Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
411 lượt xem

Top 7 mẫu Phân tích Việt Bắc hay nhất chọn lọc

Bạn đang quan tâm đến Top 7 mẫu Phân tích Việt Bắc hay nhất chọn lọc phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Top 7 mẫu Phân tích Việt Bắc hay nhất chọn lọc

Hãy phân tích tác giả bài thơ Hủ tiếu của người Việt Bắc để hiểu rõ hơn về cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc. Trong bài viết hôm nay hoatieu xin chia sẻ một số bài văn mẫu phân tích, cảm nhận về thơ Việt Nam để các em có thêm tài liệu học tốt ngữ văn 12.

  • top 4 mẫu tự phân tích tốt nhất 2 mẫu tốt nhất
  • 6 mẫu phân tích quang dũng miền tây tốt nhất
  • bộ tứ 5 mẫu phân tích chi tiết và chọn lọc nhất Việt Nam

để phân tích về miền Bắc Việt Nam và thấy được không khí lo lắng, tiếc thương của những người ra đi khi Trung ương Đảng và chính phủ rời rạp hát Việt Bắc trở về thủ đô. viet bac là bản tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến. Bài thơ này thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân, đất nước với niềm tự hào dân tộc … Sau đây là tuyển tập những bài văn mẫu phân tích thơ Việt Nam, phân tích 8 dòng thơ đầu Việt Nam. Miền Bắc, Cảm nhận những bài thơ Việt Nam Mời các bạn tham khảo.

1. Sắp chữ thơ Việt Nam

bo cuc phan tich bai viet bac

2. Giáo trình Phân tích Tiếng Việt

Tôi. Phân tích Mở đầu về Bài báo Việt Nam

“Vào năm thứ 9 của Dianbian, biên giới cây rum sẽ là lịch sử vàng”.

(có thể).

– Cuộc chiến đấu gian khổ chống Pháp kết thúc thắng lợi vẻ vang, tháng 10.1945, Trung ương Đảng và chính phủ chuyển từ Chiến khu về thủ đô Hà Nội. Tố huu đã viết một bài thơ về Việt Nam để tưởng nhớ những người dân Việt Bắc.

– Bài thơ này là một bản tình ca gửi gắm tình cảm giữa những người đã trở về và những người ở lại, thể hiện tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ nhung đối với người đã khuất. viet bac là một trong những bài thơ thể hiện tài năng và phong cách đỉnh cao của huu …

Hai. Phân tích nội dung bài viết Bài bac Việt

1. Hai mươi câu đầu: kỉ niệm về cuộc kháng chiến chống Nhật, thể hiện tình cảm quân dân

– Thông điệp của Bắc Việt:

+ Bốn dòng đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có nhớ “ta” đã từng ở đây, hỏi người có nhớ “núi, cội” ở để nhớ về mảnh đất nơi anh đã từng sinh sống và gắn bó. 15 năm tình bạn. Câu hỏi này là một cái cớ, thực ra là một lời nhắc nhở đừng quên mảnh đất tình yêu của loài người.

→ Những điều bình thường, những tình cảm đạo đức. Hiệu quả của nghệ thuật tu từ, có thể bộc lộ tình cảm của người nói, người ra đi kín đáo toát lên nỗi nhớ thương, trân trọng người ra đi không nguôi.

+ Lời giải thích của nhà thơ, hãy tự nhắc nhở mình

– Bảo mật những người trở về sau bữa tiệc chia tay

Bốn câu tiếp theo gợi cảnh chia tay. “Một bên cồn gợi nhớ đến một bờ sông nào đó ở nơi khác, với tiếng hát rộn ràng, người đi trên cát nắm tay nhau không nói nên lời, tất cả tạo nên cảm giác thân thương, tình quân dân. bầu không khí của sự gắn bó.

Thuật ngữ “bồn chồn, bồn chồn” mô tả những cảm xúc hỗn loạn, bồn chồn do bị chặn lại.

Thể hiện tình cảm của những người ở lại đối với nhân dân Việt Nam.

Hình ảnh ẩn dụ của “Áo dài” ở miền Bắc Việt Nam. Nó tượng trưng cho sự giản dị, chân chất và tâm hồn sâu lắng của miền Bắc Việt Nam.

-Như chia tay, nhớ lại những năm tháng gian khổ nơi chiến khu

“Mưa Xuân Mùa Lụt”: Trời đất ầm ầm, chìm trong mưa xối xả, mùa mưa khắc nghiệt ở Việt Nam khiến cuộc sống trong rừng càng thêm khó khăn.

Cách tiếp cận so le của “Mây đen” nhấn mạnh bầu trời u ám, những khó khăn, gian khổ và ẩn dụ khó khăn “miếng cơm manh áo” trong những ngày đầu kháng chiến chống Nhật: vừa hiện thực vừa dễ gây hiểu nhầm, nhưng thiếu thốn về mọi mặt của chiến khu.

Khi đau khổ có nhau, khi hạnh phúc, kẻ sống, lúc chia tay, lòng người ở lại chợt ngập tràn tiếc nuối, nhớ nhung. Từ “núi rừng” hoán dụ chỉ người Việt Bắc, tính nết cẩn trọng hơn, đại từ “ai” là phong cách dân gian địa phương

Người Việt Nam mang trong mình những ký ức lịch sử khó quên và tự hào về vùng đất anh hùng này. ⇒ Ở hình thức đối thoại, những câu thơ diễn tả tình cảm của người dân miền Bắc Việt Nam đối với cán bộ, chiến sĩ. ..

2. Lời thú tội của những người đã khuất

– “Em ở bên anh và anh ở bên em” là lời khẳng định cho lòng trung thành, tấm lòng son sắt của người ra đi, người ở lại.

-Người nhớ nhà ra đi, thiên nhiên nhớ nhung, trăng chiều, nắng chiều sương, rừng trúc … nhớ bốn mùa có nhau

– Nhớ con người Việt Bắc: dù gian khổ, thăng trầm, đã bất chấp gian khổ, chia ngọt sẻ bùi. Sử dụng tiếng hát để khơi gợi những kỷ niệm ấm áp về tình đồng bào, chiến sĩ, “Một lớp thời khóa biểu” … hình ảnh giản dị của “chị” làm công nhân bán thời gian

– Nhớ hình ảnh đoàn kết, anh dũng đánh giặc

– Nhớ về chiến công hiển hách, niềm vui chiến thắng

⇒ Tình yêu của người lính với dân tộc Việt Nam với quê hương đất nước cũng chính là tình yêu của nhà thơ đối với nhân dân, đất nước và cuộc sống kháng chiến

3. Một bộ tứ của những cái nhìn có hồn qua các yếu tố

– Buổi trò chuyện của những người nghiêm túc và chuyên sâu.

“Hoa và Người”: Nỗi nhớ về một đối tượng cụ thể

Đại từ nhân xưng “i-i” thể hiện tình yêu sâu sắc đối với người đã khuất

Từ “Tôi đã về” ở đầu câu nói lên sự lo lắng và nhớ nhung, lưu luyến khi chia tay và nhớ lại quá khứ.

-Trong hoài niệm, bức tranh dường như có một cảm giác thẩm mỹ của sự phụ thuộc lẫn nhau

<3

Vẻ đẹp mùa đông: Thiên nhiên toát lên những bông hoa chuối đỏ thắm sống động với những màu sắc tương phản gợi lên vẻ rực rỡ. Nhờ sắc đỏ mà không gian bỗng bừng sáng, ấm áp khiến nỗi nhớ càng thêm ấm áp.

Vào mùa xuân, thiên nhiên Việt Bắc được bao phủ bởi màu xanh của núi rừng, điểm xuyết màu trắng tinh khôi của hoa mơ. Động từ “nở” và tính từ “trắng” ngụ ý hoa nở, mùa xuân. Khung cảnh mùa xuân, mọi người đang chăm chỉ tạo nên một bức tranh hài hòa

Vào mùa hè, Việt Bắc mang màu vàng tuyệt đẹp của rừng Hổ phách. Phong cảnh mùa hè trông cổ điển, quyến rũ và lấp lánh

Cuối cùng là khung cảnh mùa thu vẻ đẹp của đêm trăng. Một tính năng kỳ diệu, yên bình, tuyệt vời. Người đẹp mang nhiều ước mơ đẹp trong tương lai

– Câu kết thúc bằng “Bài ca tình yêu trung thành”. Đây là bài hát của những người ở lại và bài hát của những người ra đi. Bài ca của niềm hy vọng tha thiết, tình cảm của con người.

⇒ Bài thơ này mở ra một thế giới vẻ đẹp: một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, một nhân vật đẹp một trái tim đẹp và một nỗi nhớ đẹp. Nó thể hiện tình yêu quân dân, tình yêu đất nước cao cả của nhà thơ.

4. Phần còn lại: những người Việt Bắc rộng lớn trong trận chiến anh dũng.

– Bằng lối viết sử thi, tác giả miêu tả đội quân sôi sục trên chiến trường.

Từ “đêm” gợi tả một khoảng thời gian dài, điệp từ “ầm ầm” kết hợp với nhịp thơ 2/2 gợi lên một hành khúc đều đặn, chắc chắn.

Cường điệu hóa chiến thuật “xông đất” chứng tỏ sức mạnh phi thường của quân đội.

Một bức chân dung quân đội đại diện cho một quốc gia anh hùng.

– Đường đi khó khăn nhưng các chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, sương mù và niềm vui khi ngắm cảnh: thể hiện lòng yêu đời, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.

“Nam mũm” có nghĩa là: một người lính đem lòng yêu anh lính, cho anh ta thêm động lực chiến đấu

Hình ảnh cụ thể về súng và các ngôi sao giàu tính biểu tượng. Đầu súng gợi lên khung cảnh chiến tranh, ngôi sao diễn tả hòa bình, tương lai tươi sáng, hay ngôi sao cũng là hình ảnh ẩn dụ cho ánh mắt của kẻ si tình.

– Hình ảnh đám đông

Ánh sáng của ngọn đuốc gợi lên không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Hình ảnh tươi sáng ấy toát lên sức mạnh, sức sống, gieo niềm tin tươi sáng.

Hình ảnh “Slate Stampede” thể hiện sức mạnh của quần chúng.

Legion mang vẻ đẹp của những anh hùng chiến đấu và sức mạnh của chiến tranh nhân dân

– Nhiều chiến công vang dội đã được các đoàn quân viễn chinh đánh trả, chấn động địa cầu.

Liệt kê những nơi bạn có thể thấy những chiến thắng tưng bừng

Từ “Hi” thể hiện niềm vui sướng, phấn khởi vô hạn trước chiến thắng ⇒ Cả bài thơ tái hiện hình ảnh chiến tranh Việt Nam trong những năm tháng chiến đấu, từ đó hát lên chiến tranh Việt Nam anh hùng, đất nước anh hùng.

Ba. Kết luận Phân tích Điều Việt Nam

Việt Nam là một bài thơ xuất sắc với dấu ấn của một con hổ. Có cả cổ điển và hiện đại, bối cảnh và con người, tình cảm và lý trí, cũng như thơ ca dân gian, một sử thi sử thi đặc biệt chỉ có ở Tuhu

3. Bản đồ tư duy phân tích Việt Nam

Phân tích Việt Bắc

4. Phân tích Việt Nam

“Việt Nam” là tác phẩm tiêu biểu của Dohu và là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam trong thời kỳ Kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Ra đời trong lịch sử anh hùng dân tộc, chiến thắng Điện Biên chấn động thế giới, miền bắc hoàn toàn giải phóng, ngày hội Thủ đô Hà Nội (10) – 1954) rợp bóng cờ đỏ, bài thơ “Việt Miền Bắc “Đó là bài ca trung thành với ta, chiến sĩ, cán bộ và đồng bào đối với Đảng, Bác Hồ ở miền xuôi, vùng cao đối với Nhà hát Việt Bắc trong Kháng chiến Cách mạng; Dân tộc ta đã thắng trận ở nhiều hơn. hơn ba nghìn ngày mưa máu. khúc ca anh hùng.

Bài thơ “Việt Bắc” có thân bài là một bài thơ dài, với hơn 150 khổ thơ, vừa là ca dao, vừa giàu chất dân ca, vừa là vẻ đẹp của thơ ca cổ điển, vừa là vẻ đẹp của thơ ca cách mạng dân tộc. ..

Đoạn thơ mở đầu bằng cảnh anh từ biệt em, gợi lên một thiên đường nhớ nhung, nhớ nhung, khắc khoải, tha thiết giữa người đi và người về:

Tôi đã trở lại, tôi nhớ bạn

Mười lăm năm mặn nồng

Bạn có nhớ khi tôi quay lại không

Nhìn cây nhớ núi, trông sông nhớ nguồn?

Hình ảnh hoán dụ của “chiếc áo chàm” xuất hiện trong buổi lễ chia tay đã tạo nên màu sắc của Việt Cộng, màu của núi rừng nơi chiến khu, màu hoài niệm của tình quân dân sâu nặng. người dân. Mười lăm năm trong tim. Thiên đường của cách mạng và kháng chiến:

Chiếc váy màu chàm riêng biệt

Hãy nắm tay nhau và biết phải nói gì hôm nay …

Từ Khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, đến chiến thắng Điện Biên, đến ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (mùa thu năm 1954), tôi đã trải qua một chặng đường dài gian khổ, anh dũng và có nhiều kỷ niệm sâu sắc. trong tim tôi. Những câu hỏi của người ở lại, xen lẫn tiếng hát cứ hòa vào tâm hồn họ, thấm sâu vào tâm hồn của những người cán bộ Chống Nhật trở về: “Đi về có nhớ… Đi có nhớ không? ? ”. Tôi vẫn nhớ như in những ngày tháng gian khổ “đắp lửa”: “mưa suối mây dâng”. “Tôi Nhớ Chiến Khu”, “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng trĩu” khi đuổi nắng. Trong nghèo khó, lòng căm thù giặc đã in sâu vào tâm hồn người dân, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng lên đôi vai: “Mày chết đi! Giặc Pháp hung ác – chặt xương tan xác” “(” Chuyển “Làng”-Động đất Đông Quan). Mình đi … mình về … Có nhớ, nhớ nhồi, nhớ măng, nhớ trát, nhớ địa danh lịch sử, nhớ “Tân Tân, Hồng Tài, mái đình “Cây đa? “Nhớ về Việt Bắc là” nhớ về cuộc kháng chiến chống Nhật trong kỷ nguyên Yueming “, là nhớ đến đồng bào cả nước dù đã xuống sắc nhưng vẫn trung thành với cách mạng. lên một không gian rộng lớn đầy yêu thương:

Tôi nhớ nhà

Mũ trát và son môi đầy.

Xa Việt Nam, trên đường trở về thủ đô, xuống núi, người cán bộ kháng chiến mang theo bao nỗi nhớ và đong đầy trong tâm hồn nhiều kỷ niệm đẹp, sâu sắc:

Tôi sẽ nhớ bạn

Bao nhiêu nước, bao nhiêu tình yêu ….

Người đi rồi người về với bao nỗi nhớ nhung nhớ mình, trăng trên đỉnh núi, nắng chiều, sương khói, bếp lửa, rừng trúc, sông, đáy của dòng sông, suối lê, …

<3 Sự thống nhất và đau khổ làm cho tình yêu và nỗi nhớ trở nên mạnh mẽ hơn:

“Thương nhau thì chia nhau củ sắn,

Một nửa bát cơm, đắp chăn bông ”.

Lời nói: Thương nhau, chia nhau miếng bánh, thắp lên tiếng thơ như ngọn lửa hừng hực, tình đồng bào, chiến sĩ, đất nước thêm ấm áp.

Tôi nhớ chiến khu, nhớ chiến tranh Việt Nam, nhớ mình, nhớ mẹ vất vả “Nắng lên lưng còng, mẹ bồng con ra đồng đập từng hạt ngô”. . Cụm từ “nhớ những vì sao” miêu tả sự khắc khoải: nhớ lớp nhớ ngọn đuốc tiệc tùng; nhớ tiếng hát sau núi, giữa vách núi, nhớ tiếng súng trong rừng buổi chiều, tiếng đàn. tiếng chày gõ cối đêm khuya … Nhạc rừng chiến khu. “Hoa và người” bốn mùa Việt Bắc đã trở thành kỷ niệm trong lòng chúng tôi:

Bạn có nhớ tôi khi bạn trở lại không,

Tôi nhớ những bông hoa của bạn khi tôi trở lại,

Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao dưới nắng bằng dao.

Vào mùa xuân, khu rừng sẽ nở hoa trắng muốt

Hãy nhớ ai đan mũ và đánh cát.

Tên tôi là Bánh bao trong rừng,

Tôi nhớ em gái tôi đi hái măng một mình.

Ánh trăng trong khu rừng mùa thu thật yên bình,

Nhớ câu ca dao thủy chung.

Bài thơ này giống như một bài tập về vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt Nam được tô đậm trong bộ tranh tứ bình đẹp như tranh thêu dệt gấm. Màu đỏ tươi của những bông hoa chuối trong rừng nhựa ruồi, và những con dao găm của những người vượt dốc và xuống cánh đồng “Ánh dương” ở Gaoyakou. Hoa mai xuân “nở trắng rừng”, những người thợ khéo léo đan chiếc nón lá “mài sợi tơ”. Rừng hổ phách mùa hạ “vàng rơi” tiếng ve kêu, một cô gái Việt Nam “một mình” hái măng trong rừng trúc. Hát bài tình ca chung thủy của ai đó trong rừng thu dưới ánh trăng xanh dịu mát. Nó đã trở thành nỗi nhớ của tôi đối với những người cán bộ kháng chiến.

tou huu sống hoàn toàn bằng tiếng việt bac nên viết rất hay. Cảnh sắc thiên nhiên lộng lẫy, tươi đẹp và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bốn mùa đều đẹp, thơ mộng như tranh vẽ. Người Việt nói mình là dân lao động: người làm ruộng, người thợ thủ công, chị em hái măng, người hát rong – tất cả đều tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân các dân tộc Việt Bắc. Chăm chỉ, giỏi chuyên môn, lạc quan, yêu đời. Đọc bài thơ Việt Nam ta sẽ không bao giờ quên được cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa và những người lao động thân thương ấy.

Nhớ đến miền Bắc Việt Nam là nhớ đến chiến khu bất khuất: “Núi non đắp lũy dày sắt”. Nhớ Việt Nam là nhớ đến cuộc Chiến tranh nhân dân kỳ thú: “Rừng núi ta đánh Tây”. Nhớ miền Bắc Việt Nam là nhớ chiến khu, với niềm tự hào về đoàn kết dân tộc, nơi tiếp thêm sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng của Việt Nam:

Sương mù bốn phía ấn tượng,

Chúng tôi có cả một vùng chiến sự.

Tác giả đã tạo ra những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa để ca ngợi nhà hát Việt Nam – cái nôi của cuộc cách mạng “Cộng hòa” – như một chiến binh dũng cảm. “Ai về ai nhớ?” – Tôi nhớ rất nhiều, nhớ rất nhiều. Nhớ đường ra trận, nhớ những địa danh lịch sử vào sinh ra tử của quân ta từng làm giặc Pháp run sợ: “Nhớ Tống cung, nhớ giang khẩu – nhớ sông, nhớ phố – nhớ Cao Lãng nhớ Niha”. Cả thiên đường tình yêu không bao giờ có thể quên được. Khi về, ta lại nhớ đến những con đèo, con sông, ngọn núi… ấy và nay ta đã “lột ​​xác” tâm hồn mình từ những ngày tháng gian khổ mà oanh liệt.

Nhớ về chiến tranh Việt Nam là nhớ về tuyến chiến dịch, nhớ về những đêm “ầm ầm” hành quân trên chiến trường. Dưới ánh sao đêm, người ta nhớ đến binh đoàn “điệp viên hợp tác”. Nhớ “bước chân dậm chân tại chỗ” của đoàn xe vận tải đi theo ngọn đuốc đỏ, và tiếng “bật đèn pha” của đoàn xe kéo pháo vào trận địa. Tiếng hát hùng tráng cất lên như tiếng reo hò, thể hiện tinh thần chiến đấu và niềm vui chiến thắng của quân dân ta trong ba nghìn ngày qua:

Đường cao tốc Bắc Việt Nam của chúng tôi,

Màn đêm ầm ầm như đất rung chuyển.

Cùng một đội quân làm gián điệp

Ngôi sao trên đầu súng, đội mũ

Những công dân với ngọn đuốc đỏ theo nhóm

Tất cả các ngọn lửa bị giẫm nát thành từng mảnh

Sương mù ngàn đêm

Đèn pha sáng như mai.

“Em có nhớ khi anh về” – Em đã về…, em nhớ anh, nhớ anh nhiều! “, là nhớ” mái đình Hồng Đài, cây đa mới “, là nhớ” quê hương cách mạng cộng hòa “…

Nhà hát Việt Bắc là nơi đồng bào và chiến sĩ gần xa đã gửi gắm niềm tin trong những năm dài đấu tranh gian khổ: “Nhìn về Việt Bắc quê hương: Ánh sáng Bác Hồ soi bóng… Ngẩng đầu nhìn Việt Nam trong phương bắc, nhưng hãy giữ lấy ý chí của mình ”.

Chiến tranh Việt Nam là nơi tổng hòa của mọi chiến công và thắng lợi của quân và dân ta ở khắp mọi nơi trên chiến trường, niềm vui chiến thắng không thể nói thành lời:

Tin vui khi giành được một trăm tên miền

Hòa bình, Tây Bắc, vui trở lại Điện Biên,

Chúc bạn hạnh phúc từ Tháp Anxi East,

Chúc mừng Việt Nam, đèo de, núi hồng.

Cảm xúc của tôi ngày càng mãnh liệt hơn trong phần thứ hai của bài thơ “Chiến tranh Việt Nam”; người đi, người về, miền xuôi, nghịch cảnh, nỗi nhớ thương da diết hơn. Quà miền xuôi của Việt Nam là đặc sản “sinh ra và lớn lên”, hương vị núi rừng:

Tôi sẽ gửi nó về quê hương của tôi,

Thuyền nâu, bè tre, trâu mộng.

Món quà ấy đã làm cho tình bạn, tình yêu quê hương đất nước của chúng tôi thêm bền chặt, làm cho cuộc sống, cuộc sống tươi đẹp hơn: “Nâu chàm đậm hơn, son không phai… đầm ấm, nhà nhà vui lắm”.

“Vietnam War” là một bản tình ca. Có biết bao nhiêu câu hỏi vang lên như những lời nhắc nhở, như truyền cho chúng tôi những tình cảm tốt đẹp của quân và dân, với cách mạng và kháng chiến, tình cảm của chính chúng tôi:

Nhà cao có thể nhìn núi không?

Sáng lên có nhớ trăng giữa rừng?

Khi nào Việt Nam sẽ hạnh phúc hơn?

Việc lặp lại từ “ngày mai” sẽ mở ra một bầu trời thơ mộng bao la. Đây cũng là niềm tin của tình yêu không thay đổi:

Trở lại làng vào ngày mai,

Lao Lin, Lao Shan, tình yêu trở lại.

Ngày mai sẽ bận rộn,

Tàu chạy ngược xuôi, giăng lưới mọi hướng …

Việt Nam khác nhau giữa các quốc gia. Các nhà máy mới sẽ mọc lên. Đường phố sẽ bật lên. Có nhiều mái trường ngói đỏ tươi cho tuổi thơ. Có “chợ vui trăm mối”. Tình nghĩa giữa miền xuôi và miền cao sẽ trở nên sâu sắc và thắm thiết. Xôi muối, cầy cào ở Đông Khẩu, mía tỉnh Thanh, lon canh thơm,… đều là những đặc sản miền xuôi gửi lại nghịch cảnh sẽ giúp cuộc sống mới ấm no, tươi đẹp hơn. Món quà từ miền xuôi lên vùng cao là món quà đền ơn đáp nghĩa “ai có lên, ta biếu xén người ấy”:

sam nga son, bat trang,

Vải lụa tơ tằm, vải lụa Hedong.

Những ân tình ấy, những lời thề nguyện giữa tôi và tôi đã khắc sâu và bản tình ca sẽ sống mãi:

Nước không chảy dưới đáy sông,

Mây đi mây về, kỷ niệm còn tươi ta về núi.

Đá vỡ lòng người không vỡ …

Một trong những hình ảnh đẹp nhất nổi bật trong bài thơ này là hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu của đất nước. Ông già đã làm việc chui ở Cao Bằng. Ai đến xu thế mới của thời đại Quốc dân đại hội. Ông đã sống và đi thuyền trên tàu Daihe. Tôi đã tham gia trận chiến biên giới … và bây giờ tôi trở lại với đội quân chiến thắng. Núi rừng phía Bắc Việt Nam “không ngăn được lòng người”, lòng “thấy bóng người” hoang mang. Chân dung vị lãnh tụ vừa cổ kính vừa linh thiêng, giản dị và gần gũi:

Tôi sẽ quay lại với bạn trên đường xuống núi

<3

Tôi nhớ ông lão có đôi mắt sáng ngời

Áo sơ mi nâu với một chiếc túi tuyệt vời!

Tôi nhớ bạn buổi sáng tốt lành

Để yên trên suối

Ghi nhớ nơi mọi người đi bộ lên đèo

Mọi người đi bộ và núi rừng theo dõi mọi người.

Mỗi nét vẽ đều kỳ diệu. Có núi rừng, cao nguyên, suối … làm nền cho bức tranh truyền thần. Có một cảm giác huyền diệu về ông lão: đôi mắt sáng ngời, chiếc áo nâu sồng với chiếc túi vải xinh xắn, sự thoải mái khi ngồi trên yên xe trong tiếng suối, khi đi trên đường quốc lộ … Lúc trời đã sáng. Khí chất của anh là trí tuệ Thông minh, giản dị, bình dị, hào hiệp, cao thượng. Con người tự nhiên được nhân hóa: “Người đi, núi rừng theo bóng người” đã làm phong phú và sâu sắc thêm lòng kính yêu, quý mến, ngưỡng mộ của nhân dân đối với Bác. Đây là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất tác giả viết về vị lãnh tụ của dân tộc kính yêu.

Bài thơ “Việt Nam” kết thúc bằng tình yêu quê hương đất nước và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu. Đây là tình yêu vĩnh cửu:

Nước ngàn năm tiếp theo

Mãi mãi biết ơn, càng sâu sắc càng tốt.

“Việt Nam” là sự kết tinh của thơ ca dân gian các dân tộc và thơ ca cổ điển. Cách đối đáp của mình theo kiểu dân gian được vận dụng một cách sáng tạo. Nỗi nhớ nhung da diết trong những người trở về đi cùng bao thăng trầm trong mười lăm năm qua, từ “kháng Nhật kháng chiến Việt Nam” đến ngày chiến thắng giòn giã: “Hòa bình, Tây Bắc, Điện Biên hạnh phúc”. Hình tượng vị lãnh tụ, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, lộng lẫy… kết hợp hài hòa, đẹp mắt tạo nên tính dân tộc và tính hiện đại của bài. bài thơ hay.

“Vietnam War” là một bản tình ca và bản hùng ca về cuộc cách mạng, cuộc kháng chiến và những con người trong chiến tranh. Nó nâng cao lòng yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Lòng trung thành là một bài học sâu sắc cho mỗi chúng ta và sẽ luôn là hành trang cho chúng ta.

Có người nói rằng “một bài thơ hay phải có dư vị văn chương”. Những năm tháng dài sống dưới chế độ bao cấp, vật dụng khan hiếm, nhiều khi phải ăn bo bo nên khi đọc Chiến tranh Việt Nam, nhiều người không cảm nhận được “dư vị” của nó.

Bước sang thế kỷ 20, đất nước chúng ta đang thay đổi từng ngày. Dù cho đến nay (2008), chưa thấy cảnh “phố mọc như nấm, măng mọc trên trời” ở miền Bắc Việt Nam, nhưng ai nấy đều cảm thấy lạc quan và tràn đầy hy vọng. Lời tiên tri này là “dư vị văn chương” của bài thơ “Chiến tranh Việt Nam”.

5. Phân tích Thi nhân Việt Nam

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, cán bộ, chiến sĩ rời Việt Nam trở về Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy luyến tiếc giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng, nhà thơ Du Hu đã viết bài thơ “Việt Bắc”. Dưới góc nhìn của các nhà thơ, nhà tư tưởng và bạn bè cách mạng, nó phản ánh sâu sắc hiện thực 15 năm kháng chiến chống Nhật của Việt Nam và báo trước sự phát triển của tư tưởng trong thời bình.

Các đoạn trích trong bài thơ “Việt Nam” miêu tả cuộc chia tay đầy mong mỏi của Việt Nam và các cán bộ trong cuộc kháng chiến chống Nhật, gợi lại những kỷ niệm hào hùng và đau buồn của cuộc kháng chiến chống Nhật. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và hát đếm ngược trong ca dao để hình dung người chiến sĩ Việt Nam và người cán bộ kháng chiến là ta-ta. Cuộc chia ly của người dân Việt Nam và người chiến sĩ cách mạng như cuộc chia ly của một đôi trai gái đầy khắc khoải, nhớ nhung da diết.

XEM THÊM:  Soạn bài Chiều tối | Ngắn nhất Soạn văn 11

Nó bắt đầu bằng các từ của viet bac. Thật khó để cho người ở lại nói chuyện trước, vì khi chia tay, người ở lại thường khó chịu với người ra đi:

“Khi trở về là mình em có nhớ đến anh không, có nhớ tình yêu nồng cháy của anh dành cho em mười lăm năm không, có nhớ trông cây, núi, sông, cội nguồn không ??”

Bài thơ “viet bac” có hai giai điệu chính. Bài thơ mở đầu “Em về anh nhớ em” là chủ đề đầu tiên. Bài thơ này thoạt nghe tưởng chẳng ra gì, nhưng lại rất sâu sắc. Một trăm cặp đôi đã chia tay cũng nói như vậy. Yếu tố mượn màu tình yêu để thể hiện tâm trạng cách mạng. Đại từ ta và ta đứng đối nhau của câu thơ, ta đã nhìn thấy khoảng cách. Từ “nhớ” được lặp lại ba lần tạo nên những âm hưởng chính của bài thơ: nỗi nhớ, nỗi nhớ thường trực, ân tình, ân nghĩa. Những người trở về giữ im lặng trước những vấn đề nặng nề và ý nghĩa của miền Bắc Việt Nam:

“Mình có thể nói gì với nhau hôm nay …”

Việt Nam hỏi lại:

“Khi ta đi, có còn nhớ những ngày suối chảy róc rách, những ngày mây trôi, có còn nhớ chiến tranh cơm mặn, mối hận nặng không?”

Cho người Việt Nam hỏi là cách nhà thơ nhớ lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ có một số hình ảnh “mưa lất phất, mây mù giăng giăng”, là cảnh ảm đạm của núi rừng những ngày đầu kháng chiến chống Nhật. Ta và ta cùng nhau chia sẻ nỗi nhọc nhằn “một chút muối bỏ bể”, cùng chung sức chống lại kẻ thù chung là “kẻ thù không đội trời chung”.

Đây vẫn là một vấn đề với viet bac, nhưng bài thơ đã chuyển đi:

“Em về rồi, núi nhớ hoa mai, mai già đi. Em đi, nhớ lau sậy xám xịt đầy son”

Những từ ngữ nhân hoá “Những người lính mất rừng núi” thể hiện tình cảm sâu sắc mà người Việt Nam dành cho những người kháng chiến. Thu về, núi rừng Việt Bắc vắng tanh “mai rụng đầy, mai già”. Nhồi (nhồi xanh và nhồi đen) và măng tây là hai món ăn hàng ngày của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa, nói cái thiếu, hay lắm! Hình thức tương phản bên ngoài (màu xám đục) và bên trong (trong lòng người con trai) thể hiện cuộc sống hiện thực và cái nghèo của người Việt Nam, nhưng bên trong, họ vẫn sống đúng với cách sống của mình. mạng.

Cuối câu, viet bac hỏi mọi người:

“Em đi đây, anh có nhớ em mới về đây không, Hồng Tài, mái đình cây đa?”

Chủ đề thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Tôi đi, tôi nhớ mình”. Nếu giai điệu thứ nhất là đạo lý dân tộc với lòng biết ơn, thì giai điệu thứ hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ người trở về không chỉ “nhớ anh” mà còn “nhớ anh”, trong lời yêu thương không chỉ “nhớ anh” mà còn “nhớ anh”. “Bạn và tôi. Mười lăm năm chung sống với em, tình cảm biết bao, anh hùng biết bao! Chúng tôi đã viết “Chen Tie, Hong Tai, mái đình, cây đa” trong biên niên sử của các anh hùng dân tộc. Bây giờ chúng ta đã xa nhau, chúng ta sẽ trở lại thành phố, hãy nhớ đừng thay đổi suy nghĩ của bạn về tôi, đừng nói là thay đổi suy nghĩ của bạn về bạn:

“Thành phố xa có còn thấy núi đồi? Phía đông có nhớ xóm làng sáng rực, có nhớ trăng giữa rừng?”

Để Việt Cộng thận trọng như vậy là cách tài tình của nhà thơ trong việc dự đoán diễn biến tư tưởng trong hòa bình.

“Tôi đi đây, tôi nhớ tôi”

Đây là dòng hay nhất trong bài thơ “Việt Nam” và là một sáng tạo tuyệt vời của tou. Tất cả những lời nói ân cần và những lời cảm ơn của người Việt Bắc đều được chào đón, và mọi người quay đầu lại. Lời nói của mọi người cũng chân thành:

“Ta với ta, ta với lòng, trước sau mặn nồng, ta đi, ta nhớ bao nhiêu nước, bao tình nghĩa…”

Hai đại từ ta – Tôi đã quằn quại “tôi và chính tôi, tôi và tôi” với sự nhiệt tình như vậy. Ý nghĩa không đủ rõ ràng, hãy kết hợp chúng thành một:

“Tôi đi rồi, tôi nhớ tôi”

(Trả lời cho câu hỏi: “Bạn có nhớ tôi khi tôi trở lại không”)

Ngôn ngữ của tình yêu là “bạn sẽ nhớ tôi khi bạn đi”. Nỗi nhớ của khán giả dạt dào là thế, và tình yêu của khán giả dành cho người Việt Nam là vô bờ bến, “nhiều nước, nhiều nghĩa”. Những người trả lời như thế này hẳn đã làm yên lòng những người ở lại – chiến tranh Việt Nam.

Vì vậy, nó là một biến thể giai điệu đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên, đây chỉ là một cách để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Cộng và cách mạng, đồng thời miêu tả cuộc kháng chiến oai hùng giữa quân và dân Việt Cộng.

Để làm yên lòng những người ở lại, những người trở về phải nói những lời ấm áp, có thể so sánh với tình cảm cao quý nhất của con người:

“Đừng quên mối tình đầu, trăng sáng lên núi, mặt trời chiếu rọi sau lưng”

Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại, và mỗi từ gợi lên vô số kỷ niệm khó phai giữa bạn và tôi. Những chi tiết nhỏ được gợi lại (Tình yêu là nhỏ là lớn).

“Thương nhau thì sắn củ, chia gạo, đắp chăn”

Con người Việt Nam thật đáng yêu và đáng quý biết bao khi trở về:

“Con nhớ mẹ dưới cái nắng như thiêu đốt.” Đưa lũ trẻ ra đồng bẻ từng lõi ngô. “

Tiếng trâu rừng réo rắt buổi chiều và tiếng chày bên suối đêm vọng mãi trong lòng người ra đi:

<3

Tóm lại, một người nhớ đến thiên nhiên Việt Nam tươi đẹp, thơ mộng và hấp dẫn (1); nhớ đến con người Việt Nam chất phác, giàu tình cảm, thủy chung. Tiếng nói từ các anh hùng. Cuộc kháng chiến anh dũng của tôi và bản thân tôi được xây dựng lại trong trí nhớ của bạn:

“Nhớ giặc đến xâm lăng, núi đá hiểm trở, ta sẽ cùng nhau hành quân về phía tây, dựng hàng rào sắt, bộ đội che rừng, rừng vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Nam dường như có hồn do tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa. Cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc đã trở thành hàng rào sắt che chở, che chở cho bộ đội “phát hiện” và “đánh” địch. Núi một, non sông, tên làng đều là những chiến công hiển hách của quân dân Việt Bắc. Và sau đó là đêm diễu hành, đám đông, đoàn xe bận rộn và tràn đầy năng lượng:

“Xa lộ Bắc Việt của chúng tôi ầm ầm như đất rung đêm, tin tức trùng trùng ánh sao nơi mõm và chỏm đỏ Nandan, ngọn đuốc in dấu chân sỏi, ngàn than hồng bay. Ngàn đêm sương mù dày đặc. giống như ngày mai tươi sáng. “

Tác giả chuyển sang những vần thơ trang trọng và thiêng liêng để bày tỏ nỗi nhớ về trung ương – cố nhân. Hình ảnh Việt Bắc trong trí nhớ của mọi người là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin và hy vọng của toàn dân tộc.

Những người trở về không quên trả lời những câu hỏi gay cấn về chiến tranh Việt Nam:

“Khi về lại nhớ xã Hồng Đài, cây đa tân trụ” (2)

(Trả lời cho câu hỏi “Tôi sẽ nhớ bạn khi tôi đi”)

Ý nói những người trở về muốn nói với Bắc Việt rằng dù ở những thành phố xa xôi, những người dân kháng chiến xưa vẫn giữ vững và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

p>

Vì vậy, tác giả đã khép lại phần đầu của bài thơ “viet bac” bằng sự thay đổi của làn điệu thứ hai. Và chủ đề về lòng trung thành – lòng trung thành với cách mạng Bài thơ “Chiến tranh Việt Nam” đạt đến chiều sâu ở phần đầu.

Chiến tranh Việt Nam là tác phẩm tiêu biểu của Tuhu, đồng thời là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca cách mạng và thơ ca kháng chiến. Bài thơ này thể hiện tài năng nhiều mặt của nhà thơ. Thể thơ lục bát là sự thể hiện cảm xúc, ý tưởng mới mẻ của tác giả nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Hát cho nhau nghe tạo nên nhạc điệu phong phú cho bài thơ. Tác giả sử dụng khéo léo nhiều biện pháp tu từ. Ngôn ngữ trong sáng, ý nhị, có nhiều nét đổi mới (đặc biệt là hai đại từ ta-me). Tiếng đàn của tình yêu – một đặc điểm nổi bật của phong cách thơ lục bát – ít có bài hát nào thấm thía hơn bài “Việt bắc”. Bài thơ còn hấp dẫn ở cách thể hiện những ý tưởng mới qua hình ảnh phong phú và những dự đoán rõ ràng của đoạn băng nhạc.

6. Cảm nhận thơ văn thời Bắc Tống ở Việt Nam

Touhu là đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và là nhà thơ có phong cách riêng. Tác giả có giọng ca trữ tình da diết, những tác phẩm của ông luôn gắn liền với những giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc. Như vậy, bài thơ mang đậm tính dân tộc mà không lạc hướng hiện đại.

Thơ văn Việt Bắc là đỉnh cao của thơ lục bát và là thành tựu xuất sắc của thơ ca chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Bài thơ này lấy đây làm điểm xuất phát và ngược về quá khứ, tưởng nhớ về cuộc cách mạng hào hùng và thời kỳ kháng chiến gian khổ chống Nhật, thể hiện nỗi nhớ quê hương, Đảng, Bác Hồ, đất nước. Nhân dân – là sức mạnh tinh thần kiên cường của dân tộc ta trên con đường cách mạng. Nội dung này được thể hiện bằng hình thức dân tộc đậm nét. Phong cách thơ của bài thơ này rất tiêu biểu.

Cốt truyện của bố cục tạo nên một tâm trạng đặc biệt, đầy cảm xúc: hôm nay anh đang nói gì … Đó là lời tạm biệt để sống với nhau 15 năm, có biết bao kỉ niệm đẹp, những thăng trầm của quá khứ , và bây giờ chúng ta cùng nhau nhớ lại những kỉ niệm đẹp, chắc chắn Định nghĩa về lòng trung thành, hướng tới tương lai tươi sáng. Câu chuyện tình yêu cách mạng được thể hiện một cách nghệ thuật như những cung bậc cảm xúc của tình yêu đôi lứa.

Diễn biến tình cảm trong tình yêu được tổ chức theo những câu ca dao, dân ca quen thuộc, người hỏi, người đối đáp, tâm sự, đối đáp, đối đáp. Các câu hỏi và câu trả lời đã gợi mở bao kỉ niệm về cuộc cách mạng hào hùng và cuộc kháng chiến chống Nhật gian khổ của thời đại ấy, đồng thời cũng gợi ra bao hoài niệm. Thực ra, bên ngoài là lời đối đáp, bên trong là lời độc thoại, là sự bày tỏ tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ và những người tham gia cuộc biểu tình.

Thông qua những dòng hồi tưởng mang chủ đề trữ tình, cảnh và người Việt Nam được hiện lên. Nỗi nhớ da diết của người cán bộ trở về đã khắc họa sâu sắc cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Việt Nam vừa chân thực, vừa thơ mộng, vừa phác họa nên một dáng vẻ riêng, độc đáo khác hẳn những vùng quê khác. Chỉ những người từng sống trên đất Bắc Việt Nam và coi miền Bắc Việt Nam là quê hương của mình mới có nỗi nhớ và tình cảm sâu nặng với nắng chiều, ánh trăng chiều, những bản làng mờ ảo trong sương sớm, những đống lửa yên tĩnh về đêm và những ngọn núi. và những dòng sông với những cái tên quen thuộc – tất cả đều lấp lánh ký ức về thời gian và không gian:

Hãy nhớ rằng không có gì quan trọng hơn việc nhớ người yêu của bạn

Ngây thia, sông ngày, suối le đầy.

Nhưng có lẽ, điều đẹp nhất trong ký ức của người Việt Nam là sự hòa quyện chặt chẽ giữa cảnh và người, và ấn tượng không thể phai mờ về sự cần cù, trung thành với nghĩa tình của người Việt Nam:

Tôi đã trở lại, bạn có nhớ tôi không?

Hãy nhớ đến bản tình ca chung thủy đó

Bạn có thể thấy vẻ đẹp thiên nhiên Việt Nam vô cùng đa dạng, phong phú và sống động khi thời tiết chuyển mùa.

Mỗi khung cảnh đều kèm theo hình ảnh những người dân thường làm ruộng, những người đan nón, những người hái măng… Với những việc làm tưởng chừng như tầm thường nhưng lại góp phần tạo nên sức mạnh kháng chiến. Chính nghĩa và tình thương yêu của nhân dân đối với cán bộ, chiến sĩ, sự đồng cảm, sẻ chia, chia sẻ mọi khó khăn, niềm vui, gánh vác mọi nhiệm vụ gian khổ… Nhẹ nhàng trong tâm trí nhà thơ. viet bac – đó là hình ảnh của mái nhà “xám xịt, đầy son”, hình ảnh “người mẹ dưới cái nắng như thiêu đốt – dắt con ra đồng đập từng hạt ngô”, đó là những ngày ruộng. Đồng cam cộng khổ:

Thương nhau củ sắn sẻ chia

Ăn nửa bát cơm, đắp chăn …

Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng xuyên suốt bài thơ tạo nên một bản tình ca ngọt ngào, thắm đượm tình đồng chí, lòng yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu quê hương, yêu cuộc sống.

p>

Với dòng hồi ức của chủ thể trữ tình, cả bài thơ đưa người đọc vào không gian núi rừng bao la, sinh hoạt nhộn nhịp, hình tượng anh hùng, giọng ca thiết tha, dồn dập, sôi động của chiến trường Việt Nam. Cách mạng và cuộc kháng chiến chống Nhật đã xua tan đi sự hiu hắt, hiu quạnh của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống quật cường của thiên nhiên và con người miền Bắc. Bài thơ này mang đầy âm hưởng anh hùng ca và mang dáng dấp của sử thi hiện đại, bởi nó vừa phác họa được cảnh đẹp hùng tráng của Việt Nam, vừa có đầu hổ cho thấy khí thế quật cường của một dân tộc đang đứng giữa hoang vu. Chiến đấu cho độc lập và tự do. Quốc gia:

Đường cao tốc Bắc Việt Nam của chúng tôi

Đèn pha sáng như mai.

Đất nước ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hy sinh để lập nên những kỳ tích, chiến công gắn liền với các địa danh: Fusong, Eguchi, Hera, Street, Peace, West. Bế, Điện Biên, … song tu hú không chỉ miêu tả không khí hào hùng của cuộc kháng chiến chống Nhật mà còn đi sâu lý giải cội nguồn sức mạnh dẫn đến chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: “Cơm nguội, hận thù càng nặng”, sức mạnh của lòng trung thành: “anh với em, thăng trầm”, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của sự hòa nhập chặt chẽ của con người. và thiên nhiên – tất cả những điều này tạo nên vị thế đứng lên của đất nước Hình ảnh:

Nhớ khi địch đến kẻ thù

Chúng tôi có cả một vùng chiến sự.

Bạn tôi nhấn mạnh bằng những vần thơ trang trọng và tha thiết rằng Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là thành trì của cuộc kháng chiến, là hiện thân của tình cảm, tâm tư, niềm tin và hy vọng của muôn dân. Người yêu nước Việt Nam. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh miền Bắc Việt Nam dần hiện ra từ xa (mưa suối, mây mù), xác định đây là chiến khu khắc nghiệt, nơi diễn ra nhiều cuộc đấu tranh, nơi sinh thành sẽ mãi mãi suy tàn trong Tổ quốc. Lịch sử:

Tôi về rồi, tôi vẫn nhớ núi

Tan Chao, Kangtai, Roof, Banyan Tree

Trong cuộc kháng chiến chống Nhật gian khổ, miền Bắc Việt Nam là nơi sáng chói, nơi bàn việc công của trung ương và chính phủ. Để khẳng định với Việt Cộng niềm tin yêu đất nước của đồng bào cả nước, cụ huý dùng lời thơ rất mộc mạc, giản dị nhưng có hồn:

Đau ở đâu

Quê hương cách mạng tạo nên nền cộng hòa.

Nghệ thuật biểu đạt của bài thơ này mang đậm tính dân tộc. Điều đầu tiên cần lưu ý là yếu tố này tận dụng được nhiều ưu điểm của hình lục giác truyền thống. Kết cấu bài thơ là ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và ta, kẻ ra đi, kẻ ở lại, hát đối đáp với nhau. Trong bài hát tiễn biệt lịch sử này, những người ở lại mở miệng trước, nhớ lại những năm tháng xa hơn, những năm tháng đấu tranh gian khổ trước cách mạng, và sau đó những người ra đi tiếp tục nhớ lại kỷ niệm 9 năm Chiến tranh chống Nhật.

Nhà thơ rất coi trọng việc sử dụng phong cách tâm trạng hàm súc của ca dao, không chỉ có tác dụng nhấn mạnh quan niệm nghệ thuật mà còn tạo nhịp điệu sôi nổi, cân đối, hài hòa, giúp lời ca dễ nhớ, ghi nhớ và tiếp thu. Đi sâu vào trái tim:

Tôi nhớ ai đó khi tôi đi vào rừng

Việc nhồi bông làm măng già đi;

Chuyển quân cho chiến dịch thu đông

Giao thông nông thôn bắt đầu lát đá

Về ngôn ngữ thơ, cố thủ đã chú ý sử dụng ngôn từ bình dị, sinh động của nhân dân để tái hiện một thời kỳ kháng chiến cách mạng đầy gian khổ nhưng đầy nghĩa tình. Đó là một ngôn ngữ giàu hình ảnh cụ thể:

Sương mù ngàn đêm;

Mặt trời tỏa sáng rực rỡ vào buổi trưa; …

Cũng là một ngôn ngữ rất âm nhạc:

Rửa cối và chày đều vào ban đêm;

Màn đêm ầm ầm như đất rung chuyển; …

Thơ Tố Hữu đặc biệt sử dụng cách lặp lại ngôn ngữ dân gian rất tinh tế:

Tôi đã trở lại, tôi nhớ bạn;

Tôi về rồi, tôi nhớ chiến khu;

Ghi nhớ bảng tính thứ i;

Ghi nhớ ngày của đại lý;

Nhớ tiếng mõm trong rừng buổi chiều, …

Vạn vật tạo nên âm điệu trữ tình tha thiết, êm ái, ngọt ngào như lời ru, chở ta vào thế giới của kỉ niệm và tình yêu thương dâng hiến.

Bài thơ này là một bài ca tri ân, một kỷ niệm và tình cảm cảm động của một người bạn trong mười lăm năm qua (từ Khởi nghĩa Sơn Sơn năm 1940 đến khi lập lại hòa bình năm 1954). , từ đó hướng tới một tương lai tươi sáng, nhắc nhở những người chung thủy khát vọng. Để viết về tình cảm đất nước và đồng bào, Tuohu đã chơi một loại hình nghệ thuật dân tộc, trong đó nổi bật là sử dụng thể thơ lục bát và thể thơ mang âm hưởng dân gian. Việt Bắc có thể được coi là bản tình ca và bản hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến chống Nhật và chống Nhật của nhân dân, bắt nguồn sâu xa từ lòng yêu nước và niềm tự hào về sức mạnh. Truyền thống của nhân dân là truyền thống ân nghĩa, thủy chung của dân tộc Việt Nam.

7. Phân tích Phần 1 Việt Nam

Nhắc đến yếu tố này người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một nhà thơ luôn đi đầu trong phong trào văn nghệ cách mạng cả nước. Con đường thơ mộng luôn gắn liền với những hình ảnh, sự kiện nổi bật của đất nước. Với giọng thơ và lối viết kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính luận với nghệ thuật biểu cảm, ông đã tạo nên cái được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp của Trường ca Việt Bắc. Đặc biệt, chỉ riêng khổ thơ đầu tiên, anh đã đưa người đọc đến với mảnh đất Việt Nam đầy nắng gió, gian khó với lòng biết ơn.

Chiến tranh Việt Nam được thành lập vào tháng 10 năm 1954. Đây là thời kỳ quá độ khi Chiến tranh chống Pháp kết thúc thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ rời Chiến khu trở về Hà Nội. Chiến tranh kết thúc trong niềm hân hoan vui sướng vì hòa bình độc lập, nhưng cũng đồng nghĩa với sự chia lìa của cán bộ đối với dân tộc Việt Nam. Ở đó, người dân và cán bộ đã cùng nhau trải qua bao khó khăn, cùng nhau chia sẻ những kỉ niệm, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Thơ Việt Nam ra đời để nói lên những cung bậc cảm xúc của những con người sống ở nước ngoài.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã thay lời người ở lại để thể hiện những cung bậc tình cảm yêu thương khác nhau:

“Khi anh quay lại, anh nhớ em

Mười lăm năm mặn nồng

Bạn có nhớ khi tôi quay lại không

Nhìn cây nhớ núi, trông sông nhớ nguồn?

i – ta thường được dùng để thể hiện các mối quan hệ thân thiết như vợ chồng. Tuy nhiên, tác giả sử dụng cặp từ này để miêu tả những quân bài tú lơ khơ của quân nhân và sĩ quan Việt Nam. Không phải là vợ chồng, nhưng là tình cảm keo sơn, bền chặt. Câu hỏi đang đến có nhớ ta, nhớ cây, nhớ núi, nhớ sông, nhớ nguồn? Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong câu hỏi tu từ khiến người đọc đi sâu vào lòng người. “Fifteen Years” là một chi tiết có thật từ những năm 1940 đến đó, khi cùng nhau ăn, cùng cười, cùng nhau chiến đấu hơn một thập kỷ. So với các cuộc chiến tranh chống Nhật khác, mười lăm năm này không phải là dài. Nhưng điều quan trọng ở đây là thời gian đó đã tích tụ và tích tụ nhiều cảm xúc đến mức có thể đong đầy cả đời. Câu hỏi này chứa đựng bao nỗi nhớ, rất nhiều lời khuyên của người ở lại đối với người ra đi. Trở về nơi phố thị nhộn nhịp, mong rằng bạn sẽ không quên “cội nguồn của cảnh vật nơi đây”. Những cảnh vật vô hồn, nhưng đã gắn bó với “tôi” bao năm tháng, lúc vui cũng như lúc buồn. Cây và sông là biểu tượng của không gian miền xuôi, miền cao là núi non trùng điệp. Sự chia xa có thể bị cản trở bởi khoảng cách, nhưng “em” luôn mong rằng “em” sẽ không bao giờ quên những kỉ niệm đó. Yếu tố đặc biệt dùng những từ như “háo hức”, “mặn mà” để tăng thêm giá trị cho tình cảm này. Thật đáng quý biết bao khi đánh mất nó.

Nếu những tình cảm ấy chứa đựng trong một ngàn lời nói dành cho người ở lại thì người ra đi chỉ có thể thể hiện tình cảm của mình bằng hành động. Với tình cảm này, họ hiểu quá rõ về con người Việt Nam. Vì sự nghiệp lớn của đất nước còn đợi chờ, buộc lòng phải ra đi, dù không làm được cũng phải tránh xa:

“Giọng nói nghiêm túc của ai đó bên cạnh rượu

Nói thầm trong bụng, đi đứng không yên “

“Em xin lỗi” và “xao xuyến” là những từ ghép diễn tả một trạng thái khiến người ta nhớ nhung, nhung nhớ khiến lòng người không thể yên. Như Tubon đã viết:

“Ai nhớ ai, ai nhớ ai, bây giờ là ai?>…

Từ “ai” chứa đựng bao tình cảm không thể chỉ một người, vì tình yêu là dành cho toàn thể đồng bào Việt Nam. Tố đã mang tiếng “ai” phát huy hết tác dụng, để lại dư âm vang dội trong lòng người trở về. Nó khiến tâm trạng con người ngày càng nôn nao, dòng cảm xúc cứ ùa về. Nhưng những cảm xúc nhớ nhung ấy chỉ có thể ôm chặt trong lòng, không thể diễn tả nỗi buồn bằng lời, cũng không thể giải tỏa nỗi buồn bằng những tiếng gào thét.

Tâm trạng bồn chồn còn được thể hiện một cách tinh tế qua nhịp điệu của hai câu tiếp theo:

“Indigo mang đến phiên phân tách

Hãy nắm tay nhau và biết phải nói gì hôm nay “

Đôi câu thơ lục bát này đã được tác giả thêm vào một chút nhịp điệu, như một sự đảo lộn trong bản nhạc. “Màu chàm” là màu đặc trưng của người dân miền núi Tây Bắc chân chất. Bức tranh rất bình dị, không trang trí, là một vùng quê nghèo, vật chất nghèo nàn nhưng luôn giàu tình cảm. Chiếc áo ấy đã mang bao mồ hôi, gian khổ ra trận một nắng hai sương, đã nuôi dưỡng các cựu chiến binh để họ yên tâm đánh giặc. Không phải là áo bào hay áo gấm để tiễn đưa công lao, chỉ là hình bóng của những con người lao động nhưng vẫn khiến chúng ta cảm thấy biết ơn và biết ơn. Tình cảm này còn được thể hiện qua hình ảnh “nắm tay nhau”. Bàn tay người cầm súng ấm áp, âu yếm bàn tay người lao động. Đôi bàn tay chai sạn và mòn mỏi bởi những khó khăn khác nhau, nhưng ở thời điểm đó, chúng tôi đều cảm thấy như nhau. Những bức ảnh phong phú, đáng nhớ và đầy cảm xúc, không cần giải thích quá nhiều, vì có quá nhiều điều muốn nói nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. Trái tim ấy, xin hãy để “ta” chôn sâu vào đáy lòng, nhưng giây phút “nắm tay nhau” sẽ mãi bền chặt.

XEM THÊM:  Viết bài tập làm văn số 3 văn thuyết minh

Phần mở đầu của bài hát viet nam mô tả những cung bậc cảm xúc sâu sắc và đa dạng của những người sống trong và ngoài nước. Nhịp điệu của bài thơ này nhẹ nhàng, du dương, những tình cảm chân thành ấy được thể hiện đầy đủ và tinh tế, thể hiện tài năng xuất chúng của tác giả trong số các nhà thơ tài hoa ở Việt Nam.

8. Phân tích Bắc Việt Nam Đoạn 3

Xuân Diệu từng tâm sự khi đọc bài thơ của Touhu: “Thơ của anh thanh niên bật ra từ tận đáy lòng cũng giống như thơ của chúng tôi. Cũng lãng mạn như chúng tôi, nhưng là một kiểu lãng mạn khác. Có nhiều máu hơn; thơ của chúng tôi” chỉ gõ Mở bầu trời mà thôi, thơ bè có chủ đạo: cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng người lao động. Sống ngay thẳng là lẽ sống của dân tộc, sống ngay thẳng là lẽ sống của đồng bào. đúng với những câu thơ của thời Kháng chiến:

“Tôi đi đây, hãy nhớ những ngày đó

Mưa từ suối, mây và mây?

Tôi đã trở lại, tôi nhớ Warzone

Một miếng cơm manh áo, một mối thù lớn?

Tôi về rồi, trên núi có nhớ ai không

<3

Tôi đang đi đây, tôi nhớ nhà

Mũ dính đầy bụi và son môi dính đầy

Tôi về rồi, tôi vẫn nhớ núi

Hãy nhớ lại khi chúng tôi chống lại quân Nhật, khi chúng tôi còn ở Việt Nam

Tôi đi đây, tôi nhớ tôi

Tan Chao, Hong Tai, nóc nhà Banyan Tree House? “

Tháng 7 năm 1954, Cuộc kháng chiến chống Pháp và trở lại kết thúc thắng lợi. Hòa bình lập lại và một nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, Trung ương Đảng rời Chiến khu trở về thủ đô. Một trang mới đã được mở ra trong lịch sử dân tộc. Đây là thời điểm mà mọi người cần nhìn lại chặng đường đã qua, đồng thời hướng về con đường phía trước và bước tiếp. Bài thơ “Việt Nam ơi” ra đời đáp ứng nhu cầu của xã hội, là tiếng nói của lòng người. “Vietnam War” là một bản tình ca chan chứa tình yêu – yêu quê hương đất nước, yêu con người và con người. Như vậy, bài thơ là một bản tổng kết lịch sử đầy xúc động. Vì con đường còn dài nên từ câu này đến câu sau đều có sự phát triển, vận động và mang ý nghĩa riêng của nó.

Vài câu đầu tiên là khúc dạo đầu hùng tráng cho những khó khăn gian khổ, nhưng đầy tình yêu thương và lòng biết ơn:

“Tôi đi đây, hãy nhớ những ngày đó

Mưa phùn, mây mù và sương mù kéo dài

Tôi đã trở lại, tôi nhớ Warzone

Một miếng cơm manh áo, một mối thù lớn “

Câu này là một chuỗi những câu hỏi lặp đi lặp lại: “Em đi rồi, anh có nhớ …”, “Anh về rồi, em có nhớ không …” như những lời nhắc nhở dịu dàng, đầy yêu thương. Cách xưng hô và cấu trúc đối đáp quen thuộc gợi nhớ đến lối đối đáp quen thuộc trong các bài hát giao duyên, tình ca trai gái, giữa mận và đào, mai và trúc. Mượn tình cảm vợ chồng để thể hiện tình cảm cao cả hơn: tình đồng bào, khiến bài thơ này từ chính trị khô cằn lại rất trữ tình. Trong những câu thơ tiếp theo, tác giả sử dụng một cách sáng tạo những câu tục ngữ ca dao như “mưa nguồn mùa lũ”, “mây mù giăng giăng” để tái hiện hình ảnh thiên nhiên núi rừng. Nếu thiên nhiên Tây Bắc hiện lên thơ mộng, lãng mạn trong mắt Quảng Đông: “hoa trôi nước lay”, thì thiên nhiên vùng thượng nguồn lại không dễ chiều lòng người: “mưa nguồn lũ” dường như có thể đánh bại và khiến con người tan biến lúc nào không hay. thời gian. Sau này, hình ảnh cơn mưa cũng đi vào những vần thơ của Fan Tiandu, trên con đường đi đến lý tưởng: “Mưa như mưa”. Ngoài ra, với sự thêm thắt của “mây cùng” – bên trên mây, bên dưới sương mù càng gợi lên sự hoang sơ, lạnh lẽo của vùng núi tối thâm sơn cùng cốc. Biện pháp đối lập: “bữa cơm chấm muối” – “mối thù sâu nặng” không chỉ kể về những khó khăn, gian khổ mà người dân nơi đây đã phải chịu đựng mà còn khẳng định ý chí quyết chiến, quyết thắng của họ. Điều kiện càng khó khăn càng khó nhắc nhở mọi người rằng mối thù không còn là vô hình nữa, mà là thứ có thể nhìn thấy, cân nhắc và cảm nhận được.

Tiếp tục chu kỳ cảm xúc này, nhưng với một chút hoài niệm, lo lắng và thậm chí là lo lắng:

“Tôi đã trở lại, bạn đã nhớ ai trên núi

<3

Tôi đang đi đây, tôi nhớ nhà

Mũ dính đầy bụi và son phấn đầy “

Một chuỗi các cụm từ “chắc nịch sẽ rụng”, “cành mai già đi”, “co lại thành thạch cao”, tập trung vào việc lòng người thay đổi và tàn lụi theo thời gian, khiến mọi thứ trở nên khô héo và tàn lụi theo nó. Nhưng cuối cùng vẫn là một hình ảnh tươi tắn và ấm áp: “đầy son phấn” hiện lên trong khoảng mờ ảo xung quanh. Câu này đúc kết chắc chắn tình yêu thủy chung, thủy chung, thủy chung bất biến.

Cuối cùng là lời nhắn nhủ của những người ở lại, nhắc nhở họ về hành trình kháng chiến của dân tộc mình với một chặng đường không thể nào quên:

“Anh về rồi, lòng còn nhớ núi”

Hãy nhớ lại khi chúng tôi chống lại quân Nhật, khi chúng tôi còn ở Việt Nam

Tôi đi đây, tôi nhớ tôi

Tan Chao, Hong Tai, nóc nhà Banyan Tree House? “

Trong câu hỏi cuối cùng: có ba “Là”. Chữ “tôi” thứ nhất và thứ hai ám chỉ người chết. Còn cái “tôi” thứ ba? Hay người đã ra đi? Hay người ở lại? Không thể phân biệt được! Có lẽ là cả hai. Bạn và tôi không thể phân biệt được nữa. Tôi là chính tôi, tôi và tôi gắn bó với nhau, cùng sống, cùng chung lý tưởng, cùng chiến đấu, cùng hưởng niềm vui chiến thắng. Những tình cảm ấy dù “em” đi đến đâu cũng sẽ được “em” theo sát từng bước chân.

Bài thơ này gợi nhớ về những năm tháng chống Nhật, không hề nhàm chán, giáo điều mà rất nhẹ nhàng, đi vào lòng người đọc một cách tự nhiên với thể thơ lục bát quen thuộc, cấu tứ của bài thơ. , làn da. Hình ảnh của bài thơ thật giản dị, thân thuộc nhưng lại có sức gợi cảm đến bất ngờ. Chính những năm tháng, những con người ấy là điểm tựa, là động lực tạo nên những chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Nếu văn học là “tấm gương soi soi đường”, “phong vũ biểu của thời đại” thì “Việt Nam” của Du You là một tác phẩm như thế. Nó làm những việc mà văn học làm: phục vụ cách mạng, tiến lên đấu tranh.

Tôi muốn mượn lời của nhà thơ Che Lanwen hơn là lời kết: “Thơ là thơ trong đó một người trân trọng cuộc sống của mình và mong muốn làm cho cuộc sống của mình có ích. Vậy còn ai lãng phí cuộc sống của mình, làm bất cứ điều gì, Hãy sống cho dù có thế nào đi chăng nữa và khi đọc bài này, hãy cố gắng dừng lại và đánh giá cao cuộc sống của bạn và xây dựng nó. “

9. Phân tích hình ảnh về Bộ tứ Việt Nam

Nhắc đến miền Bắc Việt Nam nghĩa là nơi sản sinh ra cách mạng, vùng đồng bằng miền Trung nghèo khó nhưng thân thương, nơi in dấu bao kỷ niệm của bao thời cách mạng gian khổ và hào hùng. Làm sao lòng ta không vương vấn khi chia tay.

Và cứ thế, sợi nhớ và sợi tình đan xen vào nhau như một đôi lứa yêu nhau gọi “ta-ta”. Như nhà thơ trữ tình Lanvien đã từng viết “Khi ta ở mảnh đất này chỉ là chốn ở / Khi ta bước chân đến mảnh đất này, lòng chợt thành tâm hồn”. Đúng! viet bac biến tâm hồn đằm thắm trong thơ mình, lời ca như khúc nhạc ngân nga, lòng người trong bao nỗi niềm thương nhớ không bao giờ quên.

“Thu về mình nhớ mình, nhớ hoa người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng chiếu thắt lưng, ngày xuân, mơ nở, rừng trắng, nhớ. Người đan nón, dệt từng sợi. Tôi hái măng một mình giữa rừng thu trăng soi trong hòa, lòng nhớ ai khúc tình chung thủy ”

Tou Hu là một nhà thơ trữ tình chính trị có tình cảm cách mạng rất nhẹ nhàng nhưng cũng rất sâu sắc. viet bac là đỉnh cao của thơ lục bát nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ này được viết vào tháng 10 năm 1954 khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và các đồng chí cán bộ kháng chiến rời “thành phố ngàn gió” về Ba Đình, “thành phố hoa vàng và nắng”. Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết, da diết mà vui tươi, hào hùng. Nhưng điều để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong ca dao Bắc Bộ có lẽ là những câu thơ tứ bình xuân, hạ, thu, đông.

Phần phụ mở đầu là hai câu giới thiệu nội dung bao hàm cảm giác chung của thánh thư:

“Khi trở lại với chính mình, tôi nhớ về tôi, tôi nhớ về những bông hoa của bạn”

Khổ thơ thứ nhất sử dụng câu hỏi tu từ “có nhớ em không?”, khổ thơ thứ hai tự trả lời, điệp khúc “ta” được lặp lại bốn lần, âm “a” được dùng làm âm mở đầu, khiến. câu thơ một âm thanh sâu sắc và nhiệt tình của. Với Tuohu, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về những ngày tháng vất vả “nửa chăn nửa cơm”, mà còn nhớ vẻ đẹp yêu kiều của hoa và người. Nơi đây, loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên của miền Bắc. Con người là người Việt Nam, mặc chiếc áo chàm nghèo nhưng giàu có. Hoa và người hòa quyện với nhau mang vẻ đẹp hài hòa, đằm thắm tạo nên nét độc đáo, riêng có của vùng đất này. Đây là điều tạo nên cấu trúc độc đáo cho thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, sáu đoạn là nhớ hoa, cảnh, tám đoạn là nhớ người. Cảnh và nhân vật trong mỗi câu đều có sắc thái và đặc điểm riêng rất lôi cuốn.

Khi nghĩ đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh tê tái, sự ảm đạm của mưa phùn và gió lớn, nỗi buồn của thời tiết u uất. Nhưng đến Việt Nam bằng thơ lục bát mới là chuyện lạ. Mùa đông ấm áp đến lạ thường:

“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng vàng, ánh dao thắt lưng”

Nền xanh bạt ngàn của khu rừng được điểm xuyết bởi những bông hoa chuối đỏ tươi khoe sắc trong nắng. Nhìn từ xa, loài hoa này như một ngọn đuốc sáng, phác họa nên một bức tranh mà đường nét, màu sắc vừa đối lập vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Màu “đỏ tươi” – màu rực lửa của hoa chuối nổi lên giữa núi rừng xanh tươi, khiến thiên nhiên Việt Nam bừng sáng, ấm áp, như có sức sống tiềm ẩn xua tan đi vẻ hoang sơ. Núi và rừng. Bài thơ này làm chúng ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa thạch lựu trong bài thơ của Ruan Cui:

“Thạch lựu còn phun ra đỏ hồng, hết mùi thơm”

Từ sự liên tưởng này, chúng ta có thể thấy mùa đông trong bài thơ còn lan tỏa hơi ấm của mùa hạ, không phải vì sắc đỏ của hoa chuối và cái lạnh bừng lên từ màu xanh của núi rừng.

Xuất hiện với ánh sáng lung linh của những bông hoa chuối là những người dân trong chiến khu lên núi làm rẫy, khai hoang, sản xuất lúa, khoai với số lượng lớn để kháng chiến cho “đèo cao dưới nắng. “và ngọn đèn ca dao”. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng thêm mạnh mẽ, hùng vĩ, ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà bắt được cái thần rực rỡ nhất đó là ánh nắng vụt tắt trên rừng đao quanh eo Người ở đây thơ mang ngôn ngữ thơ cũng mang ngôn ngữ nhiếp ảnh Con người như tâm điểm của ánh sáng Con người ấy cũng xuất hiện trong tư thế đẹp nhất – “đèo cao” Con người chiếm lấy đỉnh cao, chiếm giữ núi rừng, tự do “Rừng núi là của ta / Trời xanh, đây là của ta” Đó là động tác lái xe tự hào, vững vàng: giữa núi rừng, giữa trời cao bao la. rừng xanh. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Cộng.

Mùa đông đã qua và mùa xuân đã đến. Khi chúng ta nghĩ đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến cỏ cây, hoa lá và hàng trăm loài đang bừng tỉnh với sức sống mới sau một mùa đông dài. Điều này cũng đúng với mùa xuân ở miền Bắc Việt Nam:

“Mùa xuân rừng nở hoa trắng, lòng nhớ người đan nón xay sợi”

Bao trùm lên khung cảnh mùa xuân là những bông hoa mai trắng nhẹ nhàng, trong trẻo và tinh khôi trên khắp núi rừng, đồng bằng: “hoa mai nở ngày xuân”. “Forest White” được viết ngược, từ “trắng” được dùng như một động từ để nhấn mạnh màu sắc, và màu trắng dường như thống trị tất cả màu xanh của lá, chiếu sáng cả khu rừng. Bởi sắc trắng mơ màng, ủ rũ, dịu mát của hoa mai. Động từ “nở hoa” cho phép năng lượng của mùa xuân lan tỏa và tràn đầy năng lượng. Đây không phải là lần đầu tiên Bác viết về màu trắng, Việt Nam cũng đón Bác với màu hoa mai vào năm 1941:

“Ôi buổi sáng mùa xuân này, bốn mươi mốt mùa xuân trắng xóa, cây biên giới nở hoa, giấc mơ lặng, tiếng chim hót vui ngẩn ngơ”

Mùa xuân đang trở nên tươi mới hơn với những bức chân dung, với hoạt động “chải qua từng sợi tóc”. Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “sáng”, một hình ảnh thơ thể hiện bàn tay của nhân dân lao động: cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận, đây cũng là phẩm chất cần cù của người dân Việt Bắc, Việt Bắc.

Với tiếng ve kêu râm ran trong mùa hè, bức tranh Việt Nam trở nên sống động hơn bao giờ hết:

“Mời Lin rót vàng, Yimei một mình hái măng”

Khi tiếng ve kêu râm ran cũng là lúc cả rừng hổ phách hoàng kim. Động từ “to pour” là một động từ mạnh, miêu tả sự đồng loạt ngả vàng của những bông hoa vào đầu mùa hè. Màu của cây hổ phách truyền vàng vào lòng suối dường như chuyển nắng hè và tiếng ve kêu thành vàng. Đó là một bức tranh sơn mài hoài cổ, vì vậy nó lung linh với vẻ rực rỡ và âm thanh khàn khàn. Các yếu tố mô tả không chỉ vẻ đẹp độc đáo của mỗi mùa, mà còn cả sự chuyển động thay đổi của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong phần trên, chúng ta có thể thấy toàn bộ thời gian được luân chuyển một cách sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, và những cây hổ phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Đây là một biểu hiện độc đáo của chủ nghĩa dân tộc.

Trong thiên nhiên trù phú vàng son ấy, có hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn hái măng trong rừng để cung cấp cho các chiến sĩ kháng chiến: “Nhớ chị em mình hái măng một mình”. Đi hái măng một mình sẽ không hiu quạnh, hiu quạnh như cô gái miền núi trong thơ cổ, ngược lại rất trữ tình, nên thơ, gần gũi và nhân hậu. Hình ảnh thơ còn gợi lên vẻ đẹp không đau thương của người con gái. Đằng sau này rất nhiều sự đồng cảm và trân trọng của tác giả.

Vào mùa thu, cảnh núi rừng chiến khu như được tắm mình trong ánh trăng xanh, lung linh và mát mẻ:

“Rừng thu, trăng soi bóng bình yên, nhớ ai khúc tình chung thủy”

Cả không gian rộng lớn ngập tràn ánh trăng, ánh trăng của tự do và hòa bình, soi sáng từng ngọn núi, từng bản làng, từng niềm vui của thôn xóm. Khi chúng tôi còn ở chiến khu, tôi cũng biết ánh trăng mùa thu trong bài thơ của bạn:

“Cửa sổ trăng nói việc quân bận rộn, hãy đợi tiếng chuông ngày sau, nhận tin thắng trận xuyên vùng”

Không có chuông chiến thắng, nhưng có thể nghe thấy tiếng hát. Đó là bài ca trong sáng của nhân dân các dân tộc, là bài ca nhắc nhở sự thủy chung son sắt. Đây cũng là bài hát gửi gắm tình cảm của 15 năm núi rừng Việt Bắc.

Có! Bức tranh mùa thu của Việt Cộng hoàn thành bức tranh về vẻ đẹp của núi rừng và kết thúc bằng bài hát “Nghĩa tình thủy chung” gợi niềm xúc động bồi hồi của con người đối với quê hương. nước.

Bài thơ trên của Hu có nét vẽ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, làm nổi bật những cảnh vật, hình tượng bốn mùa ở Chiến khu Việt Nam. Cảnh và nhân vật phối hợp và làm đẹp cho nhau, làm cho bức tranh trở nên thân thuộc, sinh động và tình cảm hơn. Mọi thứ hóa thành nỗi nhớ da diết, rạo rực trong tâm hồn những người cán bộ trở về.

10. Phân tích 8 câu đầu của tiếng Việt

Có thể nói, nhà thơ Tố Hữu là một trong những nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Những bài thơ của ông chứa đựng những tình cảm và lý tưởng sống cao đẹp của những con người cách mạng. Trong đó, bài Việt Bắc sử là một trong những tác phẩm đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả Việt Nam trong các triều đại đã qua. Qua việc phân tích 8 khổ thơ đầu của bài thơ Việt Nam, các em sẽ cảm nhận được tình cảm sâu nặng của quân và dân ta trong những năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này ra đời khi cán bộ, chiến sĩ chia tay người thân ở sân khấu kịch Việt Nam, gắn bó 15 năm trời trở về Trung Quốc. Trong khổ đầu của bài thơ, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế những cảm xúc của người ở và người ra đi trong giờ phút chia ly:

“Tôi nhớ bạn khi tôi trở lại

Mười lăm năm đầy đam mê.

Bạn có nhớ khi tôi quay lại không

Nhìn cây nhớ núi, trông sông nhớ nguồn?

Giọng ai đó nghiêm túc trong rượu

Nói thầm trong bụng, đi đứng không yên

Chiếc váy màu chàm riêng biệt

Hãy nắm tay nhau và biết phải nói gì hôm nay … “

Văn bản phân tích chi tiết 8 dòng đầu của bài thơ Tiếng Việt

  • Luận văn 1: Nỗi nhớ người còn lại

Khi phân tích 8 khổ thơ đầu của bài thơ Việt bắc, người đọc không khỏi ấn tượng về cách nói thú vị của tác giả trong bài kêu gọi người đi, kẻ ở. Đó là “tôi” và “tôi”. Đặc biệt, tần suất hai từ này được lặp lại rất nhiều trong 4 khổ thơ đầu:

“Khi anh quay lại, anh nhớ em

Mười lăm năm đầy đam mê.

Bạn có nhớ khi tôi quay lại không

Nhìn cây nhớ núi, trông sông nhớ nguồn? “

Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc

Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu hỏi không nhằm mục đích yêu cầu câu trả lời mà chỉ là câu hỏi không yêu cầu câu trả lời nhưng cả hai bên đều ngầm hiểu ý nghĩa của câu trả lời. “Có nhớ mình không anh?” – một câu hỏi nghe có vẻ hờ hững nhưng lại chứa đựng bao nỗi niềm xao xuyến của những người ở lại. Tiếp đến, những người ở lại đây chính là những người đồng hương Việt Nam đã cùng nhau khơi lại kỷ niệm 15 năm với “15 năm tâm huyết và nhiệt huyết”. 15 năm không phải là cả một đời người, nhưng nó gần như khiến người ta sống một quãng đời khó quên hơn là một quãng đời ngắn ngủi. Nhất là vào thời điểm anh đang ở trong hoàn cảnh chiến tranh, sinh tồn, trước sự sống và cái chết. Đây là lý do tại sao tình người rất đáng quý. Không chỉ gợi lại cuộc hội ngộ sau một thời gian dài vắng bóng với bao tình cảm mặn nồng, người ở lại còn nhắc đến hình ảnh không gian của rừng, núi, đồi với du khách. Cả hai đã trải qua những ngày tháng không thể nào quên ở đó: “Khi về có nhớ cây ấy / Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ không lời đáp nhưng đầy yêu thương để lại cho người đọc cảm giác vừa thổn thức khiến người ở lại vừa thèm thuồng. Đại từ nhân xưng ta thường gặp trong ca dao, ở đây tác giả sử dụng rất hợp lý. Giúp người đọc cảm nhận sâu sắc sự bình dị, gần gũi và tình cảm gắn bó của tình quân dân lúc bấy giờ. Từ “nhớ” thể hiện rõ tấm lòng thương nhớ sâu nặng của nhân dân Việt Nam đối với các chiến sĩ cách mạng. Đó là tình cảm thiêng liêng, không chỉ đối với con người mà đối với thiên nhiên, đất trời Việt Nam cũng thắm đượm nghĩa tình.

  • Luận điểm 2: Tiếng nói của du khách

Nếu bốn câu đầu là tiếng nói của người dân Tây Nguyên thì bốn câu cuối là tiếng nói của những người lính miền xuôi.

“Giọng nói nghiêm túc của ai đó bên cạnh rượu

Nói thầm trong bụng, đi đứng không yên

Chiếc váy màu chàm riêng biệt

Hãy nắm tay nhau và biết phải nói gì hôm nay … “

Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc

Đến đây, không còn phân biệt rạch ròi giữa “ta” và “ta” mà người đọc hiểu rằng đó là tiếng nói của trái tim người lính. Người đọc vẫn có thể dễ dàng hình dung những bàn tay ôm trên mặt và những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt. Người lính định quay lưng bỏ đi thì nghe “giọng người bên cạnh rượu nghiêm nghị” rồi cảm thấy “bụng cồn cào, đi lại khó chịu”. Tác giả dùng từ “xin lỗi” ở đây để nói lên sự run rẩy trong lòng. Từ “bứt rứt” diễn tả nỗi băn khoăn khôn nguôi, bao nỗi lo đấu tranh của đồng bào dẫn đến ngại ra đi. Sở dĩ bộ đội vẫn lo lắng cho đồng bào là vì dù cách mạng có thành công, dân ta vẫn nghèo, nước ta chưa mạnh, giặc ngoài biên giới còn nhiều. Vì vậy, bạn hãy yên tâm! Nhất là khi những người lính nhìn thấy những chiếc áo chàm mà họ đang mặc. Thật đơn giản nhưng nó cũng thể hiện sự nghèo khó. Vì vậy, bất chấp mọi băn khoăn, dù không muốn lên đường, các chiến sĩ vẫn quyết tâm lên đường hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì vậy mà “Indigo đã trao chia ly / Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Tôi chỉ đang ôm nó nhưng không biết phải nói gì ở đây, không phải vì tôi không có gì để nói, mà vì tôi có quá nhiều điều để chia sẻ nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu hay phải nói như thế nào. Dường như bao nhiêu lời nói nghẹn lại nơi cổ họng, chỉ cần nắm tay trao nhau hơi ấm cơ thể cũng đủ thay lời yêu thương.

  • Luận điểm 3: Nghệ thuật độc đáo

Phân tích 8 bài thơ đầu của bài “Việt Nam”, người đọc không chỉ ấn tượng về tấm chân tình của người dân Việt Nam đối với các chiến sĩ cách mạng mà còn bởi tài năng của nhà thơ. Cũng giống như đại thi hào Nguyễn Đạc, đểu đã sử dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống. Một thể thơ dễ nhớ, dễ thuộc, dễ nhớ. Đồng thời, tác giả sử dụng những hình ảnh đối thoại quen thuộc trong ca dao càng làm tăng tính sinh động, tự nhiên cho tác phẩm. Kết hợp với việc sử dụng hình ảnh hoán dụ và nghệ thuật đặc sắc như phép tu từ đặt câu, điệp ngữ, điệp ngữ đã mang đến cho người đọc một bài thơ xúc động. Không chỉ câu văn có ý nghĩa mà nhịp thơ cũng rất đằm thắm, trữ tình. Tất cả những điều đó kết hợp lại tạo nên một bức tranh chia ly không chỉ chan chứa tình người, mà còn là tình đồng chí, đồng đội.

Kết luận

Phân tích 8 khổ thơ đầu của bài thơ Việt bắc là cách giúp bạn đọc hiểu sâu hơn về tổng thể tác phẩm. Bởi đây là một trong những bài thơ tiêu biểu, mang âm hưởng núi rừng Tây Bắc đặc sắc. Bài thơ như một câu chuyện tình về cuộc chia tay của một người đầy ân tình. Mỗi bài thơ và mỗi bức tranh trong bài thơ đều chứa đựng những tâm tư sâu sắc đối với người đã ra đi và người đã ở lại.

Có thể nói, chỉ có những nhà thơ cách mạng mới đủ nhạy cảm, đủ yêu thương và lý trí để viết nên một bài thơ bất hủ như vậy. Bởi vì anh ấy là người hiểu biết hơn ai hết. Trong cuộc chia ly ấy, anh cảm nhận sâu sắc niềm xúc động của con người và cảnh vật. Nhà thơ Tohu với tài năng văn chương của mình đã phác họa thành công tấm chân tình của quân dân trong những năm tháng chiến tranh gian khổ ngay từ thuở lọt lòng.

Xem thêm thông tin hữu ích trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Top 7 mẫu Phân tích Việt Bắc hay nhất chọn lọc. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *