Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
185 lượt xem

Phan tich bai tho tràng giang lop 11

Bạn đang quan tâm đến Phan tich bai tho tràng giang lop 11 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phan tich bai tho tràng giang lop 11

phân tích đoạn thơ của nhà thơ chạy trốn – giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo để phân tích bài thơ cho hay và ý nghĩa. Trong bài viết này hoatieu xin chia sẻ bài tổng hợp phân tích mẫu khổ thơ đầu, bài phân tích 2 khổ thơ đầu, bài phân tích 2 khổ thơ cuối ngắn gọn sau đây là nội dung chi tiết, mời các bạn cùng theo dõi.

  • 7 bài đánh giá nhanh hàng đầu
  • 6 bài đánh giá nhanh hàng đầu

trang giang

là một bài thơ tuyệt tác của nhà thơ huy thể được in trong tập “Lửa thánh” xuất bản năm 1940. Có thể nói trang giang là một bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp của nhà thơ Huy Cận và nó cũng là một bài thơ tiêu biểu. trong phong trào thơ mới. đoạn thơ là một bức tranh sầu muộn gợi cho người đọc một nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân. sau đây là tổng hợp các bài văn mẫu phân tích bài thơ, phân tích đoạn thơ, phân tích hai khổ thơ đầu, bài thơ siêu hay. vui lòng kiểm tra nó.

1. sơ đồ phân tích trang giang

i. giới thiệu:

– trình bày những nét chính về tác giả Hulan (đặc điểm tiểu sử, con người, sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác, …)

– Giới thiệu đôi nét về bài thơ “trang giang” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ và những đặc điểm cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật của nó, …)

ii. nội dung:

* tiêu đề và câu tiêu đề

– tiêu đề:

+ một từ Hán Việt có âm bội cổ, nghĩa là sông dài.

+ sử dụng hai vần mở, có âm vang liên tiếp và âm vang kéo dài, gợi lên hình ảnh một dòng sông vừa dài vừa rộng.

– dòng tiêu đề: tóm tắt ngắn gọn và đầy đủ về tình và cảnh trong bài thơ

* khổ thơ 1

– dòng mở đầu của khổ thơ đầu tiên mở ra hình ảnh sông nước mênh mông.

→ điệp từ gợi hình ảnh sóng vỗ vào bờ không ngừng, không ngừng, làm nổi bật không gian bao la, rộng lớn.

– hình ảnh: con thuyền trên mặt nước gợi lên sự nhỏ bé

→ hình ảnh tương phản giữa không gian bao la của dòng sông và hình ảnh con thuyền nhỏ gợi lên sự cô đơn, lẻ loi.

– hai câu cuối:

+ con tàu và dòng nước như mang một nỗi buồn chia ly chờ đợi, cho lòng người “trăm mối sầu”. đặc biệt là giữa khung cảnh sông nước mênh mông ấy,

+ hình ảnh “vài hàng củi, cành tàn” gợi lên trong lòng người đọc nỗi ám ảnh khôn nguôi về vương quốc loài người, lạc lõng, không phòng thủ, không biết trôi dạt về đâu

→ ở khổ thơ đầu, nếu ví sông như một dòng đời bất tận thì hình ảnh con thuyền và cành củi khô là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé và vô định, và ở đồng thời gợi lên nỗi buồn khôn nguôi, vô tận của tác giả.

* khổ thơ 2

– hai dòng đầu vẽ một không gian hoang vắng và hiu quạnh:

+ nghệ thuật đầu tư với những từ lóng đặc biệt gợi cảm “nhàn hạ” và “trầm cảm” gợi lên sự khan hiếm, hoang vắng, lạnh lẽo

+ câu thoại “còn đâu tiếng người xa chợ chiều” là một câu thoại có nhiều cách diễn giải, nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu thoại vẫn gợi lên trong lòng người một nỗi buồn, sự hoang vắng, rã rời và thiếu vắng. người đọc. lấy mạng người

– hai câu sau, không gian như mở rộng ra cả bốn phía, làm cho khung cảnh vốn đã vắng vẻ nay lại càng thêm hiu quạnh, tĩnh mịch, từ đó gợi lên nỗi buồn, cô đơn đến tận cùng của lòng người

* khổ thơ 3

– hình ảnh “nơi dòng rút”: gợi lên hình ảnh cuộc sống con người, vương quốc của con người đang trôi nổi, không biết đi đâu, về đâu.

– nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không qua đường”, “không có cầu”.

→ ở đây không có gì nối liền hai bờ với nhau, nó thiếu dấu vết của sự sống, hình bóng con người và trên hết là tình người, sự hòa hợp, thân thiết giữa con người với nhau.

* khổ thơ 4

– hai dòng đầu của khổ thơ: vẽ nên bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng.

+ hình ảnh những đám mây trắng hết lớp này đến lớp khác “đùn ra” trong ánh nắng chiều như thể tạo ra những ngọn núi màu bạc.

<3

– hai câu thơ cuối đã thể hiện được nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả

+ hình ảnh “nước động” không chỉ tượng trưng cho những con sóng vươn xa mà còn gợi cho nhà thơ nỗi nhớ da diết: nỗi niềm của người xa xứ nhớ quê hương.

+ dòng cuối theo lối cổ điển khép lại bài thơ một cách chân thực và thể hiện rõ nhất nỗi nhớ quê hương của nhà thơ

iii. kết luận:

khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật và tình cảm của bài thơ.

2. phân tích tam giác 1

huy cận được mọi người biết đến là nhà thơ của phong trào thơ mới. các tác phẩm của ông chủ yếu nói về vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi đau của thế giới. Trong tất cả các tác phẩm, Tràng Giang được đánh giá cao về nội dung lẫn nghệ thuật.

Bài thơ được ông sáng tác vào năm 1939 khi ông đang đứng ở bờ nam của bến tàu và nhìn ra sông Hồng. có thể nói khung cảnh ở đây đã truyền cảm hứng vô tận cho anh.

Stanza 1 tuy chỉ có vài câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện rất rõ hình ảnh sông nước mênh mông và tâm trạng của thi nhân.

những con sóng đau đớn lăn tăn qua làn sóng của con tàu đi xuống vùng nước song song

Bài thơ mở đầu bằng những dòng thơ lục bát. cảnh vật thiên nhiên được thể hiện qua tâm hồn nhà thơ trở nên mới lạ, độc đáo. tranh mực trông vô cùng đẹp mắt với hình ảnh những con sóng và con tàu. con sóng chỉ gợn sóng nhẹ nhưng mãi “điệp điệp”. Nhờ có sóng, con thuyền vẫn tiếp tục di chuyển trên mặt nước. ở hai câu thơ này, tác giả còn sử dụng từ láy để tăng nhịp điệu cho lời ca. cách dùng từ của nhà thơ khá độc đáo và mang lại điểm mới cho văn học.

Hình ảnh sông nước được hiện lên một cách tuyệt vời trong suốt đoạn thơ của tác giả. tuy nhiên, tâm hồn con người lại ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín. Chính vì sự tác động đó mà khi đọc hai câu thơ đầu, chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn được thể hiện qua những câu chữ. sông nước bao la nhưng con người mãi mãi chỉ là một sinh vật bé nhỏ giữa đất trời.

tàu về quê buồn, vài dòng lạc một cành tàn

hình ảnh con thuyền và dòng nước sau khi song song với nhau thì ngăn cách. đây là khoảng cách giữa các đại dương. hình ảnh đó đã được nhân hoá để nâng cao cảm xúc. cụm từ “trăm mối sầu” đã mang đến cho người đọc cảm giác buồn vô hạn. nỗi buồn ấy dường như đã lan tỏa khắp không gian. đọc đoạn thơ ta sẽ hình dung ra cảnh con tàu lênh đênh vô tận giữa vùng biển bao la. hình ảnh con thuyền và dòng sông đối lập nhau càng làm rõ hơn nỗi buồn da diết của nhà thơ.

Không dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” rắc trong cảnh sông nước ấy. Chính yếu tố này đã gây nên sự cô đơn của con người trước sự mênh mông của đất trời. những cành gỗ cũng “khô héo” thể hiện sự thiếu sức sống của con người. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng phép đảo ngữ “cành khô cành củi” cùng với nhịp thơ 1/3/3 để nhấn mạnh thân phận bị vùi dập của con người. đứng trước khung cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy một nỗi buồn man mác. Tôi buồn về thân phận con người, nghĩ về sợi dây sống trôi nổi, trôi nổi. Đời người có nhiều thay đổi nhưng không ai biết trước được điều gì sẽ xảy ra. con người ta luôn cô đơn, lẻ loi và chơi vơi giữa dòng đời không biết trôi về đâu.

nỗi buồn của nhà thơ trước dòng đời mênh mông

Xuyên suốt khổ đầu của bài thơ, chúng ta đã phần nào thấy rõ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách hiện đại và cổ điển của nhà thơ. nhờ vậy mà bài thơ tuy gần gũi nhưng vẫn có sức lay động mạnh mẽ trong lòng người đọc. ngoài ra, cách đặt tiêu đề độc đáo theo phong cách thể hiện cảnh ngụ ngôn.

Hơn nữa, sự xuất hiện của các từ lóng trong khổ thơ 1 còn mang lại nhiều giá trị biểu cảm. qua đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sức hút, sự mênh mông của dòng sông hồng và sự nhỏ bé của những con người trong khung cảnh ấy.

Ngoài ra, chạy trốn cũng quản lý để sử dụng các hình ảnh độc đáo. bạn có thể không bắt gặp hình ảnh “củi và một cành khô” trong thơ ca Việt Nam. chính sự mới lạ này đã tạo nên điểm nhấn ấn tượng, nâng cao giá trị của tác phẩm.

Khi phân tích khổ thơ, ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn man mác trong suốt đoạn văn. tất cả những hình ảnh được nhắc đến tuy gần gũi nhưng hiện lên rất buồn và vô hồn dưới ngòi bút của huy. bởi vì, hồn thơ ẩn chứa nỗi buồn và cảnh vật rất ảm đạm.

3. phân tích bài thơ ngắn nhất

huy cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới (1930 – 1945) với những tác phẩm kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời kỳ: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. có thể nói đó là sự chuyển mình từ không khí u uất, buồn bã của thời tiền khởi nghĩa sang không khí hân hoan sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. bài thơ “Tràng giang” được viết vào thời kì tiền khởi nghĩa với nỗi niềm, gợi nỗi bế tắc trong cuộc đời trôi nổi của con người. bài thơ để lại cho người đọc nhiều cảm xúc khó tả.

Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát những tư tưởng, tình cảm chính của bài thơ. hai chữ “trang giang” có thể nói là cả một dòng sông dài, mênh mông vô bờ bến. từ hán việt này gợi cho người ta nhớ đến những bài thơ tang của Trung Quốc. nhưng chính cái “trang giang” này cũng gợi lên trong tâm trí người khởi xướng khi muốn nhắc đến những thân phận nông nổi nhỏ bé sống trong dòng sông dài suy tư và dòng sông sầu muộn như thế.

nhan đề bài thơ “Thương nhớ trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa tóm tắt chủ đề của bài thơ là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất bao la, rộng lớn. toàn bộ bài thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, đây cũng là nét đẹp đặc trưng của thơ Huian.

bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên gợi cho người đọc một dòng sông đầy nỗi buồn sâu lắng:

những con sóng và những con sóng đau đớn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị mất trong một số dòng gỗ khô

với hàng loạt từ láy “buồn”, “hụt hẫng”, “đau đớn”, “lỡ mấy dòng” kết hợp với từ “điệp”, “song song” dường như đã bị lược bỏ. hào quang và nỗi buồn trong một thời kỳ quá nhiều bất công. trong khổ thơ đầu tiên sự đứt đoạn giữa cái cổ điển và cái hiện đại đã được trộn lẫn. tác giả đã mượn hình ảnh. con thuyền lướt qua nóc nhà và hơn hết là hình ảnh “củi khô” lênh đênh, đơn độc trên mặt nước mênh mông, vô tận, vô định. dòng sông mang vẻ đẹp u sầu, êm đềm khiến người đọc cảm thấy buồn và ảm đạm, vốn dĩ con thuyền và con nước là hai vật không thể tách rời nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về bến lại buồn”. Cho dù có một sự bối rối nào đó, hay một cuộc chia tay không báo trước, nó nghe thật buồn và cô đơn. ở câu thơ cuối với hình ảnh “gánh củi” gợi lên sự bình dị. wow, nhỏ bé, mong manh, trôi dạt khắp nơi. có thể nói câu thơ đã nói lên tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung lúc bấy giờ, một cuộc đời tuy muôn hình vạn trạng nhưng vẫn còn dài và vất vả giữa cuộc sống bộn bề như hiện nay.

Ở khổ thơ thứ hai, nỗi cô đơn dường như nhân đôi:

thơ cồn nhỏ.

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

mặt trời lặn và bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng, bến vắng

Hai dòng đầu của bài thơ phản ánh khung cảnh buồn bã, hiu quạnh và vắng lặng của một thị trấn vô hồn. Đó có phải là quê hương của tác giả? hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rõ gió sầu bên bờ sông như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. ngay cả tiếng ồn ào của khu chợ chiều ở phía xa cũng không thể nghe thấy, hoặc có lẽ nó buồn và cô đơn như thế này. một câu hỏi tu từ gợi nhiều cảm xúc, hỏi người hoặc tự hỏi tác giả. từ “đâu” trỗi dậy buồn bã không còn chỗ đứng để bấu víu. khung cảnh hoang vu, tiêu điều của bến không một bóng người, không một âm thanh. ở hai dòng cuối tác giả mượn hình ảnh mây trời, sông nước để gợi tả cái mênh mông vô tận. không phải là bầu trời “cao”, mà là “sâu”. sử dụng chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tiện lợi, tinh tế và độc đáo của hàng rào huy. hình ảnh sông nước mênh mông và từ “hiu quạnh” ở cuối đoạn dường như đã nói lên trọn vẹn nỗi buồn sâu kín không biết tâm sự cùng ai.

Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm hơi ấm giữa thiên nhiên hiu quạnh này, nhưng dường như thiên nhiên không như mọi người mong đợi:

bạn đi hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

đừng hỏi nỗi nhớ

bờ biển xanh êm đềm gặp bãi biển vàng

Ở khổ thơ thứ ba, người đọc dường như nhận thức được một sự thay đổi, chuyển động của thiên nhiên, không còn u uất và tĩnh lặng ảm đạm như ở khổ thơ thứ hai. từ “trôi” đã diễn tả rất tinh tế sự biến đổi này của vạn vật. tuy nhiên, từ ngữ gắn với hình ảnh “beo” này lại khiến tác giả thất vọng vì “beo” vốn dĩ vô định, nó trôi đi khắp nơi, không còn nơi bấu víu, nó cứ lặng lẽ trôi “về đâu”, chẳng biết đâu mà lần. Tôi không biết nó sẽ được bao lâu. nước mênh mông không thuyền. tác giả chỉ đợi một chuyến phà để thấy rằng sự sống tồn tại, nhưng điều đó dường như là không thể.

muốn gửi gắm nỗi nhớ quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây, từ “tĩnh mịch” trở nên u ám, ảm đạm.

Ở khổ thơ cuối, dường như văn phong của tác giả được đưa lên hàng đầu, những nét chấm phá được sử dụng rất tốt:

các lớp mây đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim có đôi cánh nhỏ trong bóng hoàng hôn

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc hoàng hôn cũng hoài niệm

có thể nói những tâm tư, tình cảm của nhà thơ được truyền tải qua khổ thơ này. những nét chấm phá của “mây cao”, “núi bạc” như trong thơ tang càng buồn hơn. hình ảnh “chim chắp cánh” và “bóng xế chiều” là hình dung của tác giả về cái vô hình. Làm sao người ta có thể nhìn thấy bóng chiều tà, nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả, người ta có thể hình dung bầu trời chiều đang dần buông xuống?

Hai dòng cuối là nỗi nhớ, nỗi nhớ tác giả không biết gửi vào đâu, chỉ biết chất đầy trong lòng. Câu thơ của Huian gợi cho chúng ta nhớ đến câu thơ tứ tuyệt của bậc hiền triết: “trong sông, sóng làm cho sóng buồn” là sóng của sông hay sóng trong lòng người.

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên u uất và cô đơn. Qua việc phân tích thơ Huy, ta thấy được nỗi cô đơn, lẻ loi của con người và một tình yêu quê hương đất nước, khao khát quê hương chân thành, sâu sắc của Huy. .

4. phân tích chi tiết bài văn – mẫu 1

Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn liền với những công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng Tám, hồn thơ trầm buồn của những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, sầu thảm trước thời cuộc. tuy nhiên, sự ra đời của “trang giang” thể hiện sự cô đơn của cá nhân trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nỗi buồn, nỗi niềm đối diện với không gian rộng lớn, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ và tình yêu quê hương da diết.

Bài thơ được sáng tác năm 1939, lần đầu tiên được in trên báo “Hoy” và sau đó là tập thơ “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay của Huy. cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “thơ mới” đầu tiên.

ngay khi đọc nhan đề bài thơ “trang giang”, người ta có thể hình dung ra những tâm tư, tình cảm mà tác giả gửi gắm trong đó. nhan đề gợi ra một dòng sông dài, bao la và vô bờ bến. Tuy nhiên, đằng sau hình ảnh một con sông dài, những cuộc đời bấp bênh, trôi nổi và sầu muộn ẩn hiện. câu “Thương hoài trời rộng, lòng ta sông dài” tiếp tục khẳng định nỗi sầu muộn của nhân vật trữ tình, không biết bày tỏ cùng ai trước không gian mênh mông của sông nước.

phân tích bài thơ ở khổ thơ đầu, người đọc nhận được hình ảnh dòng sông buồn chất chứa bao cảm xúc khó tả:

“những con sóng và những con sóng đau đớn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị thiếu một số dòng. “

Mới đọc khổ thơ đầu tiên, người đọc có thể thấy được không khí u uất, buồn bã qua các từ “buồn”, “buồn”, “mất cành khô”. câu đầu miêu tả những con sóng, câu thứ hai miêu tả những dòng trôi, những dòng chảy trên mặt sông. nếu câu đầu gợi lên những con sóng lan tỏa, lan xa, đuổi nhau đến tận chân trời thì câu thứ hai lại tả những dòng nước song song, đuổi nhau mãi đến cuối trời. ở câu đầu, “gợn sóng” là những con sóng nhỏ, nhấp nhô. nhưng chỉ gợn sóng ấy thôi, dòng sông đã là một “tin buồn”. từ này hoàn toàn là “thông điệp”, vì nó diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. hình ảnh con tàu “xuôi dòng nước song song” gợi cảm giác đơn độc giữa dòng nước mênh mông vô tận.

hai câu thơ kết hợp với nhau khiến không gian như rộng mở, kéo dài. tác giả tiếp tục miêu tả cuộc chia ly cho đến câu thơ thứ ba. “tàu” và “nước” vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó mật thiết với nhau, nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình, hai hình ảnh này không còn song hành với nhau nữa. “trăm mối sầu”, nỗi buồn, nỗi buồn cứ thế tăng lên từng ngày. với câu thơ thứ tư, tác giả dùng phép đảo ngữ “củi trên cành khô” để nói lên sự cô đơn, khô cằn của “củi”. số lượng từ “một mình”, cô đơn cùng với tính từ “khô” – cạn kiệt sức sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn.

tác giả thật tài tình khi sử dụng nghệ thuật điệp ngữ “một” – “mấy” như nhấn mạnh nỗi cô đơn của gánh củi trên sông. “lạc mấy dòng” không chỉ miêu tả nỗi cô đơn của gánh củi mà còn nói đến sự bấp bênh, phập phù khi “lạc trôi” từ sông này sang sông khác. nét độc đáo của đoạn thơ không chỉ là phép đối mà còn ở thời gian 1/3/3. với sự tạm dừng đó, “củi” xuất hiện “độc lập” và điều đó càng làm rõ tình trạng cô lập của sự vật này. có thể nói, hình ảnh “cành củi khô” đã nói lên phần nào tâm trạng của nhà thơ: một người tài hoa nhưng vẫn vất vưởng giữa cuộc đời bộn bề. như vậy chỉ với khổ thơ đầu đã hiện rõ hình ảnh thiên nhiên sầu thảm, sầu muộn. sự kết hợp giữa nét bút cổ điển và nét bút hiện đại cũng giúp người đọc hiểu rõ hơn tâm trạng của thi nhân.

Khổ thơ thứ hai vẫn là một cảnh buồn nhưng mang một nét buồn tẻ và thiếu sức sống.

<3

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

mặt trời lặn, bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng, bến vắng. “

huy cận thật tài tình khi sử dụng hai từ cùng dòng để miêu tả cảnh hoang vắng, vắng vẻ ở hai bên bờ sông: “nghèo” – khan hiếm, ít ỏi, “hoang phế” – vắng lặng, vắng người. trong “cồn nhỏ” gió thổi hiu hiu không khí u buồn, ảm đạm của một nơi vắng vẻ, thiếu sức sống. cô sầu thảm đến mức không nghe thấy tiếng ồn ào của chợ chiều. “nơi” diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được chỗ đứng để bấu víu. như vậy qua một vài nét vẽ của nhà thơ đã hiện lên hình ảnh một đồng quê ảm đạm và thiếu sức sống. chuyển sang hai câu thơ tiếp theo, tác giả như được mở rộng tầm nhìn qua phép đối “mặt trời” – “trời trên cao” khiến không gian được mở rộng về chiều cao, ở giữa có một không gian mở rộng. .

hai động từ đối lập “lên” và “xuống” mang lại cảm giác chuyển động. khi mặt trời lặn, bầu trời mọc. và điểm nhấn là “chiều sâu không gian”: không gian mở rộng theo chiều sâu. “cao vút” là một từ độc quyền khi nói đến chiều cao. khi nói đến chiều sâu, người ta thường dùng “sâu hun hút” hay “sâu thăm thẳm”, … chính cách dùng từ hun hút, gần gũi đã gợi ra không gian sâu thẳm của vũ trụ, đó cũng là thời gian. nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ trỗi dậy, trở nên bất tận. một góc nhìn thú vị và mới mẻ. ở câu thơ cuối, nhà thơ dùng không gian rộng lớn để nói về nỗi cô đơn, lẻ loi. “bến cô đơn”: buồn, hiu quạnh giữa không gian mênh mông sông nước. bức tranh toàn cảnh của bức thứ hai là một màu cô đơn và sa mạc, tương phản với hình ảnh của cảnh vật rải rác, không gian bao la, nhấn mạnh sự u uất cổ xưa.

XEM THÊM:  Phân tích bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương 2023

“bạn đi hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu quyền riêng tư

lặng lẽ, bờ xanh gặp bãi vàng. “

Hình ảnh của khổ thơ thứ ba ban đầu chuyển động với động từ “trôi”, nhưng đi kèm với động từ này là “beo”. “beo” là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, phập phù, không có nơi ở ổn định. hơn nữa, cụm từ “hàng sau hàng” mô tả sự không xác định và sự bấp bênh khi hàng này qua hàng khác “theo sau”. không gian đối lập với hiện thực của cảnh. tác giả mong được nhìn thấy chuyến phà để cảm nhận cuộc sống. nhưng câu trả lời cho sự mong đợi đó là “không phải là một con tàu đang đi qua”.

Trong khổ thơ này, nhà thơ sử dụng nhiều từ ngữ phủ định: “không thuyền” và bây giờ là “không cầu”. hình ảnh cây cầu gợi lên diện mạo của cánh đồng, góp phần gợi cảm giác “tri kỷ”. nhưng bởi vì hình ảnh này không tồn tại, cảm giác xa lạ và cô đơn được cảm nhận rõ ràng. với dòng cuối của khổ thơ, tác giả sử dụng nhiều màu sắc để làm nổi bật hình ảnh. “bờ xanh gặp bãi vàng”: bức tranh tươi sáng, nổi bật nhưng kèm theo chữ “lặng” thì màu này chìm xuống. lúc này hai hình ảnh này không còn tươi như màu ban đầu nữa. từ này cũng làm cho không khí ôi thiu “lây lan” từ vật này sang vật khác. mọi thứ đều chìm trong sự cô đơn.

nếu ba khổ thơ đầu là hình ảnh thiên nhiên trầm buồn, êm đềm thì khổ thơ cuối là tâm tư, tấm lòng của nhà thơ:

“lớp mây cao đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim có đôi cánh nhỏ trong bóng hoàng hôn

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc chiều tà, cũng nhớ nhà. “

Xuyên suốt bài thơ, tác giả không ngừng sử dụng kỹ thuật nghệ thuật dùng từ donde. “layer”: overlay, “extrude” là đẩy để làm cho thứ gì đó thấp hơn. như vậy, với dòng đầu của khổ thơ thứ tư, tác giả đã vẽ nên bức tranh quê hương với hình ảnh bao la tầng mây phủ trên núi bạc. hình ảnh “cánh chim nhỏ” gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. “nghiêng” – không ổn định. hình ảnh này đối lập với “bóng tối” mới nhất.

Trên nền bóng bao la là hình ảnh một chú chim nhỏ đang lo lắng, vẫn đang mơ hồ tìm cách tìm nơi trú ẩn. Hình ảnh loài chim này đã từng được thấy trong “Queen bird quy lam tu thu thuc” (nho – ho chi minh), tạm dịch là “những con chim mệt mỏi trở về rừng tìm chỗ ngủ”. đến câu thơ thứ ba, tác giả bày tỏ nỗi nhớ quê hương da diết. “breezy” là gợi lên, đánh thức, có một cảm giác không thể diễn tả được. mỗi khi nhìn thấy “con nước” tình yêu đất nước của tác giả lại trỗi dậy. tuy nhiên, cái đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối: “không hút thuốc lúc hoàng hôn cũng khát khao”. hơn một nghìn năm trước, tín hiệu cũng đã xúc động bởi nỗi nhớ và cảm thán:

<3

yên ba giang thương nhân sầu. “

(quê hương ẩn của hoàng hôn

khói và sóng trên sông có làm ai buồn không?)

nỗi buồn của hai nhà thơ có một số điểm khác biệt. lúc dừng chân vì thấy khói sóng trên sông buồn nhớ quê hương, còn ở huy, gần thì không thấy khói nhưng nỗi nhớ vẫn dâng lên. Nếu sự rút lui của nỗi nhớ nhà là do xa quê hương, xa xứ, nỗi nhớ nhà trốn chạy đến từ một người đang đứng trên đất khách quê người nhưng bơ vơ, lạc lõng. nỗi nhớ còn xuất phát từ sự bất lực, chán chường của chính nhà thơ trước thời cuộc.

Nét đặc sắc nghệ thuật trong “trang giang” trước hết phải nói đến sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ, tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như trang giang, bến cô liêu,… cùng với chủ đề về thiên nhiên cổ kính, trinh nguyên, cái tôi nhỏ bé trước thiên nhiên bao la thấm đẫm yếu tố tang thương. thi những yếu tố thơ mới được thể hiện qua cái tôi đầy cảm xúc, những hình ảnh sinh động, giàu sức gợi. Ngoài ra, cách sử dụng từ ngữ, tương phản cũng góp phần làm rõ sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la.

Sau khi phân tích bài thơ Tràng giang, chúng ta thấy rằng chạy trốn khép lại không chỉ mang hình ảnh của thiên nhiên mà còn tô đậm thêm nỗi cô đơn của cái “tôi” trước đại thiên hạ. sự tương phản này đã nói lên phần nào tình cảnh lẻ loi, trôi nổi của kiếp người. đồng thời tác giả bày tỏ nỗi nhớ quê hương da diết, tình cảm tha thiết với đất nước.

5. phân tích chi tiết bài thơ – bài văn mẫu 2

ai đi xa cũng mang trong mình một chút hình bóng dòng sông quê hương yêu dấu. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng vô tận, thôi thúc các nhà thơ sáng tác. dòng sông “nước gương soi bóng hàng tre” trong thơ te hanh, dòng sông da diết trong văn Nguyễn tuấn, dòng sông hương thanh bình nơi hoàng cung… và chỉ khi ta về đến nhà huy ”trang giang. kỹ hơn, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ mộng nhất nhưng cũng chan chứa tình quê trong cảm nhận của tác giả.

Mang tài năng, trí tuệ và cái tầm của mình, Huy Cận được biết đến như một nhà thơ lớn, một nhà văn hóa lớn. tuy bao gồm nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại nhưng hồn thơ vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. cội nguồn của thơ ca truyền thống đã rót những giai điệu du dương vào tâm hồn người anh hùng, khiến thơ – khi đến độ chín – đến được với lòng người rất dễ dàng. thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ tinh, trong tay huy gần, giản dị, chân thành và cô đọng; sắc thái biểu cảm được nâng cao rõ nét. chất lượng của tư tưởng nằm trong tất cả các bài thơ.

những hình ảnh thơ cận cảnh thường không sắc nét, gây ấn tượng mạnh, nhưng có sức gợi và sâu sắc; như len nhẹ, như thấm sâu vào tâm hồn và tâm trí người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ chạy trốn thường có rất ít đường nét, giản lược theo lối cổ điển, gợi nhiều hơn tả. do đó, có thể nói, ấn tượng không gian có được trước hết là nhờ hương vị của tang thi. Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên, quê hương là thế mạnh của Huian. dường như ở đây nhà thơ đã toát lên hương thơm sâu lắng nhất, đẹp đẽ nhất của tâm hồn mình. và “trang giang” đã thể hiện điều đó một cách sâu sắc.

“Trang giang” là một bài thơ tuyệt tác được in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo lời tác giả, vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, khi ông còn là sinh viên trường đại học nông nghiệp, huyện lỵ, thị trấn. Ở bến tàu bờ nam, nhìn dòng sông hồng mênh mông, lòng tôi rưng rưng xúc động và tôi đã viết bài thơ này. đó là những cảm xúc về dòng sông và một nỗi buồn da diết dâng lên lúc chiều tà khi nhà thơ đứng trước cảnh “sông dài, trời rộng, bến vắng”.

có thể nói nhan đề bài thơ là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc dõi theo để khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. và bài thơ “trang giang” cũng vậy, những tâm tư, tình cảm thầm kín được gửi gắm trong nhan đề vỏn vẹn hai chữ “trang giang”.

“Trang giang”, còn được gọi là “trường giang”, là một từ Hán Việt có nghĩa là sông dài. nhưng tác giả đã lấy tên là “trang giang” thay cho “trường giang”. vì vốn dĩ “sông dài” chỉ có nghĩa là sông dài đơn giản vậy thôi; nhưng ngược lại, “trang giang” vừa nói về sông dài mênh mông vừa nói về tâm trạng, tình cảm của chính tác giả. vần “ang” lan tỏa như cảm xúc dạt dào cảm xúc không nguôi khi đứng trước sông nước bao la, rộng lớn này.

bước vào thế giới cổ trang, ta như lạc vào sông dài biển rộng đầy mê hoặc:

những con sóng và những con sóng đau đớn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

tàu trở về, nước buồn trở lại

một số dòng bị thiếu một số dòng.

Câu thơ đầu tiên mở đầu bằng những đợt sóng. không ồn ào, ầm ĩ mà là “sóng gợn”. động từ “gợn sóng” diễn tả cả tư thế và tâm trạng. bởi vì, “gợn sóng” trước hết dùng để chỉ những chuyển động cực kỳ nhỏ và chậm của sóng. tuy là động từ nhưng thực chất “gợn” gợi lên sự tĩnh lặng, tĩnh lặng của thiên nhiên sông nước. nghệ thuật chuyển động và miêu tả sự tĩnh lặng của nhà thơ thật tài tình. những chi tiết bộc lộ hoàn cảnh thiên nhiên mà còn mở ra không gian tâm hồn của nhà thơ. chúng ta thấy ở đó tâm trạng của một người có trái tim sâu sắc nhưng cũng rất buồn.

sóng không chỉ là sóng sông mà còn là sóng của trái tim, sóng của trái tim nhẹ nhàng nhấp nhô, thấm thía “buồn điệp điệp” phát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. từ “điệp” không chỉ tượng trưng cho những con sóng không ngớt của dòng sông mà còn là dòng sông tâm trạng của nhà thơ, những con sóng lòng cuộn vào nhau. đặc biệt hơn là ngay câu đầu tiên tác giả đã nhắc lại nhan đề. của bài thơ không phải không có mục đích. “trang giang” là con sông vừa dài vừa rộng gợi không gian bao la, choáng ngợp. Giữa phông nền ấy là một con người nhỏ bé, cô đơn. meo đang đưa đôi mắt buồn theo sóng biển đến tận chân trời.

Điều này làm sâu sắc trái tim của Huian, một nhà thơ luôn sẵn sàng buồn bã. nỗi buồn của kẻ lữ hành ghé quán bước cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi mặt trời lặn, chiều tàn, thậm chí buồn khi không thấy dấu chân người trên đường.

nếu câu đầu tiên ấp úng, những dòng tiếp theo cho ta một cái nhìn thoáng qua về con tàu. “Con tàu qua dòng nước song song” hay còn gọi là con tàu trôi dạt vô định, trôi song song với dòng nước, để mình bị sóng cuốn đi. hình ảnh ấy gợi cho ta một thái độ buông xuôi, buông mình trước dòng đời, cuộc đời của nhà thơ. Cùng với “thông điệp buồn” ở trên, câu thơ làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa hơn này.

có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. bình thường, nước đẩy, tàu chuyển động. thuyền trôi theo dòng nước. nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ rời nhau, ngược chiều nhau. nhưng với huy cận thì “thuyền về, nước về”. hai vị trí đối lập gợi ra sự phi lý về mặt lôgic, nhưng thực ra, xét về độ sâu, bề sau, bề sâu, chúng ta hiểu rõ hơn nỗi lòng của người lữ khách trên sông.

Cảm giác chia ly có phải là cảm giác chạy trốn khi đứng trước sông dài, trời rộng? cũng như han mo tu khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa thấy “gió cuốn theo gió, mây bay theo mây”. đó là nỗi buồn xao xuyến trong phức cảm chia ly. do đó, nó gần với “trăm nỗi đau”. nỗi buồn lớn không gì bù đắp được.

mọi cảm xúc của nhà thơ cuối cùng cũng được cô đọng lại trong hình ảnh “mấy câu thơ mất một cành củi khô”. thơ ca cổ, nỗi buồn được lý giải theo vô số góc cạnh khác nhau. có nỗi buồn khi thấy “những cây ngô đồng, ngả vàng rơi trong mùa thu mênh mông” (biêng biếc), có nỗi buồn khi thấy “liễu ngẩn ngơ” (xuân diệu), có nỗi buồn khi nghe tiếng gà trống gáy. trong thơ quan trọng. nhưng có lẽ, đáng buồn là trước đây, một cành củi khô chưa từng xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng trôi dạt vô định trong dòng đời. do đó, “một vài hàng củi và một cành chết mất” là không thể tránh khỏi.

Khổ thơ thứ hai tiếp nối dòng của khổ thơ thứ nhất:

thơ cồn nhỏ.

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

mặt trời lặn, bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng, bến vắng.

Điều đầu tiên khiến người đọc ấn tượng chính là sự đầu tư. từ “thảnh thơi” đặt ở đầu câu, tiếp đến là “cồn nhỏ gió sương”. cụm từ xuất hiện theo sau là ba tính từ chỉ sự mỏng manh, nhỏ bé và cô đơn của tạo hóa. nỗi buồn, hoặc nỗi buồn không ai chia sẻ, luôn trỗi dậy trong lòng tác giả.

Thay vì hình ảnh thiên nhiên như khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai tái hiện cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là hình ảnh buổi chợ chiều lúc ban ngày. Chợ vốn gợi cảm giác đông vui, sum vầy, tràn đầy sức sống đúng như Nguyễn Trãi đã từng miêu tả: “chợ cá làng chài”. đủ thấy sự vui nhộn và nhộn nhịp của một khu chợ. huy cận thì không như vậy, anh chọn cho mình khoảnh khắc ghé chợ như một dấu ấn nghệ thuật đặc sắc. thị trường là khi “mọi người đã trở lại và không còn ồn ào nữa. dưới đất chỉ có vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía… ”(thach lam). chi tiết gợi lên khung cảnh hoang vắng, tồi tàn, hiu quạnh và hấp dẫn của vùng quê ven sông, nó cũng gợi nỗi buồn vô hạn trong lòng nhà thơ.

hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho hồn thơ dạt dào phong cách thơ Đường. các câu trước và sau đối lập nhau, sử dụng đúng các động từ và tính từ theo cặp: lên – xuống, dài – rộng như mở thêm không gian. con sông vốn đã tràn giờ lớn hơn nhiều. sông mở theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài và chiều rộng. không gian dường như từ từ mở rộng theo mọi chiều. đọc câu thơ chúng ta thấy mọi thứ tiến xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. và ở giữa hình ảnh đó, chúng ta thấy rằng tiêu điểm vẫn là một nhân vật nhỏ bé, dường như đơn độc, đơn độc trong vũ trụ. nỗi buồn và nỗi đau của nhà thơ như được nhân lên gấp nhiều lần.

Khổ thơ thứ ba tiếp tục mạch cảm xúc về sự thờ ơ, mất liên lạc giữa vạn vật. đôi mắt của nhà thơ nhìn vào đám bèo, những sinh vật nhỏ bé, yếu ớt trong làn nước mênh mông.

bạn đang đi đâu, hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu quyền riêng tư

lặng lẽ, bờ xanh gặp bãi vàng.

Cảnh mênh mông, buồn bã và vắng vẻ của dòng sông được nhân lên nhiều lần bằng âm hưởng. cây cầu, con thuyền nối đôi bờ, là biểu hiện của sự gắn kết giữa con người với cuộc sống, thường gợi không khí ồn ào, thân thiết, gợi nhớ quê hương: “cây cầu là nơi hẹn nhau của chúng ta. Đêm trăng trên cầu. , Em thổi sáo – đêm trăng em giặt áo – cây cầu nối những bến bờ hạnh phúc “(cây cầu nối những bến bờ hạnh phúc). Nhưng ở đây, không có cây cầu nối hai bờ, nghĩa là hoàn toàn không có. dấu vết sự sống hay bất cứ thứ gì gợi tình người, lòng người muốn gặp lại nhau qua bến vắng.

Hai bờ sông cứ chạy dài về phía chân trời như hai thế giới xa lạ, cô đơn không bao giờ gặp nhau, không có sự tri kỷ của những tâm hồn đồng điệu. cảnh “trang giang” giờ chỉ còn là “lặng sóng, bờ xanh gặp bãi vàng”. hình ảnh thật đẹp, nhưng thật êm đềm và buồn.

trên mặt nước hiện lên hình ảnh cánh bèo đơn độc, gợi nhớ thân phận “bèo” (nguyễn du), tan rã, chia ly, phiêu bạt:

phần giữ nước

trôi nổi luôn trôi nổi

(nguyen du)

câu thơ cho ta thấy: hoa trôi sông cũng là kiếp người trôi theo dòng thời gian. bốn lời cầu nguyện, mỗi người một nỗi buồn riêng, đến với nhau như những gợn sóng trong tim.

Không nhìn mặt nước buồn nữa, nhà thơ dẫn ta nhìn cao hơn:

các lớp mây đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim có đôi cánh nhỏ dưới bóng hoàng hôn.

Trong thơ chạy trốn cũng có hình ảnh cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ về buổi tối, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng đối nhau như trong thơ cổ mà còn có ý nghĩa trái ngược nhau. lúc xế chiều nhưng từng lớp, từng lớp mây phía trên vẫn chồng chất, tạo thành những ngọn núi bàng bạc, nổi bật trên nền trời trong xanh. Đây là một cảnh tượng hùng vĩ làm sao! không phải là đám mây cô đơn lơ lửng giữa trời lúc chiều tà như trong thơ Hồ Chí Minh. những đám mây ở đây chồng chất, lung linh trong nắng chiều khiến cả một vùng trời đẹp rực rỡ. Giữa khung cảnh đó, một chú chim nhỏ xuất hiện. cánh chim bay giữa mây cao đẹp đẽ và hùng vĩ, như làm nổi bật sự nhỏ bé của mình. nó cô đơn trong cái mênh mông của đất trời, như tâm hồn thi sĩ lẻ loi giữa đất trời.

đặt cánh chim và đám mây bạc ở hai vị trí đối lập nhau, đã khắc sâu nỗi buồn trong lòng nhà thơ. nỗi buồn dường như thấm và lan tỏa khắp không gian:

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói vào lúc hoàng hôn, cũng là khao khát.

“lòng quê” cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng nhà thơ, là chí hướng chứ không phải là tấm lòng nông thôn đơn thuần. hai chữ “xốp” khiến ta có cảm giác sóng đang ở bên mình, sóng cũng biết nhớ, hay là tác giả đang nhớ? hai chữ “xốp” còn gợi cho ta cảm giác đung đưa của sóng biển hay nỗi nhớ khôn nguôi của nhà thơ trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. và nỗi nhớ ấy không phải chỉ một lần mà liên tục, nhiều lần, nhưng cảm giác đó chỉ là “dao động” chứ không sôi nổi. bài thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương khi tác giả đứng trước cảnh sông nước tràn bờ.

Dòng cuối cùng kết thúc toàn bộ bài thơ. đó chính là điểm sâu lắng nhất, là sự khép lại những suy nghĩ, cảm xúc của bài thơ. “Không khói chiều” nghĩa là không có những yếu tố ngoại cảnh tác động trực tiếp đến nhà thơ, nhưng sao nhà thơ vẫn khao khát quê hương?

Đưa vào thơ ca từ xưa đến nay, nhà hiền triết đã từng bày tỏ nỗi niềm mong mỏi của mình như thế: “quê mẹ khuất bóng hoàng hôn / trong sông khói sóng làm ai buồn” (hoàng hạc lau). trước cảnh mà nảy sinh nỗi nhớ thương. nhưng qua phân tích bài thơ trang giang hồ, ta thấy không một chút bồi hồi mà lòng nhà thơ vẫn hướng về quê hương. đủ thấy tình yêu đất nước ấy mãnh liệt đến nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, huyễn cận bên bến sông quê hương lòng thương nhớ quê hương da diết mà sâu lắng. tình yêu đó, trái tim đó, ai có thể sánh được?

Với hình thức thơ giàu chất thơ, kết cấu mạch lạc và kỹ năng ngôn ngữ sáng tạo, hình tượng tác giả, bài thơ hiện lên như một bản giao hưởng, trong đó các nốt nhạc hòa vào nhau hát những bản tình ca thiên nhiên, đất nước. Nhà phê bình Phan Cự Đệ từng nhận xét: “Người Lãng mạn đưa vào thơ của họ một tình yêu tha thiết với thiên nhiên đất nước và một sự trân trọng đối với tiếng Việt, mà thời đó được coi là tiếng mẹ đẻ. Mange, tiếng nói của con trai…

tiếng nói trong thơ là tiếng mẹ đẻ thân thương, cảnh vật trong thơ mới là đất nước việt nam tươi đẹp với những nét đẹp riêng của mỗi quê hương (“quê hương” từ te hanh, “đây là làng”. từ han mac tu, “da lat trong đêm mù” từ quạch tấn, “đền hương” từ nguyễn nhiệp, “chiều xuân” từ thơ, v.v.). Theo xuan dieu khi anh viết: “trang giang ”là bài thơ hát non sông đất nước, dọn đường cho tình quê.

thời gian có thể làm trôi đi một số thứ. nhưng có những thứ càng xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. “Trang giang” của Huian là một trong những bài thơ như vậy. cùng với tấm lòng yêu quê hương đất nước của nhà thơ, bài thơ sẽ sống mãi với chúng ta.

6. phân tích sông – mẫu 3

Nhắc đến huy gần, người ta nghĩ ngay đến một “hồn thơ hư ảo” (tiếng hòe). Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ông đã mang đến cho thơ ca đương đại một thế sự u uất, một mình cô đơn, buồn tủi trước dòng đời xô đẩy. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, anh đã gửi gắm tình cảm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó có Tràng giang. bài thơ in trong tập “Lửa thánh” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huian.

vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, một sinh viên đại học nông nghiệp đạp xe dọc đê sông đỏ đến bãi biển phía nam sông, trước sóng nước mênh mông, anh không kìm nén được cảm xúc buồn bã, cô đơn và nỗi nhớ da diết nên ông đã sáng tác bài thơ về trường giang. nhà thơ chạy trốn đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời của bài thơ như vậy. Ban đầu vở có tên là “Chiều trên sông” nhưng sau đổi thành Tràng Giang. tiêu đề này truyền đạt nhiều ý nghĩa hơn. “Trang giang” là một từ Hán Việt trang trọng và cổ, dùng để chỉ sông dài. nhưng nhà thơ lại không dùng vần “ngang” (cùng nghĩa) thay vào đó bởi vần “ang” giúp nhan đề gợi âm hưởng ngân vang và gợi cảm giác về một dòng sông không chỉ dài mà còn rộng. thêm nhan đề “thở dài khắp trời nhớ sông dài” càng làm rõ thêm sắc thái tình cảm chủ đạo của bài thơ. đó là nỗi buồn của con người trước một không gian bao la, rộng lớn, có thể bao trùm cả vũ trụ.

và quả thực, đối diện với một dòng sông như vậy, nhà thơ không giấu được nỗi buồn mà để nó lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ trụ.

những con sóng và những con sóng đau đớn

XEM THÊM:  Soạn văn bài mây và sóng lớp 6

thuyền đi xuôi dòng nước song song

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị thiếu một số dòng.

Khổ thơ đầu tiên mở ra khung cảnh bao la, rộng lớn trái ngược hẳn với những điều nhỏ bé như sóng, con tàu, cành khô. những điều ấy cũng gợi lên bao nỗi buồn mênh mang trong suốt con sóng. qua những từ ngữ gợn sóng, buồn điệp điệp, nước song song, đau thương trăm phương, mấy dòng sầu bi mất hút cứ trải dài khắp non sông dài rộng. tuy ở đây có điều, không phải cái gì cũng có mối liên hệ với nhau, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không thể tách rời, nhưng thuyền trở về thì nước làm cho nỗi buồn sầu dường như chia làm trăm phương. tuy nhiên, cao trào rõ nét nhất của khổ thơ là hình ảnh một cành củi khô. những thứ vốn đã vô hồn, trôi dạt vô định trên sông đã vẽ nên một nét hiện đại để tượng trưng cho nỗi buồn. nhưng anh cũng bỏ sót một số câu thơ, đó không chỉ là nỗi buồn, còn có sự cô đơn. Phải chăng đó là hiện thân của kiếp người nhỏ bé, trôi nổi và đầy bất trắc giữa huyết mạch của chính tác giả?

Ở câu thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình dời đi, cảnh sông sang cồn nhỏ, lên trời và sang bờ bên kia sông.

thơ cồn nhỏ.

tiếng xe làng đi chợ chiều ở đâu?

mặt trời lặn và bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng, bến vắng

nhưng dường như không gian không có nhiều thay đổi, thậm chí hai từ bất cẩn và cô đơn còn tượng trưng cho sự im lặng, lặng lẽ và cô đơn. ở đâu đó (hoặc không ở đâu) có nghe thấy âm thanh của cuộc sống? cho dù có, âm thanh xa vắng của phiên chợ tối cũng không làm cho nơi này náo nhiệt hơn, càng tô đậm thêm sự tĩnh mịch. nên chung quanh chỉ là mặt trời trên trời, dòng sông trước mặt, vật ở dưới, thứ ở trên, thứ dài, thứ rộng dường như xa, xa hơn bây giờ. con đường sáng tạo từ sâu thẳm đã giúp tác giả miêu tả khoảng cách giữa bầu trời và dòng sông với chiều cao và chiều sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều và lan tỏa toàn vũ trụ. Chỉ đến khi neo đậu đơn độc, ta mới biết rằng nỗi buồn đã lan tỏa ra mọi không gian và nỗi cô đơn ngày một lớn hơn. giờ đây nhà thơ không còn hướng ra sông như ở khổ thơ trước mà hoàn toàn choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ ấy.

rồi mắt nhà thơ tiếp tục tìm kiếm. dường như nhân vật trữ tình “láy” đâu đó một chút đời người.

bạn đi hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu quyền riêng tư

bờ biển xanh êm đềm gặp bãi biển vàng

Lần này, nó hiển thị một hình ảnh quen thuộc của bèo tấm. trong thơ cổ, nó là hiện thân của kiếp người lênh đênh, lênh đênh giữa cuộc đời. mà chỉ có bèo tấm chứ không chèo theo hàng bèo như ở đây. vâng, không biết có bao nhiêu hàng bằng lăng như vậy, lần lượt trôi dạt vào đâu? có nỗi buồn, sự bơ vơ và xa lạ, không phải từ một cành cây khô, mà từ cả một thế hệ không biết đi về đâu? hình ảnh bài thơ tuy giản dị nhưng lại tổng hợp cảm xúc của biết bao thân phận con người lúc này. do đó, nhìn xung quanh nó, nó là bao la, và không có dấu hiệu của sự sống ở bất cứ đâu. thông điệp tiêu cực khiến mọi người không còn bóng dáng của sự tồn tại ở đây. không phà, không cầu, ngay cả một chút riêng tư cũng khó. do đó chỉ có thiên nhiên là tiếp xúc với thiên nhiên. hai chữ im lặng thấy hơi buồn vì nhìn dòng sông từ trên cao xuống dưới, xa gần mà chỉ còn lại những bờ xanh, bãi vàng. do đó, không gian tiếp tục tăng thêm sự bao la rộng lớn. nỗi cô đơn và nỗi buồn của con người vẫn chưa có dấu hiệu cạn kiệt, thu hẹp theo bất kỳ hướng nào.

Ba khổ thơ là hình ảnh thiên nhiên thấm đẫm hương vị cổ điển xen lẫn nét hiện đại độc đáo thể hiện không gian vô cùng, vô tận. tất cả để chứa đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn vô bờ bến của lòng người. Bao nhiêu hy vọng được đặt vào đau khổ cuối cùng, để bản ngã vơi đi phần nào những lo toan. sau đó:

tầng mây cao, đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim nhỏ có cánh: bóng hoàng hôn

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói vào lúc hoàng hôn, cũng là khao khát.

Cảnh sắc thiên nhiên lại thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông dài phẳng lặng như những bức trên, mà là sự tráng lệ, hùng vĩ nổi bật trên nền trời chiều. vẫn sử dụng chất liệu thơ cổ quen thuộc như mây và chim, nhà thơ đã vẽ nên bầu trời ấy bằng những đường nét và màu sắc sống động. đó là một lớp mây bạc trải dài trên bầu trời như những ngọn núi. trong đó, góc nghiêng của con chim được coi là khoảnh khắc ghi lại chuyển động của hai vật. Không biết cánh chim nhỏ ấy có nghiêng cánh một chút, bóng chiều buông xuống hay bóng chiều đổ xuống đè nặng lên cánh chim, khiến nó nghiêng ngả? nhưng giây phút chung sống này đã tạo ra sự thay đổi rất nhanh cả về không gian và thời gian. và một lần nữa lòng người không thể xua tan đi sự bao bọc của ngoại cảnh. dù không gian có thay đổi tráng lệ đến đâu thì lòng nhà thơ vẫn thấy trống trải. nhưng lần này nỗi cô đơn đã quay về nhà. biết bao cảnh trên trời, dưới sông đều là những cảm xúc thất thường. từ sáng tạo này của nhà thơ đã khắc sâu, hay nói rất chính xác một nỗi niềm xót xa, đau đáu của “cánh đồng” khi đáp lại cụm từ “nước lớn”. Bao nhiêu nỗi buồn rồi lại tràn về nỗi nhớ quê hương. nhưng lạ thay, vừa ở quê hương mà lòng vẫn nhớ quê hương da diết. nhưng quê hương đã không còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ nhà thơ mới trước hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. cảm giác xa quê, “vô gia cư” trở thành một rung động hòa nhập không cần đến sóng hoàng hôn như nhà thơ dừng chân trong tang gia gợi nỗi nhớ quê nhà của nhà thơ. chẳng cần bấu víu vào bất cứ điều gì, nỗi nhớ da diết, đầy ắp ấy tự nó đã bộc lộ tình yêu quê hương sâu nặng.

Hai ấn tượng đọng lại sau khi đọc bài thơ: không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn cô đơn vô bờ bến của lòng người. cả hai dường như đều có chung nỗi niềm để rồi rộng hơn, rộng hơn, buồn hơn, cô độc hơn, khiến bài thơ như chất chứa, dồn nén nỗi niềm ngàn năm. nhưng trên hết, lối viết đặc trưng, ​​uyển chuyển giữa cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp dù là buồn. nhưng người đọc vẫn thấy một tình yêu đất nước thầm kín hiện ra trong dòng sông.

7. phân tích sông – mẫu 4

huy cận được biết đến như một thi sĩ của vạn li u sầu. Trước cách mạng, hồn thơ của ông mang nỗi sầu muộn của thời cuộc. tác phẩm trang giang là bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn vô hạn của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời gian. đằng sau nỗi buồn ấy là một tâm sự thầm kín và lòng yêu nước.

tên bài thơ gồm hai âm “ang”, đây là âm mở, gợi sự bao la, mênh mông. không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một dòng sông bình thường mà nó còn là một dòng sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, việc sử dụng từ Hán Việt cũng khiến bài thơ mang âm hưởng cổ kính, khái quát.

không phải tất cả các tác phẩm đều có tiêu đề, khi nó xuất hiện, nó thường là một gợi ý quan trọng bao hàm toàn bộ nội dung của tác phẩm. trước đầu bài thơ do huy cận tự sáng tác:

thở dài trời rộng nhớ sông dài

Câu thơ chủ đề tự nó đã gợi lên một không gian vũ trụ bao la, rộng lớn, vừa rộng vừa cao. trước không gian ấy, con người cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, đây cũng là nỗi niềm của bao thế hệ thi nhân xưa. dòng tiêu đề đã khơi gợi được cảm xúc chung của bài thơ.

Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ đầy xót xa:

những con sóng và những con sóng đau đớn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị mất trong một số dòng gỗ khô

sóng nhấp nhô theo hướng gió thổi, không gian đó hoàn toàn yên tĩnh. mà ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn hiện còn có tâm trạng con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn ấy không còn vô hình nữa mà hiện rõ qua chữ “điệp”. nỗi buồn ấy chồng chất, tuy nhẹ nhàng nhưng lại thấm đẫm và lan tỏa trong lòng người. Hình ảnh con tàu trên trần, lững lờ trôi nổi bật trong không gian ấy. giữa dòng sông, con thuyền trở nên nhỏ bé, lẻ loi như hình bóng con người. từ “xuống mái” thể hiện trạng thái buông xuôi, để nước chảy. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của người dân Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ? con tàu tiếp tục trôi, trở về để lại một nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại: nước. và biểu hiện trên thực tế là những cành củi khô trơ trọi và đơn độc. phép đảo ngữ “củi” được đảo ở đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không những thế đây còn là cảnh củi khô vô hồn trôi giữa dòng đời vô định. hình ảnh “củi khô” là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ bé, tự vệ giữa bao la của cuộc đời. đồng thời là hình ảnh ẩn dụ cho cái tôi lạc lõng, bơ vơ trong bài thơ mới.

khoảng cách gần mang tầm nhìn đến gần các bãi biển và cồn cát ngay trước mắt bạn. “ngọn gió nhỏ hiu quạnh” là hình ảnh rất thực giữa dòng sông đỏ, kết hợp với hai điệp từ “từ từ”, “buồn tẻ” gợi lên sự lác đác, vắng vẻ, hiu quạnh. trong không gian ấy, tác giả cố gắng tìm hơi ấm của cuộc sống, tiếng chợ ở phía xa, nhưng “đâu” được đâu, không gian ấy là sự tĩnh lặng tuyệt đối. nỗi buồn càng nổi bật hơn khi không gian mở rộng đến vô cùng, mặt trời lặn chiều, sông dài: trời rộng kết hợp với điệp từ “thăm thẳm” đã mở rộng không gian về cả ba mặt: Chiều rộng cao sâu. đại diện cho sự cô đơn, sự nhỏ bé đến tột cùng của con người trước không gian.

đôi mắt ở tiền cảnh đã tìm kiếm lại, chuyển sang vô cực và tự nhắm lại:

bạn đi hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

không cần đề xuất sự thân mật

lặng lẽ, bờ xanh gặp bãi vàng.

những cánh bay lơ lửng, không mục đích nối tiếp nhau, dòng chảy không mục đích, không phương hướng, giống như những kiếp người bé nhỏ cô đơn lúc bấy giờ. không gian sông nước mênh mông không một chuyến đò sông. con tàu ấy không chỉ là phương tiện chở người, mà còn là phương tiện kết nối tình cảm. nhưng mọi thứ đã bị phủ nhận một cách tuyệt đối: không một, không hỏi, không một chút tình người, tình người vẫn hiện hữu nơi đây.

khổ thơ cuối vẽ nên bức tranh không gian nhiều tầng, nhìn lên: “tầng mây cao đùn núi bàng bạc / Chim chắp cánh nhỏ, bóng chiều tà”. bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời càng trở nên hùng vĩ và tráng lệ. động từ “đùn” cho thấy mây cuộn, dựng lên những dãy núi kỳ vĩ. và giữa bầu trời có một con chim nhỏ cô đơn, cảm giác như thể nó đã bị nuốt chửng bởi không gian. đối diện với thiên nhiên hiu quạnh, vắng lặng, nỗi nhớ quê hương bỗng trở nên da diết, da diết:

trái tim của đất nước đầy ắp nước

không có khói hoàng hôn hay nỗi nhớ.

Câu thơ khiến ta liên tưởng đến câu thơ của bậc hiền nhân: “Nhất dạ hương quan hà xu thị / Yên ba giang thương sầu sầu”. cũng là nỗi buồn, nỗi nhớ quê nhưng huy gần có một cách thể hiện thật mới và lạ. lòng trường “phấp phới”, tức là nó tăng lên, nó trở nên mạnh mẽ hơn, dường như sóng của lòng mở rộng theo sóng. nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. đây cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước.

Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, nó đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên bao la và hiu quạnh. Qua đó, anh cũng cho chúng ta thấy một cái tôi cô đơn, lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. nhưng đồng thời bài thơ cũng thể hiện lòng yêu nước thầm kín nhưng sâu sắc.

8. cảm nhận bài thơ trang giang

huy cận là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới. thơ ông giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người với vũ trụ. trang giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện trọn vẹn tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.

ngay trên dòng tiêu đề của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh, cũng như tâm trạng của nhà thơ, từ ngữ cô đọng và chính xác cả cảnh và tình của bài thơ.

p>

những con sóng và những con sóng đau đớn

thuyền đi xuôi dòng nước song song

con tàu về quê lại buồn

một số dòng bị mất trong cành khô

Đứng trước sông nước mênh mông, nỗi buồn của tác giả như nhân lên gấp bội. ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh, qua đó tác giả muốn bộc lộ tâm trạng của mình. hình ảnh “sóng lăn tăn” gợi cho ta liên tưởng đến những đợt sóng kéo dài, kéo dài đến vô tận, như nỗi buồn của nhà thơ trong lặng lẽ mà không ngơi nghỉ. sóng giữa sông dài biển rộng càng làm nhân lên nỗi buồn của thi nhân. cảnh con tàu và mọi cảnh hiu quạnh khiến nhà thơ ngập tràn nỗi niềm trong lòng không biết bày tỏ nỗi lòng cùng ai. tác giả đã sử dụng những hình ảnh rất đời thường để ghi lại những vần thơ của mình và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

mặt trời lặn, bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng bến cô đơn

một lần nữa tác giả lại sử dụng những hình ảnh “cồn, gió, phố, chợ, bến” để nói lên cảm xúc của mình. theo cảm nhận của tác giả, cảnh vật trở nên thưa thớt, trống trải với nỗi buồn sâu thẳm khiến cảnh vật trở nên tĩnh lặng, buồn tẻ, vắng lặng và cũng vì tĩnh lặng mà nhà thơ cảm nhận được điều đó.

đâu là âm thanh của thị trấn ngoài chợ tối

tác giả nhận được những âm thanh của cuộc sống hàng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ràng ở đâu. nhà thơ đã cố gắng bình tĩnh để lắng nghe âm thanh mơ hồ đó, nhưng anh ta không thể cảm nhận được và nhà thơ đã thay đổi góc nhìn của mình sang một điểm mới.

mặt trời lặn và bầu trời sâu thẳm

sông dài, trời rộng bến cô đơn

nhà thơ sử dụng nghệ thuật tả thực để đối chiếu cảnh mặt trời lặn và bầu trời đang lên để gợi ra sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. đứng giữa mênh mông sông nước, đất trời, con người như nhỏ lại, nỗi đau vô bờ.

bạn đi hết hàng này đến hàng khác

rộng mà không cần qua thuyền

không yêu cầu quyền riêng tư

bờ biển xanh êm đềm gặp bãi biển vàng

Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng đến kiếp người trôi nổi. vịt nổi không biết trôi về đâu, không có cầu, không có thuyền đưa khách, cảnh tượng như vậy làm sao người ta thoát được nỗi xót xa? Tả cảnh ấy, tác giả thể hiện khát vọng giao cảm với cuộc đời, khát vọng thoát khỏi những u uất của cuộc đời để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

các lớp mây đùn lên những ngọn núi màu bạc

con chim có đôi cánh nhỏ trong bóng hoàng hôn

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc hoàng hôn cũng hoài niệm

Sau khi quan sát xung quanh, nhà thơ hướng ánh mắt về phía vũ trụ và nhìn thấy hình ảnh đầu tiên của những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng lên nhau mạnh mẽ. những ngọn núi sau đó kết thành một ngọn núi, sau đó được phản chiếu dưới ánh mặt trời lặn, tạo nên một màu sắc rực rỡ mà nhà thơ gọi là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy tươi sáng nhưng nó chứa đựng nỗi buồn của cô ấy, giống như nỗi buồn của cô ấy tích tụ như núi với mây và hình ảnh cánh chim.

Trái tim của đất nước đập cùng nước

không khói lúc hoàng hôn cũng hoài niệm

tác giả đã sử dụng phép tự sự “sóng sánh” để miêu tả những con sóng theo dòng nước thoáng chốc lan tỏa, cho thấy nỗi nhớ luôn hiện hữu trong đó và sẵn sàng lan tỏa khắp nơi.

Bài “Tràng giang” đã thể hiện nỗi nhớ quê hương, đất nước của nhà thơ. đứng trước khung cảnh thiên nhiên bao la, nhà thơ căm giận cảnh vật mà nảy sinh tình cảm, nghĩa là tình cảm chân thành đối với quê hương của nhà thơ. Tập trung vào các đề tài gần gũi đời sống, Tràng Giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu trong văn học Việt Nam.

9. phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ

nói đến nhà thơ chạy trốn là nói đến một hồn thơ cổ điển với một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng. bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. bài thơ viết về cảnh sông nước, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên vĩ đại, hiu quạnh ấy là một tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của nhà thơ. Đặc biệt, ở hai khổ thơ đầu, huyễn gần không chỉ mở ra cảnh sông nước buồn mà còn bộc lộ một hình ảnh tâm trạng thầm kín của anh:

“sóng cuộn qua sông điệp buồn, thuyền chìm trong nước Thuyền về ruộng buồn một mình cành khô lạc mấy dòng”

hình ảnh “sóng” ở câu đầu gợi lên những con sóng hiện thực trên sông, đồng thời gợi lên trong lòng nhà thơ những nỗi lo âu. do đó, điệp từ gợi lên nỗi buồn lặp đi lặp lại của nhân vật trữ tình, từ ngày này sang ngày khác, nỗi buồn lúc rộng, lúc dài, lúc sâu. sông xa, sông “gợn sóng” đôi bờ mà lòng người khắc khoải, sầu muộn còn mãi. giữa khúc sông mênh mông ấy, hình ảnh “con thuyền trên mui” hiện lên như điểm tô. con thuyền nhẹ nhàng trôi trong không gian mênh mông của sông nước càng làm nổi bật ấn tượng về sự lẻ loi, cô đơn, vô định. bạn có biết nơi neo đậu cho con thuyền kia không? con tàu chỉ đơn giản là trôi trên những dòng chảy song song, trở về cuối chân trời. nhịp 4/3 của bài thơ kết hợp với những vần thơ gieo vần càng gợi thêm sức gợi. sự bao la của không gian phù du vừa gần vừa xa:

“thuyền về ruộng buồn mấy dòng, cành khô lạc mấy dòng”.

Con tàu và con nước vốn dĩ song hành, gắn bó với nhau, nhưng trong nhận thức của anh Huy, con tàu và con nước không cùng chung một số phận: “tàu về ruộng”. ngược lại “con tàu về nước” đã đặc tả nỗi buồn chia tay, chia xa. cụm tính từ “trăm mối sầu” khiến nỗi buồn như lan tỏa, bao trùm cả bức tranh thơ. Thiên nhiên chất chứa trăm nỗi niềm hay lòng người đầy sầu muộn Sóng mênh mang, con đò không bến ngỡ là tột cùng của nỗi buồn, hình ảnh cành khô lạc lõng giữa sông. nghệ thuật đảo ngữ được tác giả sử dụng một cách tinh tế nhằm nhấn mạnh sự không tương đồng của sự vật giữa sự vật, con người giữa con người với sự sống trong vũ trụ bao la. “một” gợi sự cô đơn, lẻ loi, khan hiếm, danh từ “củi” kết hợp với tính từ “gợi sự nhỏ bé, héo úa. Không gian mang màu sắc hài hước được tác giả vẽ nên bằng những nét vẽ giản dị khiến lòng người bùi ngùi, sầu muộn.

Nếu khổ thơ thứ nhất thấp thoáng bóng dáng con người nhưng còn mờ nhạt thì khổ thơ thứ hai lại thể hiện sự sống của con người nhưng vẫn xa vắng và lẻ loi:

“lờ mờ cồn nhỏ, gió điếc, đâu tiếng phố thị xa chợ chiều?”

Giữa chốn bình dị và hiu quạnh trên cồn nhỏ, giọng người có chút xao động nhưng không thể xua tan, át đi nỗi cô đơn của buổi hoàng hôn trên sông. âm thanh xa xăm, mờ nhạt và không rõ ràng khiến nhân vật trữ tình càng mong muốn được gặp gỡ, trò chuyện và đồng cảm. tuy nhiên, niềm khao khát đó ngày càng trở nên xa vời:

“mặt trời đã lặn, trời thăm thẳm, sông dài, trời rộng, bến tàu hiu quạnh.”

không gian thoáng, dài, rộng, cao, sâu đến tận trời xanh. những hình ảnh tương phản “mặt trời, trời trên”, sông dài, trời rộng càng làm cho không gian thêm bao la, choáng ngợp, vô hạn. dòng sông mênh mông là thế nhưng vẫn không giấu được nỗi buồn của tâm trạng, một chữ “cô đơn” ở cuối bài thơ đã lột tả hết nỗi buồn khôn nguôi trong sâu thẳm trái tim nhà thơ, nỗi buồn khôn nguôi. . biết nói chuyện với ai.

nhà thơ huy cận đã rất tinh tế khi sử dụng những hình ảnh cổ điển: sông, trời, tàu, nước; chọn thời khắc chiều tà để gợi nỗi buồn kết hợp với biện pháp nghệ thuật tượng trưng ngụ ngôn để làm nổi bật hình ảnh cảnh: tình. hai khổ thơ đầu 8 dòng vỏn vẹn 56 chữ nhưng mỗi chữ đều có ý, có tình. ở cuối bài thơ, người đọc không khỏi băn khoăn về nỗi niềm với nhà thơ.

Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phan tich bai tho tràng giang lop 11. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *