Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
677 lượt xem

Top 8 bài phân tích Câu cá mùa thu hay chọn lọc – Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu

Bạn đang quan tâm đến Top 8 bài phân tích Câu cá mùa thu hay chọn lọc – Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Top 8 bài phân tích Câu cá mùa thu hay chọn lọc – Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của tác giả Nguyễn Khuyến trong bài viết dưới đây sẽ là tài liệu ôn tập môn Ngữ văn lớp 11 hiệu quả dành cho các em học sinh. sau đây là tổng hợp bài phân tích câu cá mùa thu, bài phân tích câu cá mùa thu, mời các bạn tham khảo.

  • top 8 bài văn phân tích tình yêu hay nhất từ ​​vợ của bon anh
  • top 4 bài văn phân tích tình yêu hay nhất 2

Bài thơ Câu cá mùa thu là một trong 3 bài thơ mùa thu nổi tiếng trong Tuyển tập thơ mùa thu của tác giả Nguyễn Khuyến. tập thơ được tác giả sáng tác trong thời gian nghỉ hưu ở quê. bài thơ câu cá mùa thu được miêu tả như một hình ảnh thiên nhiên tuyệt vời về vẻ đẹp của mùa thu ở vùng quê đồng bằng Bắc Bộ. Đoạn thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương của tác giả Nguyễn Khuyến cũng như nỗi buồn của tác giả trước số phận đất nước. sau đây là một số bài văn mẫu bàn về tác phẩm Câu cá mùa thu đặc sắc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh khi học bài thơ Tuyển tập.

Phân tích câu cá mùa thu

phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến giúp các em học sinh lớp 11 cảm nhận được hình ảnh đặc trưng của mùa thu ở vùng quê Bắc Bộ bằng nét vẽ giản dị, mộc mạc và tình cảm, tình yêu thiên nhiên, tình quê hương sâu nặng của nhà thơ. bài văn phân tích câu cá mùa thu sẽ gợi lên một mùa thu đẹp đẽ và yên bình ở làng cổ, thể hiện tình yêu mùa thu đẹp đẽ, cô đơn và buồn bã của một nhà Nho.

1. sơ đồ tư duy phân tích câu cá mùa thu

2. Phân tích Câu cá mùa thu – Mẫu 1

nguyen khuyen là một nhà thơ nổi tiếng với một phong cách thơ đặc sắc và riêng biệt. một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông là bài thơ Câu cá mùa thu.

Khi mở đầu bài thơ, tác giả miêu tả khung cảnh thiên nhiên gần thị trấn:

“ao thu lạnh giá với làn nước trong vắt

một chiếc thuyền đánh cá nhỏ ”

“ao” là hình ảnh gần gũi và quen thuộc đối với người nông dân. khi tiết trời chuyển sang thu, cả ao nước mang hơi hướng, âm hưởng của mùa thu với làn nước trong xanh. trong khung cảnh mùa thu với ao nước trong xanh, trong lành ấy là hình ảnh chiếc thuyền câu nhỏ bé của nhà thơ trở nên “nhỏ bé” giữa không gian rộng lớn. cảnh sắc thiên nhiên, hình ảnh mùa thu trở nên đẹp đẽ và mang một màu sắc riêng không lẫn với bất kỳ nơi nào khác.

hình ảnh mùa thu ở thôn quê được tái hiện trong những khung cảnh quen thuộc khác:

“gợn sóng nước theo một chút nhấp nhô

lá vàng bay trong gió ”

gió thổi sóng trên bề mặt “hơi gợn sóng” của nước làm cho hình ảnh động nhưng vẫn tĩnh lặng. tiếng nước gợn nhỏ gợi cảm giác yên bình. Hình ảnh chiếc lá vàng rơi từ trên cây rơi xuống đất được miêu tả sinh động “khẽ đung đưa”, gợi lên sự mong manh của chiếc lá bị gió thổi và âm thanh của mùa thu – tiếng lá rơi.

bầu trời mùa thu mang vẻ đẹp yên bình:

“mây trôi trên bầu trời xanh

con ngõ tre quanh co vắng “

bầu trời mùa thu có những đám mây lơ lửng trong không khí theo từng lớp nhưng vẫn để lộ bầu trời trong xanh tạo nên bầu không khí mát mẻ. còn cảnh quanh nhà thơ với con hẻm ngoằn ngoèo nhưng vắng tanh không một bóng người khiến không gian vô cùng tĩnh lặng.

Trong bức tranh mùa thu yên bình ấy là hình ảnh một thi sĩ chậm rãi và tự do:

“Tôi không thể buông bỏ chăn gối lâu

con cá di chuyển dưới chân vịt “

Trong hình ảnh thiên nhiên mùa thu ấy là hình ảnh nhà thơ thản nhiên buông cần câu để câu cá mà không hề vướng bận, đợi lâu không thấy cá cắn câu. hình ảnh đàn cá “chui rúc dưới chân vịt” tạo cảm giác thú vị. nhà thơ có thể nhìn thấy cá, nghe thấy tiếng động của chúng, nhưng không thể bắt được chúng. Bức tranh mùa thu với những khung cảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam giản dị mà đẹp vô cùng. trong hình ảnh thiên nhiên ấy là hình ảnh những con người điềm đạm, lặng lẽ tận hưởng cuộc sống.

Người ta thường cho rằng vần “eo” mang ý nghĩa xấu và không may mắn, nhưng nhờ sự sáng tạo của mình, nguyen khuyen đã mang đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ và vui tươi bằng cách ghép vần này và tạo nên một bài thơ hay và độc đáo. Đã nhiều năm trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ được nguyên giá trị và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

3. Phân tích bài thơ câu cá mùa thu – văn mẫu 2

nhắc đến mùa thu thường gợi cho ta vẻ đẹp êm đềm, êm đềm chứa đựng nỗi buồn khao khát mà da diết khôn nguôi. do đó, thu vào những trang thơ của người nghệ sĩ thật đẹp đẽ và đẹp đẽ. Trong kho tàng thơ văn trung đại Việt Nam, nói đến mùa thu không thể không nhắc đến chùm thơ thu của “Vua mùa thu” – Nguyễn Khuyến. qua hình ảnh “hái thuốc” (câu cá mùa thu), chạm đến tình yêu của cụ Nguyễn, một người bạn tâm tình không thể nhớ nhung, dù có nói nhiều, nhìn đâu cũng thấy thơ.

Chỉ với một vài dòng và một vài màu sắc, chúng ta có thể thấy qua bức tranh “câu cá mùa thu” đầy chất thơ của Nguyễn Khuyến. nhưng có lẽ trên tất cả, “tình” ở đây là tình yêu gắn bó, tình yêu giao hòa, tình yêu được thiên nhiên ban tặng. đọc “bộ sưu tập xì gà”, ta như được đắm mình trong một bộ sưu tập rất đặc trưng của vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

nếu qua “thu”, du phủ vẽ nên hình ảnh mùa thu đặc trưng của miền Bắc Trung Hoa, kết hợp giữa cái nhăn nheo, tàn úa với cái dữ dội, lay lắt; nếu qua “vịnh thu” nguyễn khản đón mùa thu từ không gian rộng mở bao la với tầm mắt ngước nhìn, khám phá dần những tầng cao nhất của không gian, thì “thu điếu” lại đến: mùa thu được tạo nên từ tất cả những gì “thu nhận” và thi vị cổ điển. vật liệu.

hình ảnh “thu nước” – sóng nước thu với “thu” – trời thu, kết hợp với “thu” – lá thu và hình ảnh “ngư ông” – người đánh cá. ao thu – vốn là một không gian vô định của vùng quê Bắc Bộ. trung tâm của hình ảnh mùa thu là chiếc thuyền đánh cá “nhỏ bé”. từ chính chiếc thuyền nhỏ giữa cái ao nhỏ ấy, nhà thơ đã phóng tầm mắt ra xa và cảm nhận làn nước trong veo và lạnh lẽo của ao mùa thu đến tận cùng.

rồi mùa thu hiện ra với những làn sóng xanh “gợn sóng”, xa hơn một chút là hình ảnh những chiếc lá vàng “uốn éo” trong gió, xa hơn nữa là không gian tuyệt vời của bầu trời “trong xanh”. Dọc theo lối đi của cái ao nhỏ có con đường tre “lắt léo”… và cuối cùng, tầm mắt nhà thơ trở lại đoàn thuyền đánh cá bởi tiếng cá “véo von” dưới chân vịt. cảnh đẹp như tiên cảnh nhưng lại là một vẻ đẹp rất đỗi thân quen, giản dị, gắn liền với quê hương đất nước.

xuan dieu từng nhận xét: “… điếu thu (cá thu) là đặc trưng nhất của mùa thu trong làng cảnh Việt Nam”. mùa thu của nhà thơ không chỉ lộng lẫy về màu sắc, không chỉ đẹp trong từng bức tranh mà còn ngân vang những âm hưởng rất riêng. ao thu hiện lên qua hai tính từ “lạnh” và “trong”: ao lạnh, nước lặng, trong vắt đến tận đáy. ở đây, nội thất đi đôi với tĩnh lặng: nội thất tĩnh lặng hơn, tĩnh lặng hơn, rõ ràng hơn.

riêng với bầu trời, cụ nguyen đã chọn màu “xanh biếc”, sợi dây kết nối tập thơ ba bài thơ của nhà thơ, từ đó trở thành màu sắc tiêu biểu cho tâm hồn thi sĩ. . “green” là màu xanh lá cây nhạt hoàn toàn mà không có bất kỳ chất phụ gia nào, không có bất kỳ sự can thiệp nào. Nguyễn Khuyến đã mở lòng mình để đón nhận một luồng khí độc đáo từ trời thu.

còn với “gió thu”, tác giả không miêu tả trực tiếp mà sử dụng lối “vẽ mây, trăng” cổ điển. tả sóng nước là “gợn sóng nhỏ”, tả lá vàng “khẽ đung đưa” là nhà thơ vẽ gió. Với hình ảnh “ngõ tre quanh co – vắng ngắt” không một bóng người qua lại gợi lên một không gian mùa thu êm đềm, thanh bình. dòng cuối đã được tác giả khéo léo lồng vào theo lối thơ cổ điển “lấy động, lấy tĩnh”.

Đó phải là một không gian tuyệt đối im lặng để cả con người và thiên nhiên đều có thể giật mình vì âm thanh rất nhỏ: “cá click”. chuyển động của tiếng cá làm nổi bật sự tĩnh lặng chung của cảnh. bức tranh mùa thu hiện lên với vẻ đẹp tĩnh mịch, tịch mịch, chỉ có nhà thơ trong vai người đánh cá đối diện với thiên nhiên mà như chìm vào chiêm nghiệm. không gian yên tĩnh, không người, không âm thanh, khung cảnh thu nhỏ nơi ao làng.

Hình ảnh mùa thu của nguyen khuyen còn là sự kết hợp tinh tế của nhiều cung bậc của “giai điệu xanh” (xuân diệu): xanh ao, xanh sóng, xanh nước biển, xanh biển, xanh da trời và xanh tre. sau đó, điểm xuyết giữa những màu xanh lá cây đó, bạn có thể thấy một màu “lá vàng” nổi bật đã tạo ra một hòa sắc mềm mại xuyên suốt bức ảnh. “lá vàng” thường gợi sự tàn lụi, mục nát, là biểu tượng của mùa thu miền Bắc.

nguyen khuyen gợi ý chứ không phải miêu tả, chỉ với ba từ “khẽ đung đưa” mà gợi lên hồn nhiên nơi sắc vàng của chiếc lá trên bầu trời xanh lay động, trong những con sóng nhẹ nhàng. đây là một khoảnh khắc bất ngờ nhưng đầy chất thơ của tạo hóa bộc lộ cái nhìn chủ động của người nghệ sĩ. tác giả như cúi mình, lắng nghe tất cả sự nhạt nhòa trong chuyển động nhẹ nhàng của cảnh vật.

toàn bộ hình ảnh là sự hài hòa của những đường nét chuyển động mảnh mai, mềm mại và tinh tế qua hàng loạt động từ: “khẽ nhấp nhô”, “bồng bềnh”, “xoáy nhẹ” … chiếc áo thu nhỏ nên chiếc thuyền câu. nhỏ, trời xanh nên nước trong hơn, vắng khách nên người câu cá cũng trầm tư, bình lặng. hình ảnh thiên nhiên được hài hòa sắc nét bỗng trở nên hài hòa và phù hợp, đẹp một cách lạ lùng.

vì vậy, để làm sống lại cái hồn của cảnh trên trang viết, Nguyễn Khuyến đã sử dụng một hệ thống từ ngữ vô cùng tài hoa: ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu và biến hoá qua nhiều sắc thái khác thường. Trước hết phải kể đến hệ thống từ ngữ gợi hình, gợi cảm, những tính từ chỉ mức độ được kết hợp rất tinh tế: “lạnh lẽo, trong trẻo, nhỏ bé, gợn sóng, rít lên, bồng bềnh, xanh ngắt, quanh co, trống trải.”

sự lựa chọn vần “eo” – vốn được coi là vần chết trong thơ ca, dưới ngòi bút tài tình của tác giả đã thành công một cách bất ngờ, gợi cảm giác không gian như nhỏ lại, hình ảnh càng gợi cảm xúc. của sự dễ thương và nhỏ nhắn, rất phù hợp với nhãn quan thẩm mỹ truyền thống của người Việt cổ. cảnh thanh đạm, giản dị, không hoa mỹ nhưng vẫn rất gợi cảm; cảnh đẹp nhưng buồn.

nguyễn du đã từng đúc kết một quy luật: “cảnh nào chẳng buồn”, bộ sưu tập tranh của nguyễn du cũng vậy, nó cũng nói lên nỗi niềm của tác giả trước sự thay đổi của thời thế. Có thể nói, bài thơ được hình thành từ sự cộng hưởng giữa cái buồn của cảnh và nỗi cô đơn ẩn sâu trong trái tim con người.

với nhan đề: “câu cá mùa thu” nhưng nhân vật trữ tình không quan tâm nhiều đến câu cá mà nói câu “câu cá” thực chất là đón nhận cảnh thu mà gửi vào lòng người. một bộ sưu tập tranh tĩnh lặng hoặc tĩnh lặng tuyệt đối. Cái se lạnh của cảnh thu có thấm vào tâm hồn nhà thơ hay cái lạnh của lòng nhà thơ đã thấm vào cảnh vật?

Ở Nguyễn Khuyến, chúng ta thấy được nỗi buồn cô đơn sâu thẳm của một nhà Nho đã thoát ly trần thế nhưng vẫn luôn ấp ủ trong lòng mình những tình cảm yêu nước thương dân. Cũng như Nguyễn Trãi ngày xưa về ở ẩn, Nguyễn Khuyến tuy có thân nhưng không phải là không hoạt. khi ông đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp, dân tộc bước vào giai đoạn lịch sử bi tráng.

Chế độ phong kiến ​​lúc bấy giờ đã trở thành gánh nặng cho lịch sử, vì nó không còn giữ được đất nước khỏi nạn ngoại xâm và nô dịch. hệ tư tưởng Nho giáo mà nhà thơ từng tôn thờ nay đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Nguyên khuyến khích nhận thức sâu sắc về sự bất lực của chính mình. anh luôn cảm thấy lo lắng và bồn chồn vì không thể làm được nhiều hơn cho đất nước và nhân dân.

Điều duy nhất anh có thể làm là bất hợp tác với kẻ thù, lui về quê hương ở ẩn, giữ nhân cách, quên đi những dằn vặt của cuộc đời, muốn quên đi nhưng anh không thể. Ở vùng quê hoang sơ, Nguyễn Khuyến vẫn luôn đau đáu một nỗi lo thường trực: ông là một con người có tấm lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước. hai câu thơ cuối kết lại mạch cảm xúc, gợi lên sự thanh thản của con người với tư thế ngồi điềm tĩnh của một người đánh cá “lênh đênh”

“Tôi không thể đứng trên đầu gối của mình lâu

Con cá di chuyển dưới chân vịt. ”

Nhà thơ say sưa ngắm nhìn cảnh vật mùa thu, đến khi nghe tiếng cá kêu dưới chân vịt, mới giật mình tỉnh giấc. vừa trở về với thực tại, nhà thơ đã tự đặt mình vào trạng thái lửng lơ… một chữ “đâu” mà không phân biệt được đâu là giả, đâu là thật. “đâu” là hư không hay “ở đâu” ở đâu đó? hình ảnh có thực sự có tiếng cá kêu không? người đọc không biết, nhà thơ không giải thích được. những người đang câu cá nhưng giống như hóa thạch giữa không gian và thời gian, họ đi câu cá nhưng nỗi cô đơn của họ không phải là câu cá.

Mỗi nhà thơ làm thơ, trên hết, phải biết thổi hồn vào đó, phải biết chuyển những ngôn từ gay gắt đầy chất thơ và “múa” thành cảm xúc. “Đọc một câu thơ hay, người ta gặp một tâm hồn con người” (atonium france). Qua tác phẩm “Thuốc lào”, ta thấy ở Nguyễn Khuyến một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước trong sáng và thầm kín.

Phải có cái nhìn tinh tế của một nhà thơ thời trung đại mới có thể vẽ nên một bức tranh đẹp như vậy. cái buồn trong cảnh không đưa đến mức sầu thảm mà lan tỏa nhẹ nhàng đủ tạo nên một khoảng lặng trong tâm hồn. chính nỗi nhớ của tác giả tạo nên nỗi nhớ trong tâm trí người đọc, tạo nên day dứt cho cuộc đời, đồng thời tạo nên giá trị lâu dài và sức sống lâu bền cho tác phẩm.

XEM THÊM:  Bai tho me di lam tu sang som

với “Thuốc lào” – Nguyễn Khuyến đã tạo dựng cho mình một vị trí quan trọng trong thơ ca trung đại Việt Nam nói chung và trong những bài thơ chọn đề tài mùa thu nói riêng. điền vào từng câu thơ những từ ngữ ta mới thấy được tình yêu bao la của nhà thơ. Nguyễn Khuyến, hơn cả một họa sĩ là một nhà thơ. thơ của anh ấy không chỉ là một bức tranh thể hiện những cảnh tượng bằng những từ ngữ khiêu dâm.

4. phân tích bài Câu cá mùa thu – văn mẫu 3

nguyen khuyen vừa là nhà văn trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, thấm nhuần tư tưởng cổ đại và triết học phương đông. thơ chữ Hán của ông chủ yếu là thơ trữ tình. Có thể nói, trên cả hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Tuyển Tập Thuốc Lá được rút ra từ Tuyển Tập Thơ, gồm ba bài: Tuyển Tập Thuốc Lá, Tuyển Tập Bay. cả ba bài thơ đều được viết bằng ngôn từ, lối viết, hội họa, lấy khuynh hướng ngang trái của văn học trung đại, nhưng vẫn lưu lại dấu ấn độc đáo của một trong những bậc thầy kiệt xuất của nền thơ ca cổ điển.

Phong cảnh được nhận từ gần đến xa và từ xa đến gần. từ điểm nhìn của một người ngồi thuyền nhìn ao, nhìn trời, nhìn ngõ vắng, rồi lại nhìn xuống ao thu, nhà thơ đã nhìn không gian, cảnh vật mùa thu theo sau người sống. .

“ao thu lạnh giá với làn nước trong vắt,

một chiếc thuyền đánh cá nhỏ. ”

Nguyễn Khuyến đã chọn những chi tiết rất đặc trưng cho mùa thu miền Bắc (ao thu, gió thu, trời thu). ao thu là một ao rất độc đáo chỉ xuất hiện vào mùa thu. Nguyễn Khuyến đã lưu ý đến hai đặc điểm của ao thu: lạnh và trong: ao lạnh, nước lặng, trong suốt đến đáy. ao là nét chung trong thơ văn nguyễn khuyển, nói đến ao là nói đến cái gì đó rất gần gũi, thân thuộc, tâm hồn của nguyễn khuyển là như vậy: thân thiết, bình dị, chân chất với hồn quê. Bầu trời trong xanh của mùa thu cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ Nguyễn Khuyến. bầu trời mùa thu xanh luôn là biểu tượng đẹp đẽ của mùa thu. mây không trôi trên bầu trời mà trôi. xanh trong thơ nguyễn khuyển là màu xanh trong sáng, thuần khiết đến tuyệt đối, không pha trộn, không phức tạp.

đường nét chuyển động uyển chuyển, mảnh mai, tinh tế: hơi nhấp nhô, nhẹ nhàng đung đưa, mây trôi, đường viền mỏng của rừng trúc, gợn sóng của ao thu. cảnh vật toát lên sự hài hòa, đủ đầy: ao nhỏ – con thuyền nhỏ; gió nhẹ – sóng lăn tăn; trời xanh – nước trong; khách sáo, chủ tử trầm tư suy tư. sau này, mùa xuân trong bài viết mùa thu sắp tới cũng đã ghi lại những nét đặc trưng ấy của vùng sông nước miền quê, khi những ngày se lạnh đã bắt đầu tràn về:

những dòng suối run rẩy lay động những chiếc lá…

… Tôi nghe thấy hơi lạnh trong gió

không có người nào trên thuyền.

nghệ thuật sử dụng từ ngữ của tác giả, những từ ngữ tạo hình và gợi hình, những tính từ, từ ngữ chỉ độ như lạnh, trong, nhỏ, hơi nhấp nhô, khẽ đung đưa, trôi, xanh, trống, quanh co, sự lựa chọn vần của. vòng eo gợi cảm giác thu hẹp diện tích.

Cảnh buồn mà không có nỗi buồn: Hình ảnh cảnh thu đã bộc lộ cho ta thấy được tình người của người cùng cảnh. Phải chăng đây là tâm trạng đương thời của nhà thơ? thời gian thay đổi quá nhanh! trong tích tắc, non sông đã mất vào tay giặc. giây lát sau, thời gian đã trôi qua: lá vàng bay trong gió. Phải chăng chính mặt nước, mây trôi và sắc trời đã mở ra không gian cho bài thơ, đồng thời gửi gắm những nỗi niềm ẩn chứa, có điều gì đó đang bay bổng vượt thời gian? chọn con đường mai danh ẩn tích, giữ ngôi cao để làm biểu tượng của phương trời kia, liệu có đúng, hay chỉ là “chạy phố” theo lời cay đắng của một giáo sư đại học? .

ngõ tre quanh co vắng, có phải là tâm sự cô đơn lẻ loi? nguyen khuyen từng xem mình như cành tre! lẻ loi một mình, vắng vẻ trước bao bộn bề. Đó có phải là tâm sự của một nhà Nho đã thoát ly trần thế nhưng vẫn không thôi trăn trở về đất nước, nhân dân, sự trì trệ và bất lực của chính mình? lặng lẽ nhưng không lặng lẽ, nguyen khuyen không thể lặng lẽ đi câu cá như một ẩn sĩ thực thụ.

Câu thơ cuối cùng, chỉ âm thanh: cá bớp. Đó có phải là tiếng lòng của người đánh cá? Nguyễn Khuyến nói về câu cá, nhưng tác giả không thực sự chú ý đến câu cá. Tôi nói câu cá, nhưng thực chất là nhận cả trời thu trong lòng, gửi gắm nỗi lòng. lắng lòng để cảm nhận sự trong trẻo của làn nước, cảm nhận tiếng sóng biển rì rào nhẹ, cảm nhận được tiếng lá rơi nhè nhẹ. đặc biệt là tấm lòng bình lặng được gợi sâu từ một âm thanh nhỏ: tiếng cá xé mồi. đó là sự tĩnh lặng tuyệt đối của tâm trạng, lòng nhà thơ cũng êm đềm, trong trẻo như làng quê Việt Nam mùa thu.

Bài thơ Câu cá mùa thu thể hiện tình cảm và nghệ thuật miêu tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng thời sự. tài năng thơ của tác giả.

5. phân tích thuốc lá – mẫu 4

Thu cii là một trong ba tập thơ nổi tiếng nhất về thơ lục bát của Nguyễn Khuyến. bài thơ kể về một mùa thu yên ả và tươi đẹp ở làng cổ, nói lên tình yêu mùa thu đẹp đẽ nhưng cô đơn và buồn bã của một nhà Nho yêu quê hương đất nước. Tuyển tập Thuốc lá cũng như Tuyển tập Ẩm, Tuyển tập Vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết sau khi ông giã từ quan trường và về sống ở quê nhà (1884)

hai câu thơ: ao thu se lạnh nước trong: chiếc thuyền câu nhỏ mở ra một không gian nghệ thuật, một khung cảnh mùa thu thôn quê. ao thu nước trong veo có thể nhìn thấy rong rêu đến tận đáy, tỏa ra hơi lạnh mùa thu như bao trùm khắp không gian. Không còn cái se se lạnh của chớm thu mà tiết thu đã vào thu nên se se lạnh. kể từ đó, trên mặt ao thu đã xuất hiện một chiếc thuyền câu nhỏ. một đại diện cho sự đơn độc của một chiếc thuyền đánh cá. tiny có nghĩa là rất nhỏ; nhạc điệu của bài thơ cũng gợi nên sức hấp dẫn của cảnh vật (dĩ nhiên – tí tèo). Đó là một mùa thu đẹp và yên bình.

hai câu thực (sóng nước khẽ nhấp nhô – lá vàng đung đưa trong gió) gợi tả một không gian hai chiều. màu sắc hài hòa, có sóng xanh với lá vàng. làn gió nhẹ cũng đủ làm cho những chiếc lá thu vàng khẽ rung rinh, khiến những làn sóng xanh biếc lay động từng đợt. sự tương phản đầy nghệ thuật làm nổi bật một bộ sưu tập, làm nổi bật những gì được nhìn thấy và nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong cách dùng từ và tình cảm, lấy góc nhìn của những con sóng khẽ nhấp nhô với cái khẽ đung đưa, đung đưa của những chiếc lá mùa thu. chữ vo là một nhân vật mà sau này thi sĩ tan da rất ngưỡng mộ và thích thú. đã thổ lộ một đời thơ mới bằng một câu tâm đắc: nhìn lá rơi ngoài sân (cảm nhận mùa thu, tạm biệt).

hình ảnh thu được được phóng to dần qua hai câu thơ:

mây trôi trên bầu trời xanh

Con hẻm tre ngoằn ngoèo vắng tanh.

bầu trời mùa thu trong xanh, bao la. mây, lớp mây (trắng hay hồng?) nhẹ nhàng bồng bềnh. thoáng đãng, êm đềm, yên tĩnh và nhẹ nhàng. không một bóng người đi qua đường làng đi vào các ngõ: ngõ tre quanh co vắng tanh. sa mạc có nghĩa là vô cùng yên tĩnh không một tiếng động, nó còn gợi sự cô đơn và trống trải. Ngõ tre trong thơ tam nguyên yên làm luôn gợi lên một tình quê man mác buồn:

đó là một dặm, con hẻm ở đâu

Con tàu của ai đang đợi bạn ở đây?

(nhớ núi doi)

Ngõ tre và những đám mây cũng là một nét đẹp và quen thuộc của mùa thu nơi phố thị. nhà thơ dường như đang trầm ngâm lặng lẽ và mơ màng về cảnh vật.

trong hai câu cuối cùng, một đối tượng khác xuất hiện trong hình ảnh mới:

Tôi không thể dựa vào gối trong một thời gian dài

Con cá di chuyển dưới chân vịt.

hái thuốc lá có nghĩa là câu cá vào mùa thu. sáu câu đầu chỉ có cảnh vật: ao thu, đoàn thuyền đánh cá, sóng biếc, lá vàng, mây phủ, lũy tre. phải đến cuối cùng thì người đánh cá mới xuất hiện. tư thế thoải mái: tựa vào gối, ôm cần gạt. một sự chờ đợi: không lâu. chợt bừng tỉnh khi anh mơ hồ nghe thấy tiếng cá chao liệng dưới chân vịt. người đánh cá dường như đang ru hồn mình vào giấc mơ mùa thu. người đọc liên tưởng đến một làng chài sừng sững bên bờ sông cách đây hơn vài nghìn năm. Chỉ có tiếng cá lóc chóc sau tiếng lá thu, đó mới là âm hưởng mùa thu phố cổ. âm thanh ấy hòa cùng tiếng đàn trong không trung như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. người đánh cá sống trong tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. một cuộc sống trong sáng, một tâm hồn cao thượng cao quý.

xuan dieu đã khen ngợi sự kỳ diệu của màu xanh lá cây của bộ sưu tập. có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo … và chỉ có một màu vàng của lá thu rung rinh. phong cảnh đẹp, yên tĩnh, nhưng buồn. tâm hồn thư thái, cao thượng gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. mỗi nét thu là một sắc thu, âm thanh của mùa thu gợi lên hồn quê mùa thu thân thiết, vần: Ta thấy – tèo – tèo – tèo – tèo, tương phản tạo nên sự cân đối hài hòa, âm điệu thơ êm dịu. một phong cách nghệ thuật vô cùng điêu luyện và hồn nhiên; trên thực tế, nó đã được xuất thành các chương. thu điếu là tập thơ tả cảnh làm tình tuyệt vời.

6. phân tích thuốc lá – mẫu 5

Trong nền thơ ca dân tộc, có rất nhiều bài thơ hay về mùa thu. chỉ có cụ Nguyễn Khuyến mới có chùm thơ gồm ba bài: thu vịnh, thu mới và thu. bài thơ nào cũng hay, đẹp thể hiện tình yêu quê hương đất nước dạt dào. Đặc biệt, bài “Thu điếu”, được nhà thơ xuân khảo nhận định là “tiêu biểu nhất cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, tình yêu mùa thu tươi đẹp gắn với tình yêu quê hương tha thiết.

“Thu điếu” được viết theo thể thơ bảy chữ tang quyến, ngôn ngữ, hình ảnh và cách diễn đạt tinh tế. Cảnh đẹp mùa thu của làng quê Việt Nam dường như hiện ra dưới những hình dáng và màu sắc kỳ diệu dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu nói về ao thu và đoàn thuyền đánh cá. nước ao “trong veo” tỏa sương thu “se lạnh”. sương thu dường như bao phủ cảnh vật. nước ao thu đã trong xanh hơn, không khí mát mẻ mùa thu lại trở nên “se lạnh”. trên mặt nước xuất hiện một chiếc thuyền đánh cá rất nhỏ – “nhỏ”. ao và đoàn thuyền đánh cá là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc và đẹp đẽ của quê hương. Theo xuan dieu, các vùng đồng bằng thấp của Bình Lục, Hà Nam có nhiều ao, nên các ao lớn nhỏ, thuyền đánh cá cũng “nhỏ”:

“ao mùa thu lạnh và trong xanh,

một chiếc thuyền đánh cá nhỏ “.

các từ: “lạnh”, “trong vắt”, “nhỏ” gợi tả đường nét, hình khối, màu sắc của cảnh vật, màu nước mùa thu; tiếng thơ vang lên như tiếng thu, hồn thu về.

Hai câu thơ sau đây phần thực là nét vẽ điêu luyện làm bừng sáng cái hồn của cảnh thu:

“những con sóng xanh theo một sự nhấp nhô nhẹ,

Những chiếc lá vàng nhẹ bay trong gió. “

Màu “xanh” của sóng hòa với màu “vàng” của lá, tạo nên hình ảnh cánh đồng bình dị nhưng lộng lẫy. nghệ thuật phần tả thực rất điêu luyện, “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “xoáy” của chiếc lá bay tương ứng với mức độ “nhỏ” của sóng. Thi sĩ Tản Đà ca ngợi chữ “vo” trong thơ Nguyễn Khuyến. ông nói rằng đời thơ của ông chỉ có thể đạt được một câu tâm đắc trong bài thơ “tiễn biệt mùa thu”, “nuốt lá rơi trong sân”.

hai câu mở rộng không gian mô tả. hình ảnh mùa thu có độ cao của bầu trời “trong xanh” với những đám mây “bồng bềnh” trôi theo làn gió nhẹ. trong tập thơ mùa thu, nguyen khuyen xác định màu của bầu trời mùa thu là “xanh biếc”:

“bầu trời trong xanh vào mùa thu

(vịnh nhà sưu tập)

“người nhuộm màu xanh da trời.”

(thu thập độ ẩm)

“những đám mây trôi trên bầu trời xanh”.

(nhặt một điếu thuốc)

“blue” là màu xanh lục có độ sâu. bầu trời mùa thu trong xanh (mây xám), nhưng xanh thẳm. màu xanh đã gợi ra chiều sâu, sự tĩnh lặng của không gian, cái nhìn kỳ diệu của nhà thơ, ông lão đánh cá. rồi anh lơ đãng nhìn quanh sân. Dường như tất cả dân làng đã ra đồng. thị trấn yên tĩnh và vắng vẻ. con đường nào cũng quanh co, đẹp trai, không một bóng người qua lại:

“ngõ tre quanh co vắng”.

khung cảnh êm đềm, có chút buồn, hiu quạnh, hiu quạnh. người đánh cá dường như đang ở trong một giấc mơ mùa thu. tất cả những cảnh vật từ mặt nước “ao thu se lạnh” đến “chiếc thuyền đánh cá nhỏ”, từ “sóng biếc” đến “lá vàng”, từ “mây trôi đến“ lũy tre lộng gió ”hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, đôi khi là một có chút gì đó man mác, man mác nhưng rất đỗi thân thương và gần gũi với mỗi người Việt Nam.>

ý nghĩa của bài thơ “nhặt thuốc lá” nằm ở hai câu cuối:

“Tôi không thể đợi lâu để dựa vào một chiếc gối,

con cá di chuyển dưới chân vịt. “

“Nằm gối ôm cây sậy” là tư thế của một người đánh cá, cũng là một phong thái ung dung của một thi nhân đã thoát khỏi vòng danh lợi. âm thanh “con cá chuyển đi đâu”, đặc biệt là từ “đâu” gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt bừng tỉnh. người đánh cá ở đây chính là nhà thơ, một vị quan lớn của triều Nguyễn, yêu nước, thương dân nhưng kiên cường trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, người báo bệnh, của quan. đằng sau những dòng chữ là một nhà Nho trong sáng, lương thiện, thoát kiếp. cầm cần câu mà tâm hồn nhà thơ chìm vào giấc mộng mùa thu, chợt bừng tỉnh trước thực tại khi “cá chao liệng dưới chân vịt”. nên cảnh ao thu, trời thu êm đềm, lặng lẽ như chính nỗi lòng của nhà thơ: buồn, cô đơn và trống vắng.

XEM THÊM:  Soạn bài Viếng lăng bác | Ngắn nhất Soạn văn 9

Tiếng cá “vỗ dưới chân vịt” đã làm nổi bật khung cảnh ao thu yên ả. cảnh vật luôn hòa quyện với tình người. thiên nhiên như một người bạn tâm giao với nguyen khuyen. bao cảm xúc, gửi gắm tâm hồn và tìm kiếm niềm an ủi trong thiên nhiên, trong màu “vàng” của lá thu, trong màu “xanh biếc” của trời thu, trong “làn sóng biếc” trên mặt ao thu. . “lạnh” …

Thực ra, “thu điếu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. khung cảnh mùa thu của quê hương được miêu tả bằng những gam màu tươi tắn, nét vẽ từ xa đến gần, tinh tế và gợi cảm. tiếng lá rơi rung rinh trong gió thu, tiếng cá kêu chân vịt – đó là âm thanh mùa thu mộc mạc quen thuộc của vùng quê đã gợi lên trong lòng ta bao kỉ niệm đẹp về quê hương. .

Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến thật độc đáo. vần “eo” đi vào bài thơ rất tự nhiên, thoải mái, để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc; âm thanh của câu thơ như cuốn hút ta: trong trẻo – nhỏ nhoi – meo meo – trống rỗng – trống chân. nhà thơ xuân điệu đã từng viết: “Cái thú của bài“ Thu điếu ”là ở những giai điệu xanh biếc, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh da trời, xanh ngắt, có màu vàng ngang dọc của lá. rơi “…

thơ là sự cách điệu của tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu khung cảnh thôn quê bằng tất cả tình cảm nồng ấm của đất nước. là nhà thơ nhân dân phong cảnh Việt Nam. đọc “thu điếu”, “vịnh thu”, “ẩm thu”, ta yêu mùa thu quê hương hơn, yêu quê hơn, của đất nước. với nguyen khuyen, để tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một vị trí vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

7. phân tích thuốc lá – mẫu 6

Đó là mùa thu với những gam màu ảm đạm, ảm đạm, gió lạnh thổi qua và những chiếc lá vàng nhẹ rơi, để lại những thân cây trơ trụi, trầm mặc. Mùa thu có lẽ khiến người ta thêm hoài niệm và là nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ. quay bánh xe lịch sử, ta sẽ thấy mình có một mùa thu tuyệt vời đầy thi vị của bao thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến bức “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến, bức tranh mùa thu mà Xuân Diệu từng nhận xét “là tiêu biểu nhất cho mùa thu trong làng cảnh Việt Nam.”

ao thu lạnh giá với làn nước trong vắt

một chiếc thuyền đánh cá nhỏ

những con sóng xanh theo một sự nhấp nhô nhẹ

lá vàng bay trong gió

mây trôi trên bầu trời xanh

con ngõ tre quanh co vắng

Tôi không thể buông gối lâu

Con cá di chuyển dưới chân vịt.

Tiếp xúc với bài thơ, điều đầu tiên khiến ta ấn tượng là mật độ vần “eo” trong bài thơ. Hãy đếm xem: có bảy từ sử dụng vần “eo”. Nếu để ý khảo sát trong tiếng Việt, chúng ta sẽ phát hiện ra một điều thú vị: vần “eo” trong tiếng ta nhiều khi làm cho không gian và sự vật nén lại, co lại và kết tinh trong một khung nhỏ nhất của chúng. tiết trời mùa thu đã mang theo không khí se lạnh rồi, từ “lạnh” ấy càng lạnh hơn. Nước hồ vốn đã trong xanh, nay lại càng thêm rõ ràng bởi hai chữ “trong vắt”. không gian rộng lớn khiến cho chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé càng trở nên nhỏ bé hơn khi tác giả xem nó như “bé nhỏ”. hình ảnh “lá vàng bay trong gió nhẹ” gợi cho ta liên tưởng đến hai câu thơ trên trần đăng khoa:

một chiếc lá sung rơi trước hiên nhà

tiếng rơi rất yếu, như thể nó rơi nghiêng.

trở lại câu thơ của cụ nguyen, từ “vo” gợi cảm giác như lá rơi. “khẽ đung đưa” dòng chữ có cấu trúc ngôn từ rất lạ, khiến tưởng như âm thanh không có thực mà đang diễn ra trong tâm trí nhà thơ. tờ giấy đó của nhà thơ yên do y trần đăng khoa giống như một ảo ảnh. trong ảo ảnh đó, cả người đọc và tác giả dường như không kiểm soát được nó có thật hay không. hình ảnh mùa thu đến ở đây hơi di chuyển xuống dưới bức ký họa của nhà thơ.

Xuyên suốt hai dòng thơ, hình ảnh mùa thu không nằm trong một không gian rộng lớn như trong “vịnh thu” mà chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ bé của “ao thu”. “ao thu” hai âm thanh đó có vẻ lạ và đặc biệt. hình ảnh “ao thu” như để thể hiện sự nhỏ bé khác thường của nó.

Toàn bộ khung hình ảnh được vẽ dưới dạng một hình ảnh nhỏ có thể được đặt trong lòng bàn tay của bạn. có một cái gì đó vui nhộn, dễ thương và quyến rũ một cách kỳ lạ về nó. thu trọn không gian làng cảnh Việt Nam êm đềm, tĩnh lặng nhưng ẩn chứa một sức sống mãnh liệt.

ở đây không gian như được mở rộng ra, nhà thơ đã chuyển điểm nhìn từ không gian nhỏ bé của “ao thu” sang không gian lớn của bầu trời. ở đó nhà thơ đã gặp:

“những đám mây lơ lửng trên bầu trời xanh”

Động từ “nổi” dường như cho chúng ta cảm giác về một chuyển động dường như đang đứng yên. những đám mây mùa thu dường như nhích từng chút, bồng bềnh trên bầu trời thu xanh ngắt. đây là chuyển động của chiếc thuyền đánh cá, nó dường như đang lắc lư nhẹ trong làn sóng mùa thu.

quay lại câu:

“những con sóng xanh theo một chút nhấp nhô”

Chúng tôi thấy điều gì đó ấn tượng về nó. từ “ngõ” xuất hiện khiến cảnh vật như mơ hồ, khó hiểu. “hơi gợn sóng” gợi lên trước mắt chúng ta một dạng sóng. Nó không ồn ào như sóng biển mà gợn sóng trải dài trên mặt hồ. hình ảnh mùa thu như được hòa mình vào sự yên bình và tĩnh lặng ấy.

Có một câu nói rằng không có vẻ đẹp tuyệt vời mà không có sự kỳ quặc nào đó. thì câu thơ:

“ngõ tre quanh co vắng”

Tuy gợi cảm giác thích thú nhưng hình ảnh mùa thu ở đây vẫn mang một vẻ đẹp rất thơ mộng, yên bình và trong sáng. nhân cách của nhà thơ ở đây có phần bộc lộ hơn:

“Tôi không thể buông bỏ chăn gối lâu

con cá di chuyển dưới chân vịt “

vì vậy câu “gối đầu giường” mới lạ. nó như thừa nhận rằng nhà thơ đang suy nghĩ về một điều gì đó rất mãnh liệt, như thể nó đang xé nát anh ta. đó là nỗi buồn của thời cuộc, nỗi buồn mà đến cuối đời nhà thơ vẫn chưa thể nguôi ngoai dù chỉ một chút. ở đoạn cuối bài thơ, cảnh vật mùa thu im lìm như được đánh thức bởi âm thanh dồn dập của cụm từ “nó chuyển động đi đâu”. tạo nên nét đối lập trong bài thơ: cảnh trên được miêu tả như một hình ảnh vắng lặng, hoang vắng, cuối bài thơ như bừng lên, hình ảnh ấy như bừng lên. nhưng nó cũng làm cho bài thơ rất đỗi bình yên. ba âm thanh “anh đi đâu” lại cất lên một chút rồi lại nhấn xuống dưới sự áp bức mãnh liệt của vần “eo”. cách sử dụng nghệ thuật, dùng động để tả sự tĩnh lặng làm cho cảnh thơ càng thêm thanh bình, nỗi buồn dường như bao trùm cả một khung cảnh bao la.

bài thơ cũng mang trong mình một tông màu xanh của trời, của lá, của nước mùa thu. tất cả như hòa vào nhau làm cho bài thơ tạo nên một hình ảnh hài hòa, cân đối, mang một màu sắc rất riêng của đất nước Việt Nam. một chiếc lá vàng đục theo chiều ngang để tăng thêm vẻ đẹp mới cho hình ảnh mùa thu.

khi đọc “câu cá mùa thu” tôi đã yêu sông núi của vùng đất Việt Nam này. Hình ảnh mùa thu mang trọn vẹn vẻ đẹp thiên nhiên đất nước Việt Nam giữa nhịp sống hối hả này. Phải chăng chúng ta cần nhiều lần lắng lòng mình để thích thú “thu điếu” để thanh lọc tâm hồn, thêm yêu quê hương đất nước, yêu hơn nữa thứ tiếng Việt trong sáng và giàu bản sắc này …

8. cảm nhận câu cá mùa thu

Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, dường như cùng với sự kết thúc của hệ thống xã hội phong kiến ​​suy tàn và lạc hậu, văn học trung đại Việt Nam sẽ rơi vào ngõ cụt cùng với Việt Nam. phương pháp phản ánh. Nhưng thật lạ là trong thời kỳ suy thoái tưởng chừng đã lên đến đỉnh điểm ấy lại có một tài năng thơ lỗi lạc như Nguyễn Khuyến. nó như một câu cảm thán khẳng định tính chất cổ điển đanh thép của văn học trung đại cuối giai đoạn văn học kéo dài hàng chục năm này. Ông đã để lại cho quê hương, đất nước một di sản văn học phong phú và thực chất. Nhưng nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến, độc giả gọi ông là nhà thơ của danh lam thắng cảnh quê hương Việt Nam, bởi ông đã viết rất nhiều bài thơ hay về cảnh thôn quê. đặc biệt là tập thơ mùa thu của anh, trong đó có tập thơ (câu cá mùa thu).

ba bài thơ từ tuyển tập, tuyển tập và tuyển tập. từng câu hát hay, đẹp thể hiện tình yêu quê hương đất nước dạt dào. vừa thu vừa được nhà thơ xuân khảo cho là tiêu biểu nhất của mùa thu làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: cảnh thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu vẻ đẹp mùa thu gắn với tình yêu chân thành. . cho quê hương.

Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh giàu sức biểu cảm. Cảnh thu nơi thôn quê Việt Nam như hiện lên với những hình dáng và màu sắc kỳ ảo dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến.

hai câu đầu tiên:

ao thu lạnh giá với làn nước trong vắt

một chiếc thuyền đánh cá nhỏ

Nhà thơ hầu như không có hứng thú với việc câu cá nhưng lại say mê với không khí của phong cảnh mùa thu, ngay câu đầu tiên nhà thơ đã gọi ao của mình là ao mùa thu, và với bản chất lạnh lẽo, nước trong vắt. thì đó là ao thu, không phải là môi trường thuận lợi cho việc câu cá, thêm vào đó là cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm vào cảnh thu, một cảnh tuyệt đối trong sáng và tĩnh lặng, nước trong. , trời trong xanh, vắng khách, giác quan của nhà thơ vô cùng nhạy bén và phải chú ý nhiều đến những cách diễn đạt tinh tế, tinh tế chỉ làm tăng thêm vẻ trong trẻo và tĩnh lặng của một cảnh vật đầy màu sắc:

những con sóng xanh theo một sự nhấp nhô nhẹ

lá vàng bay trong gió.

Màu xanh của sóng biển hòa với màu vàng của lá tạo nên hình ảnh cánh đồng bình dị nhưng lộng lẫy. nghệ thuật trong phần hiện thực rất điêu luyện, lá vàng sóng xanh, tốc độ bay của lá tương ứng với mức độ của sóng. nhà thơ tan da đã ca tụng chữ “vo” trong thơ Nguyễn Khuyến. ông nói rằng cuộc đời thơ của ông chỉ có thể có một câu thơ mãn nguyện trong bài ca cảm ơn và vĩnh biệt:

Có vẻ như khu vườn đầy lá rụng

tham gia buổi diễn tập:

mây trôi trên bầu trời xanh

Con hẻm tre ngoằn ngoèo vắng tanh.

không gian mở rộng, hình ảnh mùa thu có độ cao của trời xanh với những đám mây bồng bềnh trong gió nhẹ. Trong Bài thơ thu, Nguyễn Khuyến đã xác định màu của bầu trời mùa thu là xanh biếc. vào mùa thu vịnh là “trời xanh trên các tầng cao”, trong ẩm là “trời nhuộm xanh”, mùa thu là “mây lơ lửng giữa trời xanh”. .

Màu xanh lam là màu xanh lục có chiều sâu. bầu trời mùa thu trong xanh (xám) nhưng xanh và thăm thẳm. màu xanh đã gợi ra chiều sâu, sự tĩnh lặng của không gian, cái nhìn kỳ diệu của nhà thơ, ông lão đánh cá. rồi anh lơ đãng nhìn quanh sân. thị trấn vắng lặng, im lìm, con đường quanh co, hấp dẫn, không một bóng người qua lại.

con ngõ tre quanh co vắng

khung cảnh êm đềm, có chút buồn, hiu quạnh, hiu quạnh. người đánh cá dường như đang ở trong một giấc mơ mùa thu. tất cả cảnh vật từ mặt nước, “ao thu se lạnh” đến “chiếc thuyền câu nhỏ”, từ “sóng biếc” đến “lá vàng”, từ “mây trôi” đến “ngõ tre”.

thời gian trôi qua bao nhiêu trong không gian của buổi sáng tĩnh lặng ấy, tư thế câu cá của anh cũng bất động theo thời gian:

Tôi không thể buông gối lâu

cá di chuyển trên đáy của lớp bèo

Thả lỏng cần câu là tư thế chờ đợi mệt mỏi của người câu cá. Trong quá khứ, có những người sử dụng công việc đánh bắt cá và chờ đợi người phù hợp để giúp đỡ. thơ văn và văn học truyền thống lấy câu cá để bác bỏ vị trí của Quan văn và coi câu cá là câu người, câu người, câu lưỡi. tập thơ này cũng nói lên khát vọng của những cụm từ êm đềm, trống vắng cho tâm hồn của một thi nhân tài hoa bạc mệnh. tiếng cá bể gợi lên một sự mơ hồ xa xăm, thức tỉnh.

bài thơ câu cá mùa thu là một bài thơ ngụ ngôn đặc sắc của nguyễn khuyển. phong cảnh mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, nét vẽ tinh tế, gợi cảm xa gần. tiếng lá rơi rung rinh trong gió thu, tiếng cá kêu chân sáo: đó là âm thanh mùa thu dân dã, quen thuộc của vùng quê đã gợi lên trong lòng ta bao kỉ niệm đẹp về quê hương đất nước.

thơ là sự cách điệu của tâm hồn, nguyên khuyển yêu thiên nhiên mùa thu, yêu phong cảnh làng quê bằng tất cả những tình cảm chân quê. là nhà thơ nhân dân phong cảnh Việt Nam. đọc điếu cày, thu ẩm, hái nguyệt quế, chúng ta hãy yêu quê hương đất nước hơn, hãy yêu ngôi nhà nông, vùng quê, quê hương đất nước hơn. với nguyen khuyen, để tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một vị trí vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Top 8 bài phân tích Câu cá mùa thu hay chọn lọc – Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *