Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
879 lượt xem

Phân tích bài thơ tây tiến khổ 1

Bạn đang quan tâm đến Phân tích bài thơ tây tiến khổ 1 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích bài thơ tây tiến khổ 1

phân tích đoạn đầu bài thơ miền tây quảng dung trong bài viết dưới đây của hoatieu, trong đó có dàn ý phân tích đoạn 1 bài thơ miền tây cùng với các bài văn mẫu phân tích khổ thơ đầu tiên hay chọn lọc là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em khi học và nghiên cứu thơ văn miền Tây trong chương trình ngữ văn lớp 11.

  • 5 bài văn phân tích đoạn 3 hay chọn lọc
  • top 4 phân tích hình tượng người lính miền tây chọn lọc
  • cảm nghĩ về thơ tiến bộ hay chọn lọc của miền tây

tây tiến ”là bài thơ tiêu biểu thể hiện sâu sắc phong cách thơ quang dung, in trong tập Mây đầu ô. khổ thơ đầu tiên của bài thơ về miền tây đã cho người đọc cảm nhận được hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nơi hành quân và chiến đấu của đoàn quân miền tây.

trong bài viết này hoatieu xin chia sẻ những bài văn mẫu phân tích đoạn đầu bài thơ miền tây của quang dung hay và sâu sắc mời các bạn cùng tham khảo.

1. phân tích lược đồ cuộc Tây tiến của khổ thơ 1

i. giới thiệu:

– giới thiệu tác giả quang dung

– giới thiệu về thơ ca phương Tây

ii. nội dung:

– hai dòng đầu của bài thơ: nỗi nhớ dạt dào, cảm hứng chủ đạo của bài thơ

“sông ma”, “tây tiến” như những người thân ruột thịt, nhưng quang dũng lại dành hết tình cảm, tình cảm cho họ.

“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ da diết của những người lính thành phố.

= & gt; núi rừng Tây Bắc đã khắc ghi những kỉ niệm khó quên trong tâm hồn, đồng thời là nỗi trống trải trong lòng tác giả.

– hai dòng tiếp theo:

“sai khong”, “muong lam” là những địa danh gợi nhớ vùng hành quân của quân tây, kéo dài sang các không gian khác trong bài thơ.

Nỗi nhớ ở đây như kéo dài khắp một không gian rộng lớn, mỗi nơi bước chân tác giả đi qua đều có những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành những kỉ niệm khắc sâu trong tim.

p>

Những kỉ niệm nhỏ nhoi như “cái mỏi mòn” sau cuộc hành quân, ngọn đuốc hoa leo lét trong đêm tối, minh chứng cho nỗi nhớ da diết của tác giả.

– bốn dòng “đang chờ… xa” tiếp theo:

gợi lên sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả, nỗ lực không mệt mỏi của những người lính khi hành quân.

“khói súng” là một hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và vui nhộn của một người lính chiến đấu khi đối mặt với nghịch cảnh.

“Nhà ai hòa tiếng mưa xa” là vẻ đẹp của cuộc sống, chất thơ lãng mạn giữa núi rừng hoang vu gợi lên sự yên bình, tĩnh tại của những người lính.

– hai dòng “bạn… đã quên cuộc đời mình”:

sự hy sinh cao cả của người lính, tư thế hiên ngang, anh dũng sẵn sàng hy sinh quên mình vì Tổ quốc.

nỗi buồn đi đôi với sự khâm phục tinh thần dũng cảm hy sinh vì đồng đội của anh Quang.

– bốn câu kết thúc: “chiều … xôi”

sự hùng vĩ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với cấu trúc thơ hiện đại, động từ mạnh, cộng với hiểm nguy rình rập nơi rừng thiêng, nước độc thú dữ. tác giả đánh thức ký ức, trở về thực tại với nỗi nhớ da diết, thiết tha, nhớ lại tình quân dân nồng hậu với cơm nếp bếp lửa trong những ngày tháng chiến đấu.

iii. kết luận:

khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

2. phân tích miền tây quang dũng – mẫu 1

Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa diện, có tâm hồn phóng khoáng, xúc động, lãng mạn và tài hoa. “tây tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ quang dung. có thể nói, tinh hoa của bài thơ được góp nhặt trong khổ thơ đầu. khổ thơ đã tạo nên một hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ và tươi đẹp của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ và đoàn quân miền Tây đã từng lao động và chiến đấu.

sông ma ở rất xa và ở phía tây!

nhớ rừng, nhớ chơi vơi

saigon khao khát được lấp đầy đội quân mệt mỏi

Muông hoa lát trở về vào ban đêm

đi lên một khúc cua dốc

heo hút mây, súng ngửi trời

một nghìn mét trên, một nghìn mét dưới

nhà ai đang mưa

bạn không đi bộ nữa

ném súng và quên đi cuộc sống!

buổi chiều gầm thét hùng vĩ

vào ban đêm khi hổ làm trò cười cho con người

hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa bạn thơm mùi gạo nếp.

bài thơ “tây tiến” được sáng tác vào năm 1948 tại quê hương chanh, khi nhà thơ đã rời đơn vị cũ chuyển đi đơn vị khác. Tây Tiến là đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với Quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, tiêu hao lực lượng quân Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. địa bàn hoạt động của đoàn quân tiến công miền Tây rất rộng lớn, trải dài từ sơn la, tây thanh hóa bình dương đến sam nua (lào): hiểm trở, sa mạc, rừng thiêng, nước độc. Lính Tây đa số là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. họ sống và vật lộn trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. sau khi hoạt động hơn một năm, đơn vị phía tây trở lại bình yên và thành lập trung đoàn 52.

bài thơ ra đời từ nỗi nhớ của Quang Dũng, những kỉ niệm, những kỉ niệm về đồng đội và chiến trường xưa. sau khi ra đời, tác phẩm đã được nhiều thế hệ bạn trẻ và những người yêu thơ viết tay tìm đọc. năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ “mây và ô” (xuất bản năm 1986). bài thơ lúc đầu có tên là “nhớ tây”, sau này tác giả đổi thành “tây”. nhan đề “tây tiến” đảm bảo tính súc tích của bài thơ, không cần trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ, nỗi niềm ấy vẫn được thể hiện một cách sâu lắng và xúc động. nhan đề cũng làm nổi bật hình ảnh trung tâm của tác phẩm là hình ảnh đoàn quân tây tiến. việc bỏ từ “nhớ” đã làm thay đổi vĩnh viễn quân Tây, khiến hình tượng người lính Tây trong thơ ca kháng chiến Việt Nam trở thành bất tử.

“Tây tiến” là bài thơ thể hiện đậm nét phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang dũng. tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với người lính miền Tây với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng. khổ thơ thứ nhất tái hiện một cách sinh động khung cảnh thiên nhiên miền Tây với những hoạt cảnh và cuộc hành quân gian khổ, từ đó hình ảnh những người lính miền Tây lần lượt hiện lên.

bài thơ mở đầu bằng một làn sóng hoài niệm:

sông của tôi ở xa, hãy đi về phía Tây!

nhớ rừng, nhớ chơi vơi

Lời kêu gọi “đi về hướng Tây” được thúc đẩy bởi một niềm khao khát sâu sắc và cuồng nhiệt không thể kìm nén được. đối tượng của nỗi nhớ ấy tất nhiên rất cụ thể: “sông ma”, “miền tây”, “rừng”. nỗi nhớ ấy phải đau lắm mới được tác giả lặp lại hai lần từ “nhớ”. “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ bập bùng chân thực, lúc nghiêm trang, thường trực, mênh mang, đầy ám ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa gợi không gian của núi đồi bao la. . vần “oh” làm cho bài thơ nghe như một câu hát da diết, phù hợp với nhiều cảm xúc.

Hai dòng đầu của bài thơ đã mở ra sợi dây chung của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. nỗi nhớ ấy trở nên cụ thể từng chút một trong những câu thơ sau.

Hai câu thơ sau gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:

“xin lỗi vì đã hỗ trợ đội quân mệt mỏi,

Muong ngắt hoa vào ban đêm “

hai câu thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn. những từ địa danh sai khao, mường lat gợi ra một vùng lãnh thổ rộng lớn và chưa được biết đến đối với những người lính phương Tây. màn sương dày đặc từ trên cao như bao trùm những con đèo, nuốt chửng cả đoàn quân đang mệt mỏi rã rời sau chặng đường dài gian khổ. quang dung đã nhìn thấy và miêu tả một hiện thực tiềm ẩn trong thơ ca kháng chiến. nhưng những người lính ấy dù mệt nhưng vẫn trẻ trung, hiên ngang, lạc quan và yêu đời. hình ảnh “hoa khuya khẽ” là một hình ảnh đẹp và giàu sức gợi. đó có thể là những ngọn đuốc sáng trưng của đoàn quân tiến về làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân ló dạng trong rừng, trên tay vẫn cầm những bông hoa rừng thơm ngát, cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân tây tiến như những bông hoa dại mà đoàn quân hành quân trong một “đêm hơi” đầy sương mù huyền ảo, mơ hồ trong rừng cây, khe suối. hai câu kết ghi đậm nét tài hoa, lãng tử của quang dung.

Bốn câu thơ sau đây mô tả địa hình hiểm trở ở phía tây:

leo lên khúc cua, dốc đứng

nuốt rượu, ngửi bầu trời,

hàng ngàn bộ trên, hàng ngàn bộ bên dưới,

nhà ai ở xa đang mưa.

nhà thơ sử dụng hàng loạt từ tượng hình “khúc khuỷu”, “sâu lắng”, “ngọt ngào”, kết hợp với nhịp ngắt nhịp 4/3 như cắt đôi lời thoại, câu hò dày đặc khiến câu thoại gợi lên nỗi vất vả, nhọc nhằn. . những vần thơ ấy gợi mở trong tâm trí người đọc những ấn tượng về những bất trắc, hiểm nguy tiềm ẩn, hiểm trở, gập ghềnh của núi cao, vực thẳm nơi núi rừng miền Tây. hình ảnh “súng ngửi trời” là một sự nhân cách hóa táo bạo gợi tả những sườn núi hùng vĩ. Người lính miền Tây leo lên đỉnh dốc, cảm giác như mũi súng chạm mây. Từ đó, chúng ta cũng thấy được nét vui tươi, khỏe khoắn, vẫn có thể vô tư vui chơi sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi của những người lính miền Tây. sự tương phản “trên ngàn thước – dưới ngàn thước” càng nhấn mạnh sự thô ráp, khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây. ba câu thơ giàu chất tranh, dựng lên hình ảnh sa mạc, sườn núi, núi non hùng vĩ trên con đường hành quân của người lính miền Tây. câu thơ thứ tư là bảy thanh với “nhà ai hòa tiếng mưa xa”, vần mở “ơi” đặt ở cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng, gợi những giây phút nghỉ ngơi, thư thái của người chiến sĩ. họ đứng trên những đỉnh núi, tận hưởng chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, đưa mắt lại gần, nhìn thấy màn mưa mờ ảo nơi bản làng xa xôi. bốn câu thơ gợi lên vẻ hoang sơ dữ dội, thanh bình của núi rừng cũng như cuộc hành quân gian khổ nhưng trẻ trung, sôi nổi của những chàng trai miền Tây.

Người lính miền Tây không chỉ đối mặt với dốc đứng, vực sâu mà còn phải chịu những mất mát, hy sinh:

bạn tôi không đi bộ nữa,

rơi vào vũ khí và quên đi cuộc sống.

cách trốn tránh cái chết “giẫm đạp không lên”, “quên đời” gợi lên tư thế ngạo nghễ của người lính miền Tây. họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó đơn giản như một giấc mơ. tư thế hy sinh “rơi súng” thật xót xa nhưng cũng thật anh hùng. hình ảnh người chiến sĩ anh dũng xả thân ấy sau này được thấy trong “hiên ngang Việt Nam”: “và anh chết đứng bắn – máu anh phun lửa cầu vồng”. bài thơ tiếp tục mang cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính miền Tây. còn người lính miền tây vẫn thử thách bởi núi rừng phía tây:

“buổi chiều gầm thét hùng vĩ,

vào ban đêm, con hổ làm trò cười cho mọi người. “

các từ ngữ chỉ tần suất lặp lại của thời gian “chiều”, “đêm” kết hợp với biện pháp nhân hoá “thác gào”, “hổ rình mồi” đã nhấn mạnh vẻ huyền bí, dữ tợn, hoang vu đầy hiểm nguy, cái chết luôn rình rập. để đe dọa những người lính của vùng núi phía tây. mối nguy hiểm đó không chỉ phân tán trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên trong thời gian. hai dòng cuối của bài thơ đột ngột chuyển cảnh:

hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm,

mai tạm biệt là mùa bạn thơm mùi gạo nếp.

núi cao, rừng núi lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp của tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm lam của các cô gái Thái. từ cảm thán “nhớ ơi” ở đầu câu thơ thể hiện niềm khao khát, ám ảnh mãnh liệt của quang dũng cũng như người lính miền tây tiến về phía đồng bào miền tây. lòng nhà thơ nhói đau khi nhớ lại cảnh đoàn quân quây quần bên nồi xôi thơm phức. Đó là những khoảnh khắc ngắn ngủi, ấm áp nhưng ngọt ngào, tinh tế nên mãi khắc sâu trong tâm trí nhà thơ. sự kết hợp của từ “mùa em” thật độc đáo và gợi lên những liên tưởng đẹp đẽ, lãng mạn về những cô gái Thái đảm đang, nhân hậu, nhưng giàu tình cảm. hai dòng kết thúc khổ thơ đầu của bài thơ miền Tây có giọng điệu nhẹ nhàng gợi cảm giác ấm áp, thư thái, tạo tâm trạng cho người đọc khi cảm nhận đoạn thơ sau.

Ở những câu thơ còn lại, nhà thơ quang dũng tiếp tục nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ thắm tình quân dân, những buổi tối bên sông nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, nhớ nhung chân chất của con người. tập thể những người lính miền tây dũng cảm và dũng cảm. Đoạn cuối bài thơ, Quang Dũng bày tỏ nguyện ở lại với Tây quân tử.

Khổ thơ đầu của bài thơ Miền Tây thể hiện tài năng và tâm hồn lãng mạn hào sảng của nhà thơ Quang Dũng. bài thơ có ngôn ngữ giàu hình tượng, giàu nhạc điệu, đậm đà ấn tượng, tạo nên hình ảnh sinh động, sâu sắc về cảnh đoàn quân tây tiến trên nền thiên nhiên núi rừng hùng vĩ. Qua anh, chúng ta cảm nhận được tình cảm gắn bó sâu nặng, niềm khát khao thiết tha của nhà thơ Quang Dũng đối với những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây tiến, một thời để nhớ và tự hào mãi mãi.

3. phân tích miền tây đệ nhất quang dũng – mẫu 2

quang dung là một nhà thơ tài hoa và lãng mạn. Bài thơ Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu trong sáng tác của Quang Dũng. Quang Dũng viết Hướng Tây năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một thị trấn ven sông Đáy êm đềm. cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ về những người đồng đội thân yêu, nỗi nhớ về bộ đội miền tây, người mường và núi rừng phía tây, những kỉ niệm đẹp đẽ về chiến tranh … nói lên nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại những hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của những “chiến sĩ anh hùng” trong những ngày đầu rất gian khổ và oanh liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Western tien ‘là tên một đơn vị quân đội hoạt động trên biên giới giữa Việt Nam và Lào, tỉnh miền tây thanh hóa, hòa bình. Quang dũng là một đại đội trưởng của “đội quân tóc xù” ấy, đã từng vào sinh ra tử cùng những người đồng đội thân yêu của mình.

Hai dòng đầu nói về nỗi nhớ da diết, nhớ miền tây, nhớ núi rừng, nhớ sông thương:

sông ma ở rất xa và ở phía tây!

hãy nhớ những ngọn núi, hãy nhớ chơi với chúng.

đã “một chặng đường dài” nên nỗi nhớ không nguôi, nhớ da diết, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. tiếng gọi “về tây” vang lên réo rắt như tiếng gọi người thân. của “ouch!” vần với từ “chơi vơi” tạo nên một câu thơ trầm bổng, ngân vang, ngân vang trong lòng người suốt thời gian, trải dài miên man trong không gian. hai từ “xa” như một tiếng thở dài bâng khuâng, đáp lại từ “nhớ” ở câu thơ thứ hai thể hiện một tình cảm đẹp đẽ của người chiến sĩ miền Tây đối với sông Mã và núi rừng miền Tây. . sau cuộc gọi đó, biết bao kỷ niệm về một thời khốn khó vụt qua trong tâm trí tôi.

Những câu thơ sau đây nói về cuộc hành quân đầy thử thách và gian khổ mà đoàn quân miền tây đã trải qua. những tên bản, tên mường: sai không, mường lam, pha luồng, mường hịch, mai châu… được nhắc đến không chỉ gợi nhiều kỷ niệm mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, hấp dẫn. , hoang vu, thâm sơn cùng cốc… gợi lên sự tò mò, háo hức của những chàng trai “thuở cầm gươm bảo vệ tổ quốc – nghìn năm khát vọng thành đất thăng long”. đoàn quân hành quân trong sương mù giữa núi rừng:

sai mong ước sương mù bao phủ đội quân mệt mỏi,

những lát hoa mường trở về vào ban đêm.

bao nhiêu ngọn núi cao, đèo cao, dốc dựng đứng ở mặt trận mà những người lính miền Tây đã phải vượt qua.

lên dốc là “uốn cong” gập ghềnh, xuống dốc là “sâu” như thể dẫn đến một vực thẳm. các từ láy “khúc khuỷu”, “sâu thẳm”, “ngọt ngào” diễn tả những khó khăn, gian khổ của con đường hành quân chiến đấu: “tựa khúc khuỷu, dốc đứng, hút mây, ngửi trời! . đỉnh núi cao mù sương. vũ khí của người lính được nhân hóa để tạo nên hình ảnh: “vũ khí ngửi trời” vừa giàu chất thơ, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, gợi cho ta rất nhiều chất thơ. khẳng định ý chí, quyết tâm của người lính chinh phục mọi đỉnh cao, đi tới “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. thiên nhiên núi đèo như thử thách lòng người: “trên cao ngàn thước, dưới ngàn thước”. từ trên xuống dưới, từ thấp lên cao, từ bậc này sang bậc khác, dốc hết dốc, không dứt, đoạn thơ gồm hai vế đối: “trên ngàn thước //“ dưới ngàn thước ”, hình ảnh thơ được cân đối hài hòa. , nó miêu tả cảnh núi rừng hùng vĩ, thể hiện một ngòi bút thơ đầy tinh thần của người chiến sĩ – thi sĩ.

có cảnh đoàn quân đi dưới mưa: “mưa xa nhà ai”. câu thơ được dệt bằng những dải liên tiếp, thể hiện sự ngọt ngào, tươi mới của tâm hồn những người lính trẻ dù gặp nghịch cảnh vẫn lạc quan, yêu đời. trong mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh đi về phía Tây vẫn hướng về những bản mường, những ngôi nhà nhân ái, nghĩa tình của đồng bào, nơi họ sẽ đến, mang xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ, gìn giữ. .

Chúng ta quay lại câu trước, khó khăn không chỉ là núi cao dốc đứng, không chỉ có mưa xối xả, mà còn có tiếng hổ gầm nơi rừng thiêng nước độc, đại mạc:

>

buổi chiều gầm thét hùng vĩ

vào ban đêm, con hổ làm trò cười cho mọi người.

“Chiều…” và “đêm” luôn có những tiếng gầm rú, những âm thanh này khẳng định bí mật, sức mạnh khủng khiếp của rừng thiêng. Chất hào hùng của thơ Quang Dũng là dùng cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở để tô đậm và khắc họa khí phách hào hùng của đoàn quân tiến bước. mỗi bài thơ đều để lại trong lòng người đọc ấn tượng: gian khổ tột cùng nhưng cũng dũng cảm tột cùng! đoàn quân cứ thế tiến lên, nối tiếp nhau tiến quân. sức mạnh tự nhiên dường như bị suy giảm và giá trị con người nâng lên một tầm cao mới. Quang dũng cũng kể về sự hy sinh của những người bạn đồng hành trong những chuyến hành quân vô cùng gian khổ:

bạn không đi bộ nữa

ném súng và quên đi cuộc sống …

Thực tế của chiến tranh luôn là như vậy! sự hy sinh của một người lính là không thể tránh khỏi. máu đổ để xây tháp tự do. bài thơ nói về mất mát và hy sinh, nhưng không có một chút đau buồn hay bi kịch nào.

hai câu cuối của bài thơ, cảm xúc rạo rực, như lời nhắn nhủ của một khúc tình ca, như tiếng hát hoài niệm, vừa xót xa vừa tự hào:

hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa bạn thơm mùi gạo nếp.

“hãy nhớ đến tôi!” đó là tình cảm dạt dào, là tiếng nói của những người lính miền tây, “đoàn quân không mọc tóc”. những vần thơ thấm đẫm tình quân dân. Bạn đã bao giờ quên hương vị của người mường với “cơm lam hương khói”, với “hương nếp thơm mùa”? hai chữ “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thơ, chứa đựng bao nỗi niềm nhớ nhung, âm điệu trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. ông cũng nói về hương nếp, xôi chè, về “gia vị” và tình quân dân, rồi ông viết bài hát về con tàu.

Tôi nắm tay bạn khi kết thúc chiến dịch

bóp gạo nếp nuôi bộ đội, giấu giữa rừng … đất trời Tây Bắc không có lịch

Bữa cơm nếp đầu tiên vẫn tỏa hương thơm.

“nhớ hương thơm”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “hương xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ công ơn, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. .

p>

Mười bốn câu thơ trên là phần đầu của bài Tây tiến, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong chín năm kháng chiến chống Pháp. một bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ dũng cảm, lạc quan, dấn thân máu lửa với niềm tự hào “ra chiến trường không tiếc đời xanh…”. đoạn văn để lại dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà thành công của nó nằm ở sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. đã nửa thế hệ trôi qua, bài thơ tây quang dung tuyệt vẫn giữ nguyên giá trị.

4. phân tích hướng tây cỡ 1 – mẫu 3

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, làm thơ, vẽ tranh, viết văn và soạn nhạc, nhưng thành công nhất là thơ. là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp với hồn thơ lãng mạn, tài hoa, chất thơ giàu nhạc tính, được mệnh danh là nhà thơ của “xứ sở mây trắng” với những tác phẩm nổi tiếng như: “Mây và thủ trưởng, “quang dung thơ”… trong đó tiêu biểu là bài thơ “tây tiến”. Bài thơ không chỉ là niềm khao khát của đoàn quân miền tây mà còn miêu tả rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân miền tây và thiên nhiên miền tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua bài thơ:

“Sông Mã xa về miền Tây… mai châu về mùa thơm nếp thơm”

cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ da diết, trải dài cả không gian và thời gian:

sông ma ở rất xa và ở phía tây!

nhớ rừng, nhớ chơi vơi

saigon khao khát được lấp đầy đội quân mệt mỏi

những lát hoa mường trở về vào ban đêm.

nỗi nhớ về đơn vị cũ đâm chồi nảy lộc, không thể nào kìm nén được, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng. hai từ “chơi vơi” như vẽ nên một trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình dung nỗi nhớ, tạo nên cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng rậm… cứ thế liên tiếp xuất hiện trong các câu thơ sau:

đi lên một khúc cua dốc

lợn hút rượu, chúng ngửi thấy cả bầu trời

hàng nghìn mét trên cao, hàng nghìn mét dưới đây

nhà ai ở xa đang mưa.

Khổ thơ này là một bài kiểm tra “hình ảnh thơ”. Chỉ với bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng miêu tả cảnh núi rừng Tây Bắc hiểm trở, dữ dội, hoang sơ và đầy quyến rũ, địa bàn hành quân của đoàn quân Tây Bắc. hai câu thơ đầu, từ ngữ đẩy giá trị tạo nên sự sâu lắng, xoắn xuýt. những cồn cát, những hẻm núi sừng sững đã lột tả chính xác sự hiểm trở, trập trùng, ngút trời của núi rừng Tây Bắc. hai chữ “ngửi trời” được sử dụng rất hồn nhiên và cũng rất đậm nét, vừa tinh nghịch của người lính. những ngọn núi cao như chạm mây, mây trôi trên những đụn cát “ngọt ngào”. người lính leo lên những ngọn núi cao như đi trên mây, mũi vũ khí vươn cao nhất bầu trời. câu thứ ba như bẻ đôi, tả sườn núi nhô cao, hạ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống vực sâu. nếu câu thứ ba quay mặt lên và úp xuống, thì câu thứ tư quay mặt sang một bên. người ta có thể tưởng tượng ra cảnh những người lính đứng trên sườn núi, phóng tầm mắt ra xa qua một không gian mờ ảo của rừng, mây, núi và thấy những ngôi nhà như đang trôi giữa biển.

Bốn câu thơ này kết hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau khi vẽ ba câu thơ với nét mạnh mẽ, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất nhẹ. quy tắc này tương tự như cách sử dụng màu sắc trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng gam màu lạnh để làm dịu đi, như thể xoa bóp toàn bộ khổ thơ.

cảnh đó cũng là tình yêu. cũng là sương, hoa, mây và mưa, những chi tiết thường thấy trong thơ cổ, nhưng cũng đầy ắp không khí hào hùng sâu lắng của thời đại được thể hiện qua ngôn từ và giọng điệu khi đọc nó ta cảm thấy ngang tàng. hình ảnh đoàn quân mệt mỏi đi trong khúc cua sâu hấp dẫn, giữa làn sương khói bồng bềnh được tác giả phác họa bằng những nét vẽ tài tình. con mắt thơ không dừng lại ở không gian núi rừng mà còn mở ra một không gian – tâm trạng của hồn thơ người lính. có chút ly biễn trước vương gia: nỗi tiếc thương mênh mang của một kẻ trong lúc mê muội. trong những gian khổ của người lính miền Tây, ta vẫn tìm thấy một chút hài hước trong hình ảnh khẩu súng ngửi trời. đối mặt với thực tế phũ phàng – nhưng chất lãng tử hào hoa không hề mất đi mà càng nổi bật lên, chân thực và sống động hơn trong những vần thơ chan chứa tình yêu quê hương đất nước, tình đồng chí, nghĩa quân. một sự thật về một người lính đi về phía Tây: anh ta là một người lính trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. chính cơn mưa gợi nỗi nhớ da diết, làn khói cơm thơm quyện chặt vào tình người, là hình bóng đung đưa khiến bao trái tim trai trẻ rạo rực …

vẻ dữ dội, hoang sơ, đầy bí mật khủng khiếp của núi rừng Tây Bắc tiếp tục được nhà thơ khai thác. Nó không chỉ mở ra ngoài không gian mà còn khám phá trong chiều không gian luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:

buổi chiều gầm thét hùng vĩ

vào ban đêm, con hổ làm trò cười cho mọi người.

rồi cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hiểm trở qua bạt ngàn quang dung hiện ra với muôn hình vạn trạng núi cao, thăm thẳm, dốc đứng, mưa rừng, sương núi, thác gầm, hổ dữ. .. tên đất lạ sai khao, mường vĩ, pha luông, mường hịch, hình ảnh giàu sức gợi hình, những câu thơ nhiều vần đọc to nghe khó lắng dịu với những câu có nhiều vần giống nhau ở cuối mỗi bài. , đã phối hợp ăn ý với nhau, làm sống động thế giới khác thường và đa dạng của Vùng núi Tây Bắc.

câu thơ kết thúc đột ngột với hai dòng:

hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa bạn thơm mùi gạo nếp.

Cảnh tượng thật cảm động. Sau bao khó khăn băng rừng, vượt núi, vượt suối, vượt đèo, các chiến sĩ dừng chân, nghỉ ngơi tại một bản làng nào đó, quây quần bên nồi cơm điện bốc khói nghi ngút. khói cơm nghi ngút và hương thơm của nếp mùa cuốn đi nét mệt mỏi trên gương mặt người chiến sĩ, khiến họ sảng khoái. hai dòng này tạo cảm giác ấm áp và thư thái, chuẩn bị vị trí của người đọc cho khổ thơ thứ hai.

“Tây tiến” là một bài thơ hay được viết nên bằng tâm hồn, tài năng và sự lãng mạn của một chiến sĩ trí thức tiểu tư sản dũng cảm. bài thơ như một tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình tượng những người chiến sĩ trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ xứng đáng được coi là kiệt tác của Quang Dũng khi ông viết về người chiến sĩ trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.

5. phân tích khổ thơ miền tây 1 – văn mẫu 4

Tây tiến được coi là đứa con mạnh mẽ, tài hoa của văn hào và của mọi nền thơ ca kháng chiến trong nền văn học Việt Nam, nhất là những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. học sinh áo trắng, để lại bút mực xanh, chiến đấu vì tình yêu đất nước, quê hương tha thiết, vì hòa bình của dân tộc, đi bằng trái tim anh hùng, hào hùng nhưng vẫn mang nét lãng mạn, hào hoa của Hà Nội. thanh niên trí thức. điều này đã được nhà thơ quang dung tái hiện một cách xuất sắc trong một bài thơ miền Tây với ngòi bút lãng mạn hào sảng, xúc động và rất tài hoa. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã nói lên nỗi lòng của người lính, cũng chính là tác giả với nỗi nhớ về mảnh đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt lên gian khổ của người lính Tây Bắc.

Quang Dũng sinh ra tại Dân Phường, Hà Nội (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa năng, vừa là nhạc sĩ vừa là họa sĩ nên thơ của ông rất giàu nhạc tính và chất họa. Quang dũng cũng là một chiến sĩ xuất sắc tham gia nhiều chiến trường khác nhau nên thơ về người lính rất chân thực, sống động, có sức truyền cảm mạnh mẽ, phong cách thơ của ông có thể tóm gọn trong mấy từ: phóng khoáng, xúc động, lãng mạn và tài hoa. Binh đoàn Tây được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh niên Hà Nội, có nhiệm vụ phối hợp với Quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và tiêu diệt quân Pháp. Địa bàn hoạt động trải rộng từ miền thanh bình đến khu ổ chuột (lào), rồi quanh miền tây thanh hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện tác chiến vô cùng gian khổ. Sáng tác vào cuối năm 1948, Quang Dũng nhớ lại những ngày tháng ở đoàn quân Miền Tây. ban đầu nó có tên là “nghĩa tây”, sau được đổi thành “tây” với nhan đề ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn thể hiện rõ cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Cảm hứng đằng sau bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.

nỗi nhớ về một vùng Tây Bắc dữ dội, được thể hiện qua 14 dòng đầu.

“sông ma xa rồi, đi về hướng tây!

nhớ rừng, nhớ chơi vơi

saigon khao khát được lấp đầy đội quân mệt mỏi

Muông hoa lát trở về vào ban đêm

đi lên một khúc cua dốc

heo hút mây, súng ngửi trời

một nghìn mét trên, một nghìn mét dưới

nhà ai đang mưa

bạn không đi bộ nữa

ném súng và quên đi cuộc sống!

buổi chiều gầm thét hùng vĩ

vào ban đêm khi hổ làm trò cười cho con người

hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa em thơm mùi xôi ”

Hai dòng đầu của bài thơ “sông xa thì về tây! /“ nhớ núi rừng nhớ chơi vơi ”gợi lên nỗi nhớ, nỗi buồn dâng tràn về một thời đại đã qua, về một miền đất xa xôi. cái gọi là “chúa tây” rất nghiêm túc và trăn trở, tay tiên không phải chỉ là một cái tên, mà dường như đã trở thành người thân, quang dung đã gọi tên “sông ma” ngay từ những dòng thơ đầu tiên của mình, nơi đó là cũng là hiện thân tiêu biểu của miền núi Tây Bắc. trên đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ là địa danh trên bản đồ địa lý mà đã trở thành người bạn, người bạn tâm tình, là nhân chứng lịch sử đã chứng kiến ​​bao đau thương, vất vả, niềm vui và nỗi niềm của người lính trong cuộc hành quân xa, vì thế trong nỗi nhớ quang dung trước hết là nhớ về đoàn quân miền tây thân yêu, sau đó là tây bắc với dòng sông ma mị đầy ắp kỉ niệm. nỗi nhớ, cũng có một hình ảnh n của núi rừng, là nỗi nhớ “chơi vơi” đến lạ lùng! bởi đối với người lính thành phố, hình ảnh núi rừng Tây Bắc rất lạ, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người lính. Quang dung hai lần nhớ từ “nhớ” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ day dứt trong tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” là một cách thể hiện nỗi nhớ riêng của quang dung. đó là cảm giác, một mình, lạc lõng, quay cuồng trong nỗi nhớ xa xăm, bởi Tây Bắc xa lắm, Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn quanh núi, vắng vẻ, nhưng rất đỗi hào hùng. .

nếu 2 dòng đầu là nỗi nhớ thì ở 12 dòng sau, nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ ghi lại qua bao kỉ niệm ấn tượng. đầu tiên là nỗi nhớ về sai khao, mường lát, “sai khao sương lấp đoàn quân mòn / mường lát hoa trong đêm”. hai địa danh gợi cho ta liên tưởng đến những vùng hành quân của bộ đội miền Tây, từ đó vẽ nên những không gian rộng lớn khác xuyên suốt bài thơ như phên dậu, mường hạc, mai châu,… mang vẻ hoài niệm về gia đình. trong mọi không gian, ở mọi nơi mà nhà thơ đi qua, tâm hồn nhà thơ đều cảm thấy yêu thương và lưu luyến, cất lên lời thơ trữ tình “nơi trái tim không yêu”. Có thể nói, mỗi địa danh tượng trưng cho núi rừng Tây Bắc đã trở thành ký ức không thể phai mờ, khắc sâu trong tâm trí nhà thơ “khi ta ở lại chỉ là chốn ở / khi ta ra đi, đất trở thành tâm hồn”. .

hình ảnh “sương mù che đoàn quân mỏi mệt” gợi hình ảnh đoàn quân miền Tây trở về mường lat trong làn sương mù mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi nên vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, ở đồng thời là vẻ đẹp bao trùm, thống nhất của người lính. cảm giác “mỏi mòn” hiện trong xương máu của người lính, như mới trong tâm hồn dũng cảm, điều đó chứng tỏ nỗi nhớ da diết của tác giả, bởi nỗi nhớ càng nhỏ thì nỗi nhớ càng lớn. là, bộ nhớ nhiều hơn. sự “mệt mỏi” của những cuộc hành quân đường dài! “muông cắt hoa ban đêm”, hoa ở đây có thể hiểu là ngàn hoa từ núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác hơn hoa ban là ánh đuốc le lói trong đêm như một đóa hoa. ánh lửa trong bóng tối hành quân về mường lat. hình ảnh ngọn đuốc hoa gợi lên sự lãng mạn, hào hùng của một thời miền Tây …

sau nỗi nhớ về mường lòng và mường khao là ký ức về những ngày tháng hành quân, chiến đấu gian khổ, vượt núi rừng Tây Bắc hiểm trở, hiểm trở.

“đi lên một khúc cua dốc

heo hút mây, súng ngửi trời

một nghìn mét trên, một nghìn mét dưới

nhà ai mưa xa ”

Từ “dốc” gợi lên khung cảnh của những đỉnh dốc liên tiếp, hết dốc này đến dốc khác, không có điểm kết thúc. từ “quanh co”, “vực thẳm” gợi lên sự hiểm trở, khúc khuỷu, ngoằn ngoèo, hiểm trở cũng như sự bấp bênh của núi rừng, một bên là vách núi, một bên là vực thẳm, sự quyến rũ của cung đường. toàn bộ câu thơ gợi ra một không gian hành quân cao, rộng và người lính đang nỗ lực hết mình để vượt qua chặng đường đầy hiểm nguy. điệp ngữ “ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản “ngược xuôi” còn tiếp tục gợi lên cả độ cao chót vót của đỉnh dốc và độ sâu của đáy. ca từ của bài thơ làm nổi bật thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc và sự nỗ lực vượt qua địa hình hiểm trở của người lính lúc bấy giờ. nhưng dù thiên nhiên hùng vĩ, trập trùng, quanh co đến đâu cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân của đoàn quân phương tây, người lính đã hiện ra với tầm vóc của một đối thủ xứng tầm của thiên nhiên. chữ “ngọt” tượng trưng cho sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi mà bước chân con người tưởng như chưa từng chạm tới, chính vì người lính hành quân trên núi non hùng vĩ mới là “mây”, như lang thang, như chơi vơi. đôi chân của mình, nghĩ rằng chiến binh đi trên mây chứ không phải trên núi.

Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hoá thú vị và sáng tạo của quang dũng, bởi người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi có thể chạm tới mây, với vũ khí treo trên vai. , mũi súng như xuyên thủng bầu trời xanh kia, câu nói “súng ngửi trời” là một cách nói đùa để cảm nhận người lính trẻ lãng mạn, vui vẻ và hồn nhiên. câu cuối có âm điệu thật khác hẳn ba câu trước, lời ca nhẹ nhàng hạ xuống, tưởng tượng như một người lính từ trên đỉnh núi cao nhìn xuống, thấy cảnh vật mơ hồ, sắc nét nhưng lại là dấu hiệu của sự sống, “xa “. tắt mưa ”gợi lên cảm giác sảng khoái của cơn mưa trắng trời. Đó là vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng gợi lên trong tâm hồn người lính những cảm xúc bình yên, về một chốn dừng chân, tiếp thêm động lực cho những hành trình phía trước.

Sau những ngày hành quân gian khổ, anh Quang dũng cảm nhớ về sự hy sinh của một người lính miền Tây.

“người bạn cáu kỉnh không còn đi lại nữa

Hãy đội mũ bảo hiểm và quên đi cuộc sống! ”

người được gọi là “bạn bè” thể hiện tình cảm và sự trìu mến, những cụm từ “đừng bước nữa” và “quên đi cuộc sống” đều là cách để tránh cái chết, tức là giảm bớt nỗi đau mất mát, đồng thời. thời gian như nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của những người lính. tư thế hy sinh “ngã mũ bảo hiểm”, thể hiện bản lĩnh người lính dù hy sinh không rời trách nhiệm, trang bị suốt đời người lính, là tư thế dũng cảm, dũng cảm và hiệu quả. tình cảm người lính. Có thể nói, ở hai dòng trước là nỗi đau, nỗi niềm của nhà thơ đối với người bạn đồng hành và cũng là niềm cảm phục của ông đối với sự hy sinh anh dũng ấy. Lời bài hát cũng thể hiện cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Brave khi viết về chiến tranh nhưng cũng không giấu được nỗi đau mất mát.

Sau đây là nỗi nhớ về một thời gian khó và lãng mạn được thể hiện rõ nét qua 4 dòng thơ sau:

“một buổi chiều hùng vĩ gầm rú

vào ban đêm khi hổ làm trò cười cho con người

hãy nhớ, chúng ta hãy hút cơm

mai tạm biệt là mùa em thơm mùi xôi ”

cấu trúc thơ độc đáo, sử dụng động từ mạnh trong câu “chiều tối hùng vĩ thác đổ ầm ầm” thể hiện sự hùng vĩ, hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc. hơn nữa, không chỉ dừng lại ở sa mạc hùng vĩ mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những hiểm nguy khó lường, dũng tướng viết “đêm đêm cọp nhọ người”, ở chốn rừng thiêng nước độc, lại có. còn có sự hiện diện của thú dữ. mãi đắm chìm trong kỷ niệm mà nhà thơ chợt thao thức “nhớ, miền tây đi khói / mai châu mùa thơm mùi xôi”, miền tây xa, tây bắc cũng xa, chỉ còn lại kỷ niệm. nỗi nhớ ở đây được thể hiện tha thiết, ăn xôi, gợi nhớ đến cả bát cơm, hương khói, xôi ấm tình quân, đồng thời gợi về một thời kháng chiến vừa khắc nghiệt vừa lãng mạn. . hương vị.

14 dòng thơ đầu xoay quanh niềm khao khát khôn nguôi về miền núi rừng Tây Bắc hoang vu, vẻ đẹp vượt lên gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả, sự lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa gian khổ tích lũy. bằng ngòi bút hào hoa, lãng mạn của mình, ông đã thể hiện chân thực nhất nỗi nhớ da diết trong tâm hồn người lính về một thời kháng chiến đã qua với giọng điệu phóng khoáng và hình ảnh thơ giàu sức gợi. , nhịp thơ thay đổi, vạn vật tạo nên một âm hưởng riêng, một âm hưởng riêng. phong cách lính miền tây.

6. phân tích lối đi 1 về phía tây – mẫu 5

“có một khoảng không gian nào đó, đo độ dài của nỗi nhớ, có một không gian rộng lớn, sâu hơn cả tình yêu”

Đó là nỗi nhớ mà vị hoàng đế dành cho mảnh đất của mình từ bài thơ “bên kia sông”, nỗi nhớ của người đi xa qua bài thơ “bếp lửa” – trong tiếng Việt đôi khi là nỗi buồn. nỗi nhớ lứa đôi chỉ dám gửi qua “hương hoa bưởi” trong bài thơ “Hương lặng” – phan thị thanh bạch. người nghệ sĩ nào cũng đặt trái tim mình vào ngòi bút của mình để viết về biết bao nỗi nhớ. Quang Dũng, người nghệ sĩ đa tình, đa tài cũng đã trải lòng mình viết về tình đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây tiến”. bài thơ nổi bật với 14 dòng đầu, những kỉ niệm về quân đoàn trong những chuyến hành quân gian khổ.

Quang Dũng không chỉ làm thơ mà còn viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc … Thơ Quang Dũng luôn tiêu biểu cho chất thơ cảm động, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa. “tây tiến” là bài thơ viết năm 1948 tại thị trấn nổi chanh. Năm 1947, Quang Dũng tham gia đoàn quân Nam tiến, làm đại đội trưởng, sau này chuyển đơn vị. khi nỗi nhớ dồn lại để giữ bầu bạn, quang dũng không thể không viết bài thơ này, một bài thơ được coi là khúc độc tấu của nỗi nhớ.

lật từng trang thơ ngập tràn ký ức về cuộc đời chiến binh bằng tiếng gọi thân thương:

“sông ma xa rồi, về tây ơi! nhớ chơi núi rừng.”

tất cả những cung bậc cảm xúc hiện lên trong nỗi nhớ “chơi vơi” trào dâng từng con chữ. tất cả những kỷ niệm về một thời khó quên cùng đồng đội chiến đấu trên vùng đất Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng rất đỗi thơ mộng bỗng chốc trở thành tiếng gọi thôi thúc, được thể hiện bằng tiếng thơ, tiếng lòng của lòng người. hình ảnh con sông ma gắn liền với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang âm hưởng núi rừng, địa bàn hoạt động cũng rất xa, chỉ còn lại trong ký ức. bạn có thể thấy từ “xa” chính là điểm trầm của câu thơ này, nó như một khoảng trống khi những kỉ niệm như những thước phim lướt qua, để lại biết bao cảm xúc. nỗi nhớ đầu tiên được nhắc đến là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, giữa không gian nỗi nhớ quá lớn, mênh mông, đau đớn, da diết, tâm tư nhà thơ không biết đặt vào đâu nên tạo nên một dung dị. . của từ: “nhớ chơi với”. ký ức thật kỳ diệu!

“sương long đong đầy hoa tàn trong đội quân mệt mỏi trong đêm khuya”

Từ hai bài thơ bùng cháy nồng nàn, dòng hoài niệm của nhà thơ mở ra, lan tỏa, lay động và lay động trong lòng. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát vốn là không gian địa lý nay đã trở thành mốc thời gian lịch sử. hình ảnh “đoàn quân mệt nhoài” giữa xứ sương mù đầy ấn tượng. sự chân thực sống động của hình ảnh thơ khiến ta hình dung ra sự khắc nghiệt của những ngày phải xông pha trận mạc, đối mặt với gian khổ, gian khổ. cảnh thực bỗng tan biến vì sương tạo nên ấn tượng đa chiều trong tâm trí người đọc. không gian tưởng chừng như những mường lát trong những khúc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm, khiến những bước chân nửa đêm tưởng như trĩu nặng nhưng nay lại được tiếp thêm sinh lực. nhà thơ của nhà thơ mở ra một liên tưởng khác:

“những nẻo đường bắc việt của chúng ta, đêm ầm ầm như đất rung quân gửi tin, bước chân nát bươm, lửa bay”

thiên nhiên như vui lên, như đang chờ đợi chiến tích của những người lính ra trận. và trong thơ quang dung, thiên nhiên hiện lên đầy mâu thuẫn:

“trèo lên khúc cua dốc đứng, mây khói, súng ngửi trời. Lên cao ngàn thước, hạ bộ ngàn thước, nhà ai hòa cùng mưa xa.”

Ta có thể nghe thấy tiếng bước chân và nhịp thở của người lính trên chiến trường gian khổ qua câu thơ đồng dao: “dốc lên khúc khuỷu”. những con dốc là hình ảnh được nhắc đến đầu tiên được miêu tả bằng từ tượng hình “khúc khuỷu, thăm thẳm”, khiến người đọc dễ liên tưởng đến địa hình hiểm trở. từ dốc này sang dốc khác nối tiếp nhau, con đường phía trước gian nan, hiểm trở. không dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai miêu tả độ cao của những ngọn núi:

“ngửi rượu, ngửi trời”

hình ảnh những người lính hành quân với những khoảnh khắc nghịch ngợm, hóm hỉnh và đậm chất lính. đi bộ giống như đi bộ qua một biển mây. nó gợi cho chúng ta liên tưởng đến hình ảnh nhân hoá “súng ngửi trời”. cảm nhận của người đọc liên tưởng đến cảnh đầu súng chạm mây, người lính tinh nghịch khéo léo liên tưởng đến hình ảnh đầu súng vươn lên trời cao. chúng ta dường như cũng tìm thấy sự liên tưởng đó trong thơ của chính nghĩa: “đầu súng trăng treo”

Không dừng lại ở đó, khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong đoạn thơ sau:

“cao hơn một nghìn mét, dưới một nghìn mét”

gian khổ vẫn vượt qua, gian khổ càng khích lệ họ quyết chí chinh phục… câu thơ dùng những cặp từ đối lập để miêu tả địa hình hiểm trở của núi rừng nơi đây, khiến người đọc tưởng như mình đang chơi trò bập bênh. nhưng sau bao khó khăn do địa hình hiểm trở đe dọa, chúng tôi vẫn tìm thấy sự bình yên trong cuộc sống trong những ngôi nhà:

“trời mưa xa nhà ai”

Những ngôi nhà nằm giữa biển khói bụi, mưa nhẹ nhàng êm đềm. Những người lính phương Tây dừng lại bên đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau cuộc hành quân gian khổ.

Hoài niệm về đoàn quân hành quân về phía tây, còn có hình ảnh người lính dẫn đầu hành quân gian khổ qua núi cao, vực sâu, mưa gió, nhiều người đã ngã xuống, vinh quang không chút che giấu hiện thực đau thương đó:

“anh bạn béo ục ịch dừng bước, ngã súng quên đời”

nhà thơ nói đến “bạn” là nói đến đồng chí, đồng đội của mình đang mệt mỏi, kiệt sức đến kiệt sức. chữ “ngã” có phần nặng nề nhưng được xóa bỏ và cân bằng lại, bằng hình ảnh “quên đời”. cái chết của người lính miền tây rất êm đềm và thanh bình. cấu trúc tương phản đan xen giữa thiên nhiên và con người tạo nên sự tương phản thầm lặng tôn vinh sức mạnh của con người dù nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở, ác liệt, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi phía.

Giữa những nơi gập ghềnh, gập ghềnh nơi rừng thiêng nước độc, người lính bị thác nước và thú dữ đe dọa:

“buổi chiều thác ầm ầm hùng vĩ, ban đêm hổ rình người.”

“Chiều” và “đêm” diễn tả khoảng thời gian luôn có tính chu kỳ khi hiểm họa bủa vây tứ phía, người lính trong hoàn cảnh phải đương đầu với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. tuy nhiên, giữa chốn rừng thiêng, qua con mắt hào hoa và lãng tử của người chiến binh miền Tây, vẫn thấy được những khung cảnh êm đềm, nỗi nhớ chợt ùa về với cô đào xinh đẹp:

“nhớ hương cơm lam, mai thơm hương nếp nương mùa”.

những hình ảnh gắn liền với tình quân dân bỗng xuất hiện để rồi những bữa cơm nếp dẻo thơm mất đi. trong “ca dao” che lan vien từng viết:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch, vắt xôi nuôi bộ đội, giấu mình giữa rừng. Đất Tây Bắc ngày nào chẳng có lịch trình, bữa cơm đầu tiên vẫn nhớ cho một mùi “.

quang dung đã chọn một nơi có cái tên nghe rất êm tai, gợi lên sự yên bình của “thảo mai” nếu không chọn nơi này mà thay bằng “lai châu” thì có lẽ cái duyên của câu thơ mất đi vài phần. . ở đây “mùa bạn” là mùa ong đi lấy mật, mùa voi xuống sông uống nước, mùa đi làm rẫy, mùa mà ta. gặp nhau, mùa trao yêu thương, mùa nhớ nhung, ra đi mãi mãi. đừng quên.

với những ký ức về đoàn quân miền Tây khó phai mờ trong tâm trí anh, cộng với tài thư pháp hoài cổ rất tài tình, thông qua hàng loạt hình ảnh tương phản bổ sung hài hòa cho nhau, quang dung đã kể lại chuỗi ký ức về thiên nhiên và con người. . thích những bộ phim vừa chân thực, sống động, vừa mang tính huyền ảo cao, giàu cảm xúc và tài hoa. Cái hay của nhà thơ này là ngoài những nét vẽ chân thực, táo bạo, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ ​​những viễn cảnh lãng mạn của chàng trai Hà Nội.

Qua bài thơ, chúng ta hiểu thêm về người lính miền Tây, hiểu thêm về “đoàn quân không tóc” và chúng ta hiểu thêm về cội nguồn sức mạnh mà người lính mang ra trận. tôi xin mượn lời thơ giang nam để thay cho lời kết của bài viết này, có lẽ giang nam đã giúp trái tim của biết bao nhiêu người yêu thơ quang dung và bài thơ “tây tiến”:

“Tây tiến biên cương khói lửa, đi bao lớp hang, cây, rừng, trong bài thơ ấy, con người ấy vẫn sống mãi với sông núi”

7. cảm nhận phần 1 đang di chuyển về phía tây

Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa diện, có tâm hồn thơ phóng khoáng, xúc động, lãng mạn và tài hoa. “tây tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ quang dung. có thể nói, tinh hoa của bài thơ được góp nhặt trong khổ thơ đầu. khổ thơ đã tạo nên một hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ và tươi đẹp của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ và đoàn quân miền Tây đã từng lao động và chiến đấu.

sông của tôi và sau đó đi về phía tây! nhớ núi rừng, nhớ chơi vơi thủy thủ, sương giăng đầy đoàn quân hoa mệt trong đêm hơi nghiêng lên khúc cua dốc hút mây, súng ngửi trời trên ngàn thước, dưới ngàn thước nhà hòa. mưa đi anh không còn giẫm dầu, sa vào súng bắn quên đời !, chiều thác hùng vĩ gầm thét, đêm hổ báo đùa người, nhớ đi mây khói. của mai tạm biệt khi bạn ngửi thấy mùi gạo nếp.

ii ​​/ body

1 / giới thiệu chung

bài thơ về miền tây được sáng tác vào năm 1948 tại thị trấn luu chanh, khi nhà thơ đã rời đơn vị cũ về miền tây chuyển công tác ở đơn vị khác.

Tay tien ‘là một đơn vị quân đội chống Pháp được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào và tiêu hao lực lượng Pháp ở thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. địa bàn hoạt động của quân đội miền tây rất rộng lớn, trải dài từ sơn la, tây thanh hóa đến sam nua (lào): hiểm trở, sa mạc, rừng thiêng, nước độc. Lính Tây đa số là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. họ sống và vật lộn trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. sau hơn một năm hoạt động, đơn vị miền tây trở lại bình yên và thành lập trung đoàn 52.

bài thơ ra đời từ nỗi nhớ của Quang Dũng, những kỉ niệm, những kỉ niệm về đồng đội và chiến trường xưa. sau khi ra đời, tác phẩm đã được nhiều thế hệ bạn trẻ và những người yêu thơ viết tay tìm đọc. năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ Trên đỉnh mây (xuất bản năm 1986).

Bài thơ ban đầu có tên là “nghĩa là tây”, sau đó tác giả đổi lại thành “tây”. nhan đề miền tây đảm bảo tính súc tích của bài thơ, không cần trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà nỗi niềm ấy vẫn hiện lên một cách sâu lắng và xúc động. nhan đề cũng làm nổi bật hình ảnh trung tâm của tác phẩm là hình ảnh đoàn quân tây tiến. việc bỏ từ “nhớ” vĩnh viễn quân Tây làm cho hình tượng người lính Tây trong thơ ca kháng chiến Việt Nam trở thành bất tử.

Tây tiến ”là một bài thơ mang phong cách đậm đà, tài hoa, lãng mạn và phóng khoáng của hồn thơ Quang dũng. tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với người lính miền Tây với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng. khổ thơ thứ nhất tái hiện một cách sinh động khung cảnh thiên nhiên miền Tây với những hoạt cảnh và cuộc hành quân gian khổ, từ đó hình ảnh những người lính miền Tây lần lượt hiện lên.

2 / phân tích câu thơ

a / đoạn thơ mở đầu bằng một làn sóng hoài niệm:

sông tôi xa, hãy đi về hướng Tây! nhớ núi nhớ chơi vơi

Lời kêu gọi “đi về hướng Tây” được thúc đẩy bởi một niềm khao khát sâu sắc và cuồng nhiệt không thể kìm nén được. đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, hiển nhiên là: “sông ma”, “tây tiến”, “núi rừng”. nỗi nhớ ấy phải đau lắm mới được tác giả lặp lại hai lần từ “nhớ”. “nhớ chơi vơi” là một nỗi nhớ bập bùng chân thực vừa nghiêm trang, vừa thường trực, mênh mông và bất an, mở ra không gian của tiềm thức và gợi ra không gian nhấp nhô của núi đèo bao la. . vần “ôi” làm cho bài thơ như vang vọng, phù hợp với nhiều cung bậc cảm xúc.

Hai dòng đầu của bài thơ đã mở ra sợi dây chung của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. nỗi nhớ ấy trở nên cụ thể từng chút một trong những câu thơ sau.

b / hai câu thơ sau: nhớ lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:

sai mong sương phủ lấp đoàn quân mỏi mòn, đêm hoa trở về

hai câu thơ tả thực và sử dụng thư pháp lãng mạn. những từ địa danh sai khao, mường vĩ gợi ra một vùng đất rộng lớn và xa lạ đối với người lính miền Tây. màn sương dày đặc từ trên cao như bao trùm những con đèo, nuốt chửng cả đoàn quân đang mệt mỏi rã rời sau chặng đường dài gian khổ. quang dung đã nhìn thấy và miêu tả một hiện thực tiềm ẩn trong thơ ca kháng chiến. nhưng những người lính ấy dù mệt nhưng vẫn trẻ trung, hiên ngang, lạc quan và yêu đời. hình ảnh “hoa khuya khẽ” là một hình ảnh đẹp và giàu sức gợi. đó có thể là những ngọn đuốc sáng rực của đoàn quân tiến về làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ trong rừng ló ra, trên tay vẫn cầm những bông hoa rừng thơm ngát, cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân tây tiến như hoa dã quỳ mà đoàn quân hành quân trong một “đêm hơi” đầy sương huyền ảo, mơ hồ trong rừng cây, khe suối. hai câu kết ghi đậm nét tài hoa, lãng tử của quang dung.

c / bốn câu thơ tiếp theo miêu tả địa hình hiểm trở ở phía tây:

lên dốc của một khúc cua, những con dốc cao hút mây, ngút trời, hàng nghìn mét ở trên, hàng nghìn mét ở phía dưới, có ngôi nhà hòa vào tiếng mưa phía xa.

nhà thơ sử dụng hàng loạt từ ngữ tượng hình “khúc khuỷu”, “sâu lắng”, “ngọt ngào”, kết hợp với nhịp 4/3 ngắt nhịp, như những đường cắt đôi, một thanh phách dày đặc khiến câu thơ gợi lên nỗi vất vả, nhọc nhằn. những vần thơ ấy gợi mở trong tâm trí người đọc những ấn tượng về những bất trắc, hiểm nguy tiềm ẩn, hiểm trở, gập ghềnh của núi cao, vực thẳm nơi núi rừng miền Tây. hình ảnh “súng ngửi trời” là một sự nhân cách hóa táo bạo gợi tả những sườn núi hùng vĩ. Người lính miền Tây leo lên đỉnh dốc, cảm giác như mũi súng chạm mây. Từ đó, chúng ta cũng thấy được nét vui tươi, khỏe khoắn, vẫn có thể vô tư vui chơi sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi của những người lính miền Tây. sự tương phản “trên ngàn thước – dưới ngàn thước” càng nhấn mạnh sự khắc nghiệt, khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây. ba câu thơ giàu chất tranh, dựng lên hình ảnh sa mạc, sườn núi, núi non hùng vĩ trên con đường hành quân của người lính miền Tây. câu thứ tư là bảy thanh với “nhà ai hòa mưa biển”, vần mở “ơi” đặt ở cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng, gợi những giây phút nghỉ ngơi, thư thái của người lính. họ đứng trên những đỉnh núi, tận hưởng chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, đưa mắt lại gần, nhìn thấy màn mưa mờ ảo nơi bản làng xa xôi. bốn câu thơ gợi lên vẻ hoang sơ dữ dội, thanh bình của núi rừng cũng như cuộc hành quân gian khổ nhưng trẻ trung, sôi nổi của những chàng trai miền Tây.

d / Những người lính phương Tây không chỉ phải đối mặt với những dốc đứng, vực sâu mà còn chịu nhiều mất mát, hy sinh:

Người bạn thất thểu không còn bước đi được nữa, anh ta rơi vào tay súng và quên đi sự sống.

con đường tránh cái chết “đi không nổi nữa”, “sống quên mình” gợi tư thế hiên ngang của người lính miền Tây. họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó đơn giản như một giấc mơ. tư thế hy sinh “rơi súng” thật xót xa nhưng cũng thật anh hùng. hình ảnh người chiến sĩ anh dũng xả thân ấy sau này được thấy trong “hiên ngang Việt Nam”: “và anh chết đứng bắn – máu anh phun lửa cầu vồng”. câu thơ đã tiếp tục truyền cảm hứng bi tráng cho việc xây dựng chân dung người lính miền Tây.

e / và người lính miền Tây tiếp tục bị thử thách bởi những ngọn núi phía Tây:

buổi chiều thác ầm ầm hùng vĩ, ban đêm hổ rình người.

các từ ngữ chỉ tần suất lặp lại của thời gian “chiều”, “đêm” kết hợp với biện pháp nhân hoá “tiếng thác gào thét”, “con hổ giễu cợt” đã nhấn mạnh vẻ huyền bí, dữ tợn, hoang vu đầy hiểm nguy, cái chết luôn rình rập đe dọa những người lính của vùng núi phía tây. mối nguy hiểm đó không chỉ phân tán trong không gian mà còn mở rộng và thường xuyên lặp lại trong thời gian.

g / hai dòng cuối đột ngột chuyển cảnh:

<3

núi cao, rừng rậm rút đi, chỉ còn lại hương vị ấm áp của tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm lam của các cô gái Thái. từ cảm thán “nhớ ơi” ở đầu câu thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, ám ảnh của quang dung cũng như người lính miền Tây xưng hô với người dân miền tây. lòng nhà thơ nhói đau khi nhớ lại cảnh đoàn quân quây quần bên nồi xôi thơm phức. Đó là những khoảnh khắc ngắn ngủi, ấm áp nhưng ngọt ngào, tinh tế nên mãi khắc sâu trong tâm trí nhà thơ. cách kết hợp từ “mùa em” thật độc đáo và gợi lên những liên tưởng đẹp đẽ, lãng mạn về những cô gái Thái khỏe mạnh, nhân hậu nhưng đồng thời cũng giàu tình cảm. hai dòng kết thúc khổ thơ đầu của bài thơ miền Tây có giọng điệu nhẹ nhàng gợi cảm giác ấm áp, thư thái, tạo tâm trạng cho người đọc khi cảm nhận đoạn thơ sau.

Ở những câu thơ còn lại, nhà thơ quang dũng tiếp tục nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ thắm tình quân dân, những buổi tối bên sông nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, nhớ nhung chân chất của con người. tập thể những người lính miền tây dũng cảm và dũng cảm. Đoạn cuối bài thơ, Quang Dũng bày tỏ nguyện ở lại với Tây quân tử.

iii / kết luận

Khổ thơ đầu của bài thơ Miền Tây thể hiện tài năng và tâm hồn lãng mạn hào sảng của nhà thơ Quang Dũng. bài thơ có ngôn ngữ giàu hình tượng, giàu nhạc điệu, đậm đà ấn tượng, tạo nên hình ảnh sinh động, sâu sắc về cảnh đoàn quân tây tiến trên nền thiên nhiên núi rừng hùng vĩ. Qua anh, chúng ta cảm nhận được tình cảm gắn bó sâu nặng, niềm khát khao thiết tha của nhà thơ Quang Dũng đối với những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây tiến, một thời để nhớ và tự hào mãi mãi.

Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

XEM THÊM:  Soạn văn 7 bài luyện tập lập luận chứng minh

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích bài thơ tây tiến khổ 1. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *