngày xưa …” mẹ tôi thường nói đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà bây giờ bà ăn đất nước lớn lên khi chúng ta người ta đã biết trồng tre mà đánh giặc
câu thơ mở đầu tự nhiên như một lời tự sự, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung sự tồn tại của đất nước trong nhận thức và tình cảm của con người. do đó, “đất nước đã có từ lâu đời, từ khi tôi sinh ra và lớn lên, đất nước đã có và tồn tại cùng với“ tôi ”. “Tôi” ở đây không phải là anh, em, sống hay chết, quá khứ hay tương lai, là cái chung của dân tộc. năm chữ “đất nước đã có” vang lên đầy tự hào, nó như một lời khẳng định về sự trường tồn của đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà Nguyễn Trãi đã nhắc đến. :
Là nước Đại Việt, chúng ta đã xưng là văn hiến từ lâu đời.
Trong hai câu sau, Nguyễn Khoa Điềm miêu tả cụ thể sự hình thành đất nước:
đất nước nằm trong những “ngày xửa ngày xưa …” mà mẹ thường nói
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà bây giờ nó đã ăn được
bằng cách truy xuất nguồn gốc của quốc gia, khó ai có thể xác định rõ ràng và minh bạch nguồn gốc của hình ảnh này. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của những người mẹ, người bà. Sau trạng ngữ chỉ thời gian “ngày xửa ngày xưa”, người đọc có thể hình dung ra bao kỉ niệm tuổi thơ với những nhân vật như nàng thơ, nàng tiên, bà cô, thánh nữ… của những câu chuyện ấy. Hình ảnh đất nước hiện lên thật đẹp và thơ mộng. hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa. Từ vẻ đẹp ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về “buổi đầu” dựng nước. trong lễ cúng, “miếng trầu cau” tượng trưng cho tấm lòng thành kính của con cháu gửi đến cha mẹ. “Miếng trầu” còn là biểu tượng cho phẩm chất trung thành xưa và nay của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, hình ảnh “miếng trầu” còn gợi lên một truyền thuyết tình yêu “miếng trầu trở thành dâu của gia đình”. từ “lớn mạnh” là chỉ sự lớn mạnh của đất nước qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa hay bất cứ nhà thơ nào, đất nước không phải vô tri vô giác mà đất nước có hình hài, có hồn và chất ngất trong con mắt nghệ thuật. hình ảnh “trồng tre đánh giặc” gợi cho ta liên tưởng đến truyền thuyết về một cậu bé lên ba đã thể hiện được trách nhiệm của mình với quê hương, đất nước, đó là vị thánh, là biểu tượng cho tính cách của người Việt Nam. , mạnh mẽ kiên trì, mạnh mẽ chống lại cái ác. hình ảnh đó đã được đưa vào thơ anh:
Chúng ta từng giống như vị thần dongwut đứng lên đánh giặc. An dân ta sức như ngựa sắt, hận ta rèn thép thành cán trận.
Hình ảnh cây tre thể hiện đức tính ngay thẳng, bất khuất của con người Việt Nam:
tre xanh từ ngày xưa có lũy tre xanh, thân mỏng, lá giòn, nhưng sao thành tre?
nguyen khoa diem gom nhung hinh anh tre trung va ca tinh. cốt lõi là sự chung sống, những phẩm chất của con người Việt Nam như trung thực, bộc trực, trung thành, yêu hòa bình, nhưng vô cùng gan lì trong chiến đấu.
Đến bốn câu thơ sau, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi những truyền thống, nét đẹp, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
mẹ chải tóc gáy, cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn.
Chẳng phải hình ảnh người mẹ, người phụ nữ với chiếc nơ sau gáy đã làm sáng tỏ sự thùy mị, dịu dàng và chân chất trong trang phục của người Việt Nam hay sao? vẻ đẹp của người phụ nữ ấy gợi cho ta nhớ đến câu thơ:
<3
Vẻ đẹp của người Việt Nam còn ở phẩm chất trung thành trong nhân cách của họ. thành ngữ “gừng cay muối mặn” được sử dụng nhuần nhuyễn, nhẹ nhàng nhưng thấm đẫm chất thơ. gừng tất nhiên phải cay, muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên lý của tự nhiên, cũng như tình nghĩa vợ chồng luôn đong đầy, không gì lay chuyển được. gợi lên tình nghĩa thủy chung giữa con người với nhau: “gừng càng già càng hăng, muối càng lâu càng mặn”. người ở bên nhau càng lâu thì tình yêu càng đong đầy. ý nghĩa của câu thơ được lấy từ bài hát nổi tiếng:
tay bưng đĩa muối chén gừng cay cay mặn mặn xin đừng quên
“Cái rường, cái cột” gợi cho chúng ta nhớ đến phong tục làm nhà của người Việt xưa. ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình gặp lại nhau, sum vầy đầm ấm, vui vẻ… có lẽ vì thế mà phong tục đặt tên con là “cột”, “cột” vừa giản dị, vừa gần gũi đã ra đời. khái niệm cũ.
Không chỉ vậy, người Việt Nam còn có đức tính cần cù, chịu khó. thành ngữ “một nắng hai sương” nói lên sự chịu thương, chịu khó của tổ tiên ta trong lao động. các động từ “xay”, “nát”, “dần”, “sàng” là công đoạn trau chuốt của những hạt gạo. Vì vậy, nguyen khoa diem muốn nhắn nhủ đến độc giả hãy biết trân trọng những hạt gạo ăn hàng ngày là bao mồ hôi công sức của người nông dân:
<3
câu thơ cuối cùng là lời kể của nguyen khoa diem về cội nguồn đất nước:
đất nước của ngày đó …
“ngày đó” là ngày chúng ta có truyền thống và văn hóa. vì vậy muốn yêu nước thì trước hết phải yêu văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. đáng yêu, trân trọng biết bao bài thơ giản dị, nhẹ nhàng nhưng chân thành và đằm thắm của tác giả nguyen khoa diem.
Thành công của đoạn thơ trên là do sự vận dụng độc đáo và nhuần nhuyễn các thể thơ bình dân, phong tục, tập quán, thành ngữ, cách gọi và viết hoa quê hương thể hiện lòng thành kính. , Linh thiêng. tất cả đã tạo nên một bài thơ đậm đà văn hóa Việt Nam và lòng kính yêu đất nước. ngôn ngữ mộc mạc giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình thủ thỉ nhưng đầy chất thơ triết lí.
Đoạn trích trên đã thể hiện được những suy nghĩ, tình cảm mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. như vậy, nguyên khoa học đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước. pautopxki đã từng nói: “niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường cho cái đẹp”. và nguyen khoa diem đã tìm ra lối đi riêng khi đến với đất nước, để đất nước có vẻ đẹp bình dị, gần gũi và tươi đẹp. đọc đoạn trích Đất nước ta là khám phá ra một vẻ đẹp mới của đất nước qua đó nâng cao tinh thần yêu nước, yêu nước và trách nhiệm của chúng ta lúc này không chỉ là học tập mà còn phải giữ gìn truyền thống, giữ nước, góp phần làm giàu cho đất nước. và đẹp hơn.
mẫu 2
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm là một trong những nhà văn tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong suốt những năm dài đấu tranh chống phá mỹ học của đất nước. thơ của ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và những suy tư sâu sắc của trí thức về đất nước và con người Việt Nam. Nổi lên với phong cách sáng tác của ông là tác phẩm “Bản hùng ca mặt phố” do ông sáng tác tại chiến khu Tam Kỳ năm 1971 , in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ thành thị miền Nam bị tạm chiếm về trách nhiệm với đất nước và thế giới của chính mình, trên hết là hòa mình vào cuộc chiến đấu chống Mỹ xâm lược. Đoạn trích từ bài thơ “patria” được tìm thấy ở đầu chương v của bài hát trên tường. 9 dòng đầu của đoạn trích là 9 dòng thể hiện quan điểm sống của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
với 9 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện một góc nhìn mới về cội nguồn của đất nước.
Khi chúng ta lớn lên quê hương đã có quê hương trong “ngày xửa ngày xưa …” Mẹ nói quê hương bắt đầu từ hạt cau mà nay ăn quê hương lớn lên khi dân ta biết trồng tre để chống. giặc, tóc mẹ bới sau mái đầu cha mẹ yêu thương muối cay gừng, giáp, sào làm nên tên hạt gạo phải xay, giã, nát, rây. đã ở đó kể từ ngày đó …
ở phần mở đầu, tác giả muốn khẳng định rằng “khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”. Tôi không biết đất nước được hình thành từ khi nào và chỉ biết rằng khi chúng ta lớn lên thì đất nước đã ở đây rồi. đó là một tuyên bố chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.
sau khi khẳng định chắc chắn sự tồn tại của đất nước, tác giả dần mở ra bức màn cho chúng ta thấy rõ hơn về cội nguồn của đất nước:
Đất nước ở “ngày xửa ngày xưa …” mẹ tôi thường nói. đất nước bắt đầu với miếng trầu mà bây giờ nó đã ăn
câu thoại “ngày xửa ngày xưa” là lời mở đầu của mỗi câu chuyện cổ tích mà các bà, các mẹ thường kể cho con cháu nghe. Không biết từ bao giờ, chỉ có từ “ngày xửa ngày xưa” để hình thành đất nước là đã có. những câu chuyện cổ tích huyền thoại được sinh ra từ đất nước.
đất nước xuất hiện trong câu chuyện cổ tích. đó là hình ảnh đất nước của một nền văn hóa dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. đối với nhà thơ, hai chữ “nhà quê” cũng bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn. Người xưa thường nói “miếng trầu là đầu lịch sử”, có lẽ vì tục ăn trầu là một trong những phong tục lâu đời nhất ở Việt Nam chúng ta.
Hình ảnh “miếng trầu” cũng giống như hình ảnh ở phần đầu. đất nước tồn tại từ khi dân tộc có tục ăn trầu và tục ăn trầu của người dân cũng là sự khởi đầu của một đất nước, khởi đầu của một nền văn minh.
sự khởi đầu của một cuộc đời và những bước trưởng thành của cuộc đời đó. sau sự khởi đầu của một đất nước là sự lớn mạnh của cả một quốc gia:
đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc
kể từ những năm trước thời đại của chúng ta, kể từ thời của hai bà trung và bà. triệu, là lần đầu tiên cả nước ta kiên cường đứng lên khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. từ truyền thuyết linh thiêng với hình ảnh nhổ cọc tre cao đánh giặc.
Cây tre còn là biểu tượng của người nông dân Việt Nam nhân hậu, thật thà, cần cù, chất phác nhưng cũng rất kiên cường, bất khuất. từ hình ảnh hiện thực đến đời sống tinh thần là bước đi lên từng bước trưởng thành của một dân tộc, một đất nước và một dân tộc. ý thức về đất nước, sự tồn tại của đất nước và ý thức trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
Dưới đây là những hình ảnh thể hiện nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt Nam:
<3
Đầu tiên, đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. vẻ đẹp của người bà, người mẹ, người chị, người con gái Việt Nam mộc mạc, tuy giản dị nhưng rất nữ tính, trong sáng. Câu thành ngữ “gừng càng cay càng mặn” đã được vận dụng một cách rất tự nhiên nhưng cũng rất đặc biệt, ý nhị mà thấm đẫm tình người, gợi lên lòng trung thành trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay”. muối thì càng chung sống lâu dài, tình nghĩa càng đong đầy. ”
rồi đến câu thơ “cột kèo thành tên” gợi cho người đọc nhớ đến tục dựng nhà của người Việt xưa. Ngôi nhà được làm bằng hệ thống kèo, cột gắn với nhau giúp ngôi nhà vững chắc và bền hơn để chống mưa, gió và thú dữ. nó còn là tổ ấm để mọi gia đình quây quần; cần cù, tích góp máu xương vì cuộc sống và sự phát triển của đất nước.
và cũng là truyền thống cần cù, chịu khó của dân tộc ta, “một hạt thóc phải mài, hai tiếng rắc trong sàng”. thành ngữ “một nắng, hai sương” gợi lên sự cần cù của những ngày dài vất vả trong cuộc sống nông nghiệp lạc hậu.
Đó là truyền thống cần cù, chịu thương chịu khó. những động từ như “xay – giã – dần – hót” là quá trình sản xuất ra những hạt gạo. Để làm ra hạt gạo, người nông dân phải trải qua quá trình gieo trồng, xay xát, sàng lọc vất vả. Tẩm trong hạt gạo nhỏ bé ấy là giọt mồ hôi mặn mà của những người nông dân vất vả dãi nắng dầm mưa.
và sau cùng, tác giả nguyen khoa diem kết luận: “đất nước tồn tại từ ngày đó…”. “ngày ấy” là ngày tháng năm nào, ta không biết, tác giả cũng không thể biết. chúng ta chỉ biết rằng ngày đó là ngày chúng ta bắt đầu có truyền thống, phong tục và văn hóa. đó là ngày chúng ta có đất nước của dân tộc Việt Nam.
Thông qua việc sử dụng khéo léo và nhẹ nhàng các chất liệu dân gian như tục ăn trầu, tục buộc tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống nông nghiệp, ca dao tục ngữ cùng với thành ngữ .. . Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, ca từ nhẹ nhàng với giọng thủ thỉ nhưng vẫn thấm đẫm triết lí và hồn thơ.
thông điệp đất nước được lặp đi lặp lại nhiều lần khi nhà thơ luôn viết hoa hai chữ đất nước tạo nên một sự trân trọng rất đỗi thiêng liêng … mọi người đã tạo nên một bài thơ giàu không gian văn hóa Việt Nam.
qua đoạn thơ trên, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một vùng quê giàu truyền thống văn hiến. đất nước của những truyền thống và phong tục đẹp mang đậm dấu ấn tư tưởng bình dân, đất nước của nhân dân.
mô hình 3
Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta như một dàn đồng ca du dương với những nốt cao vút làm đắm say lòng người… ta như được nghe một vần thơ hùng tráng về một “nam quốc sơn hà” vừa mất. không kém phần kiêu hãnh; để rồi cất lên dấu ấn hoài niệm về một thời mang đậm bản sắc dân tộc; bỗng nó cất lên một âm thanh dài, sâu lắng và đau đớn, rồi tiếng đàn cất lên những âm hưởng hào hùng, mang tinh thần của một dân tộc yêu nước nồng nàn, kiên trung, kiên quyết. âm hưởng và giọng điệu của bản hùng ca ấy được khơi nguồn từ ngòi bút và cảm xúc chân thành của nhiều nhà thơ, trong đó mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. trong số đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm đã viết một trong những nốt nhạc hòa tấu đẹp nhất, mềm mại và du dương, điển hình là dòng mở đầu của bài thơ Đất nước: chín dòng giải thích hai âm “đất nước” tưởng như xa mà lại gần, hùng tráng và mộc mạc – mở đầu từ chương thứ năm của sử thi “khát vọng mặt đường”:
“Khi tôi lớn lên, đất nước có nó. Đất nước có trong” ngày xửa ngày xưa “mẹ tôi thường nói. Đất nước bắt đầu từ miếng trầu mà bây giờ chúng ta ăn đất nước lớn lên khi dân tộc chúng ta đã biết trồng tre mà đánh giặc tóc, thì đào sau mái đầu cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn, cái giáp, cái sào làm nên tên hạt gạo phải mài, giã, giã nhỏ, rây lấy nước có từ ngày đó … “
trong những năm cuối của cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do, nhà thơ trẻ với hai mươi tám mùa xuân của Trạng nguyên khoa bảng năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ trẻ vào một buổi sáng trong sáng với những vần thơ hay, để rồi giữa những ngày khói lửa, bom rơi trên bầu trời chiến khu năm 1971, “quê hương” ra đời, nó cứ êm đềm, nhẹ nhàng đi vào lòng mỗi người dân. đứa cháu gái hồng nhan đã ăn sâu vào tâm khảm, trường tồn theo thời gian …
với giọng thơ rất êm dịu và nhẹ nhàng của mình, nhà thơ đã thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên của mình như thể anh đã bày tỏ nỗi lòng đang kìm nén của mình:
“khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”
Câu thơ tuy chỉ là một lời tự sự nhưng lại mang đến cho người đọc một cảm xúc thật đặc biệt, như có gì đó xa xưa trong ký ức mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai chữ “đất nước” được viết hoa một cách tỉ mẩn khiến lòng người xao xuyến một cảm giác khó tả. ôi… “đất nước”… có ai viết hoa hai chữ thánh thiện đó ngoài nguyễn khoa học không? chúng ta đã từng biết đến một miền quê qua giọng văn ngọt ngào của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Việt Nam đất nước mênh mông biển lúa, trời đẹp hơn tiếng cánh cò bay và sương mù bao phủ đỉnh núi trượng sơn sớm chiều”
nhưng “nước” của nguyen dinh thi không viết hoa! nguyen khoa diem, viết hoa hai chữ “quê” như một sự trân trọng, yêu thương hết lòng. đối với nhà thơ, đất nước của ông không phải chỉ là một đất nước vô tri vô giác, đất nước từ lâu đã mang hồn dân tộc sâu sắc và phong phú mà từ đó ông đã khẳng định rõ ràng nhất cái thiêng liêng, máu thịt của mình. đã làm rung động biết bao tâm hồn, để rồi kết thúc bằng ba từ nhỏ chậm rãi “ya”, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước với nét dịu dàng riêng. êm đềm, ngọt ngào và sâu lắng: “Đất nước đã có từ xa xưa, nó lớn lên cùng chúng ta, nó lớn lên cùng chúng ta, nó ở bên chúng ta, nó yêu thương và che chở cho chúng ta. Có thể chúng ta không biết quê hương có nguồn gốc như thế nào, nhưng quê hương luôn luôn dõi theo và dõi theo bước ta đến cùng trời cuối đất… ”Cùng với đại từ thông tục“ ta ”, không chỉ rõ ràng, cụ thể về một con người, nhà thơ đã tô đậm thêm bề dày văn hiến ngàn năm của đất nước, và đã khắc sâu lịch sử đã vượt qua của đất nước.
rồi hai chữ “mơ hồ” mất dần, nhường chỗ cho đất nước của nhà thơ hiện thân, trong trẻo và gần gũi, thân thương đến lạ lùng:
“Đất nước ở ‘ngày xửa ngày xưa’ mà mẹ vẫn thường kể … Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ bà ăn. Đất nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và chiến đấu chống lại kẻ thù ”
“ah … đất nước gần chúng ta quá …”, tôi ngạc nhiên thốt lên. giọng thơ nhẹ nhàng đưa ta về với tuổi thơ “ngày xửa ngày xưa”, những ngày xưa êm đềm với những câu chuyện cổ tích, với mái tranh bình dị, với bếp lửa bập bùng ấm áp, nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có một không hai. tình yêu gia đình. ở đó tôi lớn lên dưới sự đùm bọc của cha, trong lời ru êm ái của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa đến nỗi không biết ai viết hay viết vào năm nào nhưng không hiểu sao chúng đã ghi sâu vào tâm trí tôi. . ồ! … dịu dàng và quen thuộc trong vài tiếng “ngày xửa ngày xưa”, để rồi tuổi thơ đã qua, người ta không khỏi bùi ngùi, bồi hồi:
“Tôi yêu những câu chuyện cổ của đất nước tôi, vừa nhân hậu, vừa tuyệt vời, những con người yêu nhau sâu đậm rồi yêu nhau dẫu xa dù gần”
(“lịch sử cổ đại nước tôi”, lam thi my da)
Hình bóng đất nước ẩn chứa trong những điều bình dị và gần gũi ấy, cứ từ từ len lỏi vào cuộc sống của chúng ta từ khi còn nằm trong nôi, nghe tiếng nôi cót, nghe lời ru ngọt ngào. ngủ yên … đất nước như tồn tại, lớn lên cùng tôi, lớn lên cùng tôi. đất nước đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, trong khi chúng ta đã trải qua khói lửa chiến tranh để giữ gìn trọn vẹn hai chữ “đất nước” thân yêu ngàn năm …
cho câu hỏi lịch sự: “Đất nước bắt đầu từ khi nào?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm không khỏi lúng túng. Ông không đặt mình dưới góc nhìn của một nhà sử học, cũng không dùng từ ngữ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông chỉ đơn giản là dùng trái tim và tâm hồn của mình để định nghĩa đất nước. nhưng cũng chính vì lẽ đó mà đất nước qua thơ ca trở nên gần gũi, thân thuộc hơn bao giờ hết, giản dị và dịu dàng như tình yêu bao la của người mẹ. của hai chữ “đất nước” tưởng như khó nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình để vẽ nên những đường nét đơn giản mà cụ thể, cho ta thấy hình hài đất nước thân yêu với một nét rất riêng – được định hình từ tấm lòng của một người con hiếu thảo. của quê hương đất nước cha ông, của một hồn thơ không chỉ tinh tế mà còn giàu tình cảm, uyên bác.
Bằng cách liên tưởng sự ra đời của hồn quê với sự ra đời của miếng trầu bà thường ăn, nhà thơ đã thể hiện một tâm hồn đậm đà tinh thần dân tộc. Ông không chỉ trả lời và nêu rõ nguồn gốc của đất nước thân yêu này, ông còn nhắc lại tục ăn răng, ăn cau của các bà, các bà ngày xưa. mùi thơm ngào ngạt của miếng trầu phảng phất trong từng câu chữ, đưa ta trở về miền ký ức nhỏ bé đầy ắp tình cảm bên người bà kính yêu, nơi có mẹ nhai trầu thơm phức, một kỷ niệm sẽ sống mãi. trong lòng nhân dân. và miếng trầu tiện lợi ấy, tuy nhỏ bé nhưng mang theo cả một “đất nước” …
cứ thế, thời gian cứ cần mẫn trôi, để ta lớn lên, và “đất nước” cũng mọc theo lũy tre xanh đầu làng, vẫn khẽ đung đưa trong gió. Cây tre không biết từ xa đã gắn bó sâu nặng với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu thơ, bài thơ:
“Tre xanh hàng ngày từng có ghế tre xanh”
(Cây tre Việt Nam – nguyễn duy)
Giống như đất nước của chúng tôi, chúng tôi tiếp tục phát triển một cách nhẹ nhàng, âm thầm, lặng lẽ …
Hai chữ “dân ta” khi được hát cùng với “đất nước mọc lên khi dân ta biết trồng tre, đánh giặc” nghe thật thân thương, vì cùng hiến dâng dòng máu con rồng cháu tiên, giống nhau. xuất thân, cùng cội nguồn, mang trong mình mối quan hệ máu thịt, anh em … nếu phần đầu câu thơ làm dậy sóng lòng ta bởi những âm hưởng tình cảm trong sáng thì nửa sau câu thơ lại gợi cho ta nhiều cảm xúc. từ hình ảnh chàng trai Đồng Thiên Vương nhổ tre đánh giặc. từ chiếc chõng tre Việt Nam hiền hòa, mộc mạc ấy, trở thành sức mạnh của cả một dân tộc, lớn lên như các bậc thánh năm xưa, trưởng thành trong gian khổ, thử thách:
“một inch của trái tim chứa đầy thánh linh”
(bài thơ của người yêu nước, trần sao vàng)
Đất nước ta phát triển như thế này, giống như một sinh linh thực thụ, trải qua bao thăng trầm, bao hiểm nguy, “bao đời nay đã nhiều đau thương” nhưng cho đến cùng. Cuối cùng, đất nước ta vẫn vượt qua tất cả, vẫn hiên ngang và tồn tại với niềm tự hào, bởi Tổ quốc luôn có chúng ta, những người con yêu Tổ quốc sẵn sàng thay đổi tất cả, dù phải hy sinh tính mạng của chính mình. Trong suy nghĩ của mỗi người, chỉ cần trút hơi thở cuối cùng, chúng ta đều cống hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình.
viết về đề tài đất nước không phải là đề tài mới, nhưng ngược lại, đây luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc và cũng là nguồn cảm hứng vô tận, viết nên sự ra đời của nhiều bài văn thơ. trong bài thơ “mui ca mau”, nhà thơ xuân điệu đã từng đặt bút:
“Nước ta như con thuyền, mũi thuyền ta, con sông rộng hơn ngàn thước một màu đước xanh”
Năm xưa, Nguyễn Trãi đã từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại Cáo Bình Ngô”:
“trong hàng triệu, đinh, ly, bình qua nhiều đời, tạo dựng nền độc lập với Hán, Đường và Tông, mỗi bên xưng đế, tuy mạnh yếu tùy thời, nhưng mỗi thế hệ đều có nhân kiệt. “
trong khi xuân điểu ví đất nước ta như một con tàu, hùng vỹ, kiêu hãnh trên biển cả, thì nguyễn trai đưa ta đến với những âm vang chói lọi của một đất nước hùng vĩ, văn hiến và oai hùng. hai nhà thơ đại diện cho hai thời đại, tuy cách nhau một khoảng thời gian vô hạn, nhưng đều gặp nhau với giọng điệu hào sảng, tự hào khi nói về đất nước. Còn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước với những chiến công hiển hách và anh hùng, càng không dùng những từ ngữ hào hùng như thế. “đất nước” của bạn thật bình dị và giản dị, thật nhẹ nhàng, “đất nước” ở ngay đây, trong trái tim của chúng tôi! Bằng cách viết về đất nước theo cách riêng của mình, Nguyễn Khoa Điềm không những không bị lu mờ so với các bậc tiền bối, mà ngược lại càng khẳng định được tài năng và vị thế của chính mình trong làng piano Việt Nam.
vẫn làm thơ về đất nước mình, nhà thơ vẫn khẽ thủ thỉ những lời ân cần như xưa:
“Tóc mẹ chải sau đầu cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”
một lần nữa, hình ảnh người mẹ lại hiện lên gợi cảm giác thân thương ấm áp biết bao nhiêu, bởi mẹ là hiện thân của sự ấm áp và tình yêu thương bao la. câu thơ mở ra như thể một đoạn phim đen trắng ngắn trước mắt người đọc trước hiên nhà, nơi mẹ anh đang ngồi chải tóc gọn gàng và buộc lại. Tóc mẹ đen nhánh, óng ả một màu, mượt mà như suối, được cuộn cẩn thận từng sợi một và buộc trên đỉnh đầu theo kiểu tóc của bà mẹ Việt Nam. Những chiếc bánh đó có thể không có những viên ngọc lấp lánh, nhưng còn hơn thế nữa: đó là tình yêu, sự hào phóng, dịu dàng của một người mẹ dành cho con mình. cùng cha, mẹ tạo nên tổ ấm yêu thương gọi là nhà, là gia đình và là nơi trở về mỗi khi mỏi chân. cha mẹ yêu thương, sống với nhau không chỉ vì tình mà còn là tình nghĩa sâu nặng, gắn bó bền chặt với thời gian. Cũng giống như gừng qua nhiều năm, gừng vẫn giữ được vị cay nồng, càng già càng cay, càng đậm đà thì vẫn giữ được hương vị độc đáo; hoặc như vị của muối, càng không thay đổi, càng mặn như cũ. tình yêu tha thiết ấy đã được đào sâu trong những bài ca dao, như một lời dạy về đạo vợ chồng từ bao đời nay như gừng và muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dù tình không còn thì chữ “nghĩa”. vẫn ở đó. cuộc sống không thay đổi hay thay đổi:
“muối ba năm muối vẫn mặn gừng chín tháng gừng vẫn cay, ta một lòng một dạ, dẫu xa nhau vẫn ba vạn sáu ngàn ngày. ngoài “
Vẫn với những lời thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm còn gợi lên một nét truyền thống khi đặt tên cho những người con của dân tộc ta:
“sự gia cố của cột thành tên”
Từ những điều quen thuộc và đời thường, những cái tên trìu mến, thân thương với những “cột cược” và “cột” đã ra đời. Cái tên tuy lạ nhưng chứa đầy ý nghĩa và yêu thương khi ẩn sâu trong cái tên giản dị ấy là truyền thống đặt tên cho con không đẹp – bảo vệ con, cầu mong con bình an, hạnh phúc – đã được truyền lại từ lâu đời. thời gian. thế hệ này sang thế hệ khác, tiếp nối và bảo tồn nguyên vẹn lời dạy cổ xưa.
không chỉ vậy, “giàn sào” còn là từ minh chứng cho sự phát triển phong phú nhất của ngôn ngữ nước ta: tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu có, tiếng nói có tất cả. dân tộc Việt Nam. “họ quyết đem hết tinh thần và sức lực, của cải và tính mạng” để bảo vệ, gìn giữ và phát triển cho đến ngày nay. bên cạnh đó, hình ảnh vì kèo, cột cũng gợi cảm giác gần gũi, thân quen, dường như trong tâm tưởng hiện lên một mái tranh đơn sơ nhưng rất ấm cúng, tuy đơn sơ nhưng dư thừa, niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian. ..
Trải dài trên bảy dòng, nhà thơ đã khéo léo lồng ghép nhiều truyền thống lâu đời và ý nghĩa của dân tộc. mỗi truyền thống gắn với một câu chuyện, mỗi phong tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn khoa điểm đi từ tiếng rao “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu thơm lắm, quanh hàng rào tre làng xanh rì rào để về quê được nhìn thấy bóng dáng và mái tóc của mẹ, nghe những âm thanh thân thương. . , cái tên trìu mến, ý tứ gợi nhớ đến tình nghĩa sâu nặng như gừng, muối của cha và mẹ … nên không có lý do gì để nhà thơ “quên” đi một truyền thống đã đồng hành cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước. , chúng tôi đã xây dựng cơ sở vững chắc để trồng cờ Tổ quốc:
“Gạo phải được xay, giã, xay, sàng”
câu thơ như một nét vẽ giản dị thể hiện truyền thống trồng lúa nước, cũng như đức tính cần cù, chịu khó được bao đời nay của dân tộc tiếp nối và gìn giữ. Nhắc đến việt nam là nhắc đến hình ảnh cánh đồng lúa bao la, nơi đàn cò bay cao, tiếng sáo, cánh diều bay nhẹ nhàng. nói đến lúa chín mẩy, thơm ngào ngạt, thơm mùi lúa chín là nói đến những giọt mồ hôi mặn mà đã rơi để đổi lấy tinh hoa của đất trời. những hạt ngọc trời đó được làm nên bởi bàn tay ấp ủ của nắng, gió, ruộng đồng của những người nông dân Việt Nam chất phác, chân chất. từ khi cấy đến khi trổ bông, lúa thu hoạch về vẫn phải “xay, giã, xát, sàng”, rất công phu mới cho ra được bát cơm thơm dẻo. vì thế cây lúa đã quý lại càng quý và thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không chỉ cung cấp cho chúng ta những món ăn ngon, họ còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống mà ông cha ta đã để lại cho chúng ta. sau đó:
“Ai bưng bát cơm thơm dẻo mà hạt đắng cay?”
Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nhắc đến truyền thống dân tộc mà còn là một lời khuyên răn ân cần, nhắc nhở mọi người về công lao của người nông dân. từ đó nhắc nhở mọi người yêu quý và trân trọng những hạt gạo, bởi mỗi hạt gạo đều chứa đựng lịch sử và truyền thống hàng nghìn năm …
vậy là xong,
“Đất nước có từ ngày đó…”
quốc gia có nguồn gốc từ “nó”, nó nghe như một âm thanh từ những ngày xa xôi. hai chữ “ngày ấy” gợi cảm giác về một thời rất xa xưa, cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như dài ra, da diết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi nói thành lời “đất nước”, đến câu “đất nước ngày ấy…”, giọng đọc của người đọc lại trầm xuống, nhẹ nhàng hơn, để âm thanh dường như nhỏ hơn, nhẹ hơn, hòa quyện dần. . Trong. trong không gian và thời gian vẫn đi thuyền.
khép lại chín câu thơ đầu của chương v, nhà thơ Nguyên khoa học đã hoàn thành bức tranh đất nước do chính ông vẽ. đất nước trong đó đã hiện ra ngay trước mắt người đọc, với thị giác và cảm xúc khó tả trào dâng.
thơ anh không vần, không theo một quy luật cụ thể, có vẻ rất nhàm chán và khô khan. nhưng không… “đất nước” không những không bị thời gian cuốn trôi hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng chủ đề, “đất nước” của tác giả Nguyễn Khoa Điểm còn tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần, không luật. vì thơ không vần nên ý thơ tự do lan tỏa. Chính vì lời lẽ giản dị, mộc mạc, hàm súc, hời hợt mà “đất nước” êm dịu như một bản tình ca khắc sâu trong lòng mỗi người: bản tình ca giữa “ta” và “đất nước”, thân thiết và đậm đà. động lượng và trọng lượng sâu. Cộng với vốn kiến thức uyên bác, uyên bác về truyền thống của dân tộc mình, nhà thơ đã gửi gắm bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất hình chữ S ấy lại hiện ra. trong tâm thức của mỗi con người Việt Nam, nó thật hoàn hảo, thật đẹp đẽ và ngời sáng. Như trong “nghiên cứu văn học và đọc văn học”, giáo sư Trần Đình Sử đã từng nhận xét: “một đất nước như vậy không thể đạt được bằng văn miêu tả bên ngoài, nên tất yếu các nhà thơ phải sử dụng các hình thức chiêm nghiệm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần. đưa người đọc vào trí tưởng tượng, trong trí nhớ, thấy đất nước trong chính tâm hồn mình. ”Đọc“ quê hương ”, người ta không chỉ thấy một đất nước gần gũi, hiền hòa trong tâm hồn mà còn thấy một tấm lòng yêu nước nhẹ nhàng, tinh tế đi đôi với tài năng sáng tác của nghệ sĩ.
Nhìn chung, văn học Việt Nam những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã chứng kiến sự ra đời của biết bao kiệt tác, thực sự là thời kỳ văn thơ nở rộ như một vườn hoa muôn màu, nhất là đối với văn học miền Nam. “Tổ quốc” đã góp phần làm nên hương thơm dịu dàng len lỏi vào tâm trí thanh niên miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn dân tộc Việt Nam, sớm đánh thức họ đi theo tiếng gọi của dân tộc, bảo vệ nền độc lập, tự do của một dân tộc anh hùng. và dù sinh ra trong hoàn cảnh mưa bom bão đạn, “quê hương” vẫn luôn dịu dàng, dịu dàng như người mẹ dịu dàng đang vuốt ve trái tim ta bằng từng câu hát du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, cũng như vậy. theo quy luật của thời gian, “đất nước” vẫn giữ nguyên giá trị tinh thần như lời chỉ đạo của nhà thơ Nguyên khoa.
Dù thời gian trôi đi không ngừng nhưng thơ vẫn ở đó và tiếp tục tỏa sáng, bởi “thơ làm nên cái hay nhất là bất tử” (kín đáo), chính vì thế mà chúng cũng trường tồn cùng thời gian với tháng năm. Bài thơ “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm đã vang lên một điệp khúc du dương, nhẹ nhàng, khắc sâu trong lòng mỗi người, gợi lên niềm yêu thương khôn tả và niềm tự hào đối với cánh đồng hương thân yêu, nơi ta biết từng đường về, từng ngọn cây, từng ngọn cây. của cỏ cây dù có đi đâu, đến tận cùng đất trời, chúng ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu đỏ đầy kiêu hãnh và tự hào. Dù chúng ta là ai, chỉ cần chúng ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, lòng chúng ta sẽ luôn ghi nhớ: “Dù đi đâu… dù đi đâu cũng không đâu đẹp hơn đất nước Việt Nam”. …
mô hình 4
nguyen khoa diem là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm tháng đấu tranh chống mỹ học nước nhà. thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc, thể hiện tâm thế của một trí thức tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân, mang màu sắc chính trị. mảnh “đất nước” là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông. mảnh vỡ thể hiện một tầm nhìn mới về quê hương, và sự mới lạ này thôi thúc chúng ta tìm về cội nguồn của quê hương. Với 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện rất rõ quan niệm của mình về cội nguồn đất nước.
Khi chúng ta lớn lên, đất nước có nó. quê hương có nó trong câu “ngày xửa ngày xưa …” mẹ vẫn thường nói. Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ bà ăn nên làm ra. quê mẹ lớn lên khi dân ta biết tre đánh giặc, mẹ đóng đinh cha mẹ thương nhau muối cay, áo giáp, cơ cực thành danh hạt thóc. gạo phải xay, giã, nát, sàng … đất nước đã có từ ngày đó …
mảnh đất nước trong phần đầu, chương v của bản anh hùng ca “bề mặt khát vọng”. hoàn thành ở chiến khu tri ân năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị bị tạm chiếm ở miền Nam, về non sông đất nước, về vận mệnh của thế hệ anh đi ra đường. chiến đấu chiến tranh chống đế quốc Mỹ.
“khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”
Câu thơ mở đầu là một lời khẳng định tự nhiên và giản dị: “khi ta lớn lên, đất nước đã có”. đất nước có chữ “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa sinh ra, suốt bốn nghìn năm văn hiến. như vậy, đất nước tồn tại như một cái gì đó hiển nhiên, nó có nguồn gốc sâu xa cũng như sự hình thành và phát triển của nhiều thế hệ. với nguyên khoa cử, đất nước thật gần gũi, hiện hữu trong những câu chuyện cổ tích thường bắt đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”. đoạn thơ gợi cho ta liên tưởng đến hình ảnh người bà thường kể chuyện cho con cháu nghe, hình ảnh người dì bị mẹ con bà quấy rối, hình ảnh nàng tiên bỏ phố… câu “Ngày xửa ngày xưa. một thời ”quen thuộc và gần gũi với người Việt Nam. bởi lẽ, mỗi câu chuyện là một bài học đạo đức dạy chúng ta phải biết “ở hiền gặp lành”, biết sống thiện thắng ác, biết sống trung thành,… tác giả không dùng những từ ngữ, những hình ảnh tượng trưng đẹp đẽ để thể hiện đất nước, sử dụng từ ngữ giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. tác giả giúp chúng ta nhận biết đất nước từ văn học dân gian của cha ông ta để lại.
tác giả cảm thấy đất nước gắn liền với phong tục tập quán, tạo thành bản sắc văn hóa của dân tộc:
“Đất nước bắt đầu từ miếng trầu, bây giờ ăn nên làm ra”
“Miếng trầu ông ăn trầu” là miếng trầu tri ân trong “sự tích trầu cau” khiến ta bật khóc cho tình nghĩa vợ chồng, cho tình anh em gắn bó. từ đó, hình ảnh “miếng trầu” đã trở thành “miếng trầu là đầu lịch sử”, trở thành thứ không thể thiếu trong lễ cưới, tượng trưng cho tình yêu thủy chung son sắt.
“Tôi buộc tóc sau đầu”
Đó là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, nết na và duyên dáng. vẻ đẹp đó làm chúng ta nhớ đến bài hát nổi tiếng:
“mái tóc dài ngang lưng của tôi được búi cao. để đôi chân dài làm trái tim tôi bối rối”
Trên đây không chỉ là những cảm nhận về đất nước, mà nguyen khoa diem còn cảm nhận được đất nước trong vẻ đẹp của tình cha mẹ với lối sống dung dị như “gừng cay muối mặn”
“Cha mẹ thương nhau gừng cay”
Dù gian khổ, dẫu cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, cùng nhau chia kẹo, sẻ ngọt để tình yêu thêm mặn nồng, thắm thiết. hình ảnh thơ gợi cho chúng ta nhớ đến những bài hát nổi tiếng:
“với một đĩa muối trong tay, một chén gừng nóng và muối, xin đừng quên”
hay
“muối ba năm vẫn mặn, gừng chín tháng vẫn hăng. Tình ta trọn nghĩa, dẫu ba vạn ngày không xa”
của những bậc cha mẹ yêu nhau, hãy đến với “con giáp cột mốc thành tên”. câu thơ gợi cho người đọc liên tưởng đến tục dựng nhà của người Việt. Tục làm nhà dùng kèo, giằng để giữ cho ngôi nhà chắc chắn, bền vững, chống mưa gió và thú dữ. nó còn là tổ ấm để mọi gia đình quây quần; siêng năng tích mỡ và tích tụ trong cuộc sống. Từ đó, tục đặt tên con vì kèo, cột cũng ra đời.
Đất nước ta có truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ ngàn đời nay:
“Đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre, biết đánh giặc”
Hình ảnh “cây tre” là biểu tượng của dân tộc Việt Nam, gắn liền với đời sống hàng ngày, có khi trở thành vũ khí ra trận đánh giặc. Tôi cũng mới nhận ra điều đó:
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái tranh, lúa chín”
tre trung thực, giản dị, tốt bụng, trung thành, yêu hòa bình nhưng cũng kiên cường, bất khuất trong chiến tranh. ngọn tre sừng sững, bất khuất chung ngọn lửa cùng dân tộc:
“một cái gai cũng có thể tấn công quân xâm lược Mỹ”
bởi
“hàng tre không chịu mọc chưa mọc đã bén nhọn lạ thường”
Không chỉ có những nét đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống cần cù, chịu khó:
“Hạt gạo phải được xay, giã, xay, đắp ngày mai”
thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tục xay, nghiền, xay, sàng gợi lên sự cần cù, bền bỉ của người nông dân trên đồng ruộng. đất nước gắn liền với nền văn minh lúa nước, lấy hạt gạo làm di vật, gắn với quá trình lao động cần cù để có được hạt gạo, để tồn tại. thơ thật sâu lắng. câu hát gợi nhớ đến các bài hát nổi tiếng:
“Chiều tối cày ruộng, ngoài đồng mồ hôi như mưa, tay cầm bát cơm thơm dẻo hạt đắng cay”
Từ đất nước được viết hoa để nói lên tình cảm thiêng liêng đối với đất nước. giọng thơ trữ tình, những câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tự nhiên, phóng khoáng. ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian để tạo chiều sâu cho ý thơ.
Đất nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì gần gũi và bình thường nhất. nó được tìm thấy trong các câu chuyện cổ tích và các bài hát nổi tiếng, gắn liền với cội nguồn quê hương để tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về đất nước: yêu mà anh hùng, chăm chỉ nhưng chung thủy.
mẫu 5
Đất nước “: một hình ảnh quen thuộc và thiêng liêng, một đề tài muôn thuở và là nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật và thơ ca.” Đất nước “mềm mại và ngọt ngào đã chạm đến biết bao cảm xúc đắm say của biết bao thế hệ thơ ca Việt Nam, vì vậy bức chân dung của Đất nước muôn hình vạn trạng dưới những cây bút tài hoa, các tác giả, trong đó có cụ Nguyễn Khoa Điếm, một nhà thơ, một nhà chính trị, có lẽ nhờ những trải nghiệm bản thân, nhà thơ đã được hun đúc nên trong những năm tháng đấu tranh oanh liệt của dân tộc, cụ Nguyễn Khoa Điểm đã mang đến cho ông những tâm huyết những cảm xúc và suy ngẫm sâu sắc về tư duy “đất nước của nhân dân” với bản anh hùng ca “Mặt trận khát vọng” (viết năm 1971 tại chiến khu tri kỉ), ông đã chọn một góc nhìn gần gũi và quen thuộc để miêu tả hình dáng của đất nước, thiên nhiên, bình dị nhưng không kém phần thiêng liêng, anh hùng.
“khi tôi lớn lên … đất nước ngày ấy thuộc về”
giọng điệu của trái tim thì thầm như một câu chuyện cổ tích, câu thơ dẫn dắt ta đi tìm về cội nguồn của đất nước: “Đất nước có từ bao giờ?” – câu hỏi không mới nhưng đã được nhiều thế hệ đi tìm câu trả lời thỏa đáng. Ở chi tiết giàu sức gợi, Nguyễn Khoa Điềm đã có cách lý giải riêng: “Khi ta lớn lên, đất nước đã có” – Đất nước đã có từ lâu đời, từ khi ta còn nhỏ, theo từng bước ta trưởng thành. , đất nước lớn lên cùng chúng tôi. “đất nước ở trong ‘ngày xửa ngày xưa …’, mẹ thường nói”, hoài bão tìm về đất nước của nhà thơ thật khó hóa giải, vì ‘ngày xửa ngày xưa …’ là đơn vị. của thước đo. thời gian trừu tượng nhất, mơ hồ nhất, không ai biết thời xưa từ đâu đến, họ chỉ biết rằng nó đã rất xa, nó đã trôi qua rất lâu, rất lâu rồi. “ngày xửa ngày xưa ..” còn vẽ nên trong tiềm thức của chúng ta khung cảnh của những câu chuyện cổ tích “mẹ tôi thường kể”: người cô tảo tần, quả thạch cứu người, người đàn ông kiên cường, tính cách bất khuất, cần cù. , người tiều phu chất phác, người đàn ông thân thiện và hay cười giúp đỡ biết bao nhân vật lương thiện, … mọi thứ, tất cả thế giới thần tiên, những hình ảnh ma mị ấy hiện lên trong tâm trí chúng ta mà một khi đã nghĩ thì khó có thể xóa nhòa. “Ngày xửa ngày xưa” mở đầu câu chuyện, 3 dấu chấm lửng ở cuối câu khiến người ta suy nghĩ mãi. người đọc hãy cứ tưởng tượng ra những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết đó, nhớ lại lần cậu bé đòi bà và mẹ kể chuyện. dưới ánh trăng vàng đẹp đẽ, giọng nói nhẹ nhàng êm ái thổi hồn vào những ước mơ trong sáng của lũ trẻ. tức là đã là người việt nam thì không thể thiếu bóng dáng của thach sinh, thanh xuân, mai an tiêm mà hồi nhỏ nghe và nghĩ đến một cuộc sống màu hồng với nhiều điều tốt đẹp, cái chân và cái đẹp luôn chiến thắng. lớn lên mới hiểu, truyện cổ tích đều là truyện dân gian. nó quá lớn, quá hoành tráng, một vài câu thơ không thể chứa được cả một kho tàng văn hóa, Nguyễn khoa điểm đã để nó ở giữa, trao cho người đọc chìa khóa để tự mình khám phá kho tàng dân tộc khổng lồ. “ngày xửa ngày xưa …” cứ chơi vơi, đau đáu, đưa ta trở lại hành trình đi tìm câu hỏi ban đầu: “đất nước được hình thành như thế nào?”
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả ấy. Đất nước lớn mạnh khi dân tộc biết trồng tre, biết đánh giặc”
Nguyễn Khoa Điểm xác định buổi đầu dựng nước bắt đầu từ miếng trầu rồi mới trồng bằng tre dân tộc. “miếng trầu là đầu lịch sử”, một hình ảnh dân dã, dân dã lại tái hiện. Tưởng chừng với môi trường quen thuộc và giản dị luôn hiển nhiên, không ai ngờ với phát hiện của mình, Nguyễn Khoa Điểm lại khiến nhiều người lặng người suy nghĩ. bởi đằng sau những lời trần thuật ẩn chứa những mối quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp của người Việt. Trong tất cả các dịp giỗ chạp, lễ tết, miếng trầu – cau, linh thiêng và thành kính luôn xuất hiện trên bàn thờ tổ tiên, trở thành biểu tượng của tấm lòng con cháu gửi đến cha mẹ, hồn thiêng của tổ tiên. . Ngoài ra, miếng trầu còn là tình yêu đôi lứa e ấp, thẹn thùng
“miếng trầu có bốn chữ, con hãy lấy về thăm mẹ, chào cha, chú, bác, cô … mời ăn trầu”
hiển thị 6
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…”. Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi xốn xao da diết. Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Trong những vần thơ mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, tác phẩm “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nổi bật hơn cả.., bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.
đất nước: hai từ đó thật thiêng liêng và đáng tự hào. nó trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca, chỉ có các nhà thơ, nhà văn mới thường dùng những hình ảnh tượng trưng để viết về đất nước hoặc tạo ra khoảng cách chiêm ngưỡng. Trong thơ Nguyễn khoa cử, đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm rất gần gũi với mỗi người. trả lời câu hỏi: “một quốc gia là gì? Đất nước bắt nguồn từ đâu? ”Mỗi người đều có cách cảm nhận và lý giải riêng. với nguyên khoa là cảm nhận đất nước về lịch sử, địa lý, văn hóa… nên tác giả tự hào nói rằng “khi chúng ta lớn lên, đất nước đã tồn tại”. nhà thơ đã bắt đầu từ những kí ức tuổi thơ để hình dung về một sự tồn tại của đất nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. vẻ đẹp đánh thức từ mạch cảm xúc thấm đẫm hơi thở của những ca khúc quần chúng, những truyền thuyết sử thi của quê hương. vẻ đẹp của chương đầu “đất nước” là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng nhưng rất gần gũi:
“Khi ta lớn lên, đất nước có, đất nước có, ngày xưa mẹ ta bảo đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả đó, đất nước lớn lên khi dân ta biết bao. trồng tre đánh giặc… ”
giọng thơ chân chất, sâu lắng đã chuyển tải những tâm tư của nhà thơ về con người, đất nước. đất nước đã có từ rất lâu, rất lâu. cất tiếng khóc chào đời, lớn lên và trưởng thành thì đất nước đã có. nguồn cảm hứng của nhà khoa bảng về đất nước có cội nguồn từ truyền thuyết “Xưa mẹ kể” nay còn mãi trong tiềm thức với người con gái ngoan hiền, với sự tích bánh chưng, bánh dày, và bà tiên, dì ghẻ độc ác hay hoàng hậu,… hình ảnh đất nước hiện lên vừa giản dị, gần gũi, vừa sâu sắc thiêng liêng bởi nó gắn liền với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ và truyền đến muôn đời nay. “ngày xưa” chỉ với hai từ nhưng bao ký ức tuổi thơ ùa về.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả đó. Đất nước lớn mạnh khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc”
trong kho tàng văn học dân gian, nhà thơ đã chọn lọc hai câu chuyện để khắc họa hình ảnh đất nước với những nỗi niềm riêng. “đất nước bắt đầu” câu thơ giải thích sự hình thành của đất nước gắn với câu chuyện cổ tích về hàng cau. là một câu chuyện cổ tích đề cao tình anh em, tình nghĩa vợ chồng. đất nước mở đầu bằng miếng trầu có nghĩa là đất nước được hình thành theo lối sống tình nghĩa. “Ăn trầu bây giờ ăn” có nguồn gốc từ xa xưa – là một truyền thống tốt đẹp – “miếng trầu bắt đầu lịch sử”. đất nước được sinh ra và lớn lên trong truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, đó là lối sống nhân ái. đất nước được hình thành trong tình yêu thương nhưng lớn lên và trưởng thành qua chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
“Đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre, biết đánh giặc”
câu thơ gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích “san giong” gợi cho chúng ta nhớ về một cậu bé lớn nhanh như thổi, lên đường chống giặc cứu nước. một câu chuyện đề cao sức mạnh của tình yêu dân tộc và hình ảnh oai hùng của các vị thánh. và đất nước ta cũng trưởng thành khi mọi người cùng chung sức đánh giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi. Với Nguyễn Khoa Điềm, ông thấy đất nước lớn lên trong đau thương, thử thách nhờ sức chiến đấu và lòng yêu nước của dân tộc. trong suốt chiều dài lịch sử, truyền thống ấy đã trở thành truyền thống yêu nước thiêng liêng.
“Tôi buộc tóc sau đầu”
giữa bao truyền thống cao đẹp, nhà thơ đã chọn một hình ảnh rất giản dị nhưng rất tinh tế – hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với mái tóc xõa sau đầu – hình ảnh thật gần gũi, thân quen trong cách nghĩ, gợi bao suy nghĩ về con người. với cuộc sống bận rộn nhưng vẫn duyên dáng, cần cù và bản lĩnh. hình ảnh ấy qua năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn chiêm ngưỡng vẻ đẹp giản dị mà thiêng liêng. và hình ảnh đất nước hiện lên qua phong tục đó.
Đất nước còn được thể hiện ở sự gắn với lối sống cao đẹp “cha mẹ thương nhau coi như gừng cay”. câu thơ được lấy cảm hứng từ một bài hát nổi tiếng “gừng cay muối mặn xin đừng trái”. một bài thơ giản dị nhưng ý nghĩa rất sâu sắc. tình yêu thương được sinh thành và nuôi dưỡng từ nghèo khó, từ hoàn cảnh khó khăn thật đáng quý biết bao. đó là lối sống nghĩa tình, thủy chung đã trở thành truyền thống thiêng liêng được truyền từ đời này sang đời khác. và sự ra đời và phát triển của đất nước song hành với việc lưu truyền và phát triển truyền thống cao đẹp đó. miền quê gắn với những hình ảnh giản dị, mộc mạc “cái dầm, cái cột”, nhưng chính những điều bình dị, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, một phố, một xóm, một quê hương, cánh đồng. nói cách khác, nó là tế bào của đất nước.
Đất nước hiện lên qua cuộc sống lao động: “hạt gạo phải được xay, nghiền, xay, sàng”. Sự hình thành và phát triển của đất nước là cả một quá trình lâu dài, nhờ có bàn tay xây dựng của con người ngay từ thuở ban sơ, khi con người đã xây dựng nên những thứ đơn giản nhất bằng công sức một nắng hai sương. những người lao động đã biết “xay, giã, xay, sàng” để tạo ra những hạt gạo, tạo ra những giá trị vật chất để xây dựng đất nước phồn vinh. việc sử dụng điệp từ “một nắng, hai sương” và việc lựa chọn hình ảnh “xay, nghiền, xay, sàng” cùng nhịp truyền sức gợi lên những suy ngẫm, hình ảnh đất nước dần hiện lên nhờ bàn tay cần cù của đã làm việc. ., sự sáng tạo của con người, hình ảnh ấy đang hiện lên trong nhịp lúa rơi trên ruộng, trong tiếng chày giã gạo, trong cối xay với cuộc sống lao động bền bỉ dù vất vả, lam lũ. qua đó chúng ta nhận thấy nét đặc sắc của văn học Việt Nam: văn hoá lúa nước. hãy hình dung đất nước xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày là một đất nước cần cù và sáng tạo trong công việc.
Cũng chính trong cuộc sống lao động, nhà thơ còn phát hiện ra sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ gắn liền với cội nguồn hình thành và phát triển đất nước: khi con người biết lao động và sáng tạo ra cuộc sống cũng là lúc con người biết gọi tên. biểu tượng gần nhất. các đối tượng “cái xà, cái cột”. và trong quá trình lao động, tìm tòi, khám phá và tạo ra những giá trị vật chất như hạt gạo, họ đã tạo ra những từ ghi lại quá trình lao động đó “xay, nghiền, xay, sàng”. đây là tinh hoa linh hồn của dân tộc. đất nước được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành của tiếng mẹ đẻ thiêng liêng ấy. Khám phá đất nước về văn hóa và đời sống thường ngày, Nguyễn Khoa Điểm bày tỏ nhận thức của mình như một nét độc đáo, một cách giải thích không gượng ép nhưng đầy sức gợi và thuyết phục. những câu chuyện, sự chọn lọc những chi tiết ý nghĩa giúp chúng ta nhận ra rằng đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi nhất nhưng trường tồn mãi mãi.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng nhiều yếu tố ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích, không chỉ mang đến sự gần gũi mà còn thể hiện tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc. từ “đất nước” được viết hoa và lặp lại 5 lần để thể hiện sự tôn trọng. Với chín dòng 85 chữ, không thiếu một chữ Hán Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một câu thơ tự do đầy cảm xúc, kết hợp với giọng thủ thỉ như lời ru dễ lay động lòng người. nhưng truyền tải mạch cảm xúc ấy là một lập luận chặt chẽ: cộng – chia – đoàn. Chính sự kết hợp hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã mang lại niềm vui cho thơ trữ tình chính trị: phong cách riêng của Nguyễn Khoa Điềm.
Qua những dòng suy tư, chiêm nghiệm về một quan niệm dường như đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi người Việt Nam, qua bề dày văn hóa và sinh hoạt, Nguyễn Khoa Điểm đã có một khám phá, một vô cùng sâu sắc: Đất nước xuất hiện trong thế giới tâm linh của cộng đồng người Việt, trong đời sống sinh hoạt của nhiều thế hệ. đất nước trỗi dậy gắn liền với phong tục tập quán với nếp sống, nếp nghĩ, qua kho tàng văn hóa dân gian, qua bản sắc văn hóa … đó là đất nước không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng những ước mơ, hoài bão, khát vọng, quan niệm về cái đẹp. và phẩm chất tâm hồn dân tộc. bộ mặt của đất nước hiện lên sống động và rực rỡ: trong cuộc sống, trong công việc và trong chiến đấu.
hiển thị 7
Đầu năm 1971, khi đang công tác tại Thành ủy Huế, Nguyễn Khoa Điềm được mời tham gia trại sáng tác tổ chức tại Lào. nhà thơ rất yêu thích bản giao hưởng đó đã tâm sự: Tôi nghĩ mình sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ. và bản hùng ca vỉa hè đầy khát vọng đã ra đời. bài thơ gồm chín chương. bài thơ quê hương ở phần đầu chương v có tên là quê hương. trong thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước là chủ đạo. Các thế hệ trước, nhiều người viết rất hay về đề tài đất nước, nên Nguyễn Khoa Điểm đã tìm cách thể hiện mới, chọn chất liệu từ đời sống bình dân để thấy rằng đất nước là một khái niệm thiêng liêng, nhưng cũng rất gần gũi và giản dị.
Đất nước đến từ đâu? đất nước là gì? “quê hương”, hai từ thiêng liêng cao quý ấy không hề xa vời mà hiện diện trong mỗi gia đình chúng ta: từ tích của mẹ, hạt cau, đến phong tục tập quán của gia đình, tình nghĩa thủy chung son sắt giữa cha mẹ, hạt cau. của gạo. , than, kèo, đăng trong nhà:
“Khi chúng ta lớn lên, đất nước của chúng ta đã có đất nước của năm ngoái mà mẹ tôi đã kể cho tôi nghe”
với giọng kể ngọt ngào, tình cảm như lời kể của một câu chuyện cổ tích, thầy giáo Nguyễn Khoa Điểm đã bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của mình về cội nguồn đất nước. Lịch sử sâu sắc của đất nước ta được tác giả lý giải không phải bằng sự kế tục của các triều đại hay bằng những sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “đạo cao thâm”:
“Giống như nước Đại Việt xưa, tự xưng là văn hiến lâu đời, núi sông chia cắt phong tục bắc nam triệu, dinh, ly, trần để gây độc lập, cùng hàn, tang, tong và nguyen hung cuong. ra ngoài ”
nhưng với những hình ảnh gần gũi, thân quen, với những câu thơ gợi nhớ về những truyền thuyết xa xưa, về nền văn minh lúa nước từ sông Hồng và những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng là đất nước được cảm nhận trong sâu thẳm tâm hồn, văn hóa và lịch sử của người dân:
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả đó. Đất nước lớn mạnh khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc”
Phải chăng, hình ảnh thơ gợi cho ta sự tích “trầu cau” từ thuở xa xưa của vị vua anh hùng dựng nước, đề cao tình nghĩa vợ chồng, tình anh em thắm thiết; về sự tích vị thánh nhổ tre chống giặc ngoại xâm, trở thành bài ca hào hùng vệ quốc của nhân dân đã trở thành lịch sử của đất nước:
“Ta như ngày xưa thần đồng lớn lên đánh giặc, sức dân khỏe như ngựa sắt, hận không thể rèn thép làm roi chiến, ta phun vào những gương mặt của những kẻ giết người cướp nước ”
(có thể)
Đó là, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong miếng trầu ăn hàng ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân thuộc bao bọc lấy ta.
Ở thể loại trữ tình chính trị, Nguyễn Khoa Điếm đã đưa ra một định nghĩa sâu sắc về đất nước để từ đó rút ra quan niệm về đất nước. bao gồm các ý tưởng và khái niệm:
đất nước này là đất nước của những con người, đất nước của những con người, xứ sở của những bài hát nổi tiếng, những câu chuyện thần thoại
trước hết, tác giả cảm nhận đất nước qua những hình ảnh bình dị, cụ thể và gần gũi:
Khi chúng ta lớn lên, đất nước có nó. đất nước có từ xa xưa, ngày xưa… mẹ tôi thường nói nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn nên làm ra, đất nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre. khi đánh giặc, mái tóc mẹ bới sau mái đầu cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn áo giáp, bài tựa hạt gạo rải một nắng hai sương, xay, nghiền, rây, rây nước có từ ngày đó
những hình ảnh bình dị và cụ thể: miếng trầu ông ăn, miếng đất trồng tre đánh giặc, cái áo giáp, cái đồn bốt, ngôi nhà ta ở, hạt gạo ăn một. hai nắng, hai chiều, ta đã ăn …, tác giả muốn nói rằng đất nước không ở đâu xa, mà nó rất gần gũi, gắn bó, gắn kết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình và từ bao đời nay. và với mỗi đứa trẻ lớn lên trong không gian cụ thể ấy, ý niệm về đất nước sẽ được truyền tải qua những câu chuyện cổ tích, ông bà, cha mẹ, từng chút một khái niệm về đất nước, con người sẽ được hình thành trong tâm hồn mỗi đứa trẻ. , khi đứa trẻ lớn lên sẽ có nhận thức về đất nước. những hình ảnh ấy cũng có sức gợi, mở đầu cho đời sống của dân tộc, trong quá trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử hình thành và trưởng thành, đất nước đã xây dựng nên nền văn minh nông nghiệp lúa nước với những phong tục tập quán riêng: ăn trầu, nhổ tóc. và hình thành nên tâm hồn nhân cách của anh ta: chung thủy trong tình yêu, cần cù trong công việc. nhân dân còn xây dựng nên truyền thống anh hùng yêu nước chống giặc ngoại xâm: trồng tre đánh giặc. đất nước do nhân dân sáng tạo ra từ thuở sơ khai, gắn liền với đời sống vật chất và trong tâm thức của nhân dân từ xa xưa, nên đất nước này là của nhân dân.
<3
Tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước về không gian, địa lý và lãnh thổ. Đó là một không gian cụ thể, gần gũi và tràn đầy yêu thương của mỗi người:
đất là nơi bạn đi học, nước là nơi bạn tắm, quê là nơi bạn cuốn khăn vào trong nỗi nhớ
con đường đến trường, bờ sông, nơi đôi lứa yêu nhau cũng gợi ra một không gian, một khung cảnh cụ thể, thân thuộc, gần gũi nhưng không kém phần đẹp đẽ, thơ mộng. nó là không gian sinh sống của cộng đồng từ bao đời nay. đất nước luôn gắn bó với bạn và tôi suốt cuộc đời. lớn lên, nhiều mảnh đất trở thành ký ức. do đó, đất nước được đóng đinh vào nơi sâu thẳm của tâm hồn. đất nước sẽ mở mang và phát triển mãi mãi theo từng đời người, lúc đầu là ngôi nhà, sau đó là con đường, bến sông và xa hơn là không gian rộng lớn với núi, sông, rừng, biển:
trần gian là nơi phượng hoàng bay về núi bạc, là nơi cá lên khỏi biển
hai câu thơ trích trong ca dao bình dân đã mở ra một không gian đẹp đẽ, thơ mộng, hào hùng, oanh liệt; quen thuộc, cụ thể và lãng mạn như trong truyền thuyết. viết về cảnh sắc sông núi trù phú ấy, nhà thơ đã thể hiện tình yêu quê hương tha thiết.
Thành công nghệ thuật của bài thơ là nguyễn khoa mục, đã tạo nên một không gian nghệ thuật độc đáo đưa ta vào thế giới gần gũi, đẹp đẽ và hùng tráng của văn học dân gian huyền thoại và văn học dân gian. đây là đặc điểm riêng của loại hình nghệ thuật thống nhất với nội dung tư tưởng.
phân tích 9 câu đầu tiên của nước ngắn
mẫu 1
Người Việt Nam từ xưa đến nay, lòng yêu nước và lòng dũng cảm luôn chảy trong máu, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh quên mình để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong những năm tháng gian khổ của cuộc kháng chiến chống ta, rất nhiều bài thơ, bài văn đã ra đời cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta nơi mặt trận. một trong những tác phẩm khơi dậy lòng yêu nước không thể không kể đến sử thi về khát vọng vỉa hè của tác giả Nguyễn Khoa Điểm, mà nổi bật là Đất nước bị chia cắt. ở phần đầu của mảnh, tác giả giải thích nguồn gốc của đất nước được nhiều người yêu thích.
nguyen khoa diem được biết đến như một nhà thơ có phong cách trữ tình độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn và lôi cuốn người đọc bởi sự liên kết tình cảm nồng nàn và những suy tư sâu sắc của một trí thức trẻ nhận thức sâu sắc về vai trò và trách nhiệm của mình trong công cuộc đấu tranh vì nước, vì dân. “bài thơ dài bên vỉa hè khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. đoạn trích Đất nước trong chương v của sử thi. trong đoạn trích, tác giả giải thích về cội nguồn của đất nước; và cội nguồn đó được giải thích rất tinh tế qua 9 dòng đầu của bài thơ:
<3ở đầu bài thơ, tác giả trực tiếp nói lên rằng đất nước này đã có từ lâu đời, khi con người sinh ra trên mảnh đất của mình thì nơi đó chính là đất nước, là quê hương. đất nước ra đời từ lâu đời như một lẽ tất yếu, đi sâu vào lịch sử thời các vị vua hùng mạnh dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách còn lưu truyền cho đến ngày nay. Trước hết, quê hương không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một cái gì đó rất gần gũi, thân thương đối với cuộc sống bình dị của mỗi con người. của lời ru của mẹ, của những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể để chúng ta lớn lên, khiến chúng ta hiểu thêm về văn hóa quê hương, theo ta suốt cuộc đời và là một phần kí ức đẹp đẽ không thể nào quên. những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo đức làm người, ước mơ và khát vọng công lý của nhân dân được lồng vào bài hát bình dân ấy đã góp phần tạo nên một đất nước đa dạng về văn hóa như ngày nay.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả đó. Đất nước lớn mạnh khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc”
Ăn trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của người phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là các bà các mẹ và từ lâu chúng ta đã có câu chuyện về miếng trầu và tình người. . kể từ những năm trước lễ Christ, kể từ thời của hai người phụ nữ, bà. triêu, đó là lần đầu tiên cả nước ta vùng lên nổi dậy chống giặc ngoại xâm. từ những truyền thuyết linh thiêng với hình ảnh xé vách tre đánh giặc. cây tre còn là biểu tượng của người nông dân Việt Nam nhân hậu, thật thà, cần cù, chất phác nhưng cũng rất kiên cường, bất khuất. từ hình ảnh hiện thực đến đời sống tinh thần, đó là từng bước trưởng thành của một dân tộc, của một đất nước, con người nhận thức về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý thức về bản sắc dân tộc, có trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ biên giới của đất nước.
Ngoài truyền thống yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh thấm đẫm vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam:
“Tóc mẹ chải sau đầu cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”
Từ xa xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với mái tóc dài, được buộc gọn gàng sau đầu. vẻ đẹp ấy của người bà, người mẹ, người chị, người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng rất nữ tính, rất riêng. tác giả đã sử dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” rất tự nhiên, độc đáo, nhẹ nhàng, đằm thắm để thể hiện lòng trung thành của con người như câu nói “gừng càng già càng hăng, muối càng cứng thì càng mặn. trở thành khi người ta sống với nhau lâu dài thì tình yêu mới trọn vẹn. “
Ngoài những phong tục và tình yêu thương đồng bào, Nguyễn Khoa Điềm còn đề cập đến truyền thống lao động sản xuất của nhân dân:
“Cây sào, cây sào nhân danh hạt gạo phải được xay, nghiền, xay, sàng”
Từ xa xưa, con người đã biết đốn gỗ để làm nhà. Những ngôi nhà đó dùng vì kèo, cột giằng vào nhau chắc chắn, vững chãi để tránh mưa, gió và thú dữ. còn là tổ ấm để mọi gia đình sum họp, gặp gỡ, chia sẻ vui buồn; từ đó hình thành thị trấn, thôn xóm và quốc gia. nhà là tổ ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” cần mẫn tích lũy của cải để phát triển đất nước. nhà thơ sử dụng khéo léo thành ngữ “một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù lao động sản xuất của cha ông ta. động từ “xay – nghiền – dần – sàng” là quá trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo, người nông dân phải mất hàng tháng trời vất vả gieo trồng, chăm sóc, xay xát, sàng lọc. thấm trong hạt gạo bé nhỏ ấy là giọt mồ hôi mặn mà của người nông dân vất vả dãi nắng dầm mưa. Thành quả ngọt ngào này không chỉ giúp dân tộc ta có cuộc sống ấm no, mà còn trở thành nền văn minh lúa nước mà hễ nhắc đến là người ta biết ngay đến đất nước Việt Nam; Không những vậy, nền văn minh này đã giúp nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới và thế giới biết đến gạo Việt Nam.
Trong tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định:
“đất nước của ngày đó…”
“ngày đó” là ngày nào, chúng tôi không biết, tác giả cũng không thể biết. chúng tôi chỉ biết rằng ngày đó là ngày chúng tôi bắt đầu có những truyền thống, phong tục và văn hóa khác với những quốc gia khác. đó là ngày chúng ta có đất nước của dân tộc Việt Nam.
Thông qua việc sử dụng khéo léo và nhẹ nhàng các chất liệu dân gian như tục ăn trầu, tục buộc tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống nông nghiệp, ca dao tục ngữ cùng với thành ngữ. Cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng với giọng thủ thỉ, điệp ngữ “đất nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho người đọc một góc nhìn mới về cội nguồn đất nước; về vẻ đẹp của một vùng quê giàu văn hóa truyền thống, một đất nước có những phong tục tập quán thấm nhuần tư tưởng của nhân dân.
Đã nhiều năm trôi qua, nhưng câu thơ cùng với bản hùng ca “phố ước” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp và để lại những ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm trí của nhiều thế hệ người Việt Nam trước, nay và trong Tương lai. Bản hùng ca của tác giả Nguyễn Khoa Điểm làm cho chúng ta hiểu và yêu đất nước hơn, đồng thời thôi thúc chúng ta hành động để bảo vệ và phát triển đất nước.
mẫu 2
“khi tôi lớn lên, đất nước ở đó … đất nước ngày đó.”
Bài thơ nói một cách giản dị nhưng xúc động về cội nguồn sâu xa của đất nước.
Với giọng thủ thỉ, nhà thơ gợi không khí êm đềm như đang kể một câu chuyện cổ tích, như đưa tâm hồn ta ngược dòng thời gian về cội nguồn đất nước, dân tộc. bốn từ “ngày xửa ngày xưa” được sử dụng rất tốt:
Khi chúng ta lớn lên, đất nước đã ở đó. đất nước ở trong “ngày xửa ngày xưa …”, bà mẹ nói.
từ “có” trong “đã”, “đất nước trong…” đã làm cho ý thơ khẳng định mình, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích trầu – cau gợi lên hình ảnh đất nước xa xưa, “đất nước bắt đầu”… truyền thuyết thiêng liêng nói lên sự vươn lên của dân tộc, đánh dấu sức mạnh trỗi dậy của “đất nước”. “. câu thơ được mở rộng thành 12, 13 chữ, có vần điệu (đầu – trầu, ăn – người) nên vẫn uyển chuyển và giàu âm điệu:
“Đất nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn. Đất nước lớn lên khi dân trồng tre đánh giặc”.
Hai từ “lớn lên” chỉ hình ảnh một cậu bé làng quê lớn lên trở thành một chiến binh oai phong lẫm liệt khi kẻ thù xâm lược đất nước.
Sau đó, nhà thơ nói về những phong tục và đạo đức tốt đẹp xưa của dân tộc ta. tục “nhổ tóc” của người Việt Nam. một bài hát phổ biến về đạo vợ chồng: “chén muối đĩa gừng – gừng cay muối mặn đừng quên nhập hồn câu thơ của nguyen khoa diem:
“Tóc mẹ vén sau mái đầu cha mẹ yêu thương với gừng cay muối mặn.”
câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “mái tóc của người mẹ” trong tình yêu thương của những người “làm cha” bây giờ. “đất nước đã có”, “đất nước có …”, “đất nước bắt đầu”, “đất nước phát triển” và đất nước hiện hữu quanh ta, gần gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ đã tận dụng sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ để nói lên cội nguồn lâu đời của đất nước. mỗi phần tử có tiêu đề riêng: “cột, phần ứng của tên”. làng ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. canh tác lúa nước đã tạo ra nền văn minh sông đỏ. khi hạt gạo được tạo ra nhờ công sức “một nắng hai sương” thì từ “xay, giã, xay, sàng” cũng xuất hiện. Tiếng Việt là kho tàng lâu đời của đất nước ta, dân tộc ta. Cách nói của nguyen khoa diem rất thú vị:
“con giáp, cái hậu nhân danh hạt gạo phải một ngày hai ngày mới được xay, nghiền, sàng, rây. Đất nước tồn tại từ ngày đó”.
hình ảnh quê hương thân yêu tỏa sáng trong bài thơ. quá khứ của đất nước “ngày xửa ngày xưa” đồng nét trong “miếng trầu nay ông ăn”. có một đất nước anh hùng “biết trồng tre mà đánh giặc”. có đất nước cần cù lao động sản xuất: “hạt gạo phải xay, nghiền, sàng, rây”. có bản sắc văn hóa phong phú, nền văn hóa rực rỡ hội tụ qua những phong tục tập quán đẹp đẽ (tục ăn trầu, tục chải tóc), tục ngữ dân gian “gừng cay muối vừng”, qua truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết.
một đoạn thơ gồm 9 câu và 85 từ mà không có một từ nào trong Hán Việt. lời nói giản dị, cách diễn đạt thân mật. có mặt trong bài thơ là: tôi, nhân dân tôi, bà, cha, mẹ. có miếng trầu, cây trúc, mái tóc của mẹ, … có bó “gừng cay muối đắng”, cây sào, hạt gạo, … thật là thân quen và gần gũi, sâu lắng. và chuyển động, rung động. tưởng tượng là gió, tưởng là bao la. bài thơ “nhịp đập trái tim nhắn gửi” để chúng ta thêm yêu đất nước và tự hào về đất nước. cấu trúc câu thơ: “tổng – chia – đoàn”; câu mở đầu là “khi ta lớn lên, đất nước đã có rồi”, cuối bài thơ là câu “đất nước có từ ngày ấy”. nhân vật chính trị đã soi sáng phẩm chất trí tuệ hòa quyện với phẩm chất trữ tình đậm đà. thúc bài thơ mang một vẻ đẹp riêng về cội nguồn quê hương yêu dấu.
mô hình 3
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước Giản dị, gần gũi nhất”. Rút ra từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có ……………… .. đất nước có từ ngày đó
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ học của đất nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bằng những cảm xúc sâu lắng, nhiều chiêm nghiệm. Qua việc phân tích Đất nước ta có thể thấy đây là đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật đặc sắc đó. đất nước là phần đầu của chương v sử thi “phố khát khao” – tác phẩm ra đời năm 1971, giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ác liệt.
đất nước ra đi một cách trang trọng nhưng rất đỗi bình dị và gần gũi:
khi tôi lớn lên đất nước có đất nước có nó đất nước “ngày xửa ngày xưa” mẹ tôi kể đất nước bắt đầu từ hạt cau mà bà ăn nay đất nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre, biết đánh giặc. chống lại kẻ thù
/ p>
đất nước vốn dĩ là một giá trị bền vững và vĩnh cửu; đất nước được tạo dựng, nó được xây dựng qua nhiều thế hệ, nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: khi chúng ta lớn lên thì đất nước đã có. đứng trước non sông đất nước thiêng liêng ấy, thơ trào dâng niềm xúc động và trân trọng. hai chữ “đất nước” được viết hoa trang trọng. do đó nhà thơ thể hiện niềm tự hào và trân trọng đối với đất nước của mình. khi tôi cất tiếng khóc chào đời, khi tôi lớn lên, đất nước đã tồn tại. đất nước tồn tại từ bao giờ? / Ngẫm lại cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điểm chợt phát hiện ra: Đất nước có từ xưa mẹ tôi kể / Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn. Quê hương vừa cổ kính vừa bình dị hiện lên trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. đất nước là nền văn hóa kết tinh của tâm hồn người Việt Nam. Từ truyện cổ tích, truyện cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật đầy tính thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu và lòng trung thành của tâm hồn dân tộc.
Cùng với tục ăn trầu, nước còn gắn với các phong tục khác:
– tóc của mẹ được vén ra sau
– liên kết cột với tên
thân thương, mộc mạc biết bao nhiêu cái cúi đầu sau lưng mẹ, những nếp nhà dựng vì kèo, cột, mái tranh, vách rơm, vách đất; là một cách đặt tên con đơn giản. những con vật mộc mạc và thân thiện như thế cũng là một phần của đất nước. và đất nước lớn mạnh khi nhân dân biết trồng tre để chống giặc. hình ảnh đất nước đã quá quen thuộc với lũy tre xanh, những chồi non đâm chồi nảy lộc. Có thể thấy từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm văn thơ hiện đại, cây si đã trở thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần đánh giặc cứu nước, là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người con. . từ “mọc” được sử dụng rất chính xác, khơi dậy niềm tự hào và niềm tin dân tộc. giọng thơ sâu lắng, da diết làm nên những suy tư về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí mà vẫn tha thiết, trữ tình. cách cảm nhận và lí giải về cội nguồn của đất nước bằng những hình ảnh giản dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất nước gần gũi, thân thuộc và bình dị trong cuộc sống của mỗi người.
với nguyen khoa diem, đất nước ẩn mình trong những điều nhỏ nhặt nhất. đất nước ẩn mình trong hạt muối, một nhánh gừng; TÌNH CẢM TRONG TÌNH YÊU CỦA PHỤ HUYNH: Cha mẹ thương nhau bằng muối, gừng cay. Được chắt lọc từ văn học dân gian, câu ca dao chứa đựng những ý tưởng lâu đời. Dù sống cuộc đời nghèo khó, vất vả nhưng cha mẹ chúng ta vẫn yêu thương nhau như gừng cay muối mặn, trước sau vẫn gắn bó, mặn nồng, kiên định. quê tôi thật giản dị và ngọt ngào. hình ảnh quê hương còn hiện diện trong từng tai lúa, củ khoai: hạt lúa phải được xay, nghiền, xay, sàng. hình ảnh thơ giản dị nhưng gợi ra tập quán sản xuất gắn liền với nền văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam. Để làm ra những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm thơm dẻo, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng. hình ảnh thơ gợi bao nỗi vất vả, khó nhọc, vất vả cùng với đức tính cần cù, chịu khó của những con người chân lấm tay bùn.
9 câu đầu khép lại bằng bốn câu thơ tóm tắt thời điểm hình thành đất nước: đất nước có từ ngày ấy. date vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là đại từ thay thế. nên đất nước tồn tại từ khi bà mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con cháu nghe, khi dân tộc ta biết trồng tre đánh giặc, trồng lúa, trồng khoai, ăn trầu, làm cung, biết sống có tình nghĩa, chung thủy. lịch sử đất nước thật bình dị, thật gần mà thật xa, thật thiêng liêng.
một bài thơ chín câu, tám mươi lăm chữ không thiếu một chữ Hán Việt. ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi và tràn đầy hơi thở cuộc sống. lý luận chính trị đã soi sáng phẩm chất trí tuệ hòa quyện với chất trữ tình phong phú. bài thơ “nhịp đập trái tim điệp điệp” để chúng ta thêm yêu và tự hào về đất nước.
mô hình 4
country: chỉ hai từ thôi mà sao đắt thế? và nó cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ sẽ chọn cho mình một góc nhìn riêng để nói về đất nước, nếu các nhà thơ cùng thời thường chọn cách nhìn đất nước bằng những hình ảnh vĩ đại hay cảm hứng lịch sử qua các triều đại, thì Nguyễn Khoa điểm lại chọn góc nhìn gần gũi, giản dị để mô tả đất nước. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi cho người đọc những nét đẹp về văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán vô cùng đẹp đẽ, sinh động và đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam. Với 9 dòng mở đầu, nhà thơ đưa người đọc vào lịch sử dân tộc để trả lời câu hỏi dựng nước từ bao giờ:
Khi chúng ta lớn lên, đất nước có nó. quê hương có nó trong câu “ngày xửa ngày xưa …” mẹ vẫn thường nói. Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ bà ăn nên làm ra. quê mẹ lớn lên khi dân ta biết tre đánh giặc, mẹ đóng đinh cha mẹ thương nhau muối cay, áo giáp, cơ cực thành danh hạt thóc. gạo phải xay, giã, nát, sàng … đất nước đã có từ ngày đó …
nguyen khoa diem là một nhà thơ và chính khách Việt Nam. ông là người con của huệ, chính những nét đặc trưng của huệ đã tạo nên chất thơ trữ tình, sâu lắng của Nguyễn Khoa Điểm hài hoà giữa trí tuệ và cảm xúc. Sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm trở về quê hương để lao vào cuộc chiến khốc liệt trên chiến trường hòa bình và công lý. tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ thù, cuộc chiến đấu gian khổ của đồng bào … đã khơi nguồn cho những sáng tác của Nguyễn Khoa Điểm rất nhiều cảm hứng. Từ những ngày đêm không ngủ trên phố, Nguyễn Khoa Điềm đã tích lũy cho mình vốn sống và kinh nghiệm để cảm hứng trào dâng trong sử thi Khát vọng, viết năm 1917 gồm 9 chương. thành công nhất là chương Đất nước, nó đã trở thành một bài thơ có sức sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách của Nguyễn Khoa Điểm.
Ngay từ những dòng đầu tiên của đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm đã suy ngẫm, trăn trở về cội nguồn và sự hình thành đất nước bằng giọng văn ngọt ngào, tình cảm như một câu chuyện cổ tích:
Khi chúng ta lớn lên, đất nước đã ở đó. đất nước ở trong “ngày xửa ngày xưa …”, bà mẹ nói
mở đầu bài thơ như một lời khẳng định “khi ta lớn lên quê hương đã có”, quê hương đã có từ lâu đời, có trước khi ta sinh ra vì khi ta lớn lên nó đã có từ lâu đời. đó cũng là sự khẳng định đanh thép về sự trường tồn của đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. cụm từ “ngày xửa ngày xưa” chỉ thời gian huyễn hoặc, là nhịp thời gian cổ xưa mạnh mẽ để mở ra những câu chuyện cổ. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã có từ ngàn xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên của mỗi kiếp người. câu chuyện của nguyên khoa học đã đánh thức trong người đọc những hoài niệm đẹp đẽ của một thời đại. Đó cũng là đất nước được cảm nhận trong sâu thẳm tâm hồn, văn hóa và lịch sử của người dân:
đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà bây giờ ta ăn đất nước lớn lên khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc
là miếng trầu gợi lên truyền thuyết thuộc loại lâu đời nhất của người Việt Nam “sự tích trầu cau” từ thời xa xưa của vị vua anh hùng dựng nước, đề cao tình nghĩa vợ chồng, thủy chung son sắt. anh chị em đồng thời đánh thức họ Hình ảnh miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình yêu, lòng chung thủy, miếng trầu là đầu câu chuyện. Đó cũng là truyền thuyết về vị thánh nhổ tre bắt giặc ngoại xâm, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất. vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. cây tre mềm mỗi làng. hình ảnh cây tre như những phẩm chất cốt lõi của con người Việt Nam: thật thà, trung hậu, yêu chuộng hòa bình, bất khuất trong kháng chiến. Với tầm nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã ăn sâu vào lòng mỗi chúng ta, trong đời sống tinh thần của con người từ đời này sang đời khác.
Tác giả còn đề cập đến những phong tục tập quán cao đẹp của người Việt Nam, câu nói “bưng chén muối đĩa gừng cay / muối gừng xin đừng quên” như đã đi vào tâm hồn của các câu thơ của nguyen khoa diem:
Tóc mẹ chải sau mái đầu yêu thương của cha mẹ bằng gừng cay cay
Nước ta còn có tục quấn tóc sau gáy rất quen thuộc của phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay. là một vẻ đẹp giản dị nhưng lại mang một vẻ đẹp riêng biệt không thể nhầm lẫn với các nền văn hóa khác. Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng tư tưởng của mình với những con người đã sống, làm việc và chiến đấu hàng nghìn năm trên mảnh đất Việt Nam để giữ gìn và làm đẹp cho mảnh đất thân yêu. Ở đó, nguyên tắc ân nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ yêu nhau muối cay gừng”. Người ta thường nói, gừng càng già càng cay, muối càng mặn, càng già, nghĩa là sống với nhau càng lâu, nghĩa tình càng đong đầy.
Đất nước gần gũi, thân thiết như ruột thịt và bao ngành nghề khác:
cây chùm, cây sào nhân danh hạt gạo phải được xay, nghiền, xay, rây
Cha ông ta gắn liền với ruộng đồng mái tranh đơn sơ nên ông thường coi việc đặt tên cho con cái là những cái tên mộc mạc, giản dị, đôi khi lấy bộ áo quần. phần nhà gỗ tre tự trong thế “xà”, “cột”. Đối với người Việt Nam, vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo đã trở thành một di sản vô cùng cần thiết cho cuộc sống. vì lẽ đó, ngay từ khi còn nhỏ, cảm nhận vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua quá trình lam lũ, kết tinh từ mồ hôi nước mắt của những người lao động “một nắng, hai sương, xay, nghiền, nát. chúng ta còn hơn bán mặt cho đất, bán lưng cho trời suốt ngày dầm mưa dãi nắng, nhân dân ta mới có thể làm nên hạt ngọc quý thấm vào hạt gạo nhỏ bé ấy là vị mặn của mồ hôi công sức của người nông dân. Vì vậy, khi ăn xôi thơm, bạn nên nhớ đến người đã làm ra nó.
Câu cuối cùng khép lại một câu nói với niềm tự hào: “Đất nước thuộc về ngày ấy…” “ngày ấy” là ngày nào mà ta không biết, nhưng chắc chắn “ngày ấy” là ngày ta có truyền thống. truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa và có văn hóa là có đất nước.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng nhuần nhuyễn các cấu trúc thơ “đất nước có”, “đất nước bắt đầu”, “đất nước phát triển”, “đất nước có chữ” đã giúp ta hình dung được toàn bộ quá trình hình thành. và sự phát triển của đất nước trong một thời kỳ lịch sử lâu dài đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam từ bao đời nay. Nguyễn Khoa Điềm âm thầm quan sát đất nước trong mọi mặt của cuộc sống hàng ngày và trong những mối quan hệ thân tình, gia đình. đất nước bình dị, gần gũi và thân thuộc nhất trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người Việt Nam: câu chuyện cổ tích ông kể, miếng trầu ông ăn, gừng cay, muối mặn, hạt gạo … >
mẫu 5
Khi chúng ta lớn lên, đất nước có nó. quê hương có nó trong câu “ngày xửa ngày xưa …” mẹ vẫn thường nói. Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ bà ăn nên làm ra. quê mẹ lớn lên khi dân ta biết tre đánh giặc, mẹ đóng đinh cha mẹ thương nhau muối cay, áo giáp, cơ cực thành danh hạt thóc. gạo phải xay, giã, nát, sàng … đất nước đã có từ ngày đó …
khổ thơ đầu (9 câu đầu): sau khi trải qua hai quá trình “khởi đầu” và “trưởng thành” của đất nước, tác giả khẳng định: “đất nước tồn tại từ ngày ấy…” – từ rất xa xưa. cái cũ thường là nước ngoài, nhưng đất nước thì không: đất nước gần gũi với mọi người.
mở đầu bằng câu nói đơn giản nhưng cô đọng: “khi ta lớn lên, đất nước đã có”. đất nước trở thành tổ tiên. họ đều là những người phục vụ đất nước… gợi lại điệp khúc “ngày xửa ngày xưa…”, tác giả muốn cho thấy đất nước được hình thành từ lâu đời, đất nước trong từng lời ru của mẹ.
gắn liền với sinh hoạt gia đình: “đất nước bắt đầu từ miếng trầu mà bây giờ mới ăn”. Quatrain này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao, câu chuyện trầu cau đầy bi thương và tình cảm. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm đã “nhân hoá” thơ mình và có thêm minh chứng về đất nước đã hình thành từ lâu. Tuy nhiên, đất nước chỉ lớn mạnh với truyền thống: “Dân ta biết trồng tre đánh giặc” và quá trình hình thành nhiều phong tục tập quán:
Tóc của mẹ được vén ra sau
nguyen khoa diem xúc động khi nhắc đến câu: “Cha mẹ thương nhau muối cay gừng”. là sự tôn vinh lòng biết ơn và sự trung thành trong lúc khó khăn. chữ “tang” giúp thơ chị đến gần với văn học bình dân. “khi ta lớn lên, đất nước đã có” – điều đó hiển nhiên như khi ta lớn lên đã có ông bà, cha mẹ… đất nước gắn bó, thân thiết như ruột thịt và bao công việc khác. :
cây chùm, cây sào nhân danh hạt gạo phải được xay, nghiền, xay, rây
Khi đó con người khép lại thời kỳ “man rợ” và bước sang giai đoạn văn minh. câu quatrain “dầm, cột thành tên” cũng gợi lên một phong tục dân dã là đặt tên cầu mong hòa bình. nước ta gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước: “hạt gạo phải giã, nát, xay, sàng”. để làm ra những hạt gạo trắng thơm cần trải qua nhiều công đoạn, mồ hôi nước mắt. quá trình xây dựng quốc gia cũng đau đớn như quá trình mang thai và sinh nở của con người.
Từ những phân tích trên, có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác triệt để vốn văn học dân gian. Một số câu tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, truyện cổ tích, phong tục, tập quán đã được tái hiện, tái hiện. không chỉ hay về ngôn từ, cấu trúc và phần kết đã gây được ấn tượng lớn. “Đất nước lớn lên đã có”, đất nước bắt đầu, đất nước phát triển… từng bước đi song hành với cuộc sống của nhân dân. tác giả đưa ra nhiều dẫn chứng để làm sáng tỏ kết luận: “đất nước có từ ngày ấy…” – từ “xưa mẹ từng kể”. Trong quá trình này, đất nước gắn kết với từng gia đình và từng cá nhân. đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục phát triển ý tưởng đất nước này là đất nước của những con người trong ba khổ thơ tiếp theo.
hiển thị 6
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm là một trong những nhà văn tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong suốt những năm dài đấu tranh chống phá mỹ học của đất nước. thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc thiết tha và những suy tư sâu sắc của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Nổi lên với phong cách sáng tác của ông là tác phẩm “Sử thi mặt phố” do ông sáng tác trong chiến tranh tri kỷ. vùng in năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của thanh niên thành thị vùng tạm chiếm miền Nam về trách nhiệm với đất nước và thế giới, với chính hệ thống của mình, trên hết là hòa mình vào cuộc chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược. Đoạn trích từ bài thơ “patria” được tìm thấy ở đầu chương v của bài hát trên tường. 9 dòng đầu của đoạn trích là 9 dòng thể hiện quan điểm sống của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
với 9 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện một cách nhìn mới về cội nguồn của đất nước:
Khi chúng ta lớn lên quê hương đã có quê hương trong “ngày xửa ngày xưa …” Mẹ nói quê hương bắt đầu từ hạt cau mà nay ăn quê hương lớn lên khi dân ta biết trồng tre để chống. giặc, tóc mẹ bới sau mái đầu cha mẹ yêu thương muối cay gừng, giáp, sào làm nên tên hạt gạo phải xay, giã, nát, rây. đã ở đó kể từ ngày đó …
ở phần mở đầu, tác giả muốn khẳng định rằng “khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”. Tôi không biết đất nước được hình thành từ khi nào và chỉ biết rằng khi chúng ta lớn lên thì đất nước đã ở đây rồi. đó là một tuyên bố chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.
sau khi khẳng định chắc chắn sự tồn tại của đất nước, tác giả dần mở ra bức màn cho chúng ta thấy rõ hơn về cội nguồn của đất nước:
Đất nước ở “ngày xửa ngày xưa …” mẹ tôi thường nói. đất nước bắt đầu với miếng trầu mà bây giờ nó đã ăn
câu thoại “ngày xửa ngày xưa” là lời mở đầu của mỗi câu chuyện cổ tích mà các bà, các mẹ thường kể cho con cháu nghe. Không biết từ bao giờ, chỉ có từ “ngày xửa ngày xưa” để hình thành đất nước là đã có. những câu chuyện cổ tích huyền thoại được sinh ra từ đất nước.
là hình ảnh đất nước của một nền văn hóa dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. đối với nhà thơ, hai chữ “nhà quê” cũng bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn. Người xưa thường nói “miếng trầu là đầu lịch sử”, có lẽ vì tục ăn trầu là một trong những phong tục lâu đời nhất ở Việt Nam chúng ta.
Hình ảnh “miếng trầu” cũng giống như hình ảnh ở phần đầu. đất nước tồn tại từ khi dân tộc có tục ăn trầu và tục ăn trầu của người dân cũng là sự khởi đầu của một đất nước, khởi đầu của một nền văn minh.
sự khởi đầu của một cuộc đời và những bước trưởng thành của cuộc đời đó. sau sự khởi đầu của một đất nước là sự lớn mạnh của cả một quốc gia:
đất nước phát triển khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc
kể từ những năm trước thời đại của chúng ta, kể từ thời của hai bà trung và bà. triệu, là lần đầu tiên cả nước ta kiên cường đứng lên khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. từ truyền thuyết linh thiêng với hình ảnh nhổ cọc tre cao đánh giặc.
Cây tre còn là biểu tượng của người nông dân Việt Nam nhân hậu, thật thà, cần cù, chất phác nhưng cũng rất kiên cường, bất khuất. từ hình ảnh hiện thực đến đời sống tinh thần là bước đi lên từng bước trưởng thành của một dân tộc, một đất nước và một dân tộc. ý thức về đất nước, sự tồn tại của đất nước và ý thức trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
hiển thị 7
Đất nước của nguyên khoa cử là một trang thơ đầy lý lẽ nhưng thấm đẫm cảm xúc. do đó, tuy viết về đề tài cũ, quen thuộc nhưng cách khai thác chất liệu mới mẻ, sáng tạo đã giúp nhà thơ tạo được dấu ấn riêng trong lòng người đọc. đặc biệt 9 câu thơ mở đầu Đất nước trong mạch cảm xúc trăn trở, tìm về cội nguồn lịch sử của dân tộc đã thể hiện rõ điều đó.
“Khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có, đất nước ở“ ngày xửa ngày xưa… ”mà mẹ vẫn thường nói”
Đất nước ngày càng phát triển, được hình thành và xây dựng từ khi chúng ta còn là những đứa trẻ thơ dại, những tiếng khóc đầu đời, từ cội nguồn văn hóa sâu xa, trước hết là ở đây, hiện diện trong lịch sử của người mẹ. . người mẹ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện cổ tích ngày xưa thấm đẫm những câu chuyện dân gian thơ mộng, lãng mạn chứa đựng bao hy vọng, ước mơ của những người dân lao động nghèo, về hình ảnh đất nước một nắng hai sương từ đó. tức là đất nước đã gắn liền với mỗi người từ thuở ấu thơ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất, nên đất nước hiện lên không phải là hình ảnh con bọ cạp non choẹt và cao cả. , giang sơn đẹp đẽ trong thơ ta. Tôi đã từng thấy, nhưng nó đẹp ở những nét riêng mộc mạc, gần gũi và giản dị. rồi tiếp tục dòng chất liệu dân gian, hình ảnh đất nước như được dựng nên, tạo nên vẻ đẹp lịch sử, sâu sắc từ phong tục tập quán của người Việt cổ, trong truyền thống lý luận lịch sử anh hùng của nhân dân:
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà ông ăn mày. Đất nước lớn lên người biết trồng tre đánh giặc, tóc mẹ bới sau mái đầu cha mẹ yêu thương chấm muối gừng cay. , một cái giàn và một cái cột được đặt tên ”
Hình ảnh miếng trầu có lẽ đã trở nên quá đỗi quen thuộc trong ca dao, dân ca, thậm chí là cả những câu hát giao duyên của các cặp đôi: miếng trầu là miếng trầu, ăn đến nỗi môi đỏ mọng. Việc mượn chất liệu dân gian gắn với nét đẹp của phong tục văn hóa để trả lời câu hỏi về cội nguồn lịch sử đất nước đã giúp câu văn của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan về mặt triết lý mà thấm đẫm chất cổ kính, mượt mà, bay bổng. thì ngay cả những di tích về cuộc đánh giặc cũng được liệt kê một cách khéo léo trong mạch thơ, tạo nên sự hài hòa về chất liệu bình dân. truyền thống cũng vậy, với cái tên mộc mạc, giản dị của người Việt cổ, kết hợp những yếu tố đó, nguyên khoa học muốn khẳng định rằng đất nước không chỉ có trong ký ức tuổi thơ, mà còn hòa mình sâu sắc trong cội nguồn văn hóa, tạo nên một nét đẹp riêng. gần gũi, bình dị và được độc giả yêu thích đến lạ khi cảm nhận tác phẩm.
không chỉ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi về sự hình thành đất nước, nhà thơ còn gián tiếp gợi lên hình ảnh người dân lao động, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc anh em.
gạo phải được nghiền, giã, xay, sàng và nước đã có từ ngày đó…
Thông qua việc vận dụng sáng tạo chất liệu dân gian, 9 khổ thơ đầu đã giúp Nguyễn Khoa Điềm không chỉ trả lời được câu hỏi về nguồn gốc, lịch sử hình thành đất nước mà còn ghi nhớ sâu sắc nhất. trong lòng người đọc là nét đẹp văn hóa, phong tục từ ngàn đời nay được nuôi dưỡng, nuôi dưỡng và từ đó như một cánh cửa, dẫn dắt chúng ta đi ngược lên những nét đẹp cổ kính bình dị của dân tộc.
hiển thị 8
Bài thơ Đất Nước, trích trong sử thi Khát vọng mặt đường của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, là một bài thơ hay và xúc động về tình yêu của một người con đất nước đối với quê hương thân yêu của mình. bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, giàu giá trị văn hóa và nhân văn, được thể hiện qua 9 dòng đầu của bài thơ.
đất nước là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng nhưng rất gần gũi:
“Khi ta lớn lên, đất nước có, đất nước có, ngày xưa mẹ ta bảo đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả đó, đất nước lớn lên khi dân ta biết bao. trồng tre đánh giặc… ”
bốn từ “ngày xửa ngày xưa” rất quen thuộc với chúng ta. nó xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể, trong những lời ru chân thành của người mẹ ru con vào giấc ngủ ngon. nó cho thấy sự kỳ diệu của sự ra đời và phát triển của đất nước, về những nét đặc trưng rất riêng của con người cả nước. hình ảnh đất nước đồng thời bình dị, gần gũi và vô cùng thiêng liêng bởi nó gắn liền với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng bằng sự trao truyền từ đời này sang đời khác, những “thuở xưa” ấy là bao kỉ niệm cho những người lịch sử. và toàn bộ văn hóa. thành tích trong quá khứ. Đất nước được nói đến qua các khía cạnh, bắt đầu bằng miếng trầu, biểu thị rằng đất nước đã được định hình thành một lối sống có ý nghĩa. “Miếng trầu mở đầu câu chuyện” thể hiện lối sống giản dị, chân chất của người dân tứ xứ. lối sống ân cần đó đã trở thành truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. đất nước được hình thành trong tình yêu thương nhưng lớn lên và trưởng thành qua cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc
“Tóc mẹ chải sau đầu cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn, lọn tóc buộc thành tên hạt gạo phải xay, giã, xay, rây”
“Tóc mẹ hất ra sau đầu” hình ảnh người phụ nữ Việt Nam buộc tóc sau đầu, hình ảnh rất gần gũi, thân quen đã khắc sâu trong suy nghĩ, gợi bao suy nghĩ về con người trong cuộc sống bộn bề. duyên dáng, xinh đẹp, dịu dàng, dũng cảm. hình ảnh ấy qua năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn chiêm ngưỡng vẻ đẹp giản dị mà thiêng liêng.
Đất nước còn xuất hiện gắn với lối sống cao đẹp, là cội nguồn của sự sống, đó là ân nghĩa vợ chồng. Người Việt Nam xưa nay luôn coi trọng đạo lý, coi hôn nhân gia đình là thiêng liêng, đáng trân trọng. cha mẹ sinh ra đã coi điều đó không phải là nuôi dạy con cái hết trách nhiệm mà đó là tình yêu thương, là niềm vui của tình cảm gia đình, càng vui hơn. cuộc sống tuy vất vả nhưng lòng chung thủy, son sắt “vợ chồng đánh biển đông cũng cạn” đã giúp người Việt vượt qua tất cả. cuộc sống bấp bênh, nhiều khó khăn, vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối bỏ bể”, nhưng chính vì thế mà người ta càng quý trọng hạnh phúc.
ý thơ tuy giản dị nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc. tình yêu thương được sinh thành và nuôi dưỡng từ nghèo khó, từ hoàn cảnh khó khăn thật đáng quý biết bao. đó là lối sống nghĩa tình, thủy chung đã trở thành truyền thống thiêng liêng được truyền từ đời này sang đời khác. cũng chính tình cảm quý báu đó là tấm gương, là bài học quý báu cần truyền lại cho các thế hệ mai sau về cách sống nhân hậu, nhân hậu.
Nông thôn còn gắn liền với những hình ảnh “cây xà, cái đăng” giản dị, mộc mạc, nhưng chính những điều bình dị, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, phố thị, quê hương, đất nước. đất nước hiện lên qua cuộc sống lao động: “hạt gạo phải được xay, giã, xay, sàng”. sự hình thành và phát triển của đất nước là một quá trình lâu dài, nhờ mồ hôi công sức, một nắng hai sương. người lao động đã biết “xay, giã, xay, sàng” để tạo ra những hạt gạo xây dựng quê hương đất nước phồn vinh. những bức ảnh trên đều rất gần gũi và chân thực. Cũng chính để vươn lên, trưởng thành trong gian khó, nhân dân ta mới biết yêu thương nhau, biết đoàn kết hơn, biết quý trọng giá trị của công việc và hun đúc ý chí kiên cường, dũng cảm.
nguyen khoa diem có một góc nhìn rất gần gũi và quen thuộc để mô tả đất nước. đến với bài thơ ta càng hiểu thêm quê hương đất nước với những truyền thống, văn hóa đáng trân trọng và ngợi ca. quê hương trong chúng ta là tình cảm gần gũi và thân thương nhất.
kiểu 9
Cảm hứng về đất nước, về tầm vóc tự hào của ông là cảm hứng quen thuộc trong thơ ca hiện đại giai đoạn 1945 – 1975. Ai cũng có thể nhận ra rằng kể từ sau cách mạng tháng Tám, dân tộc và quê cha đất tổ đã thực sự trưởng thành từ các bậc thánh nhân. đó là hiện thực, là tiền đề thẩm mỹ từ những tình cảm quý báu trên vóc dáng con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ, lớn lên trong thời chống Mỹ, có tình yêu sâu nặng với sông núi, nhà trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng đã mang tiếng nói của chính mình để khẳng định sự trưởng thành đó. với 9 dòng đầu của bài thơ “đất nước” từ sử thi “phố khát vọng”, Nguyễn Khoa điểm đã có những cảm nhận mới về đất nước.
Điểm rất mới của Nguyên khoa học là đề cập đến một chủ đề đất nước rất chung chung, nếu không muốn nói là trừu tượng, nhưng hình tượng thơ và chất liệu nhạc cụ để xây dựng nên tầm vóc đó lại không thật cụ thể, gần gũi. để thể hiện sự tồn tại của đất nước này trong chiều sâu thời gian, chiều rộng của không gian, trong đoạn văn mở đầu đã chú trọng sử dụng nhiều hình ảnh rất cụ thể, gần gũi, thân thương nhưng đồng thời có sức liên tưởng và sức khái quát cao. . đặc biệt, ông đã kết nối để tạo nên một mạch thơ về sự tồn tại của đất nước với sự ám chỉ có. Thông điệp này đã kết nối những hình ảnh tưởng chừng như không liên quan lại thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự tồn tại của cả truyền thống và tình cảm sâu nặng đối với đất nước như một nét riêng không gì dung hòa được. Hãy cùng nghe nhà thơ bày tỏ suy nghĩ của mình.
khi tôi lớn lên đất nước có nó đất nước có nó trong “ngày xửa ngày xưa …” mẹ tôi thường nói đất nước bắt đầu bằng miếng trầu mà bây giờ bà ăn đất nước lớn lên khi chúng ta con người đã biết trồng tre khi đánh giặc, mái tóc mẹ bới sau mái đầu cha mẹ thương yêu gừng cay muối mặn áo giáp, cây sào làm nên tên tuổi hạt gạo phải mài, giã. , dần dà, đất nước đã có từ ngày đó …
Đọc đoạn văn, chúng ta không thể không nhận thấy những hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng của nhà thơ về sự tồn tại của đất nước. mỗi hình ảnh gợi lên một sự hiện hữu khẳng định nét riêng không lẫn vào đâu được của đất nước này. “Ngày xửa ngày xưa”, một ngôn ngữ mở đầu cho truyện cổ tích; hình ảnh người bà – nhà thơ muốn nói đất nước này đã có từ lâu đời, có từ thuở “mang gươm đi bảo vệ tổ quốc – ngàn năm thương nhớ đất thăng long”, thời điểm mà nam quốc đó ha. Từ đó, đất nước ngày càng phát triển với những phong tục, bản lĩnh của một dân tộc đầy tình, nghĩa, chí sẵn sàng hy sinh khi đất nước lâm nguy. gần gũi và thân thương biết bao khi đất nước còn tồn tại, nó vừa nhỏ bé, vừa xúc động biết bao trong hạt cau giờ nó ăn. đây là sự liên tưởng rất sáng tạo, mang đầy đủ những nét đẹp về phong tục, tập quán và bản sắc quê hương:
Tóc mẹ chải sau mái đầu yêu thương của cha mẹ bằng gừng cay cay
có bàn tay, trái tim, nhân dân lao động, nhân dân lao động, một nắng hai sương. nhất là ở đó, có một tồn tại phải đánh đổi bằng máu, xương, mồ hôi, nước mắt của cả một dân tộc luôn rũ bỏ chân lấm tay bùn để vươn lên khẳng định mình.
Gạo phải được xay, nghiền nhỏ, dần dần, rây. đất nước tồn tại kể từ ngày đó …
cũng trong câu ca dao này, ngoài hình ảnh, đại từ được dùng để tạo nên mối quan hệ tình cảm gắn bó máu thịt của cộng đồng người Việt. dường như với cách gọi này, tất cả họ đã đến với nhau, hội tụ, đoàn kết và chung một dòng máu, một dòng máu tiên – rồng. đó là từ mẹ, cha, bà, dân tộc ta thật ngọt ngào trong những cách tiếp cận bản sắc Việt thân thương ấy. tạo nên phong cách, khiếu thẩm mỹ về đất nước, con người Việt Nam thân thiện, trung thành, giàu truyền thống, giàu lòng biết ơn và đạo lý làm người. ở đoạn thứ hai, tác giả suy nghĩ và chiêm nghiệm về những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất cụ thể về đất nước.
Có thể khẳng định, thế mạnh của bài thơ là do hình ảnh đa dạng, phong phú và đa dạng. tất cả đều được miêu tả bằng giọng thơ rất tự nhiên, trầm lắng theo thể thơ: văn xuôi, thơ tự do càng làm tăng thêm hiệu quả thẩm mĩ. Điều đáng nói là từ những hình ảnh này, với sức suy nghĩ trăn trở của một trí thức trẻ, khả năng khơi gợi, cộng hưởng và liên tưởng của thơ càng lớn. đủ để khái quát đầy đủ tầm vóc, vị thế và vị thế của một đất nước trong bình lặng ấy, tự hào về bề dày lịch sử, bề dày và chiều sâu của thời đại. nó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại và tương lai. một người đẹp nói như thể cô ấy là một nhân tố:
chúng ta đang ở đây để nhìn ra bốn hướng, nhìn về quá khứ, nhìn về tương lai, nhìn về phía bắc, nhìn về phía nam, nhìn ra toàn thế giới.
vì vậy đất nước đã có từ khi mẹ tôi thường kể những câu chuyện cổ tích, khi dân tộc ta biết trồng tre đánh giặc, trồng lúa, trồng khoai, ăn trầu, thắt nơ. ở chân tơ kẽ tóc, cách sống nghĩa tình, thủy chung. lịch sử đất nước thật giản dị, thật gần gũi, đồng thời cũng thật xa xăm, thật thiêng liêng. mảnh ghép “Đất nước khúc hát dài khát vọng” xứng đáng là khúc tráng ca, hùng tráng và thơ mộng về quê hương, đất nước và con người Việt Nam.
………….
tải tệp xuống để xem thêm các bài văn mẫu phân tích 9 câu đầu của một bài văn ngắn
Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích 9 câu thơ đầu bài đất nước. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.
Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/
Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.
Chúng tôi Xin cám ơn!