Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
1111 lượt xem

Phân tích bài thơ việt bắc khổ 4

Bạn đang quan tâm đến Phân tích bài thơ việt bắc khổ 4 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích bài thơ việt bắc khổ 4

Phân tích khổ thơ 4 tiếng việt bac g gồm 2 dàn ý và 8 bài văn mẫu hay, được các em học sinh giỏi chấm điểm cao. phân tích khổ thơ Tiếng Việt 4 có thể là một chủ đề khó đối với nhiều học sinh. do đó, việc triển khai và sắp xếp các ý nội dung phải hợp lý và thống nhất. Nếu các bạn học sinh lớp 12 còn đang băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu, hãy xem 8 bài văn mẫu dưới đây.

khổ 4 viet bac là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được miêu tả chân thực, rõ nét. con người – thiên nhiên luôn hòa quyện không tách rời. vì vậy đây là 8 bài phân tích hay nhất về tiếng việt từ tập 4, mời các bạn theo dõi tại đây.

phân tích khái quát đoạn 4 của bài báo tiếng Việt

bản phác thảo số 1

i. mở đầu

– viet bac là một tập thơ xuất sắc của tác giả trong tuyển tập thơ việt bac, được sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1946 – 1954.

– Chính vì cách đối đáp và cách sử dụng đại từ nhân xưng quen thuộc “ta – ta” trong ca dao, bài thơ như một bản tình ca thể hiện tình cảm sâu nặng giữa nhân dân Việt Nam với cán bộ. .

– Bài thơ này là lời của một cán bộ kháng chiến trở về đáp lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc. Qua bài thơ ta thấy cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người đi thật đẹp và cũng thật ý nghĩa. nỗi nhớ ấy chân thành, sâu lắng, bao trùm cả không gian, thời gian và tràn ngập tâm trạng của người cán bộ kháng chiến.

ii. nội dung bài đăng

1. mở đầu bài thơ là lời đáp của người đã khuất khẳng định tình cảm thủy chung:

“Tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, luôn nghĩ rằng chúng tôi sẽ ra đi, nhưng chúng tôi đã thiếu đi nguồn tình yêu và nước quá nhiều”

– người ở lại nói “Anh đi đây, em nhớ anh” là để trả lời câu hỏi mà người Việt Nam đặt ra ở trên (“Anh đi đây, em nhớ anh” …). Đây là câu nói: Người cán bộ kháng chiến trở về kinh thành nhưng lòng vẫn nhớ những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. nói cách khác, đây là sự khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến.

– “Tôi – tôi”, “tôi – tôi” đan xen, trộn lẫn, tôi và tôi là một. lòng ta trước sau mặn nồng. Định Ninh là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thủy chung với Việt Bắc. viet bac là nơi khai sinh ra cách mạng, làm sao có thể dễ dàng quên được?

– phép so sánh “nước bao nhiêu thì yêu bấy nhiêu” đã khẳng định lòng thuỷ chung son sắt của người Việt Nam vì tình yêu đôi lứa bền chặt, muôn đời, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.

p >

+ Trong tâm thức của người Việt, ngọn nguồn nước được đổ bởi công lao và tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ, chảy mãi không ngừng. càng nhiều nước, tình cảm càng sâu nặng, như nghĩa mẹ, công cha.

+ “bao nhiêu” được so sánh với “bao nhiêu”. đó là sự so sánh giữa cái vô cùng và cái vô cùng. đọc câu thơ, ta có cảm giác đó không còn là những lời nói câm lặng mà là tiếng nói của trái tim cất lên từ tâm hồn xúc động của người trở về lúc chia tay.

2. Tôi nhớ thiên nhiên thanh bình, êm ả và thơ mộng:

– nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến Việt Bắc thật đa dạng và cụ thể. trong cuộc đời, có một mảnh đất đã đi qua, đã gắn bó nhưng khi ra đi không để lại niềm tiếc thương cho lòng người. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những ngày mưa núi rừng mà còn là vùng đất thơ mộng, êm đềm, nhẹ nhàng gợi bao nỗi nhớ:

“Nhớ không có gì bằng nhớ người thân, trăng lên đỉnh núi, nắng chiều trên lưng, nhớ từng làn khói sương lúc bình minh, bếp lửa của người thân trở về. từng rặng tre bên bờ sông, con sông ngày ngày và con lạch đầy lê thê ”

+ nỗi nhớ nhà đối với viet bac được so sánh với “nhớ người yêu”. một nỗi nhớ da diết, tha thiết, mãnh liệt. tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi phải chia xa thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. dường như nỗi nhớ của người cách mạng đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần da diết. vì vậy, cảnh và người trở về đều chứa đầy tâm tư của người đã khuất.

+ nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “trăng lên đỉnh núi, nắng chiếu sau lưng”, vừa gắn với một không gian và thời gian đầy ắp kỉ niệm:

“Trăng lên đỉnh núi, mặt trời ló rạng” vừa là cảnh thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. mặt trăng là đêm, mặt trời là ngày. vì thế, nỗi nhớ ở đây bao trùm cả không gian và thời gian.

nỗi nhớ vẫn mênh mang bao trùm khắp không gian “đầu núi”, “nội đồng”, từ “rừng trúc”, “lũy tre” đến “nội thia, sông ngày, suối lê”. nhớ những đêm trăng thanh bình êm ả, những buổi chiều nắng ấm trên cánh đồng. nhớ cảnh đèo, phố mờ sương khói, cảnh ống khói thấp thoáng mỗi đêm đông, và hình ảnh những người thân yêu sớm mai về nhà.

+ từ “nhớ” ở đầu các câu thơ càng làm nổi bật nỗi nhớ da diết, da diết. Ở bài thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “mây trời” mà ấm áp tươi vui. trong thiên nhiên, cuộc sống dường như vừa thực vừa mộng, vừa giản dị vừa thơ mộng, gợi lên nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao cánh đồng Việt Nam. chỉ những người sống và gắn bó với việt bắc mới có tầm nhìn bao quát, nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc, thấm thía như vậy:

“Khi tôi ở lại chỉ là nơi đất ở, khi tôi rời đi, trái đất trở thành linh hồn”

(chuẩn bị trồng lan)

Đối với mảnh đất giàu tình nghĩa, khi chúng ta sống ở đó, khi chúng ta rời đi, chúng ta cảm thấy lòng mình dày thêm bao nỗi nhớ mong, nhớ nhung dù là những gì vô tri vô giác nhất mà chúng ta không biết. cuộc gặp gỡ yêu thương:

<3

3. điều đáng nhớ nhất là cuộc sống của người dân Việt Bắc tuy vô cùng khó khăn nhưng nghĩa tình sâu nặng:

“thôi nào, chúng tôi nhớ những ngày chúng tôi ở đây, cay đắng ngọt bùi

– Đời sống của người Việt Nam tuy nghèo nhưng giàu lòng biết ơn. họ sẵn sàng chia sẻ với cán bộ kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, miếng “chăn gối”. hình ảnh thơ bình dị, giản dị như chính cuộc đời. ở đây không phải là chia sẻ những điều to tát như mạng sống hay máu mủ mà là chia sẻ những điều nhỏ nhặt và chung mỗi ngày. quả chẳng được bao nhiêu mà tình thì nặng bấy nhiêu. Cuộc sống những ngày đó như mối quan hệ giữa cá và nước, thân thiết như trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

iii. kết thúc

– Bài thơ là tiếng lòng của bức tranh kháng chiến trở về với cảnh vật và con người miền Bắc Việt Nam. trong nỗi nhớ về những người đã khuất, cảnh sắc Việt Nam hiện lên thật gần gũi, thân thương và tươi đẹp; Người Việt Nam tuy nghèo khó, vất vả nhưng tràn đầy tình yêu thương.

– Hình thức thơ lục bát quen thuộc và những hình ảnh lấy từ thực tế cuộc sống, điệp ngữ “nhớ” được lặp lại nhiều lần giúp thể hiện thành công nỗi nhớ vừa chân thành, vừa mênh mang. dòng tranh bất tận trở về viet bac, tạo nên sự rung động sâu lắng trong lòng người đọc

lược đồ số 2

1. mở đầu

– giới thiệu các bài thơ Việt Nam

– tóm tắt nội dung của khổ thơ 4

2. nội dung bài đăng

– mượn câu trả lời từ các bài hát nổi tiếng và cách gọi “my-ta” để làm cho lời bài hát chân thành và ngọt ngào hơn.

– câu thơ “Ta với ta, ta với ta” thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của kẻ ra đi – kẻ ở lại.

– tình cảm trung thành, trước sau như một “tốt nhất là mặn”

– một so sánh độc đáo về “bao nhiêu nước là nguồn gốc của tình yêu”:

  • “nguồn” là đầu của dòng nước, luôn dồi dào, không bao giờ cạn kiệt
  • tình cảm của người cách mạng luôn sục sôi, tràn trề, không phải vì hoàn cảnh đổi thay mà vì sự thay đổi. .

– nỗi nhớ cụ thể “như nhớ người yêu”: chân thành, tràn trề, luôn thường trực.

– hình ảnh “trăng lên đỉnh núi, nắng soi lưng núi” mở ra một hình ảnh đẹp về núi rừng và nỗi nhớ vẫn ngày đêm trong lòng những người cách mạng.

– nỗi nhớ mở rộng theo không gian và thời gian:

  • nhớ tất cả những gì thân thuộc nhất: rừng tre, lũy tre, suối thia, sông ngày, suối lê
  • nhớ những tháng ngày chịu thương, chịu khó. chua chua ngọt ngọt ”

3. kết thúc

khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

phân tích khổ thơ thứ tư của các bài báo tiếng Việt

tou huu đã dành trọn tình cảm cho bài thơ Việt Bắc, những cảm xúc sâu lắng về hình ảnh những người chiến sĩ cách mạng, họ đã gắn bó và chết đuối nơi chiến trường xa xôi, nơi núi rừng phía Bắc, nhưng tâm hồn họ vẫn mang theo nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ thủy chung, cả bài thơ là nỗi nhớ da diết và tấm lòng son sắt của người chiến sĩ cách mạng.

tấm lòng thủy chung thể hiện sâu sắc trong từng câu chữ của nhà thơ với cách xây dựng hình ảnh độc đáo, nỗi nhớ cứ dâng lên trong thơ của mỗi tác giả, với bao cảm xúc. , nỗi nhớ dường như chiếm lĩnh toàn bộ không gian trong tác phẩm. tấm lòng của người chiến sĩ trước sau như một, luôn giữ tấm lòng trung thành, vững vàng trước cảnh sắc quê hương nơi núi rừng Việt Nam, tấm lòng ấy được thể hiện qua lòng biết ơn và niềm mong mỏi. về phong cảnh, quê hương ở đây:

tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, chúng tôi luôn nghĩ rằng chúng tôi sẽ rời đi, nhưng chúng tôi nhớ rằng chúng tôi có bao nhiêu nước và chúng tôi có bao nhiêu tình yêu…

ta và ta, ta với ta, ở đây như hòa hợp nói một tổng thể mà nghẹn ngào, chung một lòng trước sau, một lòng son sắt, ta đi mà lòng còn nhớ thủy chung. cội nguồn, những trái tim trung thành nhất, con người…. nỗi nhớ ấy thể hiện cảm xúc chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm, những hình ảnh mang đến cảm xúc, sóng, nỗi nhớ cho con người, người đọc như tưởng tượng, tưởng tượng ra những cảm xúc, tình cảm và những kỉ niệm gắn bó với phương xa, ở đây mọi thứ giờ chỉ còn là kỉ niệm.

Tác giả còn so sánh tấm lòng thủy chung ấy như nước trong đài, trong suối tình nghĩa bao nhiêu thì nước bấy nhiêu … mọi thứ tan ra từng chút một trong tâm hồn người chiến sĩ, tình cảm và tấm lòng của họ thật rắn rỏi. , to lớn, in đậm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng.

nhớ tình trăng lên đỉnh núi, chiều tà, nhớ từng bản khói sương

Nỗi nhớ da diết ấy được tác giả so sánh với nỗi nhớ người yêu, nó thổi bùng, nó bùng cháy, nó bùng cháy trong tâm hồn người chiến sĩ, cảm xúc ấy như nghẹt thở, mang đến cho người đọc bao nỗi nhớ nhung da diết khi đối mặt với nỗi nhớ, tình cảm thắm thiết, sâu nặng của người chiến sĩ cách mạng, ngày đêm mong mỏi mảnh đất gắn bó máu thịt, nơi nung nấu tâm hồn cách mạng, tấm lòng son sắt của người chiến sĩ hết lòng vì quê hương, hết lòng vì Tổ quốc. chính nghĩa của đất nước:

<3

Nỗi nhớ ấy được thể hiện qua bao hình ảnh, dòng sông ân tình, bao hình ảnh quê hương, đất nước, sáng sớm, chiều muộn bên bếp lửa chờ người thương đi về, hình ảnh rừng cây, lũy tre đều thể hiện cảnh gần gũi của những người chiến sĩ cách mạng, những người đã từng hết lòng, hết sức gắn bó với đất trời nơi đây, tất cả đang hòa vào tâm hồn, với đồng bào, chiến sĩ, với cách mạng, của năm tháng trôi qua. / p>

những thứ sông ngày, lạch lê đầy trong em, em nhớ những ngày tháng ta đây đắng cay ngọt bùi …

những cảm xúc ấy thể hiện những cung bậc cảm xúc dâng trào, với nỗi nhớ ấy, có ngọt, có đắng, cùng nhau chia sẻ, nhớ về những năm tháng sương mù, gắn bó với nhau như máu thịt, biết bao cay đắng. đoàn kết, chân thành, cảm xúc về một miền nỗi nhớ quê hương, cảm xúc đang trào dâng trong tâm hồn người lính.

Câu thơ nói lên tấm lòng trung kiên, kiên trung của người chiến sĩ cách mạng, luôn tận tụy với Tổ quốc, nỗi nhớ dâng tràn từng lúc, nỗi nhớ dâng tràn trong tâm hồn người chiến sĩ.

Phân tích khổ thơ tiếng Việt 4 – mẫu 2

Những năm tháng hào hùng của đất nước đã được văn học cách mạng ghi vào những trang thơ. trong đó tác phẩm “Việt bắc” của đểu là một bản tình ca thủy chung đối với những người kháng chiến và những người lính. nổi bật là khổ thơ thứ tư: bài thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến:

“- ta với ta, ta và lòng ta, trước sau như một tưởng đã ra đi, ta nhớ về cội nguồn biết bao ân tình thủy chung… mà chẳng nhớ gì như nhớ người tình trăng trên. núi, nắng chiều, nhớ từng khúc khói sương sớm và lửa, người thương về quê nhớ từng cánh rừng, đôi bờ thia, dòng sông ngày tháng, suối lê lấp em, em. nhớ những ngày mình ở đây vừa đắng vừa ngọt… ”

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cán bộ, chiến sĩ rời Việt Nam trở về Hà Nội. Trong không gian đầy hoài niệm, nhớ nhung giữa nhân dân Việt Nam và những người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã viết nên bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn trích miêu tả sâu sắc cuộc chia ly giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc, gợi lại cuộc kháng chiến hào hùng, nghĩa tình. Đó là một cuộc chia tay đầy hoài niệm, đầy tình cảm sâu nặng.

“ta và ta, ta và lòng ta, trước sau như một tưởng lìa xa, nhưng ta nhớ đến cội nguồn thủy chung, ân nghĩa”

Để đáp lại tình cảm của những người đã khuất, những người ở lại cũng là những cán bộ đã trở về đồng bằng để bày tỏ tình cảm với những người Việt Bắc. Dù ở xa nhưng người lính luôn kiên định và trung thành với người Việt Nam:

“trái tim chúng tôi luôn hài lòng”

cuộc chia tay đầy hoài niệm, giữa người ở lại và người ra đi: “Mình đi, mình nhớ mình”. việc sử dụng hình ảnh so sánh: “nguồn nước bao nhiêu tình nghĩa bấy nhiêu” là một hình ảnh. “nguồn” là đầu sông nên suối luôn đầy ắp, ở đây so với “cảm” đã cho thấy tình cảm luôn dạt dào, chan chứa vô tận. dưới đây, “nhớ gì như nhớ người thương” tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh rất độc đáo để so sánh nỗi nhớ của người lính với nỗi nhớ của “người tình”, một niềm đam mê cháy bỏng luôn trỗi dậy.

“nhớ từng làn khói sương sớm mai bên bếp lửa quê người thương. Nhớ từng rừng trúc đôi bờ, sông ngày, lạch lê đầy ắp”

người lính nhớ lại cuộc sống hàng ngày của người Việt nấu cơm tối, khói từ ống bếp. rồi đêm hôm sau, chớp mắt bên ánh lửa rực, họ lại quây quần kể chuyện, múa hát. nhớ về:

“Nhớ từng rừng trúc bên sông, sông ngày tháng suối lê đầy”

nhớ về những điều thân quen khi gắn bó ngày nào, với những địa danh rất nổi tiếng như: “sông nước, sông ngày, suối pera”, “suối lei” ở đây là suối lenin. cuối cùng, câu kết lại với cách gọi bạn và tôi:

“Tôi đi đây, tôi nhớ những ngày tôi ở đây, vừa đắng vừa ngọt…”

“đắng cay ngọt bùi” là gian khổ, khó nhọc, “ta đây ta đây, đắng cay ngọt bùi…” ở đây chỉ những người lính và những người con đất Việt đã cùng nhau trải qua gian khổ. họ đã cùng nhau thử nghiệm việc sử dụng sáng tạo đại từ “anh – ta” với sự tương tác trong các bài hát nổi tiếng. bài thơ việt nam thể hiện tính dân tộc đậm đà. những bài hát về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, thể hiện tình cảm gắn bó, sâu nặng với nhân dân, đất nước đầy lòng tự hào dân tộc sử dụng hình thức đối đáp bằng cặp đại từ nhân xưng “ta – ta”, tiếng. , hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát… bài thơ cho ta thấy tình cảm của người dân Việt Nam trong những năm tháng gian khổ, gian khổ của cuộc chiến tranh giành độc lập, tự do của dân tộc. .

XEM THÊM:  Reading - Unit 7 trang 80 SGK Tiếng Anh 11 - loigiaihay.com

câu thơ khép lại nhưng đọng lại trong lòng người đọc những ấn tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị, đó là khói bếp lửa, hình ảnh con suối, bậc thềm, chiếc chõng tre quen thuộc .. Tất cả đều đã để lại trong lòng những người đã khuất một kỷ niệm không phai mờ về nghĩa tình, nghĩa tình đồng bào thân yêu chia sẻ miếng cơm manh áo trong lúc khó khăn, qua đó cũng thể hiện sự đoàn kết của hậu phương, tiền phương trong cuộc sống thăng hoa. những thăng trầm của lịch sử thời bấy giờ. thời tiết. đó cũng là lời nhắc nhở thế hệ hôm nay đang sống trong hòa bình hãy trân trọng lịch sử, trân trọng những thành quả mà tổ tiên để lại, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

phân tích khổ thơ bắc việt 4 – mẫu 3

too bạn đã từng nói: “thơ là tiếng nói hồn nhiên của tâm hồn con người”. ở đó, những tâm tư tình cảm sâu kín của mỗi nhà thơ được thể hiện một cách độc đáo. Qua đó, ta thấy được niềm mong nhớ của nhà thơ đối với tình cảm yêu thương sâu nặng của nhà thơ gửi đến quê hương cách mạng trong khổ thơ thứ tư của bài thơ “Việt bắc”.

“- ta với ta, ta và lòng ta, trước sau như một tưởng đã ra đi, ta nhớ về cội nguồn biết bao ân tình thủy chung… mà chẳng nhớ gì như nhớ người tình trăng trên. núi, nắng chiều, nhớ từng khúc khói sương sớm bếp lửa, người thương về quê Nhớ từng rừng ven sông, lạch lê đầy ta, nhớ những ngày ta còn nơi đây, đắng cay. và ngọt ngào … “

vào năm 1954, khi hiệp định geneva được ký kết, một trang mới đã được mở ra trong lịch sử cách mạng dân tộc. Các cơ quan trung ương đảng chuyển về quê hương cách mạng Việt Bắc, nơi nương tựa, nương tựa của đồng chí trong những năm kháng chiến tái chiếm thủ đô. nỗi nhớ, tình cảm của cán bộ đảng viên và đồng bào miền núi đã là bệ phóng chắp cánh cảm hứng cho ngòi bút sáng tác nên tác phẩm “viet bac” được coi là đỉnh cao của thi ca thời kháng chiến chống Pháp. vào thời điểm đó. . giữa những năm tháng kháng chiến, văn học trở thành vũ khí cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, nhưng giọng thơ đúng mực không giáo điều, lời thơ thấm đượm nỗi nhớ của kẻ ở lại, nhớ về người đã khuất. . .

Thể thơ lục bát mượt mà, giọng điệu nghiêm trang, tình cảm đi đôi với cấu trúc gia đình đối đáp thường trở lại những câu hát giao duyên, tán tỉnh, trai gái mở hội, gợi bao cảm xúc yêu thương. không gian trữ tình. cụm từ “anh – em” cũng trở đi trở lại nhiều lần trong những bản tình ca lãng mạn được sử dụng để thể hiện tình cảm chính trị, những cuộc trò chuyện riêng tư về các vấn đề công cộng đã làm dịu bớt nội dung chính trị. lòng biết ơn sâu sắc của đồng bào vùng cao, những người đã cưu mang, che chở cho những người lính suốt mười lăm năm được khẳng định như một lời thề son sắt, mãi mãi vẹn nguyên “nghĩa tình, cội nguồn, thủy chung”. “i” và “ta” tuy là hai, nhưng là sự kết hợp của những câu nói giản dị và sáng tạo, gợi lại truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của ông cha ta, tạo nên một bài thơ giàu nhạc tính.

Từ “nhớ” gợi lên một nỗi nhớ khôn nguôi, sâu nặng tình bạn thắm thiết, nghĩa đồng hương tạo nên một nhịp qua dòng ký ức ấm áp, ngọt ngào. Hình ảnh so sánh đậm chất cổ vũ “như nhớ người yêu”:

“Nhớ không gì bằng nhớ người thân, trăng lên đỉnh núi, mặt trời soi bóng lưng”

Nhà thơ mượn tình cảm thắm thiết, thắm thiết của lứa đôi để thể hiện tình bạn thắm thiết với con người một cách tự nhiên và cảm động. không gian mà người ta nhớ nhung khi bước đi thấp thoáng bóng dáng người ở lại, bao trùm lên núi đồi, khoảnh khắc trăng lên, xế chiều. nơi đây mảnh đất đã trở thành tâm hồn của những con người xuống dốc. hình ảnh mong mỏi người đã khuất vẫn là xóm làng, sương khói: cuộc sống yên bình thơ mộng nơi núi rừng xa xôi:

“Nhớ từng làn khói và sương sớm khi người thân từ bếp lửa về nhà”

đâu đâu cũng thấy sợi dây thương nhớ, ngọn giáo in hình “người thương đi về”. trong không gian ấm cúng của ánh lửa, giữa thời gian “bình minh” gợi lên sự tần tảo, bền bỉ, kiên trì, kiên cường trong suốt quá trình chiến đấu. một “người thương” có thể vừa là chiến sĩ, vừa là đồng bào có chung lý tưởng, có thể là mẹ, là chị… hình ảnh gợi nhiều liên tưởng nhưng không hề khô khan. tác giả còn liệt kê một số địa danh cụ thể “sông ngòi, sông ngày, suối le”: đó là những không gian vĩnh hằng, chan chứa nước như lòng tràn trề của người đi, người về những ngày tháng ý nghĩa. tình yêu trải qua bao đắng cay ngọt bùi. chính những khó khăn gian khổ đã trở thành ngọn lửa thử vàng để tình quân dân cả nước thêm bền chặt, vượt qua mọi rào cản về khoảng cách và thời gian để “ta đi”, ta hãy nhớ, “Ta” trong chính ta không thể nào quên được. Dường như cái đầy của sông suối cũng là cái đầy của lòng người, của một nỗi nhớ luôn đập trong tâm trí những người đã khuất. Ngoài những nơi cách mạng, nhà thơ đã đi về nói về những kỷ niệm đẹp, đáng nhớ của cuộc đời trong thời kỳ kháng chiến, những hình ảnh thân thương, xúc động về sự trao đổi ấm áp “bát cơm chung nửa”, “đắp chăn”, “chung củ sắn” đã gợi lên tình cảm sâu nặng. , đồng cam cộng khổ, họ cùng nhau chia sẻ những khó khăn gian khổ của người Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ, khắc nghiệt, cùng với đó là hình ảnh “lớp học”, “tiếng hát. vang dội trên đỉnh núi ”,“ tiếng chày đập cối trong đêm ”đưa tâm trí người đọc đến một kỷ niệm sống khác của cuộc kháng chiến, đó là thời bình. , những khoảnh khắc vui vẻ bắt nguồn từ niềm hạnh phúc, sự lạc quan mang tính cách mạng.

Nhà thơ cố gắng khắc họa nỗi nhớ của những bức tranh từ miền xuôi lên miền cao, với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và hiện đại vừa gần gũi nhưng đậm đà tính dân tộc và mới mẻ. âm hưởng nghiêm trang, giọng văn tình cảm, ngọt ngào làm cho tư tưởng chính trị không khô khan mà dễ đi vào lòng người. bài thơ “Việt bắc” là dấu son ghi lại tình yêu cách mạng trung thành giữa cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ và oanh liệt của dân tộc.

phân tích khổ 4 bài thơ Việt Nam – văn mẫu 4

Nhà hóa học Lan vien từng nói: “thơ cần hình ảnh để người ta thấy, ý nghĩa để người ta suy nghĩ, và nó cần tình yêu để lay động trái tim.” và những tác phẩm của ông đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh gần gũi và đầy tính triết lý về con người và cuộc sống. cho tình người sâu nặng không phai theo thời gian. bài thơ “việt bắc” là một trong những điển hình về khả năng lay động lòng người của ông và tiêu biểu cho tài năng thơ phú của thể thơ lục bát, một nhà thơ được mệnh danh là ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. và khổ thơ thứ tư là một trong những bài ca về nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ người đọc.

câu thơ tiếp nối thông điệp, tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi:

“ta với ta, ta và lòng ta, trước sau như một tưởng rời xa, ta nhớ ta thủy chung, ta bao nhiêu tình …”

dường như hiểu được sự lưỡng lự của người ở lại, người ra đi khẳng định chắc nịch rằng câu trả lời nghe như một lời thề. cặp đại từ “ta – ta” gắn bó với tấm lòng thủy chung, gắn bó. “lòng ta luôn mặn nồng, kiên trung” nghĩa là không bao giờ đổi thay, không bao giờ cạn như nước trong suối, thì câu thơ “thuỷ chung son sắt” vừa mang đậm màu sắc so sánh của văn học dân gian, giản dị mà sâu lắng, vừa có sức ngân vang. , thề thốt trước thông điệp nghiêm túc của người ở “… tiễn sông, nhớ nguồn”. cuộc chia tay của nhân dân bắc việt và nhân dân kháng chiến cũng đầy lo lắng, đầy hoài niệm nhưng không muốn thành lễ khi từ biệt trong văn học cổ:

“cùng nhau nhìn lại chẳng thấy xanh mà bạt ngàn quất xanh một màu, lòng tôi buồn hơn ai”

có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa chiến thắng, là cuộc chia tay trong tình yêu và cả niềm vui, niềm tin ngày mai đoàn tụ.

sau lời khẳng khái, trung thành, cảnh hoài niệm là sự trở về của những người con đất Việt trong tâm trí những người đã khuất.

“Còn gì bằng nhớ người thân của mình, trăng lên đỉnh núi, nắng chiều trên lưng gợi nhớ từng sớm sương khói, bếp lửa nơi người thân trở về. rừng bên sông, ngày sông, cây lê bên suối đầy em, anh nhớ những ngày em ở đây, đắng cay ngọt bùi… ”

theo lan vien, thien than cua nguoi noi tieng noi tieng voi nhung cau chuyen tinh cam. ở đây nỗi nhớ viet bac được so sánh với “nỗi nhớ người yêu”, một nỗi nhớ da diết, nồng nàn, tha thiết, mãnh liệt. tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi bạn đi xa, nỗi nhớ lại càng cồn cào. Dường như nỗi nhớ về thiên nhiên những người cách mạng và con người Việt Bắc có lẽ cũng da diết không kém. chủ nhân đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa và lý giải tình cảm của những bức tranh đối với con người. Đó không phải là nỗi nhớ của lương tâm, của nghĩa vụ, mà là nỗi nhớ với tấm lòng yêu thương chân thành, tha thiết. câu thoại “trăng lên đỉnh núi…” dường như chia làm hai nửa thời gian: phần đầu là hình ảnh tượng trưng cho đêm trăng tình yêu; phần thứ hai là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động ngoài đồng. thời gian như chảy ngược: nỗi nhớ như đi từ gần đến xa, sâu vào dĩ vãng. tình yêu gắn liền với công việc; công việc mang lại tình yêu. câu thơ thể hiện cùng lúc hai không gian của tình yêu và công việc, tạo nên sự hài hòa giữa nghĩa vụ và tình cảm. nên cảnh và người trở về đều chứa đầy tâm tư của người đã khuất.

theo từng ca đoàn “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng trong những không gian và thời gian khác nhau. vầng trăng lấp ló trên đỉnh núi, vầng thái dương chói lọi chiếu qua, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, rừng trúc, núi đèo, sông, sông ngày tháng, suối lê để nguôi ngoai nỗi nhớ. . bằng cách liệt kê nó làm cho ký ức mở ra theo từng lớp, hình ảnh này đến hình ảnh khác. hình ảnh “rừng trúc” là nơi gặp gỡ, gặp gỡ như trút hơi thở đầu tiên, khi họ gặp nhau lần đầu. Đây cũng là những danh từ chung gợi tả những nét đặc trưng của không gian Việt Bắc với nhiều vẻ đẹp thơ mộng. và “sông ngòi, sông ngày, suối le” là những mốc son lịch sử, đã khắc ghi vào lịch sử cách mạng, nơi đã diễn ra nhiều chiến công hiển hách. sương mù mờ ảo hư không. nhưng đó là một chuyển động chuẩn bị trong một ánh sáng đặc biệt xuất hiện “trong một giờ sáng sớm, người thân yêu về nhà.” sự đối lập giữa cái lạnh và cái cụ thể ngăn cấm trừu tượng đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào đối với cách mạng thật đáng quý biết bao, chính vì vậy mà chúng ta thương họ, nhớ họ, tiếc thương họ. nhịp thơ nhẹ nhàng, êm ái như đưa người đọc vào những ký ức thoáng qua. Đây là những hình ảnh gần gũi thân thuộc về thiên nhiên và con người mang đậm bản sắc Việt Nam. Ở đây, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “mây trời” mà ấm áp tươi vui. trong thiên nhiên, cuộc sống dường như thực, như mơ và hương vị bình dị, gợi lên nét riêng, độc đáo khác hẳn với bao cánh đồng Việt Nam. Chỉ có những người sống có quan hệ máu mủ ruột thịt với viet bac mới có cái nhìn toàn diện về nỗi nhớ và cảm nhận nó sâu sắc đến vậy. as che lan vien, con trai cung duoc viet bac viết:

“khi tôi ở lại, nó chỉ là một nơi để sống. Khi tôi rời đi, trái đất trở thành linh hồn”

Về bối cảnh thiên nhiên, viet bac cho rằng làn sương mù mờ ảo trong hình ảnh con người chỉ thoáng qua nhưng mang lại sự ấm áp và màu sắc rực rỡ cho khung cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt đoạn, nối liền và không rời, những câu thơ dưới đây tái hiện hình ảnh con người Việt Nam một cách mộc mạc, thân thiện gắn liền với những kỷ niệm của một thời không thể nào quên. viet bac để trở thành người yêu của tác giả và nhân dân kháng chiến.

“Anh đi rồi em nhớ những ngày tháng bôn ba nơi đây đắng cay ngọt bùi”

Cuộc sống của người dân Việt Bắc tuy khó khăn nhưng đầy nghĩa tình. ấm áp biết bao trong ký ức của người kháng chiến trở thành những tháng ngày khốn khó khốn khó. dù khó khăn, dù khó khăn nhưng chúng ta vẫn đoàn kết.

viet bac ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào và chân thành của nỗi nhớ, nhịp điệu cân đối của từng vần thơ, cùng với hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa này đã đánh thức trong lòng người dân ý thức trách nhiệm với đất nước, tình đoàn kết quân dân, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, sự lòng nhân ái, thủy chung của con người cách mạng Việt Bắc, với lời thơ chân chất và giai điệu nhẹ nhàng, là bài ca trữ tình tha thiết, da diết nhất trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

phân tích khổ 4 bài thơ việt bắc – văn mẫu 5

Nỗi nhớ luôn là nguồn cảm hứng, là hình tượng nghệ thuật khơi gợi bao cảm hứng trong tâm hồn bao thi nhân. Đó là nỗi nhớ “tái sinh, bồi hồi” trong ca dao xưa, nỗi nhớ trong “Tình khúc chiều tối” của Xuân Diệu hay “Chín nhớ mười điều ước” trong thơ Nguyễn Bính. đi vào thơ ca, nỗi nhớ mang nhiều sắc thái. và chúng ta cũng thấy trong bài thơ ser, trong bài thơ “viet bac” một nỗi nhớ. nỗi nhớ ấy rất riêng, rất sâu, một nỗi nhớ mà nhà thơ gửi gắm qua từng hình ảnh, ý thơ trong khổ thơ thứ tư của bài thơ.

tou huu là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt là nền thơ ca cách mạng dân tộc. Là một nhà thơ tâm huyết với tài sản văn chương phong phú, đồ sộ, giàu có, ông từng bày tỏ quan điểm rằng: “Muốn có thơ hay thì trước hết phải tạo được tình xác định tầm nhìn và cách nhìn của mình. Tự nguyện dấn thân, chân thành là yêu cầu cao nhất của người nghệ sĩ trong mối quan hệ với đất nước, nhân dân … Tóm lại, làm thơ phải xứng đáng là người lính xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa ” . đọc bài “viet bac” mà ông viết năm 1954, chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng tư tưởng đó của nhà thơ. Trong tác phẩm, khổ thơ thứ 4 của nhà thơ thể hiện niềm mong mỏi của người đã khuất đối với mảnh đất và con người Tây Bắc với nhiều kỷ niệm, đây được coi là đoạn thơ đặc sắc, được nhiều người quan tâm.

những câu thơ của đoạn 4 là nỗi nhớ da diết của những người ở lại:

“- ta với ta, ta và lòng ta, trước sau như một tưởng đã ra đi, ta nhớ về cội nguồn biết bao ân tình thủy chung… mà chẳng nhớ gì như nhớ người tình trăng trên. núi, nắng chiều, nhớ từng làn khói sương sớm và lửa, người thương về quê, nhớ từng cánh rừng, bờ thia, dòng sông ngày tháng, suối lê lấp em, em. nhớ những ngày mình ở đây vừa đắng vừa ngọt… ”

XEM THÊM:  Văn tự sự là gì?Đặc điểm và Cách làm bài văn tự sự

nhà thơ đã lột tả được sắc thái của nỗi nhớ. nỗi nhớ đó là tình cảm chính trị. nỗi nhớ ấy chính là tình cảm thủy chung, biết ơn cội nguồn, biết ơn và gắn bó với đồng bào Việt Bắc. chủ đề chính trị thường bị coi là khô khan, nhưng nhà thơ đã khéo léo gửi gắm nhiều cảm xúc trữ tình vào chủ đề đó. hình ảnh so sánh: “nhớ nhung như nhớ người yêu” vừa đưa cảm xúc lên cao trào trào dâng, vừa bộc lộ nỗi nhớ da diết mãnh liệt. tình đồng chí gắn bó, tình quân dân bỗng chốc mang âm điệu nồng nàn, trẻ trung như tình yêu đôi lứa. trong nỗi nhớ hai nguồn cảm hứng đã cùng hội tụ trong bài ca dao: lưu luyến và chia ly. có lẽ vì vậy mà lời bài hát trở nên nghiêm túc và đầy cảm xúc hơn. chữ “nhớ” ở đầu mỗi câu thơ như một đôi mắt nhìn sâu vào tâm trí “ta” để thấy hình ảnh đất trời, thiên nhiên và con người hiện lên đầy thân thương, thân quen. .

Những ý thơ sau đây đã khéo léo hướng vào nỗi nhớ. nỗi nhớ da diết và dạt dào ấy trở về với khoảnh khắc không gian và thời gian nên thơ, trữ tình. dường như đó là những đêm trăng lên đỉnh núi, những buổi chiều lắng đọng trên lưng mẹ, như không gian tán tỉnh của lứa đôi. Trong tâm trí của những người đã khuất, hình ảnh nghĩa tình của Việt Nam không chỉ hiện lên trong sương mù mà còn xuất hiện trong những giờ sớm khuya, bóng dáng của người thân bên bếp lửa. bếp lửa, hình ảnh ấy gợi lên khung cảnh quê hương Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân yêu. “Hòn non bộ, sông ngày, suối le” là những địa danh gắn liền với dấu chân cách mạng. dường như sự đầy ắp của sông suối cũng là sự đong đầy của lòng người, của một nỗi nhớ cồn cào trong tâm trí những người đã khuất. không chỉ về những địa danh cách mạng, nhà thơ còn kể tiếp về những kỷ niệm đẹp, đáng nhớ của cuộc đời trong cuộc kháng chiến. những hình ảnh thân thương, cảm động về sự trao đổi ấm áp “bát cơm chung nửa”, “đắp chăn”, “chung củ sắn” đã gợi lên tình cảm sâu nặng, tình đồng chí, cùng khổ, cùng nhau sẻ chia gian khổ của người Việt Bắc. . trong những ngày tháng gian khổ, khắc nghiệt của cuộc kháng chiến. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học”, “tiếng ca vang vọng trên đỉnh núi”, “tiếng chày đập cối trong đêm” đưa tâm trí người đọc đến một ký ức kháng chiến khác là thời bình. , những khoảnh khắc vui vẻ bắt nguồn từ niềm hạnh phúc, sự lạc quan mang tính cách mạng.

câu thơ là những cung bậc cảm xúc khác nhau của cuộc đời đi kháng chiến, biết bao kỷ niệm đã đọng lại trong tâm trí và trí nhớ của những người đã khuất. đó là những dấu chân không bao giờ phai mờ, là những lối đi thân quen mãi mãi ghi nhớ và trân trọng. Cảm nhận được những cảm xúc và hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ, chúng ta hiểu rằng đó cũng là những tâm tư, tình cảm riêng của nhà thơ, chúng ta cùng chia sẻ những cảm xúc đó với nhà thơ.

phân tích khổ 4 bài thơ việt bắc – văn mẫu 6

“viet bac” là một bản hùng ca và cũng là một bản hùng ca về cách mạng. đoạn thơ nói lên tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với người cán bộ cách mạng. Trong bài thơ, nổi bật là khổ thơ thứ 4 thể hiện nỗi nhớ da diết về con người và thiên nhiên, con người Việt Bắc trong những năm kháng chiến:

“- ta với ta, ta và lòng ta, trước sau ngỡ như ra đi, ta nhớ mình nơi cội nguồn biết bao ân tình… nhớ không gì bằng nhớ người tình trăng trên đầu núi, nắng chiều, nhớ từng làn khói sương sớm và lửa, người về quê nhớ từng rừng tre, bờ thia, dòng sông ngày, suối lê đầy mình, ta nhớ những ngày. chúng tôi đã ở đây, chúng tôi vừa cay đắng vừa ngọt ngào… ”

Để đổi lấy sự ưu ái của người ở lại, lời nói của người ra đi cũng nghiêm túc không kém. “Tôi” và “tôi” dường như hợp nhất thành một thể thống nhất và không thể tách rời. người đã khuất khẳng định với những người ở lại rằng “lòng ta luôn mãn nguyện”. hai chữ “phòng ăn” dường như đã đóng đinh vào lòng người đọc một tấm lòng son sắt, thủy chung son sắt trước sau như một. Đó là một tình cảm rất thiêng liêng và cao quý. dù hôm nay chia tay nhau để về miền xuôi nhưng lòng người ra đi vẫn không thay đổi. Với việc sử dụng hình ảnh so sánh “bao nhiêu nước, bấy nhiêu tình” cho thấy tình cảm luôn dạt dào, đong đầy.

Tiếp theo, nỗi nhớ của người cán bộ, chiến sĩ đối với đồng bào Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ người yêu. hình ảnh so sánh độc đáo vì ở đó nỗi nhớ da diết, da diết như nỗi nhớ của những người đang yêu. các bài hát nổi tiếng cũ thường nói:

“hãy nhớ một người phấn khích như đứng bên đống lửa như ngồi trên đống than”

có:

“nhớ ai ngoài ý muốn, ai nhớ ai?

Qua đây mới thấy được tình cảm sâu nặng của các chiến sĩ cách mạng và đồng bào miền bắc. Dù không xa nhau nhưng họ vẫn luôn nhớ về nhau bằng cả trái tim. đoạn thơ sau chia làm hai đoạn: “trăng lên đỉnh núi” – gợi thời gian tán tỉnh của đôi lứa yêu nhau và “chiều tà” – gợi không gian lao động của người Việt Bắc. bài thơ dường như gợi lên một cuộc sống lao động đầy yêu thương và gắn bó.

những người đã khuất tiếp tục nhớ lại những kỷ niệm trong cuộc sống hàng ngày với người dân Việt Bắc. nỗi nhớ về thị trấn ẩn hiện trong sương mù. Hình ảnh “bếp lửa sớm khuya” gợi lên một miền Bắc Việt Nam ấm áp, thân thương của “bếp lửa”. cụm từ “nhớ từng” cho ta cảm giác nhà thơ đang lật giở từng trang kí ức, nhà thơ đã liệt kê những địa danh “sông ngày, suối le” cùng với hai từ “đong đầy” để khép lại bài thơ gợi lên bao kỉ niệm thân thương. . : bao nhiêu thuỷ chung, bấy nhiêu kỉ niệm đong đầy, bấy nhiêu tình cảm ấm áp ngọt ngào. cuối cùng với câu “ta đi rồi ta sẽ nhớ…” là lời tâm sự chân thành và lời nhắn nhủ thiết tha của người đã khuất dành cho người ở lại hoặc của những người cách mạng đối với mảnh đất Việt Bắc anh hùng, câu “Ta đây và đó … “kết hợp với” đắng và ngọt “nhấn mạnh tình cảm sâu sắc.

Với khổ thơ này, người bạn đã thể hiện nỗi nhớ nhung của người đã khuất đối với những người đi trước, những kỉ niệm trong cuộc đời kháng chiến sẽ còn mãi trong tâm trí của cán bộ, chiến sĩ.

phân tích khổ 4 bài thơ việt bắc – văn mẫu 7

Đến với bài thơ “Việt bắc” của nhà thơ, người đọc sẽ cảm nhận được tình cảm thắm thiết giữa nhân dân Việt Nam và những người chiến sĩ cách mạng. và điều đó được thể hiện rất sâu sắc trong khổ thơ thứ tư của bài thơ.

Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồi hồi, xao xuyến. tất cả những điều này đã đánh thức nhiều kỷ niệm khó quên trong tâm trí người lính. cảm giác ấy khiến cuộc chia ly trở nên dịu dàng và lưu luyến hơn bao giờ hết. nó như một sợi dây kéo con người ra vào. Mười lăm năm dài đã gắn kết mọi người lại với nhau. họ đã sống cùng nhau, cùng nhau trải qua bao khó khăn vất vả, cùng nhau chia sẻ miếng cơm manh áo, để đến lúc chia tay, cảm xúc trào dâng thành lời:

“Tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, chúng tôi luôn hài lòng”

Lúc này, “tôi và tôi” – “tôi và tôi” dường như hòa làm một, cộng hưởng với nhau thành một khối thống nhất và không thể tách rời. hai chữ “ding” như một lời khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người đã khuất dành cho những người còn lại. đó là tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì thay thế được dù thời gian có trôi qua, hay khoảng cách về không gian. nếu nguồn và nước dồi dào, thì ta có lòng yêu thương mình sâu sắc: “nguồn nước bao nhiêu, tình bấy nhiêu”. phép tu từ kết cấu kết hợp với phép điệp ngữ đặt ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người đã khuất không quên hình ảnh nào trong đất Việt, trong thiên nhiên đất nước và con người nơi đây. .

sự khao khát đó được so sánh khéo léo với sự khao khát có được một người yêu:

“nhớ gì bằng nhớ người thương, trăng lên đỉnh núi, nắng chiều về sau lưng”

Những cách so sánh như vậy giúp người đã khuất thể hiện được tình cảm sâu nặng, thắm thiết đối với đồng bào Việt Bắc. Tình quân dân bỗng khăng khít như tình yêu đôi lứa.

Ở dòng tiếp theo, nhà thơ hướng đến đối tượng của nỗi nhớ:

“nhớ từng làn khói sương sớm mai người thương từ bếp lửa về. Nhớ từng cánh rừng bên sông, ngày sông, lạch lê đầy mình, nhớ những ngày qua ở đây vừa đắng vừa ngọt … “

nhà thơ đã khéo léo chỉ ra đối tượng của nỗi nhớ. nỗi nhớ về một không gian, hay một thời xác định đầy thi vị, trữ tình. chúng là những “đêm trăng trên đỉnh núi”, là “nắng chiều trên lưng núi” gợi không gian và thời gian cho sự tán tỉnh của đôi lứa yêu nhau. Trong tâm trí của những người đã khuất, hình ảnh nghĩa tình của Việt Nam không chỉ hiện lên trong sương mù mà còn xuất hiện trong những giờ sớm khuya, bóng dáng của người thân bên bếp lửa. “bếp lửa”: hình ảnh gợi lên khung cảnh mái nhà ấm cúng nơi người Việt Bắc hiện ra trong bóng dáng những người thân yêu chan chứa tình cảm. họ dường như đã trở thành gia đình, người thân của “người đã khuất”. bên dưới là các địa danh: “sông ngòi, sông ngày, sông nước”, những địa danh gắn liền với dấu chân cách mạng. dường như sự đầy ắp của sông suối cũng là sự đong đầy của lòng người, của một nỗi nhớ cồn cào trong tâm trí những người đã khuất. Để rồi, người ra đi như muốn khẳng định một lần nữa: “Anh đi rồi, em nhớ …” Đó là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ nghiêm túc của người ra đi với người ở lại, từ những cách mạng với người ở lại. Đất Việt anh hùng, cụm từ “ta đây mai đó …” kết hợp với “ngọt bùi, đắng cay” càng nhấn mạnh tình cảm sâu nặng.

Trong cuộc đời ấy, người ra đi và người ở lại đã “chia ngọt sẻ bùi” – đã cùng nhau trải qua bao nhiêu đắng cay ngọt bùi. với hàng loạt hình ảnh gợi lên sự sẻ chia ấm áp của tình quân dân mà như tình gia đình: “Cơm tấm chia nửa”, “chăn có su”, “sẻ về củ sắn”. họ đã cùng nhau chia sẻ những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những khó khăn gian khổ, họ đã giúp đỡ nhau trong những năm kháng chiến gian khổ, gian khổ.

Tóm lại, đọc khổ thơ thứ tư của bài thơ Việt Bắc, người đọc có thể thấy một nỗi nhớ da diết của người đã khuất đối với những người ở lại trước cuộc chia tay đầy luyến tiếc này.

phân tích khổ 4 bài thơ việt bắc – văn mẫu 8

Trong suốt cuộc đời hay thơ ca, các nhà thơ luôn mang đến cho người đọc những tác phẩm đậm chất chính luận và trữ tình. Đến với đoạn trích “Việt Bắc”, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm mà người miền xuôi dành cho đồng bào bị bỏ lại trong ngày chia tay. Nhớ lại những tình cảm chân thành ấy, người qua đường đã có những dòng gợi nhớ lại cảnh vật thiên nhiên và con người Việt Nam qua khổ thơ trước.

Con người và thiên nhiên Việt Nam, dù trong công việc hay trong chiến đấu, luôn có sự gắn bó hài hòa với nhau. khổ thơ trên thể hiện vẻ đẹp của hình ảnh bốn miền đất nước Việt Nam, nơi thiên nhiên và con người có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. bức tranh thiên nhiên được mở ra từ nỗi nhớ

“Anh về rồi, anh nhớ tata về, nhớ hoa bên em”

nỗi nhớ của nhà thơ đã được tái hiện một cách chân thực và chân thực. cảnh và người luôn có sự giao hòa, gắn bó với nhau. vì vậy, nỗi nhớ mà tác giả gửi gắm vừa là nỗi nhớ thiên nhiên, vừa là nỗi nhớ về những con người Việt Nam chất phác nhưng nhân hậu.

cảnh thiên nhiên việt bắc được tái hiện trong nỗi nhớ của nhà thơ như một bức tranh tứ bình bắt đầu. hình ảnh thiên nhiên có màu sắc, đường nét, âm thanh gợi cả một miền hoài niệm. khung cảnh thật bình dị nhưng gợi lên sự gần gũi, thân quen. thường theo quy luật: xuân, hạ, thu, đông, xuân phải là nơi bắt đầu của nỗi nhớ. nhưng nhà thơ đã chọn cách mở ra nỗi nhớ bằng hình ảnh đại diện cho mùa đông

“rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, bước cao trong nắng có ánh dao thắt lưng”

Kí ức của tác giả ùa về trong giờ phút chia tay. làm sao quên được hoàn cảnh lịch sử mùa đông năm 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân kháng chiến. hình ảnh mùa đông việt bắc được thể hiện bằng màu xanh ngút ngàn của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối như những ngọn đuốc sáng trên nền xanh. Vì vậy, mùa đông ở Việt Nam không còn lạnh giá mà luôn ấm áp và tràn đầy sức sống. hình ảnh con người Việt Nam cần cù, hăng say trong lao động cũng được tác giả thể hiện một cách vô cùng tinh tế. hình ảnh người Việt Bắc lên rừng làm nương, những hình ảnh thơ tạo nên ý nghĩa về hình ảnh con người lao động và chế ngự thiên nhiên.

hình ảnh mùa xuân ở việt bắc đã được dòng ký ức ghi nhớ:

“Ngày xuân rừng nở trắng xóa nhớ người đan nón, chuốt từng sợi”

không gian mở rộng trở lại. hình ảnh những ngọn đồi hoa mai nở trắng. sắc trắng mang đến sự thuần khiết, sinh sôi của vạn vật đã lan tỏa khắp núi đồi. cảnh thiên nhiên gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác thơ mộng, sầu muộn. tiết xuân là khoảng thời gian vận động suốt bốn mùa, gợi lên sự sinh sôi, nảy nở. thiên nhiên việt bắc rất nên thơ và trữ tình. Gắn liền với thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng hiện lên thật đẹp. từ “chải chuốt” gợi lên sự tỉ mỉ, cần cù, chịu khó của người dân nơi đây trong việc đảm nhận công việc.

Mùa xuân đã qua nhường chỗ cho mùa hè:

“tiếng ve kêu rừng kêu vàng, nhớ chị hái măng một mình”

hình ảnh gợi lên nhận thức của người đọc cả về thị giác và âm thanh. âm thanh quen thuộc gợi lên sự xuất hiện của mùa hè là “cic”. đồng điệu với nó là màu vàng ngút ngàn của rừng hổ phách, từ “đổ” gợi sự phân bố màu sắc đồng đều, rộng khắp. hình ảnh ấy được hiện lên với vẻ đẹp tráng lệ, ánh lên sắc vàng của nắng hè. khung cảnh thiên nhiên vừa đẹp vừa lãng mạn bởi có bóng dáng của một thiếu nữ. đọc những vần thơ ta cảm nhận được sự ngọt ngào, mềm mại, dịu dàng của người con gái Việt Bắc. cô gái đi hái măng cất rừng trúc trong tiếng nhạc rừng “một mình” nhưng không cô đơn. thiên nhiên và con người đã hòa quyện và tô điểm cho nhau.

cảnh đêm trăng thu huyền ảo, thơ mộng, trữ tình, nên thơ là khổ cuối của bài thơ:

“rừng thu trăng soi hòa bình, ai nhớ khúc ca thủy chung”

Không gian mở ra tràn ngập ánh trăng thanh bình, ánh trăng ấy soi sáng núi rừng chiến khu. Dưới ánh trăng nhẹ nhàng, đâu đó ngân nga câu hát “tình yêu” khiến lòng người xao xuyến. bài hát là tiếng nói của trái tim, bộc lộ tâm hồn thủy chung, biết ơn của người Việt Nam.

Có thể nói đây là một trong những khổ thơ đặc sắc nhất của đoạn trích. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được miêu tả chân thực, rõ nét, có sự kết hợp nhuần nhuyễn. bản chất con người luôn hòa quyện không tách rời. mỗi câu thơ là một khung cảnh với những gam màu tươi sáng.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích bài thơ việt bắc khổ 4. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *