Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
303 lượt xem

Phân tích Chạy giặc ấn tượng nhất (6 Mẫu) – Văn 11

Bạn đang quan tâm đến Phân tích Chạy giặc ấn tượng nhất (6 Mẫu) – Văn 11 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích Chạy giặc ấn tượng nhất (6 Mẫu) – Văn 11

Phân tích bài thơ Chạy trốn giặc của Nguyễn Đình Chiểu gồm tóm tắt và 6 bài văn mẫu ấn tượng nhất. từ đó giúp các bạn học sinh lớp 11 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, nâng cao kiến ​​thức, bí quyết và cách giải các bài toán đặt ra trong bài toán. từ đó viết nhanh một bài văn phân tích hay.

Giặc chạy là một bài thơ có giá trị lịch sử lớn. Nó ghi lại những sự kiện đau thương trên đất nước ta vào cuối thế kỷ 19. Chạy trốn quân thù là bài ca yêu nước căm thù giặc “quật khởi, hướng tới khát vọng độc lập, tự do”. vì vậy, đây là 6 bài viết phân tích đang chạy hàng đầu, hãy theo dõi chúng tôi tại đây.

lược đồ phân tích bài thơ chạy trốn

i. giới thiệu:

– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác: năm 1859, thực dân Pháp xâm lược Gia Định, cụ Nguyễn Đình Chiểu viết bài chạy trốn giặc.

– giới thiệu (viết bài thơ).

– đổi: phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

ii. nội dung:

1. hai chủ đề:

– từ chính xác và mô tả, hình ảnh chân thực và sống động: phá chợ, trung cuộc, đánh tây, cờ vua, phút tay đôi.

– những phát súng của giặc Pháp bất ngờ vang lên, tàn phá cuộc sống bình yên của nhân dân ta và đẩy đất nước ta vào chỗ hiểm nghèo, thất bại toàn diện.

– Cảm xúc ở đầu bài thơ: bàng hoàng, tuyệt vọng.

2. hai câu thực:

– ẩn dụ, đảo ngữ, trạng từ gợi lên hình ảnh về sự hỗn loạn và mất trật tự trong con người chúng ta: lười biếng, không mạch lạc.

– nhịp chẵn – lẻ của thơ tang lu thể hiện một nỗi xót xa:

chạy trốn / lũ trẻ / chạy trốn,

mất tổ / đàn chim / bay hoang dã.

– nỗi thống khổ của người dân chúng tôi trong trận chiến.

3. hai bài luận:

– Biện pháp đảo ngữ vẫn được sử dụng, hình ảnh gợi lên: quê hương yêu dấu của người dân quê hương, đồng nai, bị giặc tàn phá, cướp bóc, tiền tan, tranh ngói nhuốm mây.

– lời tố cáo tội ác của kẻ thù vừa cụ thể vừa khái quát bằng một giọng thơ u uất và đầy căm thù.

– tội ác man rợ của những kẻ xâm lược.

4. hai câu cuối cùng:

– Ngôn ngữ châm biếm sắc bén (cái này không nói suông, cho dân đen), than thở rằng nhà Nguyễn sợ giặc, để dân khổ.

– cảm giác kinh ngạc trước cảnh mọi người bắt tay vào làm.

iii. kết luận:

– Giá trị hiện thực: tái hiện cảnh nhân dân chạy trốn giặc trong những ngày thực dân Pháp nổ súng xâm lược miền Nam.

– Giá trị tư tưởng, tình cảm: thể hiện lòng yêu nước, yêu nhân dân nhiệt thành, căm thù quân xâm lược tàn bạo.

phân tích bài thơ chạy trốn

Bài thơ “chạy trốn giặc” là một bài ca yêu nước chống giặc ngoại xâm. Năm 1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. đất nước lâm vào thảm họa: Nguyễn Đình Chiêu viết bài thơ “chạy trốn giặc theo thể thơ bảy chữ, tang lu ghi lại sự kiện bi thảm này.

Hai câu nói về thời đại và thế giới. giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc “tan chợ”:

“Sau khi chợ đóng cửa, tôi nghe thấy tiếng súng, bàn cờ rơi vào không trung”

cảnh họp chợ, cảnh họp chợ cuối cùng là nhịp sống êm đềm của nhân dân ta. vụ nổ bất ngờ của một loại vũ khí trên bầu trời đã làm đảo lộn nhịp sống đó. Chiến tranh đã bắt đầu. “bàn cờ” là hình ảnh ẩn dụ về thời cuộc, về chiến tranh khốc liệt và khốc liệt.

ba “phút trở tay” trong câu thơ “một bàn cờ thế gian” nói rằng sự thất thủ của quân triều đình ở thành Gia Định xảy ra quá nhanh. Hai dòng đầu như một lời thông báo về một sự kiện lịch sử bi tráng xảy ra vào năm 1859. Sau dòng là nỗi đau xót và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng, đóng cửa và bị chà đạp.

hai câu trong phần thực đối lập, phép đảo ngữ được sử dụng nhuần nhuyễn: các vị ngữ “bỏ nhà đi”, “mất nhà” được đặt ở đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau tang tóc của nhân dân ta trong chiến tranh. .overflow method:

“Họ bỏ nhà đi, lũ trẻ bỏ chạy, mất tổ, chim bay mất”

Nếu viết “lũ trẻ bỏ nhà chạy đi” và “đàn chim bay mất tổ” thì mất hết ý nghĩa và giá trị biểu cảm của câu thơ! các từ “lười biếng” và “bị thách thức” diễn tả sự hoảng loạn và kinh hoàng tột độ. cảnh trẻ con bị thất lạc, tổ ấm là hai bài thơ được chọn lọc, tiêu biểu trong văn học dân gian miêu tả cảnh đua xe. kẻ thù đã vô cùng bi thảm.

hai bài văn, ý thơ được phát triển và mở rộng. tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp bóc quê hương. các phép đối và nghịch được sử dụng một cách sáng tạo. nhà thơ không viết: “bến nước bến tan” và “ngói tranh đồng nai lấm tấm mây” mà viết:

“bến tàu tan tiền, mây nhuộm đồng nai”

câu thơ vẽ nên một vùng địa lý rộng lớn, trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) lập tức hóa tro. Vào thế kỷ 19, Đồng Nai từng là kho thóc, thương điếm sầm uất trên bến dưới tàu, nhưng đã bị giặc Pháp tàn phá. tiền bạc, tài sản của nhân dân ta bị quân xâm lược “tan đàn xẻ nghé”, nhà cửa, phố thị quê hương nhà thơ bị thiêu rụi, khói lửa “tan thành mây khói”. hai hình ảnh so sánh “bọt nước tan” và “mây mờ” là cách nói bình dân cụ thể để miêu tả cảnh hoang tàn do giặc Pháp gây ra.

Có thể nói hai cặp câu ở phần thực và phần luận, đó là giọng căm thù của nhà thơ lên ​​án tội ác của giặc Pháp. người đọc cảm nhận sâu sắc bài thơ “chạy trốn giặc” đã được “hồi sinh và hướng về ta như những bài ca yêu nước”. sau này các nhà thơ Việt Nam đã học tập và kế thừa cụ Nguyễn Đình Chiêu viết nên những vần thơ căm thù giặc ngoại xâm:

“Bỗng cuối mùa giặc đến cổng chùa, thân cau đỏ rực”

(núi đôi – vũ cao)

“Giặc quay giặc lấy máu đau thấu xương, lòng sông đau thấu cây cối”

(quê hương -tu)

Hơn một thế kỷ qua, xương máu của bao người đã đổ bởi bom đạn, lũ lụt. vì vậy ngôn từ căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước. Trở lại hai câu cuối của bài “chạy giặc”, chúng ta không khỏi xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:

“yêu cầu page ngừng hỗn loạn, nếu bạn để những người da đen phải chịu đựng vấn đề này?”

trang bạo ”cũng là trang của những anh hùng liệt sĩ. nhà thơ trách móc quân triều đình bạc nhược, thua trận để giặc chiếm đất mẹ, mong người anh hùng tài giỏi đánh giặc cứu nước, cứu nước. Những con người cùng khổ.nguyen dinh chieu cho nhung nguoi noi tieng trong bom đạn! “Chạy trốn giặc” là bài ca yêu nước mở đầu cho nền thơ ca yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỷ 19.

bài thơ “chạy trốn giặc” được viết bằng ngôn ngữ mộc mạc, bình dị mang đậm màu sắc phương Nam (trẻ em lười biếng, ngoan ngoãn, tan tác, tan trong bọt nước, mây nhuộm, ổ khóa, ổ khóa, màu đen) Phép đảo ngữ và phép ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả áp dụng một cách sáng tạo để viết nên những bài thơ súc tích và giàu sức biểu cảm.

“Chạy trốn giặc” là một bài thơ có giá trị lịch sử to lớn, nó ghi lại những sự kiện đau thương của đất nước ta vào cuối thế kỷ 19, nó là một bài ca yêu nước, căm thù giặc ”sống động và hướng về Người. Tôi khao khát được độc lập và tự do. “

phân tích thực thi tốt nhất

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của nước ta ở thế kỷ XIX, tuổi trẻ bị mù hai mắt, con đường, công việc còn dang dở, nhưng ông không chịu ngồi yên trước những bất hạnh cay đắng mà ông đã mở ra. dạy học, làm bác sĩ chăm sóc sức khỏe nhân dân, làm thơ, làm thơ, thành danh, trở thành ngôi sao sáng của nghệ thuật Việt Nam cuối thế kỷ 19.

Tên tuổi của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ kinh điển như “Lục Vân Tiên”, “Ngự tiêu thần dược” … là đỉnh cao trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà Nguyễn. Đình chiêu là những bài thơ hy sinh, những bài thơ yêu nước như “chạy giặc”, “lập cảnh”, “văn chương cống hiến”, “liệt sĩ cần văn”, v.v.

Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm Pháp thuộc ở miền Nam, có ý kiến ​​khẳng định: “Những sáng tác của ông đi vào cuộc sống và hướng về chúng ta như những bài ca yêu nước …”. Nếu như những bài thơ “bạch vân tiên sinh”, “chuyện người đánh cá”,… tỏa sáng những tư tưởng nhân văn cao đẹp, thì những hy sinh, những bài thơ như “chạy giặc” đã “sống lại và đối với chúng ta như những bài ca yêu nước”. .

những bài thơ, văn xuôi của cụ Nguyễn Đình Chiểu “ca ngợi những anh hùng suốt đời trung thành với đất nước, than thở những nghĩa sĩ đã vì dân. miêu tả chân thành tình cảm của dân tộc đối với người nghĩa quân vốn là nông dân, xưa kia chỉ biết cày cuốc, nay bỗng trở thành anh hùng cứu nước. ” “binh khí của giặc”, những “người làng kỳ lân” chân đất vùng lên đánh giặc với lòng căm thù sôi sục:

“ngày tôi nhìn thấy bọt bao phủ trắng, tôi muốn đến ăn gan, ngày tôi nhìn thấy ống khói biến thành màu đen, tôi muốn ra ngoài và cắn cổ mình”

Họ đánh giặc để bảo vệ “tấc đất, tấc đất”, giữ “bát cơm, manh áo” nên chỉ cần dao mài, gậy gộc xông vào trận mạc. tư thế chiến đấu vô cùng kiêu hãnh và dũng cảm:

“Những người lính bắn pháo bị đánh bằng rơm, họ cũng đốt ngôi nhà tôn giáo khác, và gươm giáo đeo gươm, và họ cũng chặt đầu của hai viên quan khác.”

(cần có nhà từ thiện văn học)

Quê hương bị giặc Pháp giày xéo, nhưng dù mù lòa nhưng ông vẫn dùng ngòi bút và tấm lòng của mình để tham gia chống giặc. anh ấy gọi lòng trung thành của mình là “tôn giáo”, trung thành, mỉa mai, rực rỡ:

“Đời ưa giấu giếm đôi mắt, lòng nhân hậu xin soi gương”

Có thể nói, những câu văn, những vần thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tinh thần yêu nước, đã “hồi sinh và dìu dắt chúng ta như những bài ca yêu nước … chính vì vậy mà ước mơ của chúng ta thành hiện thực. Nó vẫn là ước mơ của hàng triệu người Tiếng Việt”. những người ở thế kỷ trước:

“Chỉ cần ân điển của thánh đế tỏa sáng, mưa sẽ rửa sạch núi sông.”

(cảm xúc)

phân tích công việc bỏ chạy

Đừng nói đến cảnh dân chúng chạy giặc mà trước hết, hãy chú ý đến những phát súng nổ ra cuối chợ. tức là trước khi nổ súng, chợ vẫn họp bình thường. cuộc sống hoàn toàn yên bình. cuối buổi chợ, buổi sum họp gia đình bắt đầu. những đứa em đợi ông xuất hiện, con cái đợi cha mẹ, chắt đợi ông bà. một khung cảnh bình dị, tươi vui sẽ diễn ra trong mỗi nhà với những thức quà bình dị của chợ quê: củ khoai, bánh ngô, vài cọng mía, vài nắm bắp rang bơ trộn mật ong … cả nhà quây quần. quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua và miếng cá kho tộ; hay đơn giản hơn, đó chỉ là râu tôm nấu với bí đao … tiếng súng nổ ra ngay lúc đó, đột ngột, đột ngột, cực kỳ bạo lực.

XEM THÊM:  Bài văn tả nhân vật trong truyện doraemon

Súng Tây lúc đó nổ rất mạnh, súng địch ầm ầm. khi anh nghe thấy tiếng súng, kẻ thù đã ở ngay bên cạnh anh. Tôi mới nghe vậy mà vỡ cả bàn cờ. thất bại đến nhanh chóng. thời lượng ngắn làm tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ và căng thẳng của tình hình. và vì vậy thay vì một cảnh gặp gỡ yên bình, một cảnh hỗn loạn và lộn xộn sẽ phá vỡ:

ra khỏi nhà, lũ trẻ bỏ chạy, mất tổ sóc bay

Hai câu nói về thời đại và thế giới. giặc Pháp tấn công vào thành Gia Định ở cuối chợ:

sau khi phiên chợ kết thúc, tôi nghe thấy tiếng súng, bàn cờ rơi xuống.

cảnh họp chợ, cảnh họp chợ cuối cùng là nhịp sống êm đềm của nhân dân ta. vụ nổ bất ngờ của một loại vũ khí trên bầu trời đã làm đảo lộn nhịp sống đó. Chiến tranh đã bắt đầu. bàn cờ là hình ảnh ẩn dụ về thời cuộc, về cuộc chiến tranh khốc liệt và đẫm máu. Ba tiếng rơi tay trong câu thơ “Một bàn cờ phút lâm chung” nói lên sự thất thủ nhanh chóng của quân triều đình ở kinh thành Gia Định. Hai dòng đầu như một lời thông báo về một sự kiện lịch sử bi tráng xảy ra vào năm 1859. Sau dòng là nỗi đau xót và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng, đóng cửa và bị chà đạp.

hai câu trong phần thực đối lập, phép đảo ngữ được sử dụng khéo léo: vị ngữ bỏ nhà, mất nhà được đặt ở đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp kéo đến:

ngôi nhà bỏ hoang, lũ trẻ bỏ chạy, mất tổ chim bay.

Nếu tôi viết rằng lũ trẻ bỏ nhà chạy đi và đàn chim mất tổ bay đi mất hết ý nghĩa và giá trị biểu cảm của câu thơ! từ giao phối lười biếng và cẩu thả gợi lên sự hoảng sợ và kinh hoàng đến cùng cực. Cảnh trẻ con lạc đàn và chim vỡ tổ là hai bài thơ chọn lọc tiêu biểu của văn học dân gian miêu tả cảnh chạy trốn giặc vô cùng bi tráng.

hai bài văn, ý thơ được phát triển và mở rộng. tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, trộm cướp, tàn phá quê hương. các phép đối và nghịch được sử dụng một cách sáng tạo. nhà thơ không viết: Bến nghệ tan nước, tranh ngói đồng nai nhuộm mây mà viết:

bến tàu tiền tan, đồng nai nhuộm mây.

Câu văn vẽ ở một vùng địa lý rộng lớn, trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) lập tức hóa thành tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai vào thế kỷ 10 vốn là kho thóc, nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới tàu, nhưng trong tích tắc đã bị quân Pháp xâm lược phá hủy. tiền bạc, tài sản của nhân dân ta bị địch cướp phá, phá hoại. những ngôi đình làng quê nhà thơ bị đốt cháy, khói lửa nghi ngút mây mù. Hai hình ảnh so sánh sự tan chảy của bọt nước và màu sắc của mây là những cách phổ biến cụ thể để mô tả cảnh hoang tàn do giặc Pháp gây ra.

Có thể nói, hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên ​​án tội ác của giặc Pháp. người đọc cảm nhận sâu sắc rằng bài thơ chạy trốn quân thù đã được hồi sinh và gửi đến chúng ta như một bài ca yêu nước. sau này các nhà thơ Việt Nam đã học tập và kế thừa cụ Nguyễn Đình Chiêu viết nên những vần thơ căm thù giặc ngoại xâm:

bỗng cuối mùa giặc đến, các ngõ chùa đều lóng lánh những khúc cau.

(núi đôi – vũ cao)

Giặc trả thù để gánh nỗi đau từ xương máu, nỗi đau từ lòng sông, nỗi đau từ cây cối.

(quê hương – phần tử)

Hơn một thế kỷ qua, xương máu của bao người đã đổ bởi bom đạn, lũ lụt. vì vậy ngôn từ căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước. Trở lại với hai câu cuối của bài, chúng ta không khỏi xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:

hãy hỏi trang rằng sự hỗn loạn đã đi đến đâu, nếu bạn để những người da đen phải chịu đựng?

trang nổi loạn cũng là một trang anh hùng. hôm nay bạn vắng nhà đi đâu: hôm nay bạn đi đâu mà không thấy mặt? nhà thơ trách móc quân triều đình bạc nhược, thua trận để giặc chiếm đất mẹ, mong người anh hùng tài giỏi đánh giặc cứu nước, cứu dân thoát khổ. Cái kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với những con người nằm lăn lóc trong bom đạn kẻ thù! chạy trốn quân thù là bài ca yêu nước mở đầu cho nền thơ văn yêu nước cuối thế kỷ X của dân tộc ta.

bài thơ chạy trốn giặc được viết bằng ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, giàu màu sắc phương Nam (thiếu nhi, thanh niên, thiếu niên, thanh niên, thanh niên, dân đen). từ trái nghĩa, đảo ngữ và ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những bài thơ súc tích và giàu sức biểu cảm.

chạy giặc là bài thơ có giá trị lịch sử to lớn. ghi lại những sự kiện đau thương trên đất nước ta cuối thế kỷ XX. Đó là một bài ca yêu nước căm thù giặc hiện lên và mang đến cho chúng ta khát vọng độc lập, tự do.

phân tích hành động của kẻ thù

Có những tác phẩm văn học trở thành bất tử khi trở thành chứng nhân của lịch sử, chúng gắn liền với niềm vui nỗi buồn của cả một dân tộc. bài thơ “chạy trốn giặc” là một bài thơ rất ý nghĩa.

Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước giặc ngoại xâm, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy trốn giặc”. bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, thể hiện nỗi đau, lòng căm thù và sự lên án của dân tộc đối với những hành động tàn ác của quân đội và lòng thương xót nhân dân:

“Tôi nghe thấy tiếng súng ở cuối chợ, … nếu tôi để những người da đen phải chịu đựng điều này?”

Hai câu kết diễn tả một hoàn cảnh bi đát của đất nước ta lúc bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Thế trận diễn ra như “bàn cờ” và bất ngờ thay đổi “thế cờ” khiến Gia Định thất thủ, Đồng Nai và Bến Nghé thất thủ. câu thơ như một lời than thở:

<3

các từ: “Tôi vừa nghe tiếng súng”, “kim phút” làm nổi bật thời gian, sự việc xảy ra đột ngột, chóng vánh, đồng thời thể hiện nỗi kinh hoàng của nhà thơ và nhân dân khi thành công. Gia đình bị giặc Tây bắt “bàn cờ” là một ẩn dụ, một cách nói dân gian, chỉ tình thế trên chiến trường, tình thế chiến tranh lúc bấy giờ (1859).

hai câu 3, 4 tả thực tả cảnh ăn chơi trác táng, chạy trốn giặc khiến nhân dân khiếp sợ. dòng chữ: “bỏ nhà đi”. “bỏ chạy” “mất tổ” “bay tứ tung” miêu tả sự tàn phá, hoang mang, lo sợ, nhà thơ lấy thế giới con người là “những đứa trẻ” và lấy thế giới tự nhiên là “bầy chim”. Hai hình ảnh này thể hiện nỗi đau của người dân trước thảm họa quê hương bị xâm lăng:

“ra khỏi nhà, lũ trẻ bỏ chạy, mất tổ chim bay”

phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn mạnh các từ “bỏ nhà đi”, “mất tổ” tạo nên một bi kịch ám ảnh về cảnh người tốt chạy trốn kẻ thù.

hai câu 5, 6 đối nhau thể hiện hai cảnh tang thương, tàn tạ ở bến tàu và đồng nai. Cách đây gần 200 năm, cầu cảng là cảnh đô thị sầm uất, trên bến dưới tàu thuyền buôn bán tấp nập. đồng nai là món cơm miền nam. tuy nhiên, có thời điểm, giặc Pháp đã bắn phá, đốt phá và cướp phá một cách dã man. tài sản của nhân dân ta bị chúng cướp phá và “tan hoang”. nhà cửa, đường phố, thị trấn của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá, tàn phá. khói lửa ngút trời, bao trùm cả một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây khói”. nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. chỉ bằng hai hình ảnh so sánh rất chọn lọc, hoán đổi: “tiền tan bọt bể”, “ngói tranh nhuốm màu mây” lên án căm thù hành động tàn ác của quân xâm lược. đầy đủ các vần điệu:

“Bến tàu tiền tan, đồng nai nhuộm mây”.

Tội ác của kẻ thù thật ghê tởm! nhà thơ dường như đang than thở về tội ác tày trời của giặc Pháp:

“Nói chung đóng sông Bến Nghé, mây mù tứ phía; bố mẹ tôi vẫn ở đồng nai, canh phòng đỏ

(cần có nhà từ thiện văn học)

Sau khi thành Gia Định bị đánh tan, giặc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ. cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa, Phan văn tri, bạn thân của cụ Nguyễn Đình Chiểu, đã tức giận viết khi nghe tiếng kèn của giặc:

“tiếng kèn năm ba nghe đau đáu. Kinh đô sông rồng khói lửa, thành phố vắng buồn …”

(cảm giác)

hai câu cuối, cảm xúc ngột ngạt chợt trỗi dậy, bộc lộ tâm trạng đau khổ, trăn trở. quan tâm đến tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị Pháp bắn, giết và cướp phá. lo lắng cho vận mệnh đen tối của đất nước. câu hỏi tu từ thể hiện lòng thương xót đồng bào đau khổ trước giặc ngoại xâm:

“Yêu cầu trang chấm dứt tình trạng hỗn loạn, nếu bạn để người da đen phải chịu thiệt thòi?”

“Chạy trốn giặc” là một bài hát yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Pháp và lòng thương dân trước giặc ngoại xâm. những cảnh nhà thơ nghe thấy tiếng súng, nhìn và cảm nhận (trẻ con chạy, chim bay, đồng tiền tan trong nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật có tính hiện thực cao và có giá trị lịch sử sâu sắc. bài thơ “chạy trốn giặc” là minh chứng cho tội ác của giặc Pháp trong những ngày đầu xâm lược nước ta.

ngôn ngữ súc tích, trang nghiêm, dạt dào cảm xúc, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của cụ Nguyễn Đình Chiểu. thể hiện sự nhạy cảm về chính trị của nhà thơ yêu nước đã “đâm đầu vào kẻ xấu”. đối với ông, “thơ là một khẩu súng và một thanh gươm.”

phân tích trận chiến đang diễn ra

Nhà thơ, nhà văn được coi là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, trên thực tế, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là một trong những tác giả đó. Ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để chĩa thẳng vũ khí căm thù vào quân xâm lược, bài thơ “chạy trốn giặc” là một trong những bài thơ tả cảnh thực dân Pháp xâm lược quê hương, cũng là lời tố cáo của Nguyễn Đình Chiểu. về tội ác của anh ta.

Bài thơ được viết sau khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định, quê hương của nhà thơ (ngày 17 tháng 2 năm 1859). Nhìn cảnh đó, anh không khỏi chạnh lòng. là người yêu đất nước, dân tộc, không đau xót khi mảnh đất máu thịt bị xâm lăng, nhân dân bị áp bức dã man.

Hai dòng đầu của bài thơ đã mở ra hiện thực đất nước đầy đau thương:

“Sau khi họ đóng cửa chợ, tôi nghe thấy tiếng súng tây, một bàn cờ bị mất.”

Mở đầu cuộc tấn công của thực dân Pháp vào Gia Định là thời khắc “tan chợ”. mọi người trong chợ vừa rời đi khi vụ nổ súng bắt đầu. chắc đã có một cuộc càn quét của kẻ thù. tiếng súng nổ như xé tan cuộc sống yên bình nơi đây, hơn là nỗi lo bị xâm phạm chủ quyền đất nước. “Tây bắn” là vũ khí của thực dân Pháp. ẩn dụ bàn cờ nhỏ bé “rơi tay” dùng để chỉ triều đình đánh rơi thành dinh vào tay giặc. Nói cách khác, quân đội thực dân đã xâm chiếm đất Gia Định.

XEM THÊM:  Bài văn viết về tình yêu quê hương đất nước

Cảnh đánh bay người của kẻ thù được miêu tả cụ thể mà tác giả đau xót biết bao:

“Ra khỏi nhà, lũ trẻ bỏ chạy mất tổ chim bay”.

Các phép đối “bỏ nhà đi”, “cào cấu” giàu sắc thái biểu cảm khiến câu thơ nhuốm màu buồn man mác. tiếng súng nổ vang lên như điềm báo sắp có chuyện chẳng lành. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nhiều từ ngữ gợi hình, đảo ngữ khiến người đọc hình dung ra cái chết chóc, hoang tàn mà tác giả miêu tả. bọn trẻ chạy không mục đích vì không có ai hướng dẫn. họ chạy một cách điên cuồng để tránh nguy hiểm đang đến gần. Không chỉ con người mới hoảng sợ, các loài động vật như chim cũng hoảng sợ bay mất phương hướng vì mất tổ và môi trường sống. các từ “lười biếng” và “hỗn loạn” diễn tả một khung cảnh hỗn loạn, mọi thứ bị đảo lộn do tiếng súng nổ. “con nít” là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng. Lẽ ra, họ được hưởng cuộc sống yên bình, sung túc nhưng cuộc xâm lăng của thực dân đã khiến tuổi thơ của những đứa trẻ phải sống trong sợ hãi.

hiện ra trước mắt người đọc cũng là một cảnh tượng chết chóc, tiêu điều:

“bến tàu tiền tan, mây đồng nai nhuộm”.

miền nam bị bao trùm trong khói và lửa. thành gia định và vùng đông nam bộ chìm trong biển lửa. đi đến đâu, quân địch càn quét, cướp bóc, giết hại dân lành. hành động của chúng vô cùng dã man, gây nhiều tổn hại cho nhân dân ta. Bến Nghé hay Đồng Nai đều rơi vào tình trạng tiền bạc, tài sản nhanh chóng tan như bong bóng. tội ác của thực dân Pháp được thể hiện qua hai câu thơ có sức khái quát cao. nhưng những tang thương, đau khổ mà nhân dân ta phải chịu còn gấp nhiều lần. ngay cả những thứ vô tri vô giác như kênh rạch, sông ngòi cũng đầy thù hận. những ngôi nhà tan nát, chìm trong biển lửa. Phải chứng kiến ​​cảnh những mái nhà cháy rụi, tiền bạc bỗng chốc tiêu tan, mấy ai không xót xa?

Trước cảnh tượng tàn khốc ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã đặt câu hỏi đầy châm biếm:

“hãy hỏi trang rằng sự hỗn loạn đã đi đến đâu, nếu bạn để những người da đen phải chịu đựng vấn đề này.”

Câu hỏi tu từ đã diễn tả cảnh tượng tan hoang, hoang mang của dân chúng chạy trốn giặc. đây không chỉ là câu hỏi của riêng ông mà còn là câu hỏi của nhân dân chung đối với triều đình phong kiến ​​lúc bấy giờ. nhân dân khốn khổ cùng cực, đang rất cần một hình thức giải thoát, chống lại ách áp bức, nhưng “trang tử dẹp yên” vắng bóng. vua và các quan, triều đình nguyễn đi đâu mà không ra mặt cứu giúp dân khổ?

Hai câu thơ cuối không chỉ thể hiện niềm tiếc nước mất nhà của tác giả mà còn thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và nỗi thất vọng khi triều đình không chăm lo đến đời sống của những người dân còn yếu đuối, run tay. với thực dân Pháp. Sự hèn nhát của triều đình, của những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và chăm lo cho cuộc sống của nhân dân, thật là mỉa mai và khinh miệt. sự bất lực của nhà Nguyễn đã khiến nhân dân ta lâm vào cảnh hoang mang, không lối thoát. câu hỏi tu từ đó cũng nhằm cảnh tỉnh những đứa trẻ yêu nước vươn lên chống lại ách thống trị và mang lại cuộc sống ấm no cho “người da đen”.

Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ, tám chữ, tang luật, với kết cấu chặt chẽ theo chủ đề – sự việc – bài luận – kết luận. Là một người con của mảnh đất Gia Định, ngôn ngữ thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang đậm màu sắc phương Nam. lối viết hiện thực – trữ tình được tác giả vận dụng đầy đủ và hiệu quả. đằng sau hình ảnh “trốn giặc” ẩn chứa một tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc.

nguyen dinh chieu không chỉ miêu tả chân thực cảnh đất nước bị thực dân chà đạp, chà đạp mà còn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. tuy bị mù, không thể trực tiếp ra trận nhưng ngòi bút chiến đấu của anh vô cùng sắc bén. bài thơ “chạy trốn giặc” là bài thơ tiêu biểu của văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ 20, là lời tố cáo mạnh mẽ, hùng hồn tội ác của thực dân Pháp.

phân tích bài thơ chạy trốn

nguyen dinh chieu là một nhà thơ lớn của Việt Nam. đó là gương mặt tiêu biểu của nhân dân miền Nam trong phong trào thơ ca yêu nước chống giặc ngoại xâm. các tác phẩm của ông thường vô cùng chiến đấu. phê phán, lên án những hành động dã man của bọn xâm lược thuộc địa. bài thơ “chạy trốn giặc” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của ông.

bài thơ dường như đã tái hiện lại khung cảnh xã hội. Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, với sự hoang tàn và tang thương. hôm nay chúng ta cùng phân tích và nghị luận bài thơ “chạy trốn giặc” của nguyễn đình chiểu.

Thực dân Pháp đô hộ nước ta vào năm 1958. Chúng ra tay bành trướng, làm cho nhân dân ta lâm vào cảnh cơ cực. trước những cảnh tượng tang thương, thê thảm này. Nguyễn Đình Chiểu không khỏi bùi ngùi. tăng lòng yêu nước, tăng lòng căm thù quân xâm lược. và trong hoàn cảnh đó ông đã sáng tác bài thơ “chạy trốn giặc” như một minh chứng về thời kỳ khốn khó của dân tộc ta giữa thời loạn lạc. bài thơ cũng thể hiện lòng căm thù tột độ đối với quân xâm lược tàn bạo.

phần mở đầu của bài thơ là sự tái hiện lại những mũi đạn ác liệt của kẻ thù ”

“Sau khi phiên chợ kết thúc, tôi nghe thấy tiếng súng, một phút sau bàn cờ rơi xuống”

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện không khí hừng hực khí thế khi tiếng súng vang lên. khiến tất cả mọi người đều hoảng sợ, mọi thứ đều nhuốm màu u buồn. không gian mà nhà thơ tái hiện là không gian của một phiên chợ. và thời điểm cần nhắc đến là thời điểm “đóng cửa chợ”.

Đây là lúc mọi người đang tất bật rủ nhau ra về sau buổi chợ. ngay lúc đó, những phát súng bắt đầu nổ ra, đây là sự tàn phá dã man của quân xâm lược. vì chúng nhắm vào lúc dân chúng sơ hở nhất, đông đúc nhất để bắn giết đồng bào ta. ở đây tác giả vừa thể hiện sự tàn bạo, phi nhân tính của quân luật. anh ấy chỉ thể hiện sự căm ghét của mình đối với họ.

hai từ “súng” như một vết cắt. một sự khinh bỉ đối với những kẻ cướp, một sự lên án của những kẻ chỉ muốn sử dụng vũ lực bằng vũ lực. và trong phát súng bất ngờ đó đã khiến rất nhiều người hoang mang và hoảng sợ.

“bàn cờ trong khi mất kiểm soát” có nghĩa là khi một ván cờ đang được chơi. bất ngờ, do những cú đánh, anh ta bị giật mình và làm cho quân cờ rơi xuống bàn cờ. tội ác của kẻ thù thực sự đáng kinh hoàng, một hành động đáng bị lên án.

hai từ “vũ khí phương Tây” đã cho thấy tác giả không trực tiếp lên án thực dân Pháp mà gọi chúng bằng những cái tên đầy khinh miệt. Người phương Tây, khác chúng ta về chủng tộc, họ mang trong mình âm mưu thâm độc, hèn hạ và hèn hạ, họ dùng bạo lực để đàn áp nhân dân ta, những hành động của họ rất đáng bị lên án. Trong một tác phẩm khác của mình, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng bày tỏ lòng căm thù giặc khôn nguôi.

<3 tiếng súng nổ bất ngờ khiến mọi người có mặt tại hiện trường đó một phen hoảng hồn, lo sợ "bàn cờ khi rơi xuống". câu này có thể hiểu là những người chơi cờ vì họ giật mình vì tiếng bắn và đánh rơi quân cờ trên bàn cờ.

o Chúng ta cũng có thể hiểu rằng bàn cờ này lúc lâm trận là thực trạng của đất nước Việt Nam lúc bấy giờ, khi dân tộc ta đang thất thế trước kẻ thù. chúng lợi dụng tình hình nước ta bất ổn để xâm lược, gây nhiều đau thương. khung cảnh khi có những cảnh quay cũng hỗn loạn và lộn xộn. không chỉ con người mà cả động vật cũng hoảng sợ, tìm cách bỏ chạy và lẩn trốn:

<3

Đó là cảnh trẻ em giật mình và sợ hãi khi nghe tiếng súng và bỏ chạy khỏi nhà. họ muốn chạy trốn khỏi tiếng súng nổ, cũng như từ sự hủy diệt đáng sợ đó “hãy ra khỏi nhà, lũ trẻ đang chạy trốn”, họ chỉ là những đứa trẻ. phải sống trong cảnh bom đạn ác liệt, tàn phá hàng ngày quả là điều đáng tiếc. họ đang ở cái tuổi hồn nhiên nhất của cuộc đời, cái thời vô tư, vô lo nhất nhưng lại sinh ra trong thời kỳ đất nước đầy biến động, bất ổn.

Không chỉ trẻ em sợ hãi mà ngay cả những loài động vật hoang dã cũng bị kẻ thù tiêu diệt và mất nơi sinh sống. anh ta hoảng sợ và bay đi tìm nơi trú ẩn. không khí mà nhà thơ gợi lên ở đây thật hỗn loạn và bi thương.

“Bến tàu tiền tan nước, Đồng nai vẽ ngói nhuốm màu mây”

một họ là một mùa xuân, khi bị xâm phạm. những thứ vô tri vô giác như bến tàu và dòng sông cũng đã bị lung lay. sự đồng cảm của những thứ vốn dĩ vô tri vô giác ấy với hiện thực đất nước có chiến tranh. bong bóng nước vỡ trên cầu tàu, cảnh yên bình không còn nữa. sự tan vỡ ấy cũng như cơn thịnh nộ của trời đất, và thiên nhiên không biết gì về tội ác của kẻ thù. dòng sông đồng nai cũng nhuốm màu buồn đau. đó là sự giao cảm, giao hòa giữa thiên nhiên và lòng người. cảnh đau thương của con người cũng khiến những cảnh vật vô tri vô giác cũng có cảm xúc. đó là một sự phẫn nộ khi tiêu diệt kẻ thù.

“yêu cầu trang chấm dứt tình trạng hỗn loạn và để những người da đen chịu thiệt hại”

như một câu hỏi trước sự thật đau lòng. đất nước đang bị tàn phá, nhân dân khổ sở. một câu hỏi như một lời trách móc triều đình nhà Nguyễn vô dụng. một tòa án thực sự yếu kém, chỉ biết đến lợi ích của mình mà quên đi những người đang sống trong cảnh khốn cùng. rằng đội quân nhảy lược để đàn áp và áp đặt “vấn đề này”. một lòng chờ mong, có người sáng suốt, tướng tài ắt gặp giặc. nhưng hiện tại, không ai xuất hiện vì tòa án thối nát đó.

sau khi phân tích và nghị luận về bài thơ “chạy trốn giặc” của nguyễn đình chiểu. có thể thấy đây thực sự là một kiệt tác của thơ ông trong thời kỳ đất nước loạn lạc dưới sự xâm lược của quân đô hộ. bài thơ vừa thể hiện tình yêu đất nước vừa thể hiện lòng căm thù giặc ngoại xâm. bài thơ là sự bộc lộ cảm xúc thật, cảm xúc thật của chính bản thân cụ Nguyễn Đình Chiêu.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích Chạy giặc ấn tượng nhất (6 Mẫu) – Văn 11. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *