Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
541 lượt xem

Phân tích bài thơ việt bắc khổ 7

Bạn đang quan tâm đến Phân tích bài thơ việt bắc khổ 7 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích bài thơ việt bắc khổ 7

Cảm nhận đoạn thơ thứ 7 của bài ca dao Việt Bắc mang đến dàn ý và 9 bài văn mẫu hay nhất. Thông qua tài liệu này, giúp các bạn học sinh lớp 12 có thêm gợi ý ôn tập và nâng cao kỹ năng viết văn của mình.

phân tích câu 7 của viet bac g ta thấy một hình ảnh đẹp về thiên nhiên và con người ở chiến khu. viet bac là khúc hùng ca, khúc tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến, của quân và dân ta. nó cũng nhắc nhở chúng ta về lòng trung thành và ân nghĩa của cách mạng và nhân dân Việt Nam. vì vậy đây là 9 bài văn mẫu hay, mời các bạn đón đọc.

nêu cảm nghĩ của khổ thơ thứ bảy của bài ca dao Việt Nam

i. giới thiệu:

– giới thiệu tác giả, tác phẩm

– đoạn trích giới thiệu

ii. nội dung:

* hai câu đầu: nỗi nhớ mang tính khái quát.

<3

– trong nỗi nhớ của người, hoa và người là hai hình ảnh vừa tồn tại vừa phản chiếu lẫn nhau. hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên; con người là sản phẩm tuyệt vời của thiên nhiên. do đó, khi nhớ ai thì hoa nở, khi nhớ hoa thì bóng người hiện ra, hàm ý ngợi ca vẻ đẹp của người ở lại.

* tám câu sau: hình ảnh thiên nhiên Việt Nam phong phú, tươi sáng, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa:

– trước hết là hình ảnh mùa đông với “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”:

– mùa đông hiện lên trong một màu lạnh – cái nền tĩnh lặng xanh tươi của rừng già gợi lên một miền quê yên bình, tĩnh lặng, xa xôi… trên cái nền lạnh lẽo ấy, một dải màu hiện lên. hơi ấm của “hoa chuối đỏ tươi” (ở đây có thể liên tưởng: màu đỏ của hoa chuối gợi ý nghĩa tượng trưng cho màu đỏ của cách mạng mới hồi sinh, như xua tan đi cái lạnh cổ thụ của núi rừng mùa đông. .).

– bên dưới là hình ảnh mùa xuân với “hoa mơ trắng trong rừng” – mùa xuân ngập tràn sắc trắng của hoa mơ gợi lên sự ngọt ngào, thuần khiết và ước mơ của tạo hóa. hai từ “trắng rừng” như làm bừng sáng cả núi rừng, đây là một hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng lại mang ý nghĩa tượng trưng: gợi lên vẻ đẹp thuần khiết trong tâm hồn của người dân Bắc Việt. Có thể nói, màu trắng của hoa mai là màu đặc trưng của núi rừng Việt Nam.

– hình ảnh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ của người lữ khách không chỉ có màu sắc, đường nét, ánh sáng mà còn có âm thanh vang dội của tiếng ve gọi hè: “tiếng ve kêu rừng phách…”. Khi mùa hè đến, rừng hổ phách nhuốm màu, sống ở Việt Nam, người ta thường có cảm giác bùi ngùi trước cảnh đẹp lạ lùng của rừng hổ phách: những ngày cuối xuân, những nụ hoa còn ẩn hiện trong kẽ lá. khi ve sầu ríu rít nở thành những chùm hoa vàng rực. cách sử dụng từ “thu” khá tinh tế, nhấn mạnh sự nhanh chóng đột ngột của sự chuyển mình của lá, nó thể hiện sức mạnh của cơn mưa hoa vàng khi gió thổi, tiếng ve kêu mùa hè.

– Bộ tranh bốn mùa kết thúc bằng hình ảnh mùa thu: một đêm thu với ánh trăng soi qua tán lá tạo nên một khung cảnh huyền ảo. cảnh này thích hợp để bộc lộ tâm tư thầm kín để bộc lộ nỗi niềm thầm kín cho đoạn kết của những bản tình ca. đoạn thơ gợi không khí thanh bình, êm ả, báo hiệu cuộc sống thanh bình bắt đầu. câu thơ còn gợi lên sự giao hòa giữa thiên nhiên (rừng thu), vũ trụ (trăng) với cuộc sống thanh bình, vui tươi trong sự đồng điệu của những tấm lòng nhân hậu giữa người ra đi và người ở lại.

* hình ảnh con người Việt Nam:

– cùng với nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. con người là hình ảnh luôn đan xen, hòa quyện và hòa hợp với thiên nhiên. sau mỗi câu thơ về hoa là câu ca dao nói về con người. con người rất gắn bó với thiên nhiên, điều này làm cho thiên nhiên bớt hoang sơ và chuyển động hơn. giữa thiên nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình dị, duyên dáng và luôn gắn bó với công việc:

– hình ảnh con người ở mùa đông hiện lên với tư thế kiêu hãnh và tư thế “thắt lưng buộc bụng”; mùa xuân gắn liền với bàn tay dịu dàng, cần cù của người con gái “nắm lấy từng sợi sông” (bức tranh như một thước phim quay chậm, không chỉ giúp người đọc thấy rõ từng đường nét, dáng vẻ, động tác của người lao động) . hành động mà còn thấy được những suy nghĩ chín chắn, thận trọng và tỉ mỉ trong từng tác phẩm).

– hình ảnh “cô gái hái măng một mình” trong mùa hè gợi lên sự cần cù, chịu khó, nhẫn nại, đồng thời gợi không gian bao la, bát ngát của núi rừng Việt Nam.

– Thương nhớ người Việt Bắc, người về vẫn nhớ câu “tình ca chung thủy”. đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người lao động miệt mài, âm thầm mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời.

iii. kết luận:

– tóm tắt vấn đề.

cảm nhận khổ thơ tiếng việt thứ 7 – văn mẫu 1

“viet bac”: bài thơ lục bát mang tầm vóc sử thi dài 150 dòng, cảm xúc dạt dào dạt dào. bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, người bạn thể hiện một cách nồng nàn tình yêu đối với đất nước Việt Nam, với cách mạng và cuộc kháng chiến.

dòng mười câu sau đây, từ dòng 43 đến dòng 52 của bài thơ “viet bac” cho thấy nỗi nhớ quê hương sâu nặng như thế nào:

<3

Hai câu thơ đầu là câu hỏi và câu trả lời của “ta”, từ bức tranh của cuộc kháng chiến trở về và hỏi “có nhớ ta không?”. dù đi rồi về, ở xa nhưng lòng ta vẫn lưu luyến viet bac: “Anh về rồi em nhớ hoa với anh”. chữ “ta”, chữ “nhớ” được chép lại để thể hiện tấm lòng trung thành. nỗi nhớ ấy hướng về “hoa và người”, hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Nam thân yêu:

“Anh về rồi, em nhớ mình, anh về rồi, anh nhớ hoa với em.”

hai từ “ta – ta” xuất hiện với tần suất cao trong bài thơ, cũng như trong hai câu thơ này đã thể hiện rất đẹp tình yêu đôi lứa trong câu chuyện tình yêu Việt – Bắc. nồng nàn như bản tình ca ngày xưa. đó là giọng điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ của hu.

tám dòng tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên nỗi nhớ cụ thể về một cảnh vật cụ thể, một con người cụ thể trong 4 mùa đông xuân, hạ, thu.

nhớ mùa đông, nhớ màu “xanh” của núi rừng việt bắc, nhớ màu “đỏ tươi” của hoa chuối như ngọn lửa soi rừng xanh. nhớ những con người ra đồng “dao găm” trong tư thế mạnh mẽ, anh dũng hiên ngang trên đèo cao “nắng…”. ca dao của người đi đồng phản chiếu “mặt trời” rất gợi cảm:

“rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi; bước cao dưới nắng có ánh dao trên thắt lưng.”

màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, màu sáng của “mặt trời” của ca dao; những màu sắc đó hòa quyện với nhau làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên việt bắc, của con người việt nam đang làm chủ thiên nhiên, thống trị cuộc sống trong cuộc kháng chiến. Tác giả đã có một cái nhìn sâu sắc về sức mạnh tinh thần của tập thể nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. những người lao động sản xuất anh dũng đứng trên “đèo cao” ngập nắng gió. khi đám đông đổ xô đến chiến dịch, “các bước bị nghiền nát và ngọn lửa sẽ bay.” người lính ra trận mang sức mạnh bất khả chiến bại của thời đại mới:

“ngọn núi không thể nâng đỡ bờ vai tôi để chạm tới những tấm vải ngụy trang cộng hưởng với tiếng gió thoảng qua”.

(“về phía tây bắc”)

Nhớ ngày xuân ở Việt Nam là nhớ đến hoa mai “nở trắng rừng”. từ “trắng” là tính từ chỉ sự chuyển màu từ loại để bổ nghĩa “nở trắng rừng”, gợi lên một thế giới hoa mai bao trùm khắp cánh rừng Việt Nam trong màu trắng tinh khôi và bao la. cách sử dụng từ ngữ khéo léo của anh huu gợi cho chúng ta nhớ đến dòng văn của Nguyễn Du miêu tả một mùa xuân thơ mộng trong “truyện kiều”:

“cỏ xanh đến tận chân trời, cành lê trắng điểm vài bông”.

nhớ “mơ rừng nở trắng”, nhớ người thợ dệt nón “chuẩn bị từng sợi”. “mềm” có nghĩa là chiếu lên những sợi mảnh. Chỉ có sự khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể “se từng sợi chỉ” đan những chiếc nón, chiếc nón phục vụ kháng chiến, để người lính chiến dịch có “sao súng, nón lá”. người thợ dệt nón được nhà thơ nhắc đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, sáng tạo của con người Việt Bắc. mùa xuân việt nam thật đáng nhớ:

“mơ ngày xuân nở trắng rừng, nhớ người đan nón, chuốt từng sợi tơ”.

Nhớ đến viet bac là nhớ mùa hè với tiếng ve cất lên tiếng nhạc rừng, nhớ màu vàng của rừng phách, nhớ người thiếu nữ “hái măng một mình” giữa những khóm trúc, bần và cây tre. :

“câu trích rừng kêu vàng, nhớ em gái hái măng một mình.”

một “cú đổ” khéo léo. tiếng ve rơi “tràn” xuống giục giã ngày hè qua nhanh, khiến rừng càng thêm vàng rực. Xuân điệu cũng có câu thơ dùng từ “đổ” để gửi gắm tâm tình tương tự: “rót ngọc trời qua kẽ lá…” (thơ duyên – 1938). dòng thơ “nhớ chị hái măng một mình” là một dòng thơ độc đáo, giàu âm điệu và vần điệu. vần lại: “gái” vần với “gái”. nó có sự ám chỉ thông qua các phụ âm “m”: “xoài – một – tôi”. đó là những vần thơ nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp đẽ, vui nhộn, tràn ngập âm thanh. Người “chị thu tre một mình” vẫn không cảm thấy đơn độc, bởi chị đang lao mình giữa tiếng nhạc rừng, góp sức “nuôi quân” ​​phục vụ kháng chiến. cô gái hái măng là một bài thơ trẻ trung và yêu đời.

<3

“rừng thu, trăng soi bóng hòa mình nhớ khúc ca tình thủy chung.”

trăng xưa “hạt vàng tưới sân bóng lồng”. trăng việt bắc trong thơ bác Hồ là “trăng cổ thụ lồng hoa”. khi người cán bộ kháng chiến trở về quê hương, họ nhớ đến vầng trăng rừng thu Việt Bắc, vầng trăng “soi” qua tán lá xanh của rừng, màu trăng “thanh bình” trong lành, mát mẻ, thơ mộng. “ai” là đại từ nhân xưng phù phiếm, “nhớ ai” có nghĩa là nhớ mọi vật, đặc biệt là dân tộc Việt Nam giàu lòng trung nghĩa, thủy chung đã hy sinh cho cách mạng và kháng chiến.

Bài thơ trên chứa chan tình cảm. niềm khao khát bồi hồi dường như thấm sâu vào cảnh vật, vào lòng người, khi người về lại nhớ mình, nhớ mình. tình yêu ấy thật sâu đậm, bao nỗi niềm chung thủy. Năm tháng sẽ trôi qua, những bài ca về tình yêu thủy chung ấy sẽ còn mãi như một vết son đỏ thắm in sâu vào lòng người.

Bài thơ mang vẻ đẹp của một bức tranh tứ bình, đậm đà phong vị dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 năm 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng – tou hu cũng thể hiện nỗi nhớ đất nước Việt Nam qua bốn mùa: đông – xuân – hạ – thu, sau dòng chảy của câu chuyện. mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng tràn đầy sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của hổ phách rừng, màu xanh trắng thanh bình. Chất thơ của Việt bac trong thơ rất duyên dáng và mang vẻ đẹp cổ điển. những người được nhắc đến không phải là ngư, tiều, canh, bụt mà là người lên đồng, người đan nón, người em gánh tre, người hát nghĩa tình thủy chung. tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống, nhẫn nại, khéo léo, tài hoa, tuổi trẻ lạc quan, yêu đời, nhân hậu, trung thành với cách mạng, bền bỉ.

một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết làm sống dậy tâm hồn người đọc. nỗi nhớ được nhắc đến trong “viet bac” cũng như trong đoạn thơ này thể hiện một nét đẹp trong phong cách thơ: trữ tình dân tộc và dân tộc, màu sắc cổ điển và hiện đại được kết hợp một cách hài hòa.

hình ảnh đẹp, phong phú và gợi cảm. một không gian nghệ thuật tràn đầy sức sống, với đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, kết cấu hài hoà, để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn ta như lời Bác Hồ đã viết: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay…”.

thơ chân chính “là một hình tượng, một hình tượng con người…, từ cái hữu hình nó đánh thức cái vô hình bao la” (nguyễn tuân). đoạn thơ trên đã gợi lên trong lòng chúng ta tình yêu đất nước, niềm tự hào về đất nước và con người việt nam. bài thơ “ngân mãi khúc điệp”, để ta thương, ta nhớ tình việt bắc, tình yêu thời kháng chiến.

cảm nhận câu thơ thứ 7 của bài ca dao việt nam – văn mẫu 2

Lịch sử dân tộc có nhiều trang viết bằng thơ. một trong những trang viết tiêu biểu đó là nhà thơ Tố Hữu, một nhà thơ lớn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. ta thấy điều đó trong thơ ca về con đường cách mạng của dân tộc. Những sự kiện, dấu mốc trong lịch sử Việt Nam hơn nửa thế kỷ, từ ngày Đảng ra đời đến chiến thắng mùa Xuân năm 1975, đều được Người ghi lại bằng những ca từ cách mạng nồng nàn. viet bac là một trong số đó. Bài thơ ghi lại sự kiện đảng và nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong bài thơ của mình, tác giả đã thể hiện được tình cảm chân thành của người đi, kẻ về, thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả về thiên nhiên và con người Việt Bắc. điều này được thể hiện rõ ràng trong bài thơ:

khi về lại nhớ mình, về thì nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng vàng thắt lưng, ngày xuân mơ nở. trắng rừng nhớ người đan nón đan từng sợi. Giangve gọi rừng đổ vàng. cô gái hái măng một mình trong rừng thu, trăng soi trong bình yên, ai nhớ câu hát ân tình thủy chung

bài thơ là hình ảnh đất nước Việt Nam bao trùm bốn mùa và chứa đựng nỗi nhớ da diết, cũng như thể hiện tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng cũng như những bức tranh nói chung đối với đất nước Việt Nam.

p>

Hai dòng đầu của bài thơ là những câu hỏi và câu chuyện của người đã khuất, muốn biết lòng người như thế nào và bày tỏ nỗi lòng của chính mình. Tám câu sau thể hiện chất thơ Việt Bắc và tình người Việt Bắc qua lời kể của thuật sĩ. mùa đông đầu tiên hiện ra với những bông hoa chuối đỏ tươi trên nền rừng xanh thẫm của buổi hoàng hôn và hình ảnh những người lao động vui vẻ. tiếp đến là mùa xuân trắng sáng mộng mơ và hình ảnh người đan nón. rồi mùa hè đến, tràn ngập màu vàng của rừng và đầy tiếng ve. con người lại hiện lên hình ảnh cô gái một mình hái măng. kết thúc là khu rừng mùa thu đầy ánh trăng và không gian đầy khúc ca. cứ một câu thơ tả thiên nhiên thì có câu thơ tả con người, con người hòa mình với thiên nhiên nhưng không chết chìm trong thiên nhiên và luôn ở trong tư thế hoạt động và làm việc của con người.

Có thể nói, đây là bài thơ có nhiều nghệ thuật tinh tế, cảm xúc chân thực, xứng đáng là bài thơ hay nhất Việt Nam. Ngay từ câu mở đầu, lời nói của người nói đã có sức truyền cảm đặc biệt nhờ sự giản dị chân thực. bài thơ như một câu nói bình thường nhưng lại rất chân thành lay động lòng người. thật đơn giản nhưng thật cảm động, thể hiện mong muốn của người hỏi muốn biết tình cảm của người kia dành cho mình, cũng như một lời cầu chúc: hãy nhớ đến anh! Như để thử lòng mình, người hỏi cung kể lại một loạt kỷ niệm về cảnh và người:

Khi tôi trở lại, tôi nhớ những bông hoa với bạn

Cái hay của câu thơ là hình ảnh của hoa với con người, bởi con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa của cuộc đời. hình ảnh tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người tôn vẻ đẹp của nhau. Bốn câu sáu phần tám sau đây gợi tả hình ảnh bốn mùa bằng những hình ảnh, màu sắc tươi tắn, âm thanh náo nhiệt. Dù là mùa đông hay mùa hè, mùa xuân hay mùa thu, chúng đều là những gam màu tươi vui. màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh. màu trắng của hoa mai và màu vàng của rừng hổ phách càng tô thêm vẻ rực rỡ của thiên nhiên một cảm giác êm đềm, thơ mộng và bình yên cho con người. tất cả những dòng đó vẽ nên một bức tranh tứ bình đặc trưng bởi những ca từ mượt mà. nhưng nếu chỉ là hình ảnh thì chưa đủ vì thiếu đi những âm thanh tự nhiên của tiếng việt: ta về nhớ hoa thương người, không thiếu tiếng ve, còn có tiếng ve kêu mùa hạ. và bài hát của con người. . tác giả đã chọn tiếng ve là một phương án hợp lí và tiêu biểu. Bởi vì ở Việt Nam, khi nhắc đến ve là người ta nghĩ ngay đến mùa hè. Tiếng kêu bình thường nhưng là âm thanh tượng trưng cho mùa hè với màu vàng đặc trưng của Việt Bắc, tạo nên sự kết hợp đặc biệt giữa thính giác và thị giác, làm cho hình ảnh mùa hè có nét riêng. . Phải chăng, dụng ý của tác giả là cho dù ở đâu sau này, nghe tiếng ve kêu, ai cũng có thể liên tưởng và nhớ đến viet bac? đó là bản chất của việt bắc, chỉ trong vài câu thơ đã lột tả hết được bản chất và nét riêng độc đáo với những cảnh sắc và âm thanh được chọn lọc một cách khéo léo.

Trên nền thiên nhiên tươi đẹp này, mọi người xuất hiện trong tư thế năng động và tràn đầy năng lượng. bốn câu nói về con người cũng rất ý nhị và giàu cảm xúc. tác giả phác họa một cách chọn lọc những hình ảnh mơ hồ nhưng đầy sức gợi về người lao động. Đó là hình ảnh người dân ra đồng, đan nón, thu nan tre, kín đáo hơn là hát then khi làm việc hoặc trong đêm sinh hoạt văn nghệ. hình ảnh con dao thắt lưng rất điển hình khỏe khoắn, tươi vui. “nắng” như tiếp thêm sức sống cho con người chứ không còn khắc nghiệt. nhớ lại hình ảnh người dân đan nón, tác giả gián tiếp bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng góp của người Việt Nam trong công cuộc kháng chiến. một cách kín đáo và tế nhị! kỉ niệm về người em gái hái măng thật xúc động vì cách dùng từ “chị” đầy trìu mến. Ngoài ra, khung cảnh thiên nhiên tươi sáng, đẹp đẽ, đầy âm thanh và màu sắc tươi sáng. cuối cùng, nỗi nhớ của bài hát khiến người đối thoại của tác giả gọi “ta” cũng như người đọc với cảm xúc thực sự. bởi tiếng hát xuất phát từ tâm hồn và tiếng hát “tình yêu thủy chung” theo người đi là kỉ niệm, là tình cảm dịu dàng và bền lâu. bài hát đó cũng là linh hồn của tác giả.

Chủ sở hữu có biệt tài trong việc chọn hình ảnh và điều phối ánh sáng. anh ấy có một tâm hồn nhạy cảm và có khả năng truyền cảm xúc của mình cho người khác. như chỉ với hai câu thơ:

Ba Lan thân yêu, mùa tuyết đang tan. con đường bạch dương phủ đầy sương trắng.

tâm hồn nồng nàn, mạnh mẽ nhưng cũng rất sâu sắc, thủy chung. với lẽ phải, chính trị là cội nguồn chân chính của thơ ca, anh say mê sống với lí tưởng cách mạng và với niềm tin chân chính, anh muốn đem lí tưởng đó đến với mọi người, anh thực hiện bằng chính tài năng thơ ca của mình. đáng tiếc là những tập thơ sau này của ông như ir a la tourist, sangre y flores đã trở nên có phần khô khan, đôi khi mang đậm tính triết học và giáo điều. tuy nhiên, câu thơ chúng ta vừa phân tích là một bằng chứng hùng hồn cho tài năng sáng tạo của ông. với tôi, bài thơ thực sự là một điểm sáng trong sáng tác của tác giả mang đậm tính dân tộc và cảm xúc chân thật.

cảm nhận câu thơ thứ 7 của bài ca dao việt nam – mẫu 3

bài thơ “viet bac” ra đời tháng 10 năm 1954, trích từ tuyển tập “viet bac”, một tập thơ kháng chiến của Tô huu. Sau hơn ba nghìn ngày khói lửa, Hồ Chí Minh và đoàn quân toàn thắng tiến về thủ đô. trong bối cảnh lịch sử huy hoàng đó. tác giả đã viết bài thơ này. Đây là một trong những bài thơ “việt bắc” tiêu biểu nhất thể hiện vẻ đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ phú.

Bao trùm toàn bài thơ là nỗi nhớ quê hương của người kháng chiến về cảnh và người Việt Bắc. nỗi nhớ tha thiết thể hiện tình cảm thủy chung, thắm thiết giữa “ta” và “ta”, giữa người đi và người về, giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc:

“Em về rồi, anh nhớ em, nhớ hoa cùng em nhớ người đan nón tỉ mẩn từng sợi… Em nhớ người chị hái măng một mình… Em nhớ khúc tình chung thủy. “

p>

từ “nhớ” như một luyến láy trong khúc hát tình cảm khiến câu thơ lục bát ngọt ngào sâu lắng.

Trong 5 câu thơ của đoạn trích, câu 2 mang ý nghĩa khái quát: “Anh về em nhớ mình – Anh về rồi, em nhớ hoa cùng anh”. Mỗi câu có hình ảnh thiên nhiên Việt Nam, mỗi câu có hình ảnh con người Việt Nam.

Hình ảnh thiên nhiên trong những câu thơ của nhà thơ thật đẹp, trong sáng, thơ mộng và tràn đầy sức sống. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét: “Tư tưởng của những bài thơ viết về thiên nhiên Việt Bắc có thể so sánh với bất kỳ câu thơ miêu tả thiên nhiên nào trong văn học cổ điển”. thiên nhiên trong thơ có sự đa dạng độc đáo. bốn câu thơ là hình ảnh của bốn mùa trong năm, mỗi mùa mang một sắc thái khác nhau. bài thơ gợi cho ta liên tưởng đến hình ảnh tứ bình trong “truyện kiều” qua ngòi bút tài hoa của thi hào Nguyễn Du:

“hoa sen cúc lại nở, ngày dài tháng ngắn, đà đông chuyển thành xuân.”

với đểu, cảnh rừng Việt Bắc khi đông về là một màu xanh bạt ngàn, được tô điểm và soi sáng bởi “hoa chuối đỏ tươi”. thơ và họa đã bộc lộ vẻ đẹp hoang sơ và kỳ vĩ của rừng Việt Nam. khi xuân về, “rừng mơ trắng xóa”, vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết, nguyên sơ gợi cảm giác thơ mộng, man mác: “rừng trắng” đánh thức sức sống làm thay đổi cảnh sắc thiên nhiên chiến khu. và mùa hè “tiếng ve gọi rừng đổ vàng”. chỉ có viet bac mới có rừng hổ phách vàng vào mùa hạ. sự chuyển giao của thời gian, vần điệu từ xuân sang hạ được thể hiện qua tiếng ve, thể hiện qua từ “đổ”. câu thơ hay vì thời gian cũng có màu. trước mắt người cán bộ kháng chiến là những cánh rừng hổ phách ngả màu vàng khi hè về với tiếng ve kêu râm ran suốt đêm ngày. từ “đổ” là nhãn gợi ta liên tưởng đến câu thơ của xuân điều trong bài thơ “tình thơ”: “rót trời xanh ngọc qua kẽ lá. Mùa thu đến nơi có tiếng huyền”. mùa thu chiến khu quên thế nào là “rừng thu, trăng soi hòa bình”. rừng, núi đá, suối “sương khói” càng đẹp hơn dưới ánh trăng trong xanh dịu êm. Tôi nhớ bài thơ anh viết trong những năm đầu kháng chiến: “Trăng xưa bóng lồng hoa” (cảnh khuya).

Hình tượng thiên nhiên trong thơ vừa tươi sáng, gợi cảm, vừa thơ mộng, đầy màu sắc thẩm mĩ. mỗi câu thơ là một khung cảnh với sự sắp xếp đầy màu sắc và những nét vẽ tài hoa. màu xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ vào mùa xuân, màu vàng tươi của hổ phách rừng mùa hạ, màu xanh dịu mát của trăng thu. nghệ thuật khéo léo pha trộn màu sắc của các yếu tố trong mô tả đã tạo ra một hình ảnh đẹp và sống động của thiên nhiên, như chú ho đã viết:

XEM THÊM:  những bài thơ bá đạo của học sinh

“cảnh rừng ở Việt Nam thật là hay”…

(phong cảnh rừng Việt Nam)

Bản chất của Việt Bắc vẫn đẹp đẽ trong sự hòa hợp với những con người sống và năng động. vì vậy, thiên nhiên của việt bắc không hề hoang vắng, buồn tẻ mà ngược lại, nó tràn đầy sức sống, sức sống mãnh liệt của một vùng quê kháng chiến. những người được nhắc đến trong bài thơ này rất xinh đẹp và quyến rũ. trước hết, con người xuất hiện trong môi trường làm việc, chan hòa, hòa hợp với thiên nhiên.

“Bước cao trong nắng với con dao thắt lưng” – là một trong những dòng đặc sắc của bài thơ. Đoạn thơ được coi là phát hiện độc đáo của Tố Hữu mang màu sắc “rất Việt Nam” như cách nói của Xuân Diệu. Người Việt Nam ở miền Bắc khi vào rừng thăm nương, làm rẫy đều có dao thắt lưng. ở độ cao của con đèo, ánh nắng chiếu vào những con dao đó tạo nên sự phản chiếu sáng và lấp lánh. Chỉ với một câu thơ, người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ, anh hùng của con người Việt Nam trong tư thế lao động, làm chủ thiên nhiên và tiến lên phía trước. phải cần một tâm hồn thơ tinh tế và óc quan sát nhạy bén mới viết được câu thơ hay như vậy. những con người thời kháng chiến mang tầm vóc thời đại, dù là nhà sản xuất hay người lính đều có tư thế anh dũng:

“ngọn núi không thể nâng đỡ bờ vai tôi để chạm tới những tấm vải ngụy trang cộng hưởng với tiếng gió thoảng qua”.

(tây bắc)

nhớ “mơ nở trắng rừng” những ngày xuân cũng là bồi hồi “nhớ người đan nón chuốt từng sợi chỉ”. tác giả viết về người Việt Nam trong một khung cảnh cụ thể, một công việc cụ thể. chữ “sửa” trong câu thơ là trau chuốt, đánh bóng, làm đẹp. từ láy luôn (từng sợi chỉ) gợi tả đức tính cần cù, tỉ mỉ, chịu khó. với tay nghề mới “chuẩn bị từng sợi chỉ” mỏng và bóng để đan thành những chiếc nón xinh xắn, một trong những nghề thủ công đặc trưng của Việt Bắc. Con người vất vả, tài hoa này thật đáng để “ghi nhớ” bởi như Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi: “Bàn tay con người như có phép thuật: bài thơ ngàn năm cũng đan vào lá tre”. Như vậy, cùng với bài thơ chiếc nón được nhắc đến trong ca dao, chúng ta đã biết thêm về chiếc nón được làm bằng sợi Việt Nam qua bài thơ tou.

Dòng thơ “nhớ chị hái măng một mình” là một dòng văn vần hay. vần: “cô – cô” (vần ngược) và việc sử dụng liên tiếp phụ âm “m” của các từ “xoài – một – em” tạo nên một câu thơ đa giọng hấp dẫn. Một cô gái trẻ, xinh đẹp, lạc quan đến từ Việt Nam đi hái măng giữa rừng một mình trong tiếng nhạc rừng, dù “lẻ bóng” nhưng cô không hề cảm thấy đơn độc. rằng con người đang thống trị thiên nhiên, thống trị cuộc sống. Giữa một không gian nghệ thuật đầy màu sắc và tiếng suối rừng, cô gái Việt Bắc hiện lên thật hồn nhiên và duyên dáng! câu cuối bài thơ: “nhớ ai câu hát chung tình” nói lên vẻ đẹp tâm hồn người Việt Bắc. “ai” là đại từ phù phiếm chỉ gợi lên nỗi nhớ nhung, nỗi niềm đau đáu về lòng trung thành. bài ca về tình yêu chung thủy giữa “ta” và “ai” đã được thử thách trong cay đắng ngọt bùi, trong máu lửa, “mười lăm năm mặn nồng” mà không bao giờ có thể quên được.

to huu câu thơ viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là một bài thơ đầy cảm xúc hoài niệm, tình cảm với niềm tự hào to lớn đối với Việt Bắc “quê mẹ cách mạng dựng nước cộng hòa”, chiến khu bất khả xâm phạm “Rừng xà nu bộ đội, rừng vây quân thù ”. Có thể nói, Từ Hũ không chỉ ca ngợi Việt Bắc mà còn viết nên những vần thơ đẹp nhất ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong khói lửa.

bài thơ thấm đẫm tình người. nỗi nhớ đã thấm sâu vào cảnh vật, vào lòng người, kẻ đi người về. câu thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào, ngân vang như bản tình ca “ta – ta” năm xưa. từ “nhớ” được lặp đi lặp lại nhiều lần để diễn tả tình cảm nhớ nhung đầy khát khao …

“viet bac” là một trong những bài thơ lục bát hay nhất của to huu. Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của “Việt Bắc”. bút pháp nghệ thuật di sản và sáng tạo độc đáo, từ làn điệu trữ tình của ca dao đến tả ​​cảnh ngụ tình đặc sắc. cảnh vật và con người tươi đẹp, hữu tình với sức sống và khí thế của thời đại mới. kết cấu bài thơ đẹp kiểu cổ điển, chặt chẽ, cân đối, hài hoà, gợi cho ta nhiều ấn tượng và cảm xúc thẩm mĩ. thơ là tiếng lòng, là tiếng nói của trái tim. bài thơ trên là tiếng lòng, tiếng nói của người cán bộ kháng chiến đối với “thủ đô gió ngàn” của Việt Bắc.

cảm nhận câu thơ thứ 7 của bài ca dao việt nam – văn mẫu 4

Bác ái và trung thành: đó là một trong nhiều nét đẹp của con người cách mạng. vẻ đẹp ấy được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. chúng tôi cũng nhìn thấy vẻ đẹp đó ở miền bắc Việt Nam của to huu. tập trung, đáng chú ý nhất là bài thơ:

<3mười dòng trên là khổ thơ thứ năm của bài thơ Việt bắc. Đó là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu của Việt Nam qua bốn mùa trong năm. hình ảnh đó trong sáng, tươi tắn nhưng cũng đượm buồn, thao thức bởi nó được chắt lọc bởi nỗi nhớ của những người đã đến rồi đi. nỗi nhớ được bày tỏ một cách nghiêm túc trong cuộc chia tay:

Khi tôi đi một mình, tôi nhớ tôi, tôi nhớ hoa với bạn.

hai lần “tôi về rồi” trở về đầu câu, đồng thời nói lời từ biệt, nhưng câu trên là để hỏi ai, câu dưới là để bày tỏ lòng mình. giọng thơ của nhà thơ ở đây thật ngọt ngào, dễ thương. sự chia cắt giữa người kháng chiến và người Việt Bắc, giữa miền xuôi và miền ngược đã trở thành cuộc chia tay của đôi trai gái (ta – ta). nỗi nhớ về những tháng ngày gian khó gắn với cảnh và người Việt Nam dần hiện lên trong tâm trí người lữ hành. phong cảnh, con người viet bac, mọi thứ đều hữu tình và đáng nhớ. điều đầu tiên cần nhớ là hoa của cùng một người. hoa và người hòa quyện trong nỗi nhớ. thiếu hoa là nhớ đến vẻ đẹp của thiên nhiên việt bắc, nhưng vẻ đẹp của việt bắc không thể tách rời vẻ đẹp của con người việt nam đã được trân trọng, gắn bó với nhân dân, với cách mạng, vẻ đẹp của quốc gia. Trên hết, bức tranh bac là vẻ đẹp của sợi dây liên kết giữa thiên nhiên và con người.

hình ảnh đó được miêu tả trong những câu thơ nhẹ nhàng và êm đềm. nó có màu sắc tươi sáng và rực rỡ, có ánh sáng hài hòa, và có âm thanh vui vẻ và ấm áp. cảnh và người lẫn lộn: bốn cặp lục bát tả cảnh bốn mùa, câu trên nhớ cảnh, câu dưới nhớ người. rằng mỗi cảnh, mỗi người được nhắc đến đều có một điều gì đó để nhớ. tất cả đã hiện ra trước mắt chúng ta một bức tranh Việt Nam thơ mộng và tuyệt vời qua những nét bút tài tình của tác giả.

mỗi mùa được nhà thơ nhớ đến với một nét tiêu biểu hơn, với cách diễn đạt tinh tế và gợi cảm, nhớ mùa đông Việt Nam là nhớ “rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi”. giữa mênh mông màu xanh hiện lên một màu ấm áp (đỏ tươi), tem báo mùa đông viet bac không còn lạnh lẽo hoang vu. mùa xuân lại đổi màu, tràn lên một màu trắng tinh khôi và thơ mộng: “ngày xuân mở cánh rừng nở trắng”. cảnh này có nét gì đó giống như cảnh bạn trở về đất nước của mình:

ơi, sáng nay mùa xuân 41, rừng sưa nở hoa trắng mộng mơ… im lìm. con chim hót véo von bên bờ lau sậy vui dại khờ …

(theo bước chân của chú bạn, một người bạn tốt)

Bốn cặp hình lục giác sau đây được sử dụng để mô tả sự xuất hiện của mùa hè và mùa thu. nếu màu chủ đạo của cảnh động là xanh lam, nhập cảnh có hoa đỏ tươi, cảnh xuân là mơ trắng, thì cảnh hè là sắc vàng tươi đẹp của rừng hổ phách – ve sầu gọi rừng hổ phách. Đây là một câu thơ thuộc loại hay nhất của thơ Việt Nam. câu thơ sáu chữ thể hiện sự biến đổi của cảnh vật thiên nhiên. câu thơ ấy rung động trước tiếng hót không ngớt của tiếng ve trong màu vàng rực của rừng phách trong nắng hè. cuối cùng, mùa thu hiện ra với màu dịu dàng của ánh trăng, màu của những ước mơ về cuộc sống êm đềm giữa bao khó khăn. cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đẹp mê hồn và mùa nào cũng là một hình ảnh thơ mộng và thú vị.

hình ảnh bốn mùa ấy cũng phản ánh vẻ đẹp đằm thắm của con người miền Bắc Việt Nam. cảnh là nền của người và người gắn với cảnh, chúng hòa quyện, tô điểm cho nhau. hình như những cảnh đó phải có những con người ấy và nhà thơ đã gửi gắm vào đó hình ảnh những con người thật bình dị và đẹp đẽ: hình ảnh người trèo núi cầm đao soi bóng nắng bên hông, một bàn tay ” gạt từng sợi giang ”của người dệt nón và“ người em hái măng một mình ”giữa tiếng nhạc du dương và sắc vàng của núi rừng. ngay cả bản tình ca cũng làm cho khu rừng mùa thu trở nên yên tĩnh và ánh trăng yên bình tỏa sáng rực rỡ.

Nếu bạn không hiểu sâu sắc về đất nước Việt Nam, yêu mến Việt Nam nồng nàn và nhớ nhung đất nước Việt Nam đến vậy, bạn sẽ không thể vẽ nên một bức tranh tuyệt vời và ấm áp về quê hương cách mạng. nhưng để có được hình ảnh này cũng cần có cái nhìn đúng đắn và cái nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. không như những quan niệm sai lầm trước đây về núi, dân leo núi là nơi “ma thiêng, nước độc” với những con người hung dữ, thiếu văn minh,…), yêu quê hương cách mạng. hình ảnh thơ này xuất phát từ tình cảm gắn bó thủy chung, nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với cảnh và người Việt Bắc.

Cảm giác nhớ nhung da diết ấy là âm hưởng bao trùm cả câu thơ và nhịp điệu nhẹ nhàng, du dương của câu sáu và câu tám khiến nó nghe u uất và nghiêm trang. Cấu trúc bài thơ Việt Bắc là cấu trúc đối ứng, có anh có em, có người đi người ở, nhưng thực ra đó chỉ là bản sao của một chủ đề trữ tình.

kết lại bài thơ là khúc ca ân tình, thủy chung của người chiến sĩ cách mạng miền xuôi, của đồng bào Việt Bắc. câu hát ấy vang lên trong lòng người đi luôn nhớ về những tháng ngày son sắt. bài hát đó là cầu nối giữa trái tim và trái tim, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.

cảm nhận câu thơ thứ 7 của bài ca dao việt nam – văn mẫu 5

Nói đến những thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp xâm lược, có lẽ không thể không nhắc đến Tố Hữu Việt Bắc. đây là bài thơ mang đậm màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho thể thơ lục bát. qua đó thể hiện nỗi nhớ chân thành, tình cảm son sắt, đằm thắm của nhân dân Việt Nam đối với cách mạng, với đảng, của bác Hồ, đồng thời thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến đối với thiên nhiên, núi rừng và đồng bào miền Bắc. Việt Nam. đoạn thơ gồm năm câu lục bát gợi lại những cảnh đẹp đẽ gần gũi nhất của cánh đồng và những con người việt bắc tưởng nhớ người cán bộ cách mạng miền xuôi, ở đây chính nhà thơ.

“Anh về rồi, anh nhớ em … nhớ khúc ca thủy chung”

Hai dòng đầu của bài thơ gợi lên cảm xúc chung cho cả đoạn văn. “Tôi” là người đã ra đi, nhưng cũng là chính tác giả. ở đây bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp thường thấy trong ca dao cổ truyền. vì vậy, đó là những lời ngon ngọt của người ra đi người ở lại gán ghép nàng với một cô thiếu nữ quê mùa. và câu hỏi tu từ này là cái cớ để thể hiện tình yêu của chàng trai miền xuôi dành cho cô gái vùng cao.

Khi tôi đi một mình, tôi nhớ tôi, tôi nhớ hoa với bạn.

“Hoa và người” thực sự là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Nam. ở đây, thiên nhiên giao hòa với con người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ còn có mối quan hệ tương hỗ. viet bac sinh ra tình người, tình người sưởi ấm quê hương viet bac.

dưới đây, tám dòng lục bát còn lại như một bức tranh thiên nhiên và con người nơi đây. với bốn bề xanh ngắt, nhà thơ đã tả cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng. qua đó, chúng ta thấy rằng chỉ có bài thơ này mới thấm đượm tính bình dân.

Đầu tiên là hình ảnh tượng trưng cho cảnh và gợi cảm xúc yêu mùa đông ở Việt Bắc. tại sao mùa đông? vì đây là nỗi nhớ của tác giả lúc chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông năm 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. đặc biệt là những chiến sĩ cảm tử ở Hà Nội sau hai tháng giam cầm địch trong thành phố đã bí mật vượt sông hồng để vào căn cứ địa cách mạng Việt Bắc. sự kiện này tồn tại đến ngày hôm nay nhờ một bài hát quen thuộc:

đêm hôm ấy lạnh quá, hẹn ngày mai ra sông lại, sông đỏ đôi bờ hát mãi để tỏ niềm tin khúc ca khải hoàn.

tiết kiệm cân vào mùa đông đã viết:

đôi mắt của bạn lặng lẽ và buồn bã, nhìn tôi mà không nói. tình yêu của chúng tôi rất tuyệt, thậm chí nói ra cũng rất tốt. Đã qua một mùa đông mà không một lần nói ra …

Tuy nhiên, ở địa điểm núi rừng đẹp mê hồn này, sắc đỏ tươi của hoa chuối rừng bỗng bừng sáng như những ngọn đuốc sáng rực. vẻ đẹp thơ mộng và rực rỡ của mùa đông gợi lên những rung động sâu sắc. Qua hình ảnh, chúng ta có thể thấy dù mùa đông giá rét nhưng sự sống của núi rừng dường như vẫn tuôn chảy, cảm giác như mang lại hơi ấm cho lòng người.

thiên nhiên thật đẹp, còn con người thì sao? Hãy xem xét bài hát:

trên cao dưới nắng với con dao trong thắt lưng.

thời gian được xác định bởi phần tử “ngày mùa xuân”. chính ấn tượng về thời gian này đã tạo ra sự chuyển động và sinh sôi nảy nở. không gian nơi đây như một câu chuyện cổ tích. Thoáng chốc màu xanh của hoa chuối đỏ ngút ngàn, nay nở rộ những rặng mai trắng thơm ngát. màu trắng tinh khôi ấy bao trùm cả khu rừng, gợi lên trong lòng ta một nỗi niềm hoài cổ mộng mơ. Ngoài ra, màu trắng của hoa mai càng gợi lên sự thanh thoát, mang đến sự tĩnh lặng cho con người. câu thơ khiến ta cảm thấy màu xanh đã bị lấn át. Mùa xuân ở đây không vui tươi như mùa xuân huyền diệu mà nó đến lặng lẽ, âm thầm nhưng không kém phần tươi vui.

hãy nhớ đến người đan mũ và đánh bóng từng sợi.

mùa xuân được miêu tả trong đoạn thơ rất đặc trưng của mùa xuân ở việt bắc. Sợi Giang là sản vật của Việt Bắc. do đó, công nhân đó là người Việt Bắc, không phải người Việt Miền xuôi. bạn có thể nhìn thấy từng sợi, tức là bạn nhìn thấy mọi người ở gần.

rồi thời thanh xuân trôi qua nhanh chóng, con người ta cứ sống hết mình.

Tôi gọi rừng đổ vàng, nhớ chị tôi hái măng một mình.

hình ảnh gợi sự chú ý của người đọc thông qua thị giác và thính giác. đầu tiên, điều duy nhất ở đây là âm thanh, âm thanh của mùa hè, âm thanh của tiếng “cic”. thơ tạo nên một hình tượng được nhân cách hóa. ve sầu là loài động vật nhưng biết kêu, biết kêu khiến rừng “vàng”. chúng ta nên dành chút thời gian để hiểu về khu rừng hổ phách kỳ lạ này. đỗ quyên là một loại cây thân gỗ từ rừng việt bắc, nở hoa vàng vào đầu mùa hè. tiếng ve kêu râm ran nơi đây báo hiệu mùa hè đến, nhưng đã là cuối mùa hè. những chiếc lá bắt đầu úa vàng, cả khu rừng như được thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh trong nắng. khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong sáng lại càng lãng mạn, bởi trong cánh rừng bạt ngàn ấy có bóng dáng của một cô gái miền núi “một mình hái măng”. đọc đến đây khiến ta liên tưởng đến một hình ảnh tương tư trong thơ Nguyễn binh, một nhà thơ quê trong phong trào thơ mới.

đi dạo vào buổi chiều, một du khách nhìn núi xanh, bầu trời trong xanh và rừng mơ mà anh ta hái.

Đây là khổ thơ đầu của bài thơ chọn ước mơ. chúng ta thấy một điểm giống nhau rất ngẫu nhiên: cũng là khu rừng và cô gái đang làm việc. điều duy nhất ở đây là “thu ước mơ” chứ không phải “hái măng”. từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ khác như bẻ, cắt… vì chỉ có anh mới phù hợp với sự ngọt ngào, uyển chuyển, mềm mại của người con gái. Chúng ta hãy thử tưởng tượng một bức tranh mùa hè như thế này sẽ đẹp như thế nào nhé! khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy được lồng vào đó là hình ảnh người phụ nữ lao động nhân hậu. trong thực tế, hình ảnh đẹp và cảm động. rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện và làm đẹp cho nhau.

Cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đẹp không kém của mùa thu:

rừng thu trăng chiếu hòa bình, ai nhớ khúc ca thủy chung

Được xác định rất rõ, đây là mùa thu. thiên nhiên mùa thu được thể hiện bằng ánh trăng. việc sử dụng hình ảnh của mặt trăng thực ra không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam lúc bấy giờ, chúng ta mới thấy được ước mơ hòa bình của cán bộ và toàn thể nhân dân Việt Nam. mọi người đều nói lên niềm tin rằng thắng lợi sẽ đến với cách mạng và đất nước.

câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. từ “ai” được làm mờ để tạo nền cho toàn bộ đoạn văn và cũng là để trả lời câu hỏi đầu tiên, “bạn có nhớ tôi khi bạn trở lại?” dù có hỏi nhưng trong thâm tâm họ vẫn biết người ấy vẫn chung thủy, kiên quyết. Đây là lời nói vang dội trong tim của cả những người ra đi và những người ở lại.

ở đây ta có thể thấy bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ da diết, tha thiết nối tiếp âm hưởng chung của nghệ thuật dân gian. những câu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, những ý tưởng, gợi mở cứ thế tuôn trào trong lòng người ra đi và người ở lại. hơn hết là thông qua cách xưng hô giữa cái “tôi” với cái “tôi”. ở đây cụm từ “nhớ” được sử dụng để tập trung vào cảm hứng chính, đó là ký ức. hơn thế nữa, âm điệu nhẹ nhàng, da diết khiến cả bài thơ mang âm hưởng trầm buồn, êm dịu như một khúc ru, một khúc ru cho thương nhớ. có thể lời ru này không thuộc về ai khác ngoài “tôi” và người nhận là “tôi”. cả “ta” và “ta” đều có chung một nỗi nhớ, cùng một “khúc tình ca” và tình cảm sâu nặng ấy vẫn trường tồn trong những tâm hồn thủy chung.

Có thể nói đây là bài thơ hay và giá trị nhất của bài ca dao Việt Nam. cảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ được miêu tả vô cùng kì diệu và đẹp đẽ, tràn đầy sức sống. và với giọng thơ ngọt ngào, truyền cảm khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng trung thành, thủy chung của người cách mạng với nhân dân, quê hương đất nước Việt Nam.

cảm nhận câu thơ thứ 7 của bài ca dao việt nam – văn mẫu 6

“ôi! nỗi nhớ, không bao giờ!”. nỗi nhớ vượt thời gian, vượt không gian. nỗi nhớ thấm sâu vào lòng người… và nỗi nhớ ấy vẫn luôn ám ảnh, cháy bỏng trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa quê thân thương về viet bac, nơi đã từng đứng chân trong những ngày kháng chiến gian khổ. ..

Tôi về, tôi nhớ mình, nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng vàng thắt lưng. ngày xuân mơ nở trắng rừng nhớ người đan nón đan từng sợi. cô gái hái măng một mình, rừng thu, trăng soi bóng bình yên nhớ ai: khúc ca thủy chung.

trong cùng một câu thơ ngắn nhưng từ “nhớ” được lặp lại năm lần. nỗi nhớ từ câu đầu tiên đến câu cuối cùng. hai dòng đầu là những từ gợi hình, “nhắc khéo”: anh có nhớ em không? Chỉ mình tôi, tôi vẫn nhớ! cách xưng hô gợi sự thân thiết, tình cảm mãnh liệt. bạn và tôi tuy hai mà một, nhưng một mà hai.

Người đã khuất nhớ gì? miền bắc có gì để nhớ, có gì để yêu? Câu thơ có được trình bày rất rõ ràng không?

Tôi về rồi, tôi nhớ những bông hoa với bạn

núi, rừng, phong cảnh Việt Nam được so sánh với “hoa”. nó tươi tắn, rực rỡ và “thơm”. Trong bức tranh thiên nhiên này, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà đẹp đẽ vô cùng! con người và thiên nhiên hòa quyện, thống nhất với nhau tạo nên một phong cách riêng của Việt Bắc.

Bốn mùa của đất nước trôi qua trong những câu thơ ngắn gọn với những hình ảnh, chi tiết và đặc điểm. mỗi mùa có hương vị đặc trưng riêng.

Vào mùa đông, khu rừng xanh tươi, với những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Khi mùa xuân đến, cả khu rừng bừng sáng với màu trắng của hoa mai. vào mùa hè, có ve sầu và “rừng hổ phách vàng”. và khi anh trở về, thiên nhiên được chiếu sáng bằng màu vàng dịu của ánh trăng. bài thơ tràn ngập những gam màu tươi sáng và rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng … những gam màu này đánh vào giác quan của người đọc. Khi chúng ta tiếp xúc với những câu thơ của nhà thơ, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đang chiêm ngưỡng một hình ảnh sống động. trong đó màu sắc được sử dụng hài hòa tự nhiên làm tăng thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam.

thời gian trôi theo dòng thơ. anh ấy có những bước đi chắc chắn và liên tục khiến người ta không thể nhìn thấy sự thay đổi của các mùa trong năm. Thiên nhiên Việt Bắc còn được miêu tả theo chiều dọc của thời gian. ban mai hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng chói chang, đêm về trăng soi bàng bạc muôn nơi… núi rừng Việt Nam như đang đổi đời từng khoảnh khắc. …

và cảnh quan tuyệt vời và đầy mê hoặc ấy càng trở nên hài hòa, ấm áp và sống động hơn khi hình ảnh con người xuất hiện. con người đang làm tổ trong tự nhiên, như một bông hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. mỗi câu thơ tả cảnh được ghép với một câu thơ tả người. cảnh và người hòa quyện vào nhau. Họ là những người làm việc chăm chỉ và nhiệt tình với công việc. “thắt lưng dao”, người “đan nón”, “chị thu tre một mình” và bản tình ca của ai đó vang lên giữa đêm núi ngân nga… hình ảnh con người làm nên vẻ đẹp của thiên nhiên. thiên nhiên tỏa sáng hơn. vừa khơi gợi nỗi nhớ về người đã khuất. đọc bài thơ ta cảm nhận được vẻ đẹp giản dị, trong sáng của tâm hồn người Việt Nam. ở đó họ đối xử với nhau bằng một tình cảm chân thành, ấm áp, với lòng thủy chung “trước sau như một”. Họ nuôi quân, họ dấy lên cách mạng, họ kháng chiến toàn quốc … người dân Việt Bắc giản dị nhưng anh dũng.

XEM THÊM:  Soạn văn 9 bài nói với con giáo án

Gợi lên hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, người bạn đã thể hiện tình cảm chân thành, tình cảm sâu nặng và niềm mong mỏi sâu sắc. tôi và tôi, tôi và tôi đã từng:

<3

Được chia sẻ những khó khăn gian khổ ngọt ngào như thế! chúng ta, làm sao có thể quên được nhau. tình yêu ấy đã thấm sâu vào tâm hồn kẻ ở, kẻ đi. Chính vì vậy, khi ra đi, kỉ niệm là tình cảm khắc sâu trong tâm khảm và tình cảm của tác giả.

Giọng thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng. toàn bộ khổ thơ bao trùm lên niềm lạc quan, niềm vui và niềm tin vào cuộc sống. nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người nghiêm túc và lòng yêu nước nồng nàn của các nhân vật. cuối bài thơ có khúc ca ngọt ngào gợi nhiều kỉ niệm. ký ức ấy theo bước chân người ra đi và bao trùm tâm hồn người ở lại …

những dòng trong bài thơ có sức khái quát lớn so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện sự rung động chân thực trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Nam. nỗi nhớ trong thơ của nhà thơ đã đi vào lòng người đọc, như một bản nhạc bình dân ngọt ngào để lại trong lòng mỗi chúng ta những cảm xúc sâu lắng, dịu dàng.

cảm nhận câu 7 của bài ca dao việt nam – văn mẫu 7

tou huu (1920-2002) được coi là ngọn cờ đầu của nghệ thuật cách mạng Việt Nam. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học phong phú, có giá trị và một phong cách nghệ thuật đặc sắc mang tính chất trữ tình – chính trị sâu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. Khá tiêu biểu cho sự tìm tòi sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt bắc. Có thể nói, tinh hoa của tác phẩm lắng đọng trong mười câu thơ thể hiện nỗi nhớ quê da diết của người về quê với cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc:

khi đi lại nhớ mình, đi về thì nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng, dao thắt lưng, ngày xuân. , mơ nở trắng rừng, nhớ người đan nón, đan từng sợi. chị hái măng một mình, rừng thu, trăng soi bình yên, nhớ ai câu hát ân tình thủy chung

viet bac ‘được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tư huu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến đã nhiều năm gắn bó với quân Việt, nay đã rời chiến khu trở về. bài thơ như được viết trong cuộc chia tay đầy luyến tiếc ấy.

Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một tâm trạng đặc biệt, đầy cảm xúc nhớ nhung. đã vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng sáng tạo đại từ nhân xưng, lối đối đáp quen thuộc của ca dao, giọng thơ tâm tình ngọt ngào, lời thơ mang đậm sắc thái dân gian, gợi mở bao nỗi nhớ, bao kỉ niệm. của một thời kháng chiến gian khổ và anh dũng. qua đó, sự gắn bó thân thiết, trung thành của những người kháng chiến với nhân dân, với đất nước Việt Bắc được bộc lộ một cách thấm thía, chân thành và cảm động.

Phần đầu của bài thơ, dưới hình thức đối thoại giữa anh và em, tập trung thể hiện một cảnh chia tay đầy nỗi nhớ nhung, xót xa, khắc khoải và nhớ nhung của người đã khuất. Thông qua câu trả lời ân cần, khung cảnh và con người Việt Nam được tái hiện một cách tuyệt vời.

và có lẽ điều đẹp nhất của nỗi nhớ Việt Nam là ấn tượng không thể phai mờ về con người hòa mình với thiên nhiên, núi rừng tươi đẹp:

Anh nhớ em khi anh về, nhớ hoa bên em

Đoạn thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ, nhưng câu hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ chiều sâu của cảm nhận. các từ “ta”, “nhớ” khẳng định, nhấn mạnh lòng mong mỏi của người dân thủ đô. phép liệt kê “hoa cùng người” chỉ đối tượng của nỗi nhớ. đó là phần tốt nhất của vùng chiến sự. hoa là sự kết tinh hương sắc của thiên nhiên và vẻ đẹp của đời sống xã hội. suy cho cùng, con người cũng là một bông hoa của đất. hoa và người đặt cạnh nhau tôn lên vẻ đẹp của mỗi người, làm bừng sáng cả không gian núi rừng Việt Nam.

Những câu thơ sau tập trung tái hiện vẻ đẹp chân thực của bốn mùa nơi chiến khu. cảnh và người hòa quyện, quyện vào nhau, dòng nào tả cảnh, dòng nào tả người. mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng, tạo thành bức tranh tứ bình đủ ánh sáng, màu sắc, đường nét, âm thanh vui tai, ấm áp.

đầu hình ảnh là cảnh mùa đông:

rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, ánh nắng trên đỉnh đèo, dây nịt

Nhớ về mùa đông ở Việt Nam, nhà thơ không nhớ cái lạnh âm u mà là những ngày nắng chói chang. phép đối “rừng xanh” với “hoa chuối đỏ tươi” đã tái hiện một không gian núi rừng bạt ngàn, bạt ngàn màu xanh của cỏ cây, ẩn hiện trong màu xanh sặc sỡ là những bông hoa chuối rừng đỏ tươi như những ngọn đuốc. . hai gam màu nóng kết hợp tạo cảm giác tươi vui, sưởi ấm toàn bộ không gian, tạo nên sự ám ảnh trong tâm hồn con người. Nơi núi rừng ấy không chỉ có những vạt chuối đỏ tươi mà còn có những con người vượt không gian, xuất hiện trên đỉnh đèo cao trong tư thế kiêu hãnh, hiện ra dưới ánh nắng chói chang phản chiếu trên xe. bị trói vào lưng. hình bóng con người trong không gian, giữa núi và mặt trời, giữa trời và rừng xanh là kết tinh của vẻ đẹp của núi, là điểm nhấn của núi.

Hai dòng tiếp theo thể hiện cảnh mùa xuân:

ngày xuân rừng nở trắng xóa nhớ người đan nón, chuốt từng sợi

hai động từ “nở trắng” đặt cạnh nhau diễn tả mùa xuân đi qua và nhấn mạnh màu sắc Việt Nam trong ngày xuân. Mùa xuân đến mang theo sức sống mới, làm cho từng gốc cây, từng cành mai nở trắng, rồi dần dần phủ khắp núi rừng bằng những bông hoa trắng tinh khôi, mềm mại, thơ mộng. sắc trắng của hoa mai lấn át những sắc màu khác, làm bừng sáng cả khu rừng, khiến lòng người xao xuyến, bâng khuâng, khao khát. và nhà thơ nhớ đến những người dệt nón. hành động chuốt từng sợi chỉ là biểu hiện của sự cần cù, khéo léo, tài hoa trong tâm hồn, tính cách của con người Việt Nam. họ kiên nhẫn, tỉ mỉ trong từng cử chỉ để tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ cho đời. câu thơ chứa đựng một thái độ yêu mến, quý mến và trân trọng những người lao động của nhà thơ.

rồi chiến khu mùa hè hiện ra với những âm thanh và màu sắc khó quên:

nghe vàng đổ rừng, nhớ em gái đi hái măng một mình

Xuyên suốt cách miêu tả của nhà thơ, tiếng ve kêu leng keng như tiếng nhạc náo nhiệt không chỉ làm vang vọng núi rừng mà còn làm cho sắc lá cây cối thay đổi. động từ “đổ vàng” đã diễn tả khéo léo sự chuyển màu đột ngột của khu rừng từ hổ phách. khi tiếng ve vang lên báo hiệu mùa hè đến, cả khu rừng xanh như hổ phách bỗng nở rộ hàng nghìn cánh hoa vàng tươi như hòa cùng mật và nắng ngọt của rừng. trong dàn nhạc và giàn hoa ấy, nhà thơ nhớ về một người chị. cô họa sĩ một mình trên núi không gây ấn tượng buồn mà mang vẻ đẹp khỏe khoắn bởi cô xuất hiện trong tư thế lao động cần mẫn, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng, vui tươi.

nhớ đến mùa thu, nhà thơ không thể quên được ánh trăng:

rừng thu trăng chiếu hòa bình, ai nhớ khúc ca thủy chung

Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi sáng núi rừng chiến khu. ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà còn gắn liền với tình cảm của những con người trải qua bao năm tháng chiến tranh gian khổ, ác liệt. trong khu rừng thấm đẫm ánh vàng ấy anh bỗng ngân nga khúc tình ca khiến lòng người xao xuyến. bài hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thủy chung, trọng tình nghĩa của người Việt Nam cũng là lòng người. trở lại chiến trường. . nên dường như ánh trăng sáng hơn và tiếng hát du dương, xa xăm hơn.

Như vậy, nỗi nhớ của bức tranh sông nước dưới đây đã khắc sâu vào thiên nhiên núi rừng Việt Nam một vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, vừa riêng biệt, vừa độc đáo, khác hẳn với những vùng quê khác của đất nước. . . gắn với cảnh là những người lao động bình thường nhưng chính họ đã góp phần to lớn vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chỉ những ai gắn bó sâu sắc với Việt Nam, coi Việt Nam như quê hương ruột thịt mới có những cảm xúc, ấn tượng và khao khát như vậy.

Nỗi nhớ về người viet bac còn được tác giả đào sâu và mở rộng trong những câu thơ sau của tác phẩm. Trong dòng hoài niệm, những người con đất Việt trong kháng chiến hiện lên vừa gian khổ, vừa anh dũng với niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ, với cảm hứng ngợi ca đất nước sâu sắc.

10 dòng thơ trên với giọng điệu ngọt ngào, ngôn từ giản dị, giàu sức gợi, phong cách thơ đậm đà đã bộc lộ tình cảm gắn bó sâu nặng của nhà thơ với đất nước Việt Bắc. Qua nỗi nhớ và sự trân trọng chân thành của nhà thơ, cảnh và người Việt Nam hiện lên gần gũi, chân thật, nên thơ và trữ tình. Qua cảm nhận của bản thân, Toàn thể hiện tình cảm của cả một thế hệ đối với quê hương đất nước và ca ngợi tình cảm thủy chung son sắt của nhân dân ta.

cảm nhận câu 7 của bài ca dao việt nam – văn mẫu 8

Nhận xét về thơ Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi từng cho rằng “Tố Hữu cả đời là người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ của cách mạng”. Nếu dư âm bao quanh những bản tình ca của người ở lại và người ra đi ngọt ngào, da diết, sâu lắng như lời ru tâm hồn trong nhịp thở ký ức triền miên, thì bản hùng ca kháng chiến lại cất lên, những vần thơ mang không khí hào hùng, hùng tráng. . khổ thơ thứ 7 tuy chỉ với 3 cặp thơ lục bát nhưng đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, núi đá, ta cùng nhau đánh về phía tây, núi trải một hàng rào sắt dày, rừng che bộ đội rừng, chúng bao vây địch, bao vây. bốn phía bao la sương mù, trời đất của chúng ta đều là chiến khu trong một trái tim. ”

đoạn thơ miêu tả cuộc sống chiến đấu ở việt bắc mang âm hưởng mạnh mẽ, sôi động và hào hùng. hình ảnh “đất nước trỗi dậy”, “rũ bùn mà sáng lên” dường như sống động trong từng câu thơ. một lần nữa, thiên nhiên và con người lại kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh phi thường để đánh bại quân xâm lược.

“hãy nhớ khi kẻ thù đến”

Làm sao chúng ta có thể quên được cảnh tượng những cuộc truy lùng ráo riết của thực dân Pháp như một bầy chó săn khát máu đã giẫm nát xương máu của tổ tiên, tắm cho dân tộc mình trong vũng máu và tiếng khóc thương ngàn đời? , tội ác đã được phơi bày trong biết bao tiếng thở dài than thở, đầy hận thù:

“Quê hương của chúng tôi kể từ ngày khủng khiếp giặc lửa, ruộng khô, nhà cháy, đàn chó tìm thấy một đàn cây lê đẫm máu và bờ vực hoang vắng.”

> p>

(bên kia sông – hoàng cam)

Trước những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, cuộc chiến đấu chống giặc của người Việt Bắc được miêu tả một cách khái quát và hào hùng. ở đó, thiên nhiên và con người hòa quyện tạo nên sức mạnh to lớn, ngăn chặn sự vây hãm của kẻ thù.

“rừng, núi, chúng ta chiến đấu ở phía tây”

Núi rừng vốn dĩ là những thứ vô tri, vô giác, nhưng khi kẻ thù đến tàn phá và đàn áp nhân dân ta, núi rừng Việt Nam đã vùng lên trở thành những chiến sĩ anh dũng, anh dũng sát cánh cùng những người kháng chiến. . các biện pháp nhân cách hoá thường thấy trong thơ ca, nhất là các bài ca dao được thiên nhiên vận dụng tài tình, sáng tạo “rừng che quân giặc vây quân”. tạo thế trận, thế tấn công, nhất là loại lưới dồn địch. những dãy núi trải dài như một pháo đài bất khả xâm phạm. Trong 4 câu thơ, các từ “rừng” và “núi” được lặp lại năm lần, nó bao trùm cả câu thơ, trải dài trên vùng đất Việt Bắc, tạo nên sự hiểm trở của bức tường rào thép bao quanh kẻ thù, như kéo dài về phía kẻ thù. thách thức bất kỳ kẻ xâm lược nào dám đến gần.

với núi rừng trải dài, mạch thơ choáng ngợp:

“Bốn bề sương mù, đất trời, chúng ta một lòng một dạ chiến khu”

hình ảnh tượng trưng cho “bốn bề bao la” gợi lên không gian hùng vĩ, bao la của núi rừng Việt Bắc. yếu tố khéo léo sử dụng thủ pháp đối lập, trong không gian rộng lớn ấy, đất trời, thiên nhiên chỉ “một lòng một dạ”. cả núi và người dường như đập cùng một lúc. họ đều lên chiến khu, ra trận, với sứ mệnh bảo vệ quê hương thân yêu. câu thơ âm vang hào hùng, hào sảng và tự hào về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây không chỉ là cuộc chiến đấu chính nghĩa, hợp lòng dân, mà còn là cuộc chiến mà cả dân tộc, cả quê hương chung tay chiến đấu. từ một đội quân chỉ vỏn vẹn 34 người đến từ cội nguồn thời đại mới năm nào, dưới sự chỉ huy của các vị võ tướng, ngày nay chúng ta đã có một đội quân hùng hậu liên tục lập được những chiến công hiển hách. chính sức mạnh đó đã làm nên chiến thắng của điện biên phủ năm xưa “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, khiến cả thế giới phải ngả mũ trước một con người nhỏ bé nhưng kiên cường, trong gian khó cũng có sức mạnh phi thường.

Chỉ qua 6 câu thơ, tou hu đã viết nên bản hùng ca thời chiến, khẳng định sức mạnh to lớn của dân tộc ta, khẳng định truyền thống “đoàn kết, yêu nước nồng nàn” ngàn đời của biết bao dân tộc Việt Nam. bài thơ nói riêng và tiếng việt nói chung sẽ mãi là những vần thơ có sức sống bền bỉ trong lòng bao thế hệ người đọc.

phân tích viet bac câu 7 – dạng 9

Chỉ của bạn được coi là ngọn cờ chính trong thơ ca cách mạng. thơ ông vừa lãng mạn, vừa trữ tình và chính trị, đặc biệt là tính dân tộc. bài thơ việt bắc là một tác phẩm rất hay của anh, ra đời nhân một sự kiện chính trị là chiến dịch thắng lợi, miền bắc hoàn toàn giải phóng, các cơ quan nhà nước từ việt bắc về việt nam, hà nội. Những bài thơ viet bac gợi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến của quân và dân ta trên chiến khu viet bac. khổ thơ thứ bảy của bài thơ cho ta thấy rõ nỗi nhớ chiến trường.

Nếu đoạn thơ Việt Nam mở đầu bằng cảnh chia tay bằng tiếng hát đối đáp của những người ở quê thì ở khổ thơ này ta lại thấy được nỗi nhớ chiến khu với cảnh và người Việt Nam trong bốn mùa xuân hạ thu đông. . mỗi mùa một vẻ đẹp nhưng đều mang nét đặc trưng của Việt Nam.

đầu bài thơ là ước vọng của người ra đi với người ở lại mà ta thường thấy trong các bài ca dao về tình yêu:

“khi về thì nhớ mình, về thì nhớ hoa bên em”.

vẫn là cách xưng hô thân mật “tôi – ta” và câu hỏi “có nhớ tôi về bạn không?” làm cho bức thư có một giọng điệu ngọt ngào. chúng ta nghe thấy nó như tiếng nói say đắm, khắc khoải của một đôi trai gái đang yêu. Với nhà thơ, tình quân dân thắm thiết, mặn nồng như tình yêu đôi lứa! người ra đi không chỉ thương nhớ “người ở lại” mà trong nỗi nhớ ấy còn có những “đóa hoa” đồng hành. “hoa” là một ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên trong viet bac. thiên nhiên bốn mùa làm nền tôn lên vẻ đẹp của con người nơi đây.

Hình ảnh của Việt Bắc trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đã được nhà thơ tái hiện lại bằng bốn bức tranh tứ bình, với lối vẽ truyền thống trong hội họa cổ phương Đông. mở đầu cho hình ảnh bốn mùa là cảnh rừng việt bắc mùa đông với màu xanh ngút ngàn điểm xuyết “hoa chuối đỏ tươi”:

“rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, bước cao dưới nắng, thắt lưng thắt lưng”

chỉ với vài nét chấm phá nhưng yếu tố đã mở ra một hình ảnh mùa đông sống động với những đường nét hài hòa đẹp mắt, màu sắc tươi tắn, vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng. những “bông hoa chuối đỏ tươi” giữa rừng già như những đốm lửa sáng rực đốt nóng cả khu rừng phía đông. hình ảnh rừng đông việt nam đẹp hùng vĩ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, ấm áp. trên nền cảnh đại ngàn là hình ảnh con người bay lượn trên “đèo cao”, dưới cái nắng như thiêu đốt và hình bóng của “con dao thắt lưng”. “Dao thắt lưng” là một đặc trưng của người Việt trong rừng già. trong cái nắng chiều “bỏng rát”, ánh dao ấy soi sáng giữa thiên nhiên để ta nhận ra có một con người đang hiện hữu giữa màu xanh thẳm của rừng. đưa con người lên “đèo cao” giữa cái “nắng thiêu đốt” và cảnh thiên nhiên hùng vĩ đã tôn lên tầm vóc của con người, vĩ đại, mạnh mẽ ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ. đó cũng là tầm vóc của những con người trên chiến trường cách mạng trong thời đại anh hùng.

hình ảnh thứ hai là hình ảnh mùa xuân hiện lên trên chiến khu, cả một miền đất nước Việt Nam đổi sang một màu mới:

“mùa xuân rừng nở trắng xóa nhớ người đan nón, chuốt từng sợi”

Khung cảnh mây mù của rừng đại ngàn giờ đã được thay bằng màu “trắng mộng trong rừng”. Cả không gian rộng lớn của chiến khu Việt Bắc được khoác lên mình một màu trắng muốt của “hoa mai”. viet bac nên thơ, lộng lẫy, tinh khôi và tràn đầy sức sống của mùa xuân khoe sắc. Nếu miền Bắc có hoa đào hồng và miền Nam có hoa mai vàng rực, thì bạn đã tinh tế nhận ra sắc trắng của hoa mai chính là màu đặc trưng của mùa xuân trên đất nước này. trong nỗi nhớ nhung của người tham dự, hình ảnh con người việt vẫn chiếm vị trí trung tâm của bức ảnh. Hình ảnh người bình thường “dệt nón” hiện lên rõ nét trong thơ Tố Hữu. động từ “chuốt” đã thể hiện hình ảnh một người đang chăm chút, tỉ mỉ, cẩn thận chuốt từng “sợi” mảnh bằng lòng say mê lao động và đôi bàn tay khéo léo điêu luyện.

bước đến hình ảnh cảnh ngày hè ở chiến khu Việt Bắc:

“câu trích rừng kêu trời đổ vàng, nhớ em gái hái măng một mình”

vào mùa hè ở Việt Nam, cả không gian tràn ngập tiếng ve. đây là âm thanh quen thuộc báo hiệu mùa hè đến. chúng ta cũng đã từng thấy tiếng ve kêu trong thơ văn nguyễn trai thế kỷ 15: “Tiếng ve kêu nguyệt cầm”, nhưng màu sắc của tiếng ve vẫn có nét độc đáo riêng, đó là hình ảnh “rừng già”. . đổ vàng “. hổ phách là một loại cây thân gỗ thường mọc trong rừng và là đặc trưng của chiến khu việt bắc, khi đến mùa cây hổ phách sẽ nở những bông hoa vàng rực trong nắng. Màu vàng lộng lẫy của những bông hoa hổ phách, khiến mùa hè nơi đây trở nên rực rỡ, rạng rỡ. với âm thanh, nhưng cũng rung động với màu vàng đậm!

Trong nỗi nhớ của mình, nhà thơ đã cùng hiện hữu hình ảnh thiên nhiên và con người:

“nhớ chị hái măng một mình”

Gọi “chị” là cách gọi thân thương, trìu mến của nhà thơ đối với những cô gái ở chiến khu. bởi với anh, viet bac không chỉ là chiến khu cách mạng mà còn là gia đình thân thương, gắn bó. động từ “nhặt” được đặt trong câu gợi một cử chỉ rất mềm mại, nhẹ nhàng, duyên dáng của một cô gái duyên dáng đang đi tìm chồi non. đưa cô gái “hái măng một mình” giữa đại ngàn Việt Bắc đã tôn lên vẻ đẹp chịu thương, chịu khó, cần cù lao động của con người nơi chiến khu. Đồng thời, nó cũng làm cho cảnh rừng Việt Nam trở nên thơ mộng, sinh động, tràn đầy sức sống của con người.

khép lại khổ thơ bằng hình ảnh đêm trăng của núi rừng Việt Nam:

“rừng thu trăng chiếu hòa bình nhớ ai chung tình khúc ca ân tình”

Chúng ta đã từng thấy hình ảnh một đêm trăng khác ở chiến khu Việt Bắc, thành phố Hồ Chí Minh, “trăng cổ thụ soi bóng hoa”. tuy nhiên, đọc bài thơ, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của đêm trăng nơi chiến trường một lần nữa. Chỉ bằng một từ đơn giản, quen thuộc “ánh sáng”, nhà thơ đã thu trọn vẻ đẹp tiêu biểu của núi rừng Việt Bắc. Trong sự hiu quạnh của núi rừng về đêm, ánh trăng từ trên cao buông xuống, xuyên qua từng lớp tán lá làm cho thiên nhiên Việt Bắc vừa thơ mộng vừa huyền ảo. Ánh trăng ấy chứa đựng bí ẩn ngàn đời hoang sơ của núi rừng Việt Bắc. Nó cũng gợi lên không khí đêm rừng Việt Bắc thanh bình của mùa thu thanh bình đầu tiên của đất nước khi chiến khu Việt Bắc không còn vang tiếng súng.

Trong khung cảnh của thiên nhiên, con người Việt Bắc hiện lên qua tiếng hát vọng cả núi rừng về đêm. câu hát ấy làm náo động không gian tĩnh lặng của núi rừng, thổi vào đó hơi thở của cuộc sống khiến núi rừng nơi đây thêm thơ mộng, ấm áp và tràn đầy sức sống. ta có thể nghe được tiếng hát, nhưng cũng có thể thấy được tấm lòng của người hát với “tình yêu thủy chung”. điều đó thể hiện sự gắn bó khăng khít bằng cả trái tim, bằng sự đồng điệu về tâm hồn giữa người nghe và người hát. Tình cảm đó là sự gắn bó, tình quân dân, nghĩa tình của những người con đất Việt với cách mạng trong suốt 15 năm gian khổ có nhau.

Đại từ “ai” được sử dụng rất nhiều trong các bài hát về tình yêu. yếu tố kế thừa truyền thống thơ ca dân tộc tạo nên phong cách dân gian và tinh thần dân tộc đậm đà trong thơ lục bát. Từ đó, tình cảm quân dân nơi chiến khu này trở nên khăng khít như tình yêu.

khổ thơ thứ bảy của tác phẩm Việt Bắc đã cho chúng ta thấy một hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp và đa dạng, mỗi mùa một vẻ về chiến khu Việt Bắc. cùng tồn tại với thiên nhiên là hình ảnh của những con người Việt Nam cần cù, chịu khó với đôi bàn tay tài hoa và tấm lòng thủy chung. đoạn thơ cũng ghi lại những nét riêng trong phong cách nghệ thuật thơ. đó là thơ trữ tình chính trị với giọng thơ ngọt ngào, hùng hồn. đặc biệt ta còn thấy được tính dân tộc rất đậm đà thể hiện ở câu thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cách gọi ta – ta, những lời ước ao trong các câu hát đối đáp. Ngoài ra, chúng ta còn thấy yếu tố huy động chất liệu dân gian với lối vẽ tứ giác, lối vẽ chấm phá thường thấy trong hội họa phương Đông.

Qua khổ thơ thứ bảy của bài thơ Việt Bắc, ta thấy được hình ảnh đẹp đẽ, hào hùng của thiên nhiên và con người nơi chiến khu. viet bac là khúc hùng ca, khúc tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến, của quân và dân ta. nó cũng nhắc nhở chúng ta về lòng trung thành và ân nghĩa của cách mạng và nhân dân Việt Nam.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích bài thơ việt bắc khổ 7. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *