Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
830 lượt xem

Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay (21 mẫu) – Văn 12

Bạn đang quan tâm đến Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay (21 mẫu) – Văn 12 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay (21 mẫu) – Văn 12

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đưa ra dàn ý, sơ đồ tư duy và 21 bài văn mẫu hay nhất. từ đó giúp các em học sinh có thêm nhiều gợi ý tham khảo, sở hữu một bài văn ý nghĩa và ghi điểm cho sự sáng tạo, mang màu sắc cá nhân của mình làm bài thi đạt kết quả cao trong kì thi THPT quốc gia năm 2022.

Khi phân tích vietnam bac g, người đọc cảm nhận được giọng văn nghiêm trang, quyết liệt, hào hùng, gợi lên tình quân dân sâu nặng và tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân ta. đọc bài thơ ta cảm phục và khâm phục sự tài tình của tố. Ngoài bài phân tích về miền Bắc Việt Nam, bạn cũng có thể xem bài phân tích của miền Tây.

Phân tích kế hoạch của Bắc Việt bằng cách để huu

i. phần mở đầu bài phân tích các bài báo Việt Nam

“Trong chín năm như người ta vẫn nói, biên giới của những bông hoa đỏ phải là một câu chuyện vàng.”

(có thể).

– Hành trình kháng chiến gian khổ chống Pháp đã kết thúc thắng lợi vẻ vang, vào thời điểm ngày 10 tháng 10 năm 1945, Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển từ Chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Trong một cuộc chia tay đầy luyến tiếc với đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã viết một bài thơ về Việt Nam.

– bài thơ là một bản tình ca, là lời nhắn nhủ tình cảm giữa người đi và người ở lại, lời nói thể hiện tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ nhung của người ra đi. viet bac là một trong những tác phẩm thơ thể hiện tối đa tài năng và phong cách của để huu…

ii. phần nội dung bài viết thảo luận về bài viết bac việt nam

1. hai mươi câu thơ đầu: nhớ về cuộc kháng chiến, từ đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết

– thông điệp của người Việt Nam ở phương bắc:

+ bốn dòng đầu của bài thơ có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người ở đây, người ở hỏi có nhớ “núi, cội” là để. nhớ về mảnh đất đã từng gắn bó, gắn kết 15 năm hữu nghị. câu hỏi dùng lời biện hộ nhưng thực chất là lời nhắc nhở, nhắc nhở mọi người đừng quên mảnh đất tình người.

→ những điều chung, tình cảm đạo đức. hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ tình cảm của người nói, người ở lại bộc lộ nỗi nhớ thương, nhớ thương người ra đi không nguôi, đáng trân trọng.

+ lời giải thích của nhà thơ, nhắc nhở tôi

– bí mật của người đã trở lại trong bữa tiệc chia tay

  • Bốn dòng tiếp theo gợi ý cảnh chia tay. “Bên cồn khơi gợi về một nơi chia xa trên một bờ bến nào đó, bài hát ở nền là những nhân vật người đi và người trên bãi biển, nắm chặt tay nhau không nói nên lời. tất cả đều tạo nên một môi trường đầy xúc động, tình cảm, tình quân dân gắn bó.
  • Từ “bồn chồn, không yên” diễn tả trạng thái hồi hộp, kích động vì cảm giác choáng ngợp. thể hiện tình cảm của những người ở lại đối với thị trấn, người Việt Nam.
  • Hình ảnh ẩn dụ “áo chàm” của người Việt Nam. tượng trưng cho tâm hồn giản dị, chân chất và sâu lắng của người Việt Bắc.

– trong buổi chia tay, nhớ lại những ngày tháng gian khổ nơi chiến khu

  • “mây mù trùng điệp”, biện pháp xen kẽ nhấn mạnh bầu trời u ám, nặng trĩu, những khó khăn to lớn, ẩn dụ về những ngày đầu gian khổ của cuộc kháng chiến, chỉ ước chừng thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
  • khi khó khăn có nhau khi hạnh phúc, khi người đi ở, lúc chia tay lòng người bỗng tràn đầy tiếc nuối, hoài niệm. “Rừng núi” hoán dụ là từ chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ da diết hơn, đại từ “ai” mang phong cách dân gian mộc mạc
  • Tiếng Việt dùng để chỉ những kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về vùng đất anh hùng.

    ⇒ Hình thức đối thoại, đoạn thơ miêu tả tình cảm của người Việt Bắc đối với cán bộ, chiến sĩ.

    2. lời thú tội của những người đã khuất

    – “Em ở bên anh, anh bên em” là lời khẳng định cho tấm lòng thủy chung, mặn nồng của người đi kẻ ở.

    – người đi rồi để lại nỗi nhớ trong thiên nhiên, nhớ vầng trăng chiều tà, nắng chiều sương, rừng trúc … nhớ bốn mùa bên nhau

    – Nhớ về con người miền Bắc Việt Nam: dù khó khăn, đòn roi vẫn không dao động, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. gợi lại những kỷ niệm ấm áp với chiến sĩ và đồng bào bằng những câu hò, “lớp i lá”… hình ảnh mộc mạc của người “chị” chăm chỉ

    – ghi nhớ hình ảnh đoàn kết, anh dũng đánh giặc

    – ghi nhớ những việc làm lừng lẫy, niềm vui chiến thắng

    ⇒ tình yêu của người lính đối với con người và quê hương đất nước Việt Bắc cũng là tình yêu của nhà thơ đối với nhân dân, đất nước, yêu cuộc sống của cuộc kháng chiến

    3. hình ảnh bộ tứ qua ánh nhìn yêu thương của gia chủ

    – lời tâm sự của một người thật nghiêm túc và sâu sắc.

    • “hoa và người”: nỗi nhớ về những đồ vật cụ thể
    • đại từ nhân xưng “yo-yo” thể hiện tình yêu và sự gắn bó sâu sắc của người đã khuất
    • từ ” yo ‘m back “ở đầu câu bộc lộ sự lo lắng, nhớ nhung, day dứt khi chia tay, gợi quá khứ.

    – trong nỗi nhớ, hình ảnh ấy dường như mang vẻ đẹp gắn với cảnh với người

      < sự tương phản của màu sắc gợi lên sự rực rỡ. không gian bỗng bừng sáng, ấm áp nhờ sắc đỏ càng làm nỗi nhớ da diết.
    • mùa xuân, thiên nhiên Việt Bắc xanh tươi với núi rừng trùng điệp. hoa mai. động từ “hoa” và tính từ “trắng” gợi ý hoa nở, thời gian mùa xuân. vào mùa xuân, mọi người làm việc chăm chỉ, tạo nên một hình ảnh hài hòa. cảnh mùa hạ mang vẻ cổ điển, quyến rũ, tươi sáng và lung linh
    • cuối cùng là cảnh mùa thu với vẻ đẹp của đêm trăng. một đặc tính kỳ diệu, yên bình và thơ mộng. vẻ đẹp mang nhiều ước mơ tươi sáng trong tương lai

    – câu thơ khép lại bằng “khúc ca thủy chung”. Đó là bài hát của những người ở lại, và của cả những người ra đi. bài hát của niềm hy vọng nhiệt thành, tình yêu sâu sắc đối với nhân dân.

    ⇒ đoạn thơ mở ra thế giới cái đẹp: hình ảnh đẹp của thiên nhiên, con người đẹp, trong đó có một trái tim đẹp với khát khao đẹp đẽ. thể hiện tình yêu quân dân, tình yêu đất nước cao cả của nhà thơ.

    4. phần còn lại: đại ngàn việt bắc tháng giêng hào hùng.

    – lối viết sử thi, tác giả đại diện cho đội quân sục sôi trên các chiến trường.

    • từ “đêm” gợi tả một khoảng thời gian dài, từ “ầm” và âm thanh kết hợp với nhịp thơ 2/2 gợi lên những bước hành quân đều đặn, vững chãi.

    biện pháp phóng đại. “chấn động địa cầu” thể hiện sức mạnh phi thường của quân đội.

  • chân dung quân đội đại diện cho dân tộc anh hùng.

– Cuộc hành quân gian khổ, nguy hiểm nhưng những người lính vẫn cảm nhận được cảnh đẹp thiên nhiên, mây trời, niềm vui khi ngắm cảnh: thể hiện lòng yêu đời, lạc quan, tin yêu vào tương lai.

  • nghĩa là “nón nan”: người lính ra trận với tình yêu thương người lính để tăng thêm động lực chiến đấu
  • hình ảnh cụ thể nhưng giàu sức biểu cảm về súng và tượng ngôi sao. đầu súng gợi cảnh chiến tranh, ngôi sao vẽ cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao cũng là ẩn dụ cho đôi mắt người tình.

– hình ảnh của đám đông

  • ánh sáng của ngọn đuốc gợi lên không khí lao động hừng hực, phá đá mở đường. hình ảnh tươi sáng đó toát lên sức mạnh, khí phách và hun đúc một niềm tin tươi sáng.
  • hình ảnh “những bước chân bị đá đè” làm nổi bật sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân.
  • đoàn xe có vẻ đẹp của anh hùng trong chiến đấu, sức mạnh của chiến tranh nhân dân

– đội quân xông pha trận mạc đã lập lại nhiều chiến công vang dội, chấn động địa cầu.

  • liệt kê những địa điểm để chứng kiến ​​một chiến thắng nhanh chóng và tưng bừng
  • từ “vui sướng” diễn tả cảm giác hồi hộp và hồi hộp vô bờ bến trong chiến thắng

⇒ bài thơ đã tái hiện lại chân dung của người Việt Nam trong những ngày chiến tranh, tôn vinh đất nước Việt Nam anh hùng, đất nước anh hùng.

iii. kết bài phân tích bài báo Việt Nam

viet bac là một bài thơ xuất sắc mang đậm dấu ấn tou huu. Đó không chỉ là sự hài hước giữa cổ điển và hiện đại, giữa cảnh và người, tình và lý, mà còn là thơ ca nổi tiếng, sử thi đặc sắc mà chỉ có thể tìm thấy trong huu

..

xem thêm: phân tích khái quát các bài thơ Việt Nam

sơ đồ tư duy viet bac

Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay (21 mẫu) - Văn 12

Phân tích bài thơ Việt Bắc – Mẫu 1

văn học kháng chiến cho đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu được coi là một tác phẩm đồ sộ, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Phân tích viet bac, chúng ta sẽ thấy được tình cảm trớ trêu và sự đoàn kết của con người qua ngòi bút tài hoa và trữ tình của tác giả.

tou huu là một nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là lá cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam. cuộc đời hoạt động nghệ thuật của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng của dân tộc, làm cho thơ ông trở thành một thiên niên sử, hào hùng nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. những bài thơ giản dị, ấm áp nhưng mang đậm tính chính trị.

Bài thơ “Việt bắc” được sáng tác sau chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ. Đầu những năm 40 của thế kỷ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của chiến tranh. nơi đây quân dân ta cùng chung sống, đùm bọc và chiến đấu. Năm 1954, sau chiến thắng vang dội, trung ương đảng và chính quyền rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân dịp trọng đại này của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Qua bài thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân ta gần gũi, thắm thiết, sâu nặng trong cuộc kháng chiến, là tiếng nói của trái tim nhân dân ta trong máu lửa, gian khổ.

Trước hết, tác giả đưa ra những lời tâm sự của người ở lại, tiếng nói từ trái tim của những người con đất Việt khi người cán bộ, chiến sĩ trở về. với thể thơ lục bát, ca từ như những nỗi niềm, thủ thỉ và hoài niệm:

“Khi trở về, tôi có nhớ mười lăm năm ấy với tình yêu nồng cháy dành cho tôi? Có nhớ trông cây, nhớ núi, nhớ sông, nhớ đài phun nước”

phân tích viet bac để thấy rằng những câu thơ là tâm trạng của những người còn lưu luyến, ăn năn khi phải chia ly. họ phải xa rời những chiến sĩ cách mạng đã gắn bó nhiều năm. tác giả sử dụng hai đại từ “tôi” và “tôi” rất tài tình. nó đã thể hiện sự gắn bó, thủy chung son sắt của cán bộ với nhân dân. ở đây, người bạn đưa ra một khoảng thời gian cụ thể là “mười lăm năm đó.” Đó là một thời gian rất dài, gắn liền với cuộc chiến đấu oanh liệt của quân và dân ta chống lại thực dân Pháp tàn bạo. Đó cũng là thời điểm mà tình quân dân vô cùng thắm thiết, thắm thiết. giờ đây, cả người ra đi và người ở lại đều mang đầy hoài niệm, nhìn đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, vẫn vẹn nguyên và trong sáng trong lòng. tác giả dường như đã gieo vào lòng người đọc một cảm xúc dai dẳng đến lạ lùng.

Cảm giác lưu luyến, lo lắng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồi hồi. dường như không ai muốn rời đi:

<3

Những lời yêu thương, những lời thủ thỉ của người ở lại khiến người về không thể không bước đi. những lời tin tưởng ấy giờ đây khiến nỗi nhớ và ký ức dường như tràn về, không thể nào quên được. Tất cả những trạng thái tâm hồn ấy được tác giả tóm gọn trong hai chữ “nỗi buồn”. Nó giống như việc anh ấy khó chịu, níu kéo không muốn bước đi, và nó giống như một nỗi buồn man mác khi nghĩ đến việc chia tay. Cảm giác đó thật khó diễn tả bằng lời.

Hiện tại, tâm trạng của những người ra đi và những người ở lại không thể giải thích tại sao lại như vậy. có lẽ tình yêu quá lớn và kỉ niệm quá đong đầy nên đã từ chối họ. Trong suốt 15 năm sinh sống và gắn bó với mảnh đất này, biết bao cay đắng ngọt bùi đã phải đồng hành, đồng hương, chia sẻ miếng ăn, giấc ngủ. những năm tháng gian khổ ấy không chỉ được kể lại bằng vài từ như thế này, mà những câu nói ấy khiến cảm xúc trào dâng, không khỏi nhớ nhung và hy vọng. người ra đi trả lại tình yêu cho người ở lại:

“Tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, chúng tôi luôn hài lòng”

“tôi” và “tôi” dường như hợp nhất thành một đơn vị, không thể tách rời. người đã khuất khẳng định rằng “mặn mà thật”. hai chữ “phòng ăn” như đóng đinh vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và lòng thủy chung son sắt trước sau như một. Đó là một tình cảm rất thiêng liêng và cao quý.

Chỉ khi nghĩ đến núi rừng Việt Bắc, tác giả mới nhớ đến thiên nhiên và con người nơi đây. mọi thứ hiện ra đều rất sống động, đầy ý nghĩa, tràn đầy yêu thương. chỉ với vài bước phác họa bộ tứ hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách trọn vẹn, ý nghĩa và đẹp đẽ nhất:

“mỗi khi về lại nhớ mình, nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng đèo cao, thắt lưng buộc dây, ngày xuân mơ nở, rừng trắng xóa nhớ người đan nón đan từng sợi, rừng nghe như rừng rơi nhớ chị em hái tre một mình, rừng thu trăng soi bình yên, nhớ chị em hái tre một mình ”

một hình ảnh đẹp, sống động và hoang sơ của tứ bình và núi rừng Việt Nam. trong một hình ảnh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, hùng vĩ mà còn là hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng giàu tình cảm và ý nghĩa. Đây có lẽ là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. đó là điểm sáng để cả bài thơ tràn ngập niềm yêu đời và lạc quan.

Từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại trong suốt tác phẩm. nó khiến nỗi nhớ trong cả bài thơ như trào dâng, cảm xúc của tác giả ngoài bùng nổ, dội lại mãnh liệt, tràn trên mặt chữ.

nhà thơ không chỉ nhớ về cảnh vật, con người miền Bắc Việt Nam, mà trên hết, ông còn nhớ về những cuộc chiến tranh ác liệt, gian khổ đã diễn ra trong một thời gian dài:

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta cùng nhau chống núi giăng pháo đài, rừng che bộ đội rừng bao vây quân thù”

ở đây giọng thơ không còn nghiêm trang, thủ thỉ mà hào hùng, vang dội khi kể về cuộc chiến oanh liệt của quân và dân ta. Những trận đánh ấy diễn ra giữa núi rừng Việt Bắc để lại từng dấu vết nơi đây. và không chỉ con người thuận theo ý mình mà dường như thiên nhiên cũng đứng về phía người lính để “vây quân đánh giặc”.

qua những câu thơ này, dường như tinh thần của dong a lại trỗi dậy, hừng hực khí thế và đầy kiêu hãnh. Cho đến mai sau, chiến thắng vẻ vang và tinh thần đoàn kết thống nhất sẽ được ghi lại và lặp lại mãi mãi.

Với thể thơ lục bát, giọng điệu trữ tình và những hình ảnh độc đáo, “viet bac” đã khắc họa thành công những sự kiện trọng đại của đất nước. Hơn hết, bài thơ đã tái hiện lại một chặng đường hào hùng, sự son sắt, gắn bó của tình quân dân, nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của quân dân ta. Họ là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì cách mạng, đoàn kết, trung thành với lý tưởng cao đẹp.

Phân tích bài thơ Việt Nam – mẫu 2

tou huu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam nói chung và của nền văn học cách mạng nói riêng, ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. có sự thống nhất hài hòa giữa đời sống cách mạng và đời sống thơ ca. Vì vậy, có thể nói, qua những tác phẩm của ông, chúng ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn giàu cảm xúc, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ của tác giả, mà qua đó, nhà văn dường như đã phản ánh rõ nét nhất những mốc son lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến. . chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc, để độc giả thấy trọn vẹn những trang lịch sử oanh liệt của đất nước như những thước phim. Hãy cùng nhau phân tích bài thơ việt nam rồi bạn sẽ hiểu.

Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các cơ quan trung ương đảng và chính quyền Việt Bắc – Thủ đô của nhân dân. trở lại hà nội tou huu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến đã từng sống và gắn bó với con người và thiên nhiên Việt Bắc, nay chia tay lại đầy đau thương và nhớ nhung, nhà thơ đã xúc động viết bài thơ này.

Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc với âm hưởng mượt mà, uyển chuyển, thấm đẫm chất trữ tình của ca dao. Trong lúc bế tắc của cuộc chia tay, việc sử dụng thể thơ này để bộc lộ cảm xúc và gợi lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc là hoàn toàn hợp lý.

tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt câu hỏi tu từ:

bạn có nhớ tôi khi bạn quay lại với tôi không? mười lăm năm khao khát ấy, anh có nhớ em không? Nhìn cây nhớ suối, nhìn sông nhớ nguồn. Tôi nói hôm nay … khi tôi ra đi, tôi nhớ những ngày mưa, suối, mây và sương. Tôi có nhớ cuộc chiến với cơm mặn và thù dai không? khi tôi già đi, tôi có nhớ về người cũ? những ngôi nhà lau sậy xám xịt đầy lòng son Ta nhớ núi non thuở kháng Nhật có nhớ ta trạo trạo mái đình cây đa hồng thái không?

những kỉ niệm ấy giờ chỉ còn là những kỉ niệm trong dòng kí ức … cứ chầm chậm trôi … những câu hỏi cứ hiện lên nối tiếp nhau tạo thành một điệp khúc thấm đẫm tâm trạng nhân vật trữ tình. Cũng chính qua những đường nét ấy, cảnh sắc núi rừng đại ngàn Việt Bắc hiện lên rõ nét nhất. đó là những ngọn núi, dòng sông hùng vĩ, những cơn mưa xối xả vào nguồn mây khói… nhưng hình ảnh nổi bật nhất giữa hình ảnh ấy là cuộc sống đời thường, đấu tranh rất gian khổ, gian khổ nhưng vô nghĩa. đoàn kết, thương yêu nhau như những người con cùng một dòng họ giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. Dù cuộc sống chiến đấu còn nhiều gian khổ, khó khăn nhưng nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ tinh thần của những người dân chân chất nơi núi rừng đại ngàn ấy, tất cả đã trở thành những kỷ niệm đẹp, khó quên trong lòng tôi cả hai bên.

chân bước đi nhưng trái tim ở lại … trái tim đã gắn bó hơn chục năm nay đã thuộc về đất, về người, về núi rừng nơi đây, giờ phải chia xa để rồi em. có thể không được giúp đỡ. người lính buồn bã bước đi. những câu hỏi của người Việt Bắc không chỉ thể hiện nỗi nhớ mà còn muốn đi sâu tìm hiểu những ngày kỷ niệm đó.

cách phát âm “i – ta” cũng là một cách phát âm rất gần gũi, thân thiết thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa quân và dân, chính vì vậy mà lời ca như một lời thủ thỉ tâm tình, giọng thơ có âm hưởng. . nhẹ nhàng mà nồng nàn. hình ảnh chiếc áo chàm trong câu thơ: “áo chàm đem chia li…” là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc chiến đấu chia cắt của người Việt Bắc. những bàn tay đan vào nhau, người đi người ở, không biết nói gì hơn ngoài những cái bắt tay nồng nhiệt. Chúng ta cũng đã thấy sự bắt tay này trong thơ ca của chính nghĩa:

áo anh rách, vai em rách, quần có mấy mảng tường không giày, thương nhau nắm tay …

Đúng vậy, họ không có gì để trao cho nhau giữa bầu trời đêm lạnh giá ngoài tình đồng chí gắn bó. cái bắt tay giản dị đã giúp người lính vượt qua những khó khăn, gian khổ của buổi đầu kháng chiến. ở đây cái bắt tay này diễn ra trong hoàn cảnh chia cắt nên có ý nghĩa như một minh chứng cho tình cảm quân dân thắm thiết.

Trước tình cảm nồng nàn và cách thể hiện nỗi nhớ đặc biệt, người lính cũng bộc lộ nỗi lòng của mình qua từng câu chữ:

tôi và tôi, tôi và lòng tôi, luôn nghĩ ra đi, tôi nhớ mình như cội nguồn của bao yêu thương thân yêu đi về quê nhớ từng rừng tre bên bờ sông ngày lê thê. suối có đầy ta, ta nhớ những ngày tháng nơi đây bao đắng cay ngọt bùi… thương nhau, chung gốc cau, chung bát cơm, chung nửa chăn, chung lưng ngày nhớ. người mẹ nắng cháy cõng con ra đồng bẻ từng bắp, nhớ vì sao lớp tôi đồng báo khuya, đuốc sáng bữa tiệc, nhớ sao những ngày cơ quan vất vả vẫn hát vang núi vượt qua.

ký ức ùa về, từng ký ức trong vắt như thể mới xảy ra ngày hôm qua. người lính khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt, nghĩa tình sâu nặng như suối nguồn tươi mát đổ về làng. người lính vẫn nhớ vầng trăng tròn sau rặng núi xa sau bản làng, nắng vàng mật ong rơi trên ruộng bậc thang đượm mùi lúa chín, những buổi sáng mờ ảo trong mây khói, anh nhớ từng con suối trong rừng. . thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại hiện lên qua từng câu thơ thơ mộng khiến ai đi xa cũng không khỏi bồi hồi nhớ nhung.

nó cũng xốn xang khi nhớ lại hương vị của củ sắn, bắt được nửa phần cơm, tuy giản dị nhưng nồng nàn. Hình ảnh người mẹ cõng con đi làm đồng là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào tòng quân ở núi rừng Việt Bắc. nhớ lớp, nhớ bài ca dân quân… những kỷ niệm đó thật sự rất đẹp và đã trở thành một phần máu thịt của anh. Không nhất thiết phải nói lời chia tay, nhưng bằng việc tái hiện một loạt câu hỏi như thế, chúng ta mới thấy được tình cảm sâu nặng, sự gắn bó chân thành giữa cán bộ và nhân dân.

Khi trở về trong tôi, tôi nhớ gì, tôi nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng, ánh dao, ngày xuân nở trắng rừng nhớ người đan nón, tỉ mẩn từng sợi. một mình trong rừng thu trăng soi hòa thương nhớ ai khúc tình thủy chung.

Qua một vài câu thơ, nhà thơ đã tái hiện một cách chân thực và rõ nét nhất thiên nhiên đất nước Việt Nam qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả mùa đông trước là mùa đông đến của người lính. đi trong mùa đông, mùa đông là mùa gặp gỡ, chia phôi nên khắc sâu vào lòng người. mùa đông: mùa của những cánh rừng xanh mướt, hoa chuối đỏ rực. những con người xuất hiện trong bức tranh thơ mộng ấy đang ở trong tư thế chinh phục thiên nhiên: “Những con người cao đèo trong nắng với con dao thắt lưng”. mùa đông chuyển sang xuân, hình ảnh miền bắc Việt Nam khoác lên mình một màu sắc mới. đó là màu trắng tinh khôi của hoa mai, con người rất chăm chỉ trong công việc. vào mùa thu, những cánh rừng hoa mơ trắng muốt chuyển sang màu hổ phách với tiếng ve kêu như giục giã lòng người. hình ảnh cô gái Việt Nam đi hái măng một mình thật nên thơ. tận cùng là hình ảnh của bốn mùa là ánh trăng thanh bình cùng với những câu hát thiết tha, thủy chung.

Có thể nói, qua một vài câu thơ, dòng đời như cô đọng lại trong từng câu chữ. con người việt nam và thiên nhiên làm trung tâm trong hình ảnh bốn mùa đó. các nàng tiên tượng trưng cho màu sắc của bốn mùa khi lướt qua các dòng chữ.

sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên, người lính nhắc đến những hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình:

Bạn có nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, núi, ta cùng nhau đánh tây, núi trải đồn sắt, rừng che quân rừng, vây giặc, sương mù bao trùm, và Tất cả vùng chiến sự của chúng ta, ai còn nhớ tôi? đèo phùng thông, đèo giang nhớ sông Lô nhớ phố thương nhớ từ cao lang đến nhì hà nội…

Những kỷ niệm hiện lên trong tâm trí những người lính chiến đấu chống lại kẻ thù. khi giặc đến, không chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng hoang vu đoàn kết đánh giặc. Đối với quân và dân ta, rừng giang rộng vòng tay yêu thương che chở bảo vệ, những tán lá xanh mướt của rừng như một thứ ngụy trang khiến bộ đội yên tâm chiến đấu, đánh thắng kẻ thù. đối với địch, rừng rậm địa thế hiểm trở như một mảng bao vây khiến chúng rơi vào nhiều cạm bẫy. Khi đó, thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.

nhưng trên hết là tình quân dân được thể hiện rõ hơn trong bài thơ:

Đường cao tốc bắc việt của chúng ta về đêm ầm ầm làm đất rung chuyển, trùng trùng sao pháo và đuốc đỏ, bậc thềm đá dăm, muôn ngàn ngọn lửa bay qua màn sương mù dày đặc soi bóng đèn pha như mai sẽ có tin vui chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, điện tử vui mừng trở về từ đồng thap an khevui về việt nam núi hồng đèo.

khí thế của đoàn quân vô cùng hùng tráng, được thể hiện qua hình ảnh so sánh “đêm khuya như tiếng đất nung”, qua những từ gợi tả “trùng điệp”, qua những hình ảnh hoán dụ ánh sao trên đầu súng và chiếc nón lá – những hình ảnh biểu tượng cho quân và dân bắc việt. Ngọn đuốc trong tay quân và dân không chỉ thắp sáng cả bầu trời Việt Bắc lúc bấy giờ mà còn thắp sáng bao thế hệ, thắp sáng tương lai, thắp lên niềm tin và hy vọng về một chiến thắng không xa. sức mạnh của cả một đội quân hùng hậu đến mức có thể thổi bay những tảng đá mà không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Với nghệ thuật phóng đại, cường điệu, nhà thơ thành hu như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, nay qua những câu thơ ngắn gọn, ta như được trở về một thời hào hùng của ông cha ta. giữa bóng tối bao quanh, ánh đèn pha dường như thắp sáng niềm tin và hy vọng của mọi người về một tương lai tốt đẹp hơn.

Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu trường kỳ, gian khổ, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Không có từ ngữ nào diễn tả được niềm hạnh phúc vô bờ bến. từ tây bắc hòa bình hay di tốt, mọi người dường như hân hoan cùng một niềm vui. Điều đó thể hiện tình đoàn kết bền bỉ của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.

Ra đi trong niềm tiếc thương, nhà thơ đã hát lên những giai điệu hào hùng ca ngợi đất nước ca ngợi đảng và chính quyền Việt Nam:

ai còn nhớ ?, cờ đỏ thắm, gió lộng, cửa hang, giữa trưa nắng sao vàng, trung ương bàn việc công, bày ra chiến dịch thu đông ngoài đồng phát động giao thông mở đường, duy tu đắp đê, chống hạn, thu lương, gửi lương. miền ngược lại thêm trường, miền bóng giặc trông về việt bac, hồ soi bóng. cây đa hồng thái thế.

Ngày hôm qua ấy mãi mãi trong tim người chiến sĩ cách mạng, hiện hữu như một phần ký ức không thể tách rời. hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng như minh chứng cho những chiến công hiển hách của dân tộc. hình ảnh chú ho là biểu tượng của lòng dũng cảm, nghị lực cho quân và dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. các bác sĩ muốn tiếp thêm cho chúng tôi lòng dũng cảm vì chỉ có ý chí mới có thể vượt qua chông gai, thử thách và khó khăn đang chờ đón chúng tôi.

Tôi đang đi đến thành phố xa, tôi có còn nhìn thấy núi đồi không? Bạn có còn nhớ thị trấn lên đèn không? Có nhớ trăng giữa rừng không?

bài thơ như lời trăn trối khôn nguôi của những người con đất Việt đối với người chiến sĩ cách mạng lúc ra đi. Những hình ảnh ẩn dụ như nhà cao, núi non, phố xá, đèn sáng và vầng trăng giữa rừng là những hình ảnh đại diện cho cuộc sống ở thành phố và trên núi. đối lập một bên là cuộc sống giàu sang, no đủ và một bên là cảnh nghèo nàn nhưng đầy ắp kỉ niệm nơi núi rừng thiên nhiên, tác giả đã bày tỏ nỗi niềm trăn trở trong lòng người nếu hoàn cảnh đổi đời, những bức tranh có sự thay đổi lòng người, họ đã quên đi quá khứ, quên đi những con người đã kề vai sát cánh trong những tháng ngày gian khó, đang ngày đêm khao khát ngày trở về. Đáp lại, quan chức này tuyên bố:

hôm nay đường đi lại đây, rời thôn hướng về thành phố, nhà cao cách núi xanh không xa, đông thành thúc giục ngươi ngày mai mau lên đường, trở về thôn, xưa rừng, núi cũ, mai yêu lại, mải miết ngược xuôi đoàn tàu chạy xuyên núi…

Người cán bộ lão thành cách mạng khẳng định tấm lòng thủy chung: dù cuộc sống có đổi thay nhưng tấm lòng luôn hướng về Việt Bắc, trái tim luôn chan chứa tình cảm yêu mến con người và thiên nhiên nơi đây. dù ở nhà cao cửa rộng cũng không quên núi xanh. một ngày nào đó họ sẽ lại thăm thị trấn, tình cảm của họ sẽ trở lại tươi mới và vẹn nguyên như thuở ban đầu.

Trong những giây phút chia ly cuối cùng, thông điệp cuối cùng mà người Việt Nam muốn gửi là:

Tôi cùng chú trở về Việt Bắc, tôi không khỏi nhớ ông cụ với đôi mắt long lanh. chiếc áo nâu có túi vải thật đẹp và mát mẻ. Em nhớ anh trong buổi sớm mai lặng lẽ trên yên xe trong lạch, nhớ chân người đi đèo, người vượt núi băng rừng soi bóng người.

Hình ảnh người bác lại một lần nữa xuất hiện trong bài thơ. là bạn không xuất hiện như một biểu tượng đẹp đẽ để tiếp thêm ý chí và niềm tin của người chiến sĩ cách mạng, không phải là biểu tượng của sức mạnh chiến thắng kẻ thù, mà bạn xuất hiện trong những câu thơ này bạn là một con người rất đỗi bình thường: mắt sáng, da nâu. áo sơ mi có túi vải trong tư thế thư thái trên ghế vào mỗi buổi sáng. thực ra, hình ảnh chú tiểu hiện ra như một cổ tích trong truyện cổ, rất giản dị nhưng đẹp đẽ lạ thường. giờ người đó đã khuất núi rừng như dõi theo từng bước chân của bạn.

cuối bài thơ là hai dòng với âm hưởng rực rỡ:

chúng ta hãy nắm tay nhau và cùng nhau hát hò vui vẻ, hãy cùng nhau hát vang tại thủ đô vào ngày mai.

Hai câu cuối của bài thơ mang âm hưởng vui tươi nên dù chủ đề nói về một cuộc chia tay nhưng nó không hề gây cho người đọc cảm giác xót xa, buồn bã, tiếc nuối mà ngược lại vẫn trong sáng, tươi vui. , mở ra một tương lai vẻ vang, một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển không ngừng. câu hát ở cuối bài khép lại bài thơ như một lời ngợi ca sức sống của đất nước, đồng thời cũng là lời ca chia tay đầy tin tưởng.

Bài thơ Việt bac khép lại nhưng để lại dư vị khó phai trong lòng người đọc. để có được thành công như vậy trước hết phải kể đến những nét đặc sắc của nghệ thuật. chất thơ dân tộc được thể hiện rõ nét trong suốt bài thơ. nhà thơ sử dụng rất thành công thể thơ lục bát, một thể thơ quen thuộc trong văn học dân gian, với âm hưởng tinh tế, mềm mại đã khắc sâu vào tâm trí mỗi người. chất văn xuôi cũng được gửi gắm trong bài thơ và được vận dụng sáng tạo một cách linh hoạt, những hình ảnh so sánh, ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu cho bài thơ.

Bài thơ của viet bac không chỉ tái hiện không khí của những năm kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm lại vẻ đẹp trong lòng người: vẻ đẹp của trái tim. vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết, và rộng hơn là tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, nhân dân. cũng chính từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng đồng cảm tinh tế với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam Bắc Bộ. Để có được điều này, anh đã dành nhiều thời gian sống và gắn bó với con người, với thiên nhiên núi rừng Việt Nam.

Bài thơ tiếng việt của bác sĩ tử cùng với các bài thơ khác cùng thời đại, cùng chủ đề như bài “Đồng chí cánh hữu” của bác sĩ Tiến Duật và bài thơ về tiểu đội xe không kính của bác sĩ Tiến Duật, đã đóng góp phần lớn về chủ đề này. thơ ca cách mạng không chỉ có tác dụng cổ vũ tinh thần cho người chiến sĩ mà còn là sự phản ánh một thời oanh liệt của dân tộc, để thế hệ sau mãi mãi tự hào.

Phân tích bài thơ Việt Nam – mẫu 3

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cán bộ, chiến sĩ rời Việt Bắc trở về Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy luyến tiếc giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng, nhà thơ đểu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với nhãn quan của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng và một người bạn, ông đã phản ánh sâu sắc hiện thực mười lăm năm kháng chiến của Việt Bắc và dự báo diễn biến tư tưởng hòa bình.

Đoạn trích trong bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia tay đầy mong đợi giữa người Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến, đồng thời gợi lại những kỉ niệm của cuộc kháng chiến hào hùng và nghĩa tình. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao và hình dung người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến là Ta – Ta. cuộc chia ly giữa người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng như cuộc chia tay của một đôi trai gái đầy xót xa, nhớ nhung, da diết.

mở đầu là lời của viet bac. Rất tế nhị khi để cho người ở lại nói trước, người ở lại vì khi nói lời chia tay, người ở lại thường lo lắng cho người ra đi:

“Bạn có nhớ tôi khi tôi trở lại với chính mình không? anh có nhớ em trong suốt mười lăm năm ấy với tình yêu nồng cháy dành cho em không? Có nhớ cây, nhớ núi, trông sông, nhớ nguồn? ”

bài thơ “viet bac” có hai giai điệu chính. câu hát mở đầu “Em về một mình anh nhớ em” là giai điệu chính đầu tiên. bài thơ tôi vừa đọc có vẻ không có gì sâu sắc nhưng thật sâu sắc. cả trăm cặp đôi chia tay cũng nói lên điều này. yếu tố mượn màu nghĩa tình và thể hiện tình cảm cách mạng. đại từ tôi và tôi nằm ở hai đầu dòng, chúng tôi đã nhìn thấy khoảng cách. từ “nhớ” được lặp lại ba lần tạo nên âm hưởng chính của bài thơ: nhớ nhung, bồi hồi thường trực, ân tình, ân nghĩa. người về lặng người trước những câu hỏi nặng nề và đầy ý nghĩa của viet bac:

“tôi có thể nói gì với chúng tôi hôm nay…”

viet bac hỏi lại:

“Khi ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối, mây về, có nhớ chiến tranh cơm mặn, chiến đấu bền chặt?”

cho viet bac hỏi là cách nhà thơ nhớ về những ngày kháng chiến gian khổ. chỉ là một vài hình ảnh “mưa suối, mây trời” là cảnh u ám của núi rừng những ngày đầu kháng chiến. ta và ta đã cùng nhau chia sẻ những gian khổ “miếng cơm manh áo”, cùng nhau chiến đấu chống lại kẻ thù chung là “kẻ thù không đội trời chung”.

Vẫn là một câu hỏi về tiếng Việt, nhưng bài thơ đã tiếp tục:

“Em về rồi, núi rừng nhớ mai rụng, mai già đi. Em đi rồi, nhớ lau sậy xám xịt đầy son”

Phép tu từ nhân hoá “núi rừng nhớ ai” thể hiện tình cảm thân thiết của người con đất Việt đối với những người kháng chiến. Khi tôi trở về, núi rừng Việt Bắc trống trải, “lấp cho mai rụng, mai già”. Nhồi nhét (nhồi xanh và nhồi đen) và măng tây là hai món ăn thường ngày của cán bộ, chiến sĩ kháng chiến. mượn cái thừa để nói cái còn thiếu, thật tuyệt! lối sống tương phản giữa bề ngoài (hẩm hiu lau xám) và bên trong (với tấm lòng thâm trầm) thể hiện cuộc sống chân chất, nghèo khổ của người dân Việt Nam, nhưng sâu thẳm họ vẫn trung thành với cách sống. mạng.

ở cuối câu, viet bac hỏi mọi người về:

“Em đi rồi, em có nhớ anh là người mới, hồng thai, mái đình cây đa không?”

giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Tôi đi rồi, tôi bị lạc”. nếu giai điệu thứ nhất là đạo lý của dân tộc với tư tưởng đền ơn đáp nghĩa thì giai điệu thứ hai là cách mạng. viet bac nhắc người trở về không chỉ “nhớ mình” mà còn “nhớ mình”, trong lời yêu thương không chỉ “nhớ mình” mà còn “nhớ mình”. “bạn” đã ở với tôi. bạn đã sống với tôi trong mười lăm năm, biết ơn biết bao, anh hùng biết bao! chúng ta viết tiếp vào những trang sử hào hùng của lịch sử dân tộc “mái đình, cây đa”. Giờ chúng ta đã xa nhau, chúng ta đã trở lại thành phố, nhớ đừng đổi ý với anh, nhưng đừng đổi ý với chính mình:

“Ta đi thành phố xa, có còn thấy núi đồi Không đông có nhớ phố lên đèn, có nhớ trăng giữa rừng?”

để người viet bac thận trọng là một cách khôn khéo để nhà thơ dự báo những diễn biến tư tưởng trong thời bình.

“Tôi đi đây, tôi nhớ bản thân mình”

đó là dòng hay nhất của bài thơ “viet bac” nhưng cũng là một sáng tạo tuyệt vời của tou. Đón nhận hết lời ân cần ân cần của Bắc Việt, đến bây giờ người ta mới lại mở miệng nói. lời nói của mọi người cũng chân thành:

“Ta với ta, ta bằng lòng, trước sau mặn nồng, ta đi, ta nhớ ta thủy chung, ta bao nhiêu tình…”

hai đại từ ta – ta cứ vòng vo “tôi và tôi, tôi và tôi” thật say mê. ý nghĩa không đủ rõ ràng để hợp nhất thành một:

“Tôi đi đây, tôi nhớ bản thân mình”

(câu trả lời cho câu hỏi: “bạn có nhớ tôi khi tôi trở lại”)

ngôn ngữ của tình yêu là “bạn đang rời đi, tôi nhớ bạn”. nỗi nhớ của người trợ lý dạt dào nên tình yêu đối với tiếng Việt của người trợ lý là vô bờ bến. người trả lời như thế này chắc đã làm yên lòng người ở lại: viet bac.

vì vậy, đó là một biến thể của giai điệu đã được hình thành và mở rộng đến vô tận. Tất nhiên, đó chỉ là một thủ pháp để nhà thơ vừa miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc với cách mạng, vừa miêu tả bản hùng ca kháng chiến của quân và dân Việt Bắc.

Để xóa tan nghi ngờ của người ở lại, người trở về phải nói những lời ấm áp, có thể so sánh với tình cảm cao quý nhất của con người:

“Nhớ gì bằng nhớ người thân, trăng lên đỉnh núi, mặt trời soi bóng lưng”

từ “nhớ” được nhân đôi và mỗi từ gợi lên vô số kỷ niệm đẹp giữa bạn và tôi. những chi tiết nhỏ đã được ghi nhớ (và người tình nhỏ là chi tiết lớn).

“Thương nhau, sẻ sắn, chung bát, chung chăn”

người dân Việt Nam đẹp và quý giá biết bao khi anh trở về:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng cõng đàn con ra đồng bẻ từng bắp ngô.”

tiếng mõm trâu trong rừng chiều, tiếng búa tạ về đêm trong con lạch vang lên trong lòng người ra đi:

“Hãy nhớ tại sao tiếng rừng réo rắt lúc chiều và đêm đập cối vẫn vang xa…”

nói tóm lại, ai đó nhớ thiên nhiên Việt Nam đẹp đẽ, thơ mộng và mê hoặc lòng người (1); gợi về con người Việt Nam giản dị, giàu tình cảm, thủy chung từ tiếng nói anh hùng, hùng ca. cuộc kháng chiến anh dũng của tôi và tôi được tái hiện trong trí nhớ của bạn về:

“Nhớ khi giặc đến xâm lăng rừng núi, núi đá, ta cùng nhau đánh tây, giăng thành lũy sắt, rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.

Thiên nhiên Việt Nam dường như có hồn nhờ cách sử dụng nhân cách hoá của tác giả. Cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc đã trở thành bức bình phong sắt che chở, che chở cho bộ đội “đi khắp nơi”, “đánh” giặc. mỗi tên núi, sông, phố, thị xã là một chiến công lừng lẫy của quân và dân Việt Bắc. rồi những đêm vắng vẻ, những dòng người đông đúc, những đoàn xe tải huyên náo:

“những con đường Việt Bắc của chúng ta đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng điệp điệp ánh sao đầu súng, mũ ni đỏ thắm, đuốc đỏ bậc thềm, lửa bay ngàn đêm sâu trong đèn pha sương mù dày đặc sáng như mai. ”

tác giả chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để bày tỏ nỗi nhớ về trung ương: cố nhân. và hình ảnh viet bac trong ký ức của nhân dân là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin và hy vọng của toàn dân tộc.

những người trở về cũng không quên trả lời câu hỏi thú vị của viet bac:

“Mỗi khi về lại nhớ đình làng hồng thái, cây đa tân nương” (2)

(câu trả lời cho câu hỏi “tôi có nhớ bạn khi tôi đi không”)

nghĩa là những người trở về muốn nói với những người Việt Bắc rằng, dù ở xa nhau, dù ở thành phố xa xôi nhưng những người thuộc các bộ cũ trong kháng chiến vẫn giữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của cán bộ lão thành cách mạng. .

p>

như vậy với sự biến tấu của làn điệu thứ hai, tác giả đã khép lại phần đầu của bài thơ “viet bac”. và chủ đề về lòng trung thành – trung thành với cách mạng của bài thơ “Việt bắc” đã đạt đến chiều sâu ngay trong phần đầu tiên này.

“viet bac” là một kiệt tác của tự hào nhưng cũng là một kiệt tác của thơ ca cách mạng và thơ ca kháng chiến. đoạn thơ thể hiện tài năng đa đoan của nhà thơ. thể thơ lục bát là sự bày tỏ tình cảm, ý tưởng mới mẻ của tác giả nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. lối hát đối đáp tạo nên nhạc điệu phong phú cho bài thơ. nhiều biện pháp tu từ được tác giả sử dụng tài tình. ngôn ngữ trong sáng, ý nhị, có nhiều nét đổi mới (nhất là hai đại từ ta – ta). tiếng nói của tình yêu – một đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ của huu – không có bài hát nào xúc động hơn “viet bac”. bài thơ cũng thể hiện những ý tưởng mới với những tiên đoán sáng suốt được thể hiện bằng những hình ảnh phong phú và những đoạn phát lại trên băng nhạc làm say đắm lòng người.

Phân tích bài thơ Việt Nam – mẫu 4

những bài thơ nói đúng là những bài thơ nói lên tiếng nói của dân tộc, tâm hồn của một dân tộc gắn bó sâu nặng với sự nghiệp cách mạng, với quê hương đất nước. Trong những bài thơ ấy, ta sẽ tìm thấy những tình cảm sâu lắng, trữ tình, xuất phát từ tấm lòng trung thành với dân tộc, với nhân dân và đặc biệt là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất thế giới, hay nhất.

a huu (1920-2002), tên khai sinh là nguyen duy thanh, sinh ra tại xã quang thọ, huyện quang di, tỉnh thừa kế, cái nôi của văn hóa dân gian. toan hu là nhà thơ lớn, nhà thơ tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ của ông luôn gắn liền với các chặng đường cách mạng của dân tộc. lối thơ trữ tình chính trị sâu sắc, tự sự với đời, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ họ luôn nhân danh đảng, dân tộc, bài thơ ấy giàu nhạc tính, đậm đà bản sắc. quốc gia.

ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thành công, chấn động địa cầu và mở ra một trang mới trong lịch sử nước ta và một thời kỳ mới. Sau khi hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7 năm 1954), miền bắc hoàn toàn giải phóng và Pháp rút quân. Tháng 10 năm 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh chuyển tất cả các cơ quan trung ương đảng và chính phủ từ Việt Bắc về thủ đô. Từ đây, các chiến sĩ cách mạng ly khai núi rừng đại ngàn để ra đi, bước sang một trang mới của cách mạng nước nhà, Việt Bắc đã ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy.

Mở đầu bài thơ bằng giọng nhẹ nhàng, trữ tình, nhà thơ thể hiện tình cảm của những người còn lại đối với những người đã ra đi.

“Khi đi về, lòng tha thiết nhớ mười lăm năm ấy, khi về có nhớ cây, có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn không?

tác giả sử dụng cặp đại từ “my-ta”, ở đây không nói đến cách đối xử giữa những người yêu nhau hay một đôi trai gái nào đó, mà là sự đối đáp của những người cách mạng đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam. lời nói ấy đồng thời mang đậm tính dân tộc và thể hiện ca từ chính trị sâu sắc của bài thơ, như tiếng nói trong tình yêu lứa đôi, thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của những con người sống trong nỗi xót xa, nhớ nhung. “mười lăm năm ấy nồng nàn, thắm thiết”, sự gắn bó ấy không chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp, mà còn từ những năm kháng chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bác Sơn (1940). Một thời gian dài chiến đấu gian khổ càng làm cho tình cảm giữa các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam thêm thắm thiết, mặn nồng, thắm thiết. mười lăm năm là khoảng thời gian không ngắn cũng không dài, nhưng cũng đủ để cảm xúc biến thành nỗi nhớ, không thể quên, như che lan viên đã từng viết “khi ta còn ở trần gian chỉ là nơi ở / khi nào. Ta đi trần gian bỗng trở thành tâm hồn “.” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn “, và hơn hết nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng, ắt hẳn ai cũng yêu. , tuân thủ, sống chân thành để có thể có được những tình cảm nồng nàn như vậy?

“giọng ai đó đang trầm tư bên bờ sông, nằm sấp, bước đi không yên, Indigo, hôm nay nắm tay nhau nói chuyện…”

từ vu vơ cho “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi là người ở lại. từ “lo lắng” được ghép từ “lo lắng” nói rõ hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, các từ “khổ sở”, “lo lắng” chứa đựng nhiều cảm xúc, có niềm vui chiến thắng, niềm vui sướng của trở về quê hương, đoàn tụ với gia đình; và cũng có nhiều nỗi buồn khi phải tạm biệt mảnh đất thấm đẫm tình người. “áo chàm mang chia li”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ điển, truyền thống thể hiện sự gắn bó, đó là hình ảnh hoán dụ của người Việt Bắc, đó là chiếc áo nâu giản dị, mềm mại, thể hiện tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của nhân dân và núi rừng Tây Bắc, đang tiễn biệt người chiến sĩ cách mạng. câu “nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay…”, khổ thơ 3/4 như tạo nên một khoảng lặng giữa cảnh chia ly đau thương, nhìn nhau mà chết chìm, ngập ngừng không biết nói điều gì, để cảm xúc ấy bâng khuâng. , len lỏi vào tâm hồn, trở thành kỷ niệm khó quên.

“Khi tôi ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối, mây mù trở về, anh có nhớ chiến tranh với miếng cơm manh áo thấm muối, thù dai không? rừng núi lỡ ai hái trái rụng mơ để già ”.

sau mỗi cụm từ “Anh đi”, “Anh sẽ về”, nhà thơ đã tinh tế đặt dấu phẩy, đây chính là khoảnh khắc, giây phút lắng đọng để bao kỉ niệm ùa về trong tâm trí. những kỉ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian “ngày tháng”, không gian “chiến khu”. những hình ảnh “mưa dầm dề”, “mây tụ”, “miếng cơm manh áo”, là những hình ảnh ẩn dụ về sự gian khổ của người cách mạng trong những năm đầu kháng chiến ở núi rừng Việt Nam. . , và chính những khó khăn đó đã làm nên tình quân dân khăng khít, gắn bó bền chặt. biện pháp nhân hoá “rừng núi nhớ ai” như thổi vào cảnh vật miền núi nỗi nhớ dạt dào, sâu lắng, từ “ai” thấm đượm bao tình cảm thân thương. những cụm từ “quả rụng”, “mai già” đã thể hiện nỗi buồn sâu lắng, lặng lẽ khi những người cách mạng trở về, để lại núi rừng Tây Bắc xa lạ, bấp bênh khi nhịp sống đột ngột thay đổi. từ mùa đông hạnh phúc đến sa mạc hoang vắng. .

“khi em ra đi anh có nhớ những lán, lau sậy xám xịt đầy lòng người? Có nhớ núi non khi chống nhật, khi anh còn ở việt minh khi ra đi anh có nhớ tan trạo , hong thai, nóc nhà, cây đa? ”

nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ nét hơn với từ “nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “xám xịt, lòng đầy đỏ”, khẳng định một chân lý rằng càng khó khăn, gian khổ, tình quân dân càng đoàn kết. và đoàn kết. những người ở lại nhớ lại những kỷ niệm xưa của thuở hàn vi, về những năm tháng kháng chiến chống Nhật để những kỷ niệm ấy càng khắc sâu hơn trong tâm hồn những người đã khuất. chữ “em” được lặp lại trong câu thơ “Anh đi anh nhớ em” gợi nhớ đến câu hát nổi tiếng “anh với em dù hai mà một” càng khẳng định tình cảm gắn bó mặn nồng. những địa danh vô cùng thân thuộc với những người đã khuất còn sót lại “mái đình, cây đa?” gợi lại những kỷ niệm xưa, hào hùng, sâu nặng và đầy xúc động của những chiến sĩ cách mạng đã qua với nhân dân thành phố. Tây Bắc.

“ta với ta, ta và lòng ta, trước sau như một tưởng ra đi, ta nhớ đến mình cội nguồn bao nhiêu ân tình thủy chung… mà chẳng nhớ gì như nhớ người thương, trăng đi trăng sao. đỉnh núi, nắng chiều trên lưng nhớ từng bản khói sương sớm mai bếp lửa người thương về quê Nhớ từng rừng tre bên bờ sông ngày ngày suối lê rưng rưng. “

lối đối đáp “tôi-tôi” vẫn được sử dụng, cấu trúc “tôi và tôi, tôi và tôi” tạo ra một âm vang chân thành. đến đây, tôi cũng là tôi, tôi cũng như tôi. Câu thơ “Lòng ta thủy chung son sắt” đã thể hiện được tình cảm chân thật, thủy chung mà những người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Nam, như lời thề nguyện thủy chung son sắt của một đôi trai gái. biện pháp so sánh trong câu “nguồn cội bao nhiêu tình bấy nhiêu…”, đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc: lòng biết ơn của con người Việt Nam trong sáng, chan chứa, nghĩa tình như chưa từng có. mòn mỏi như tình yêu của người mẹ dịu dàng với những đứa con của mình. Ở đây nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ quê hương với nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân, để mọi thứ trở nên da diết, ngọt ngào hơn. và cũng vì nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ sâu sắc và chân thành nhất nên từ nỗi nhớ ấy hiện lên với không gian rất thơ mộng, câu thơ “trăng lên đỉnh núi, nắng chiếu lưng” thể hiện nỗi nhớ da diết. lan tỏa trong không gian và ngự trị trong mọi khoảnh khắc của thời gian, đêm và ngày. hình ảnh “sớm khuya bếp lửa yêu thương đi về”. gợi nhớ về một miền Bắc Việt Nam thân thương, nồng nàn và ấm áp. cụm từ “nhớ từng” cho ta cảm giác nhà thơ đang lật từng trang kí ức, người bạn đã liệt kê những địa danh “sông ngày, suối” và hai tiếng khép lại bài thơ, đây rồi. Nơi đây không còn đơn thuần là nơi chốn mà là nơi đầy ắp kỉ niệm: bao đất nước, bao kỉ niệm, bao tình cảm nồng ấm, ngọt ngào.

“Nào anh ơi, em nhớ những ngày tháng nơi đây, cay đắng ngọt bùi… thương nhau, chung gốc cau, chung tấm cơm, tấm mền, nhớ mẹ đã đốt con sắp đến. lưng cõng con lên nương bẻ từng bắp, lớp em lá dong khuya, đuốc sáng bên bữa tiệc nhớ sao những ngày gian khó vẫn hát vang đèo.

câu “ta ra đi, ta nhớ …” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ nghiêm túc của người đi người ở lại, của người cách mạng đối với mảnh đất Việt Bắc anh hùng, câu “Ta đây đó… ”kết hợp với“ đắng cay ngọt bùi ”càng tô đậm thêm tình cảm sâu nặng của hai chữ“ thương nhau ”, thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu nặng, người ở nhà“ thương nhau củ sắn sẻ chia ”. , “Bát cơm chia đôi, chăn đắp” đã thể hiện tình cảm quan tâm, sẻ chia bằng sự sẻ chia, gắn bó quân dân, chính sức mạnh đoàn kết đã làm nên chiến công lừng lẫy của quần chúng. nhà thơ tiêu biểu cho hình ảnh người mẹ “dắt con ra đồng bẻ từng bắp”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “bếp lửa” giàu hình ảnh nhấn mạnh sự gian khổ của người mẹ trong cuộc kháng chiến. .tác giả sử dụng cụm từ “nhớ những vì sao” như một hoài niệm Hòa cùng cảm xúc với các hoạt động tại chiến khu Việt Bắc: lớp học, dự tiệc, ca hát trên đèo, tạo nên không khí tươi vui thấm nhuần tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần. của niềm lạc quan cách mạng, niềm tin tưởng rằng cách mạng nhất định thắng lợi: dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, khó khăn, quân và dân ta vẫn đoàn kết chiến đấu, hòa mình vào nhịp điệu sôi động. bài thơ giàu nhạc điệu, là khúc ca ca ngợi lẽ sống cao đẹp, nghĩa tình còn sâu đậm trong lòng những người cách mạng và núi rừng Việt Bắc. câu thơ cuối khép lại bằng tiếng la, tiếng cối và tiếng suối xa, gợi cảm xúc mênh mang, thấm thía.

“Em về anh có nhớ em không? Em nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng, thắt lưng dao. Ngày xuân mơ nở, rừng thu trắng xóa nhớ người đan nón, trau chuốt từng sợi tơ Chị rừng hái măng một mình giữa rừng thu, trăng soi trong hòa nhớ ai câu hát thủy chung ”.

Hình ảnh bốn chiếc bình hiện lên thật đẹp, câu hỏi tu từ “có nhớ anh không em?” chứa đựng biết bao cảm xúc, là cái cớ để người đã khuất bộc lộ bao nỗi nhớ thương. cụm từ “hoa cùng người” được kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người đã khuất, hoa là biểu tượng của thiên nhiên, là hình ảnh đẹp và thơ mộng của thiên nhiên. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động, nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp. xua tan cái lạnh tê tái trên đất Việt.

người ta xuất hiện trong tư thế lao động, rất đẹp đẽ và tráng lệ, người ta dường như chiếm hết phần trên, hình ảnh được tạo nên bởi nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. mùa xuân hiện ra với khung cảnh “mộng nở hoa rừng” vô cùng thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp lung linh, ấm áp, hình ảnh con người cũng trong tư thế lao động “sửa từng sợi sông”. “, thể hiện sự cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Rồi đến mùa hè thật sôi động và tràn đầy sức sống, cảnh sắc thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn ràng vang vọng núi rừng. với sắc vàng của rừng phách Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng Khép lại khung cảnh là cảnh mùa thu thanh bình, mùa thu của ngày cách mạng tháng tám thành công, mùa thu năm 1954 tất cả được tượng trưng bằng vầng trăng rất đẹp câu thơ “nhớ ai câu hát chung tình” vừa khép lại hình ảnh tứ tuyệt về cảnh và người việt bắc, vừa khép lại khúc tình ca hào hùng của cuộc kháng chiến.

trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại, không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là lúc “giặc đến giặc ngoài”, từ “tìm” đã cho thấy sự hiểm trở của quân thù “rừng núi, ta đánh tây” cùng “đất trời, ta một lòng đánh giặc” đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể có hồn, che chở cho bộ đội, bao vây quân thù, hình ảnh “núi giăng vách sắt” kết hợp với cấu trúc chồng chất “rừng che lính, rừng vây giặc”, giàu sức gợi. , giúp thể hiện sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không gì có thể hủy diệt được. Từ “nhớ” kết hợp với các điệp ngữ “nhớ chữ”, “nhớ nhung”, những địa danh gắn với chiến tích, cho ta cảm giác nhớ nhung lan tỏa khắp chiến khu Việt Bắc. lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động, cách sử dụng các biện pháp tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh to lớn của dân tộc, đồng thời cũng thể hiện nỗi nhớ sâu sắc và lòng biết ơn đối với núi rừng. rừng việt bắc tràn đầy yêu thương.

“những con đường bắc việt của chúng ta đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng điệp điệp vũ khí, mũ đỏ công dân nandan từng đoàn từng bậc đá vụn, khói lửa bay ngàn vạn. đêm sâu trong sương mù dày đặc đèn pha sáng như mai báo tin mừng chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, giếng trời vui trở về từ đồng thap, khevui về việt bắc, đèo từ, núi hồng ”.

câu thơ “Việt Nam ta cách trở” đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của đất Việt, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân và đất nước vì đây là quê hương cách mạng, là trái tim của cả nước trong những ngày qua. kháng chiến chống Pháp. biện pháp tu từ so sánh “như đất rung trời” kết hợp với hình ảnh “đoàn quân đi trùng điệp” đã thể hiện sức mạnh to lớn của quân đội trên tiền tuyến, đoàn quân như muôn thuở, anh dũng vô cùng.

câu thơ “ngôi sao đầu súng” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, hình ảnh “đầu súng” gợi liên tưởng đến hình ảnh “đầu súng. “. vầng trăng treo ”trong thơ chính đạo và“ vũ khí ngửi trời ”trong thơ quang dũng thể hiện tầm cao của người chiến sĩ, đây là một hình ảnh đẹp và thơ. Đây là hình ảnh của một đoàn thể quần chúng rất hùng hậu và đông đảo”. đuốc đỏ từng đoàn ”,“ bậc thềm đá nát ”, gợi nhớ câu thành ngữ“ chân cứng đá mềm ”khẳng định sức mạnh, sự vững vàng của con người Việt Nam trước bão táp chiến tranh. Trong đêm đen chiến tranh, quân ta và nhân dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt vào một ngày mai chiến thắng, và cuối cùng tin vui đã đến với cả nước, những người lính về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng họ vẫn để lại trong lòng họ biết bao kỷ niệm, rất nhiều tình yêu thương, họ đã mang theo niềm vui chiến thắng. chiến tranh đã kết thúc.

“có ai còn nhớ không? cờ đỏ thắm gió bay nơi cửa hang. giữa trưa nắng chói sao vàng miền trung, phủ bàn công việc quân dịch thu đông ngoài đồng là giải phóng, khơi thông giao thông để duy trì đê điều, phòng gian vd: thu lương đưa dao về miền ngược, thêm trường học miền … Còn đâu nỗi buồn quân thù hướng về việt bắc: Bác ho rực rỡ đâu nỗi đau của nòi giống về phương bắc duy trì sự sống. mười lăm năm rồi ai quên đường về? khi tạo nước cộng hòa tôi nhớ mái ấm gia đình hồng thai và cây đa lắm lừa “.

những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là khung cảnh của những người dân Việt Nam sau chiến thắng của chiến thắng đô hộ phủ, khắp nơi hân hoan trong màu sắc tươi vui của nắng vàng và cờ đỏ. trung ương đảng và chính phủ thu xếp về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền bắc ngày càng đổi mới với chủ trương mới của đảng và nhà nước “giữ đê, tránh hạn, thu lương / gửi dao sang quận đối diện, thêm trường thành … ”. Đồng thời, bài thơ cũng là lời tri ân công lao to lớn của các chú bộ đội kính yêu, một lòng tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thân yêu, dẫu mai sau anh. sẽ trở về thủ đô, nhưng trong trái tim của những người chiến sĩ cách mạng luôn canh cánh một góc trong trái tim dành cho việt bắc, cho “mái đình hồng thái, cây đa tan trạo”.

Toàn bộ đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, nghiêm trang được hòa âm bởi một bản tình ca, khúc tráng ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh dũng. Qua bản nhạc hay và hào hùng này, nhà thơ đã thể hiện tình cảm sâu nặng, thiết tha của mình đối với núi rừng Việt Bắc, đề cao tình đồng chí, nghĩa tình. qua đó tác giả cũng nhắc nhở người đọc không quên những trang lịch sử hào hùng của dân tộc, những trang sử đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đẫm tình cách mạng và lòng yêu nước sâu sắc.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 5

sở hữu hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Có thể nói, những tác phẩm của anh không chỉ nói lên suy nghĩ, lý lẽ sống của bản thân mà qua đó chúng ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà.

Tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân ta phải chuyển thủ đô, ly khai khỏi chiến khu Việt Bắc. người thương không khỏi xót xa tình quân dân trong suốt mười lăm năm kháng chiến. Nhân sự kiện trọng đại, cùng với tình cảm ấy, ông đã viết bài thơ về Việt Bắc.

bài thơ mở đầu của viet bac là lời tiễn biệt của những người kháng chiến và đồng bào nơi đây:

<3

Tám câu thơ đầu là khung cảnh và không khí của cuộc chia tay. luôn luôn “khi ta ở chỉ là nơi ở / khi ta ra đi, đất trở thành linh hồn”. sau bao nhiêu năm cùng nhau sống trên đất việt bắc, sống trong tình làng nghĩa xóm ấm áp tình quân dân, giờ đây những người lính đã phải lên đường. mảnh đất từng gắn kết nay phải chia lìa. hai vợ chồng tự xưng là ta thể hiện sự gần gũi của cán bộ và nhân dân.

cảm giác đó giống như những người thân trong gia đình. bốn câu thơ đầu là lời của người ở, của người Việt Nam lưu luyến hỏi người lính có còn nhớ mười lăm năm mặn nồng ấy không. Không biết những người lính trở về có còn nhớ không, có nhớ dân, nhớ núi rừng nơi đây không. các chiến sĩ cách mạng ngoài việc đáp lại những ân tình đó.

Trong lòng người lính ấy còn lưu giữ những kỷ niệm về nơi này chẳng khác gì con người. những người lính dường như cảm nhận được sự nghiêm túc trong câu hỏi của người dân. lòng quân bồi hồi, khắc khoải không muốn cất bước. Có thể nói những lời này đã nói lên phần nào tình cảm của trái tim người lính.

nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” là để thể hiện những con người Việt Nam trong màu áo ấy tiễn đưa những người lính về thủ đô. một số người vừa đi vừa nắm tay nhau, nhưng không biết nói gì. Có lẽ không cần phải nói, nhưng cả hai đều biết ý nghĩa trong trái tim nhau.

rồi trong hoàn cảnh đó, tất cả những người ở lại đều cất lên tiếng hát nhớ lại những kỷ niệm của mười lăm năm mặn nồng ấy:

“Em đi rồi, anh có nhớ những ngày… anh đi, nhớ em man mác hồng thai mái đình cây đa?”

>

vẫn tha thiết gọi mình, người bắc việt nhớ những ngày mưa lũ, cả trời đất mây mù bao phủ. Trong gian khó ấy, đồng bào luôn có những người lính ở bên. hay nếu người lính khác về anh có nhớ chiến khu hay không, chiến khu đó tuy nghèo chỉ có cơm và muối nhưng đầy tình thương và sự quan tâm của người dân nơi đây.

và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như vậy, miếng cơm manh áo ấy là quá đủ. cuộc tranh chấp đè nặng lên vai người lính, và người dân dường như san sẻ gánh nặng đó với người lính. những người lính về hà nội vẫn nhớ núi rừng nơi đây. và bây giờ trám mai rụng, măng đã già. những gì vốn là bản chất của việt bắc đối với người chiến sĩ cách mạng thì nay người ta để cho những thứ đó về già.

Những từ ngữ được ghi nhớ lặp đi lặp lại như lời nhắn nhủ dường như còn vang mãi trong lòng mọi người, nhưng họ không muốn mất đi. Đôi bạn tự gọi mình và chúng tôi dường như biến đổi thành nhiều nghĩa, đôi khi chỉ người ở lại nhưng đôi khi chỉ người ra đi. điều đó thể hiện tình yêu thương, sự gắn bó của người dân nơi đây đối với các chú bộ đội. những cư dân như muốn nắm bắt cả thiên nhiên và con người Việt Nam với những cảm xúc của một trái tim không phai mờ. những địa danh được nhắc đến như bằng chứng cho những chiến công mà những người lính đã lập được ở đây.

Trước những lời tiễn biệt đầy thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như lòng mình bày tỏ tình cảm lưu luyến:

“tôi và tôi, tôi và tôi ……..

tou huu cũng học cách nói theo cách giống như những người ở đây. Người chiến sĩ cách mạng dù đã qua đời nhưng trong lòng ông vẫn không thể nào quên được những kỷ niệm cảm động ấy. tình người ở lại, người đi như nước trong suối. nó tràn mãi mãi. và những người lính vẫn tin tưởng vào một lời thề bền chặt với nhân dân miền bắc việt nam. từng kỷ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người đã khuất.

từ nhớ miếng cơm manh áo chia nửa, trùm mền. nhắc tất cả các bà các mẹ miền bắc với chiêu đưa con ra đồng hái ngô. một vẻ đẹp lao động của nhân dân. không chỉ vậy, mà còn là những khoảnh khắc chúng tôi học chữ quốc ngữ của nữ giới.

Đó là thái độ nghiêm túc và có trật tự của mọi người. và những giờ phút cử hành trong ánh sáng leo lét của những ngọn đuốc, những ngày tháng ấy đã khắc sâu mãi mãi trong tâm trí những người đã khuất. cho đến khi trở về thủ đô gió ngàn vẫn không quên được tiếng mìn rừng chiều và tiếng cối đánh đêm khuya. Qua đây có thể thấy tấm lòng của đôi bên vô cùng ấm áp và chân thành.

Các chiến sĩ tiếp tục nói về những hình ảnh thiên nhiên hiện ra ở đây qua những câu chuyện đó, thực sự rất đẹp. những câu thơ như vẽ nên một bức tranh tứ bình ở đây thiên nhiên bốn mùa dường như vô cùng tươi đẹp:

<3

Có thể nói, tên riêng của tôi lại một lần nữa được thay đổi, tôi là những chiến sĩ cách mạng ở đây. và tôi là thị trấn ở lại. những người lính đó cũng hỏi những người ở lại xem họ có nhớ họ không. hỏi như vậy để thể hiện tình yêu đối với mảnh đất và con người nơi đây. Không biết họ có còn nhớ những người lính có nhớ hoa và nhớ người không.

hoa hau the gioi la the hien tinh yeu cua viet bac. Sau câu hỏi và phát biểu cảm nghĩ của mình, các chiến sĩ nhắc đến cảnh vật, sinh hoạt của người dân Việt Nam gắn liền với bốn sắc xuân, hạ, thu, đông. nhưng nhà thơ lại chọn cách tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông năm ngoái vì họ đến đây vào mùa đông và ra đi vào mùa đông. mùa đông hiện ra với hình ảnh rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi.

Con người xuất hiện với vẻ đẹp gồ ghề chinh phục thiên nhiên. Vào mùa xuân, cảnh Việt Bắc hiện lên với hình ảnh hoa mai trắng tinh khôi khắp cánh rừng, con người hiện lên với vẻ đẹp của sự cần cù lao động. Mùa xuân đã qua, mùa hè đến, thiên nhiên chuyển mình từ sắc trắng của hoa mai sang sắc vàng của rừng hổ phách.

Cô gái tự tay hái măng. vào mùa thu, thiên nhiên tràn ngập ánh sáng của trăng tròn. người lính nhớ về đồng bào bắc việt với khúc tình ca thủy chung. Như vậy, qua tất cả những câu thơ ấy, thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên đẹp đẽ như níu bước chân người ra đi.

rồi hàng loạt địa danh gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của những người lính đã được nhà thơ liệt kê để truyền vào lòng mỗi người lính tình yêu thương đồng bào làm nên chiến công vang dội:

“nhớ khi giặc sang ……. nhớ cao-lang, nhớ nhì hà …”

Bản thân thiên nhiên cũng đang bảo vệ trẻ em Việt Nam. những dãy núi đá tạo thành chiến hào, thành lũy che chở cho bộ đội và nhân dân trước bom, đạn của kẻ thù. và sau đó quân đội và dân quân đã cùng nhau làm nên lịch sử. vùng lên với quyết tâm đánh giặc. mọi người quay lại nhưng vẫn nhớ những khoảnh khắc của trận chiến và những nơi đó.

và rồi không ai bảo ai, kể cả những người ra đi đều nhớ về những ngày tích cực chuẩn bị hành quân phục vụ chiến dịch chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là lúc tình quân dân dễ nhận thấy nhất:

“những con đường Việt Nam của chúng ta …….

Đó là cảnh hành quân của quân và dân Việt Bắc. tất cả đều đoàn kết như một, ánh sao chỉ người lính và chiếc mũ là dân quân bắc việt. cả hai cùng tham gia chiến dịch dien bien phu. những người dân quân với ngọn đuốc trên tay như thắp sáng cả bầu trời Việt Nam. ngọn đuốc ấy như một lý tưởng, quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước và đánh đuổi quân thù.

hào quang của mọi người với sức mạnh như phá vỡ một tảng đá. qua nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta được thể hiện rõ nét hơn. hàng nghìn đêm nay nhân dân ta phải sống trong cảnh khốn khó, cuộc sống khó khăn như đêm đen. rồi hình ảnh những “ngọn hải đăng” được thắp lên như thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc ta. họ đã sống khổ sở để cày xới bùn lầy và đứng lên đấu tranh cho một niềm tin vào tự do và hạnh phúc.

Những kẻ xâm lược khác sẽ phải rời bỏ đất nước ta, trả lại cho nhân dân ta cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. nên sau bao nhiêu gian khổ, nhân dân ta đã toàn thắng. Tin vui đó làm tôi rất vui. của hòa bình, về phía tây bắc và ban điều tốt, và vui mừng trong chiến thắng đó. tất cả những nơi này dường như đại diện cho niềm hạnh phúc của cả đất nước.

Để chấm dứt niềm vui và nỗi nhớ không muốn vơi đi, nhà thơ đã dấy lên niềm tự hào dân tộc. đồng thời cũng có những khoảnh khắc nhớ lại cảnh sinh hoạt đảng, rất nhiều thảo luận trong hang núi:

<3

Ngày những người lính trở về miền xuôi, họ vẫn nhớ những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. những cuộc gặp gỡ những niềm vui đều được thể hiện trong những câu thơ cuối cùng này. lá cờ đỏ sao vàng như minh chứng cho chiến thắng của quân dân ta.

ở đâu còn bóng dáng quân thù, ở đó có đảng và chú ho. do đó, tất cả các bạn phải nhìn về hướng Bắc và giữ vững ý chí của mình. vì chỉ khi có ý chí, chúng ta mới có thể làm được mọi việc, giành thắng lợi ngay cả khi kẻ thù có trình độ hơn mình về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng các chiến sĩ và người dân nơi đây. Đau bao nhiêu thì yêu bấy nhiêu.

để nhà thơ thể hiện tình cảm của mình nói riêng và của toàn thể quân và dân Việt Nam nói chung. mười lăm năm kháng chiến với biết bao kỷ niệm mà giờ phải xa nhau, lòng tôi thật muốn bật khóc. chân không muốn rời.

qua phân tích của viet bac, chúng ta có thể thấy được tình đoàn kết gắn bó của nhân dân việt nam mà cụ thể là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy, không thể không kể đến công ơn của nhân dân Việt Bắc.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 6

to huu (1920 – 2002) tên thật là nguyễn kim thanh, quê ở phú lai, xã quang thọ, huyện quang di, tỉnh thừa thạnh – huế. ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, quan tâm đến văn học. Chính truyền thống gia đình và phong cảnh thơ mộng của Huế cùng với những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đã góp phần quan trọng hình thành nên hồn thơ.

tou huu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. một nhà thơ được coi là người mở đường, cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng. Có thể nói, ở tou hu, nhà chính trị và nhà thơ hòa làm một, sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng. quỹ đạo thơ của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh các giai đoạn cách mạng, đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.

Bài thơ viet bac được tác giả sáng tác ngay trong thời kỳ quân dân ta đánh thắng giặc ở trận Điện Biên Phủ, năm 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, ông đã bắt tay vào sáng tác tác phẩm này, với cứu cánh để nêu cao sự nghiệp cách mạng, xây dựng cuộc sống mới. Bài thơ được coi là bài ca về lòng trung thành của Người đối với chiến sĩ, cán bộ và đồng bào ta đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ.

mở đầu bài thơ là lời chia tay của người kháng chiến và con người nơi đây; đó là sự chia ly của những người ra đi, những người ở lại đầy ắp nỗi nhớ và nỗi niềm:

Khi trở lại với chính mình, tôi nhớ mãi về bản thân mình trong suốt mười lăm năm đó. khi về có nhớ cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn? tiếng ai nghiêm nghị kề bên cồn cào trong lòng, bước đi không yên, áo chàm mang chia ly, nắm tay nhau, biết nói gì hôm nay …

Hai khổ thơ của bài thơ nói lên tình nghĩa quân và tình đồng bào. họ đã có “mười lăm năm” gắn bó, “mặn nồng” bên nhau. mười lăm năm – một quãng thời gian dài, biết bao kỷ niệm. họ cùng vào sinh ra tử, cùng nhau sống, cùng chiến đấu vì đất nước. trên mảnh đất Việt Bắc ấy, tình quân dân thắm thiết, thắm thiết. nhà thơ sử dụng hai ngôi vị “tôi” và “tôi” để thể hiện sự gắn bó gắn bó với nhau, tuy hai ta nhưng một. cảm giác đó giống như cảm giác của các thành viên trong gia đình tôi.

bốn câu thơ đầu là lời của người ở, của người Việt Nam lưu luyến hỏi người lính có còn nhớ mười lăm năm mặn nồng ấy không. Không biết những người lính trở về có còn nhớ không, có nhớ dân, nhớ núi nơi đây không.

và trong bốn câu thơ sau, người chiến sĩ cách mạng cũng đã đáp lại ân tình của nhân dân Việt Nam. trong lòng người lính còn lưu giữ những kỷ niệm về nơi đây không khác gì người dân. những người lính dường như cảm nhận được sự nghiêm túc trong câu hỏi của người dân. lòng quân bồi hồi, khắc khoải không muốn cất bước. những lời này có thể nói đã nói lên được phần nào tâm tư tình cảm của người lính. nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “chiếc áo chàm” là để chỉ những người dân Việt Nam mặc chiếc áo ấy để tiễn đưa những người lính về kinh đô. một số người vừa đi vừa nắm tay nhau, nhưng không biết nói gì. Có lẽ không cần phải nói, nhưng cả hai đều biết ý nghĩa trong trái tim nhau. dường như tất cả sự gắn bó đều nằm trong cái bắt tay trìu mến đó.

khổ thơ thứ ba, vẫn là nỗi lòng của những người ở lại:

Khi ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối, mây mù sương khói Anh về, anh có nhớ chiến khu có miếng cơm manh áo, chiến đấu nặng nhọc không? khi ta trở về, núi rừng nhớ ai lấp bùn rơi, măng rừng làm ta già, nhớ nhà xám xịt đầy lòng ta nhớ núi rừng khi ta kháng Nhật, khi ta. vẫn ở viet minh đã đi. , anh có nhớ em là mới hong thai mái đình cây đa không?

Bài thơ như lời tâm sự đau xót của người dân Việt Nam của những người lính đồng thời cũng là lời nhắc nhở dành cho những người đã khuất. từ “nhớ” được lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhở. hàng loạt câu hỏi tu từ thể hiện tình cảm tha thiết của người Việt Bắc. nỗi nhớ của người gửi, gửi nỗi nhớ, gửi tình yêu như sau:

bạn lỡ bến khi con thuyền quay trở lại, rồi một đêm nó khăng khăng đợi thuyền.

viet bac nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ không quên những năm tháng gian khổ, tác chiến trong điều kiện vật tư, trang bị thô sơ, thiếu thốn. đó là những tháng ngày cùng chịu đựng những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn”, “suối lũ”, mây mù; hay những ngày vất vả với bát cơm chấm muối mà vẫn chan chứa biết bao yêu thương.

<3

Tôi về rồi, núi rừng lỡ mùa thu, mai già.

hình ảnh “mai lấp ló, mai già” gợi lên nỗi buồn vắng vẻ – “mùa thu lấp ló, măng già” chưa ai thu hái. nỗi buồn như cứa vào tim những người ở lại.

đốt cháy mọi người sau chiến thắng và chính trong nền của chiến thắng đó, nỗi buồn trở nên tinh khiết. viet bac vẫn “kiên quyết đợi tàu”, đồng thời khéo léo ghi nhớ “tấm lòng” của cán bộ, chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật, thời Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên chăm lo cho sự nghiệp cách mạng.

Anh đi rồi, em nhớ mình quá trạo, hồng thai, mái đình cây đa.

câu thơ trước là nỗi nhớ, nỗi niềm viet bac. đoạn thơ trên tiêu biểu cho sắc thái của phong cách tiểu học, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị dân gian. văn học dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Qua hình tượng Việt Bắc, tác giả đã tôn lên phẩm chất cách mạng cao quý của quân và dân ta, khẳng định nghĩa khí trung kiên của cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

khúc ca hào hùng của một dân tộc quyết thắng sau hơn ba nghìn ngày xương máu.

Để đáp lại sự ưu ái của những người ở lại, lời nói của những người ra đi cũng nghiêm túc không kém:

với tôi, tôi với tôi, lòng mặn nồng trước khi đi, nhớ nguồn bao nhiêu tình thủy chung… nhớ không gì bằng nhớ trăng yêu thương đi đầu núi, mặt trời trong. Chiều cô nhớ từng làn khói sương sớm khuya bên bếp lửa nhà người thân. Em nhớ từng rặng tre, bờ tre, dòng sông ngày tháng lê la đầy mình, nhớ những tháng ngày ta ở nơi đây, đắng cay, ngọt bùi … thương nhau, chia nhau củ sắn, chia nhau đĩa cơm, chăn gối cùng nhau bữa cơm chiều nhớ người mẹ đội nắng lưng còng dắt đàn con lên nương bẻ từng bắp ngô. họ nhớ tại sao lớp báo đồng lại vào khuya trong giờ lễ hội. họ nhớ vì sao những ngày khó khăn cơ quan vẫn hát vượt núi. Bạn có nhớ tại sao tiếng cối giã từ trong rừng vào buổi chiều và đêm không ngớt …

người ta rời đi, hắn khẳng định tin tưởng trái tim vẫn luôn như trước, vẫn luôn mặn nồng. và cảm giác đó cũng được so sánh với nước trong đài phun, dồi dào, vô tận, vô tận. và những người lính vẫn tin tưởng vào một lời thề bền chặt với nhân dân miền bắc việt nam. từng kỷ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người đã khuất. của ức bát cơm phân nửa, chăn đắp. nhắc tất cả các bà các mẹ miền bắc với chiêu đưa con ra đồng hái ngô. một vẻ đẹp lao động của nhân dân. không chỉ vậy còn là những giây phút cùng nhau học chữ quốc ngữ. đó là thái độ nghiêm túc và trật tự của tất cả. và những giờ phút cử hành trong ánh sáng leo lét của những ngọn đuốc, những ngày tháng ấy đã khắc sâu mãi mãi trong tâm trí những người đã khuất. cho đến khi trở về thủ đô gió ngàn vẫn không quên được tiếng mìn rừng chiều và tiếng cối đánh đêm khuya. Qua đây có thể thấy tấm lòng của đôi bên vô cùng ấm áp và chân thành.

Những người lính tiếp tục nói về những hình ảnh thiên nhiên hiện ra ở đây qua những câu chuyện này, chúng thực sự rất đẹp. những câu thơ như vẽ nên một bức tranh tứ bình nơi đây thiên nhiên bốn mùa dường như vô cùng tươi đẹp:

Tôi đã trở lại, bạn có nhớ tôi không? trên ta nhớ hoa và người rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, bậc thềm cao, ánh dao thắt thắt lưng. ngày xuân mơ nở trắng rừng nhớ người đan nón đan từng sợi nón, gọi rừng đổ vàng, nhớ em gái hái măng một mình, rừng thu trăng soi bình yên, nhớ ai thủy chung. bài hát tình yêu là.

Có thể nói, con người, cảnh vật thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã khắc sâu trong tâm khảm của những người chiến sĩ cách mạng. khi họ trở lại thủ đô, họ nhớ tất cả những gì liên quan đến viet bac. Đó là những con người chân chất, hiền lành của núi rừng: cô em út đi hái măng một mình, đó là cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc đẹp đẽ, hùng vĩ. Đây có lẽ là bài thơ hay và trữ tình nhất của bài hát việt bac.

rồi không ai bảo ai, kể cả những người ra đi đều nhớ về những ngày tích cực chuẩn bị hành quân đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Đó là lúc tình quân dân dễ nhận thấy nhất:

Bạn có nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta cùng nhau chiến đấu về phía tây, núi trải thành lũy sắt dày che chở cho những người lính rừng, chúng bao vây quân thù, bao vây bởi sương mù, đất đai của chúng ta, toàn bộ của chúng ta. khu vực chiến tranh, đó là một trái tim. ai đang đến ai còn nhớ? khi về lại nhớ rừng thông, đèo giang nhắc sông, phố nhớ cao lang, nhớ nhì hà …

Đó là những tháng ngày quân và dân vào sinh ra tử, cùng nhau đánh giặc. những ngày đó, núi rừng Việt Bắc đã che chở cho bộ đội khỏi vòng vây của kẻ thù, nhân dân Việt Bắc đã sát cánh, đoàn kết, giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi với bộ đội. hơn bao giờ hết, tình quân dân thắm thiết biết bao. một lần nữa, những người lính khẳng định tình cảm sắt son của mình qua hai chữ “nhớ nhung”. người ta sẽ nhớ: phủ thông, giang qua, sông lộ, xóm phố, cao lang, nhì hà nội.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 7

Đất nước Việt Nam bao năm đấu tranh giữ gìn độc lập, tự do, có những con người âm thầm đóng góp tinh thần cho cuộc đấu tranh qua thơ ca và văn xuôi. Trong số các tác phẩm văn học như vậy có bài thơ Tiếng Việt bac de to huu. tác phẩm là lời tiễn biệt chân thành trong nỗi nhớ mong đầy day dứt giữa tình cảm giữa nhân dân Việt Nam với những người cán bộ cách mạng.

to huu những bài thơ hay được sáng tác vào những mốc thời gian của lịch sử cách mạng Việt Nam. bài thơ “việt bắc” – kiệt tác của huu cong, được sáng tác vào một thời điểm quan trọng đối với đất nước.

tou hao là một nhà thơ-chiến sĩ. ông làm thơ trên hết là vì sự nghiệp của dân tộc và của đảng. thơ ông thể hiện lý lẽ sống, tình cảm và niềm vui lớn của đất nước, cách mạng. Cảm hứng trong bài thơ đúng là hướng về nhân dân, cách mạng, lịch sử hào hùng của dân tộc chứ không hướng đến đời tư của tác giả.

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cán bộ, chiến sĩ rời Việt Nam trở về Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy hoài niệm, nhớ nhung giữa nhân dân Việt Bắc và người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

viet bac được thành lập vào tháng 12 năm 1945 nhân sự kiện lịch sử trung ương đảng và chính phủ rời chiến khu về thủ đô hà nội. thơ việt bắc là đỉnh cao của thơ phú và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho nền thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp.

Phân tích bài thơ Việt Bắc, chúng ta sẽ thấy được tình cảm khăng khít giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền cao, giữa cán bộ với thủ đô kháng chiến, với nhân dân Việt Bắc.

Với nhãn quan của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng và một người bạn, ông đã phản ánh sâu sắc hiện thực mười lăm năm kháng chiến của Việt Bắc và dự đoán diễn biến tư tưởng hòa bình.

Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Nam qua bao năm tháng đấu tranh của đồng bào nơi đây. gắn bó thân thiết như những người ruột thịt.

nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ về một bức tranh sắp trở về từ phương bắc. hình ảnh viet bac nhìn rất mộc mạc nhưng nó đã ôm trọn nỗi nhớ quê hương của các bạn.

là hình ảnh “trăng trên đỉnh núi, mặt trời trên lưng núi”, những hình ảnh làng quê mờ ảo trong sương mù, bếp hồng thắp đêm hay “rừng trúc, ngọn sông, sông. đáy ”, tiếng“ vồ cối đánh đều đêm ”. đáng nhớ nhất, quan trọng nhất.

Tôi về, tôi nhớ mình, nhớ hoa và người, rừng xanh, chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng vàng thắt lưng. mùa xuân mơ nở trắng rừng nhớ người đan nón, trau chuốt từng sợi chỉ. Nhớ em gái hái tre một mình, trong rừng thu trăng soi bóng bình yên, nhớ ai câu hát thủy chung.

phần tử tốt sử dụng thành công phản hồi “i”, “i”. Tôi sẽ quay lại, bạn có nhớ tôi không? tôi về, tôi nhắc cô về những bông hoa “. nỗi nhớ không thể nào quên, không cam lòng phải xa nơi đã từng yêu thương và trân trọng biết bao kỉ niệm, đã sống và chiến đấu cùng nhân dân. Ấn tượng của tác giả về con người Việt Nam luôn cần cù lao động và chung thủy trong tình yêu.

nhờ đó thể hiện thiên nhiên Việt Nam với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng thay đổi theo từng mùa. Gắn liền với khung cảnh tươi đẹp ấy là những con người chân chất, giản dị làm ruộng, trồng khoai, trồng hoa… nhưng tất cả đều góp sức, chung tay tạo nên sức mạnh to lớn và vươn tới thành công. – kháng chiến.

trong dòng hồi tưởng của yếu tố viet bac, đó là hình ảnh những “mái nhà” lau sậy xám xịt, giàu tình thương ”, hình ảnh người mẹ“ dắt con ra đồng bẻ từng bắp ”. <3

Câu thơ trữ tình ngân vang tạo nên sự gắn bó thắm thiết giữa tình đồng bào.

Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi và tinh thần chiến đấu oanh liệt vang lên trong những câu thơ phân tích sử thi Việt Bắc được miêu tả một cách sử thi. .

Những con đường phía bắc Việt Nam của chúng ta về đêm ầm ầm như đất rung chuyển, gửi cùng một thông điệp. những ngôi sao của vũ khí và những chiếc mũ đỏ của người dân nandan, từng nhóm bậc thang đá vụn, hàng ngàn ngọn lửa bay.

một dân tộc đã vượt qua bao khó khăn, hy sinh đã lập nên nhiều chiến công, kỳ tích: phủ thông, giang sơn, sông lo, hòa bình, tây bắc, biên cương … du lịch đã đi sâu vào giải quyết vấn đề. yêu mến nguồn sức mạnh chung để giành được những chiến thắng vẻ vang đó.

Đó là sức mạnh của toàn dân, toàn dân kháng chiến, là sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên:

nhớ khi giặc đến xâm lăng rừng núi, núi đá, ta cùng nhau đánh tây đồn lũy sắt, rừng che bộ đội, rừng vây quân thù, bốn bề mênh mông sương mù. .

với những vần thơ trang trọng và nghiêm túc, tou làm đã nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của người Việt Nam đối với cách mạng. nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng sức mạnh trong cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân ta:

khi anh về em có nhớ núi non, thuở kháng nhật, thuở còn việt minh khi anh ra đi có nhớ tan trạo, hồng thái, mái đình long, cái cây đa?

những bài thơ mang đậm chất trữ tình, ca dao sâu sắc về tình cảm dân tộc. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến vĩ đại ấy, có một người chú đã khai sáng, có “trung quân, chính quốc bàn việc công”, những con người tài hoa, lý tưởng cao đẹp, đường lối ngay thẳng, sáng suốt đã lập nên chiến thắng.

nơi nào có đau thương, họ tìm về với người việt bắc trụ vững mười lăm năm trời quên quê hương cách mạng dựng nước cộng hòa

Từ khi yêu Việt Bắc, đồng chí luôn vững tin vào ngày mai tươi sáng, tin tưởng vào sức mạnh toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp của dân tộc:

ngày mai mải miết quét sơn lên đường ray xe lửa, bốn phía lưới điện đều dính đầy phấn, cái lon cao bằng

những hình ảnh chính là ước mơ, khát vọng không chỉ của cán bộ kháng chiến mà còn của nhân dân, tác giả không quên cái cũ lấy cái mới, luôn nghĩ cho nhau giữa miền xuôi và miền xuôi.

Tôi đang đi đến thành phố xa, tôi có còn nhìn thấy núi đồi không? Bạn có còn nhớ thị trấn sáng đèn không?

Đây cũng là những lời tác giả nhắn nhủ đừng để không khí thay đổi, khi trở về thủ đô sẽ quên đi tình xưa. Cho đến ngày nay, lời thơ của nhà thơ vẫn giữ nguyên những giá trị đó.

hai câu thơ tạo nên mối quan hệ tương phản giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên miêu tả bóng đêm thăm thẳm, gợi lên cuộc sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách thống trị của kẻ thù thì câu dưới là ánh sáng của niềm tin. trong một ngày mai chiến thắng vẻ vang, một tương lai tốt đẹp. Thực ra, trong câu thơ trên, người ta có thể thấy điều ngược lại: thành tố đã dùng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đuốc đỏ, lửa bay, ánh sáng, trái ngược với một hệ thống từ chỉ bóng tối, như ban đêm, đêm ngàn đêm sâu: với khuynh hướng ánh sáng lấn át bóng tối, tác giả dường như có dụng ý làm nổi bật khuynh hướng chống lại mọi kẻ thù đen tối của dân tộc ta, đồng thời khẳng định ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ đến. đến làng của chúng tôi.

Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta nhìn thấy một phần nhỏ của cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể, nhưng với bài thơ Việt Nam, chúng ta có thể thấy được bức tranh toàn cảnh của cả dân tộc Việt Nam. cả bài thơ như một khúc ca nhịp nhàng, mềm mại, nghiêm trang, được viết như một bản tình ca, khúc tráng ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người đã hy sinh quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc. . Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả còn thể hiện tấm lòng thành kính với đồng bào Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta nhớ đến công lao của các anh hùng cứu nước, những trang sử hào hùng của máu và nước.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 8

tou huu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. hồn thơ là sự kết hợp hài hoà giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. vì vậy, đọc tác phẩm thơ của tác giả mới cảm nhận được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói đến tác phẩm thơ, có người đã ví chúng như một thước phim quay chậm về lịch sử vẻ vang của dân tộc. “Viet bac” là một trong những bài thơ đó.

“viet bac” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là thời điểm các cơ quan trung ương của đảng và chính phủ Việt Nam trở về Hà Nội. người bạn đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy luyến tiếc giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc sau một thời gian dài sống, chiến đấu và chịu đựng mọi nghịch cảnh. Trong bài thơ, tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp với những câu hò đối đáp như những bài hát phổ để tái hiện lại cuộc chia tay đầy luyến tiếc giữa các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.<3

“Khi tôi trở về, anh có nhớ mười lăm năm với tình yêu nồng cháy dành cho tôi, anh có nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?”

Câu mở đầu giống như lời chia tay của các cặp đôi đầy yêu thương và sâu lắng. nhà thơ đã khéo léo mượn màu tình yêu để nói lên tình yêu cách mạng. cách sắp xếp từ ngữ, “yo” ở đầu câu thơ, “ta” ở cuối câu thơ cũng gián tiếp thể hiện sự xa cách và khao khát. từ “nhớ” được lặp lại ba lần, mở ra dòng cảm xúc nhớ nhung, nhớ nhung và biết ơn trong suốt bài thơ.

Đáp lại tấm lòng của những người ở lại, những người ra đi cũng thể hiện tình cảm của mình:

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta cùng nhau chống núi giăng pháo đài, rừng che bộ đội rừng bao vây quân thù”

Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồi hồi, xao xuyến. tất cả những điều này đã đánh thức nhiều kỷ niệm khó quên trong tâm trí người lính. cảm giác ấy khiến cuộc chia ly trở nên đau đớn, lưu luyến. nó giống như một sợi dây kéo mọi người ra vào. Mười lăm năm dài đã gắn kết mọi người lại với nhau. họ đã sống cùng nhau, cùng nhau trải qua bao khó khăn vất vả, cùng nhau chia sẻ miếng cơm, manh áo, để đến lúc chia tay, cảm xúc trào dâng thành lời:

“Tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, chúng tôi luôn hài lòng”

Lúc này, “tôi và tôi” – “tôi và tôi” như hòa làm một, cộng hưởng với nhau thành một khối thống nhất và không thể tách rời. hai chữ “ding” như một lời khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người đã khuất dành cho những người còn lại. đó là tình cảm thiêng liêng và cao quý không gì thay thế được.

Trở về với cuộc sống đô thị, rời xa Việt Bắc, những cán bộ, chiến sĩ mang theo nỗi nhớ núi rừng, những ngày tháng gian khổ, những kỷ niệm của cuộc kháng chiến gian khổ mà nghĩa tình. bức ảnh tứ bình nhiều màu sắc đã tái hiện sinh động hình ảnh vùng cao với những hình ảnh gần gũi, thân quen. trong bức tranh ấy có màu xanh của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối, màu trắng tinh khôi của hoa mơ. không chỉ có màu sắc, bức tranh còn rộn ràng tiếng ve kêu mà còn có ánh sáng rực rỡ của ánh trăng êm dịu. trong bức tranh sống động ấy, hình ảnh con người được thể hiện qua hình ảnh người lao động khỏe mạnh: “nhớ người đan nón đánh bóng từng sợi chỉ”, “nhớ người chị nhổ tre một mình”. hình ảnh những con người hiện lên thật bình dị, mộc mạc giữa núi rừng. Những hình ảnh đầy màu sắc của thiên nhiên và công việc đã tạo nên một bài thơ trữ tình nhất Việt Nam.

Trong nỗi nhớ của mình, tác giả không chỉ nhớ đến thiên nhiên, con người mà còn nhớ về những năm tháng chiến đấu ác liệt:

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta cùng nhau chống núi giăng pháo đài, rừng che bộ đội rừng bao vây quân thù”

Giọng điệu nghiêm túc đã chuyển sang giọng anh hùng và tràn đầy năng lượng. Những yếu tố đã nhân hóa núi rừng Việt Bắc để biến chúng thành một hồn có hồn, là bức tường thành vững chắc bảo vệ nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến khỏi vòng vây của kẻ thù. thì viet bac cũng xuất hiện với những thao tác hấp dẫn. Cuối bài thơ, người lữ khách trả lời câu hỏi của cư dân:

“Khi về lại nhớ đình hồng thái, cây đa tân truân”

Thông qua lời hồi đáp này, người lữ hành muốn nhắn gửi đến những người ở lại rằng dù cuộc sống nơi đô thị phồn hoa, no đủ nhưng tình người nơi đây sẽ mãi mãi vẹn nguyên. như vậy tác giả đã khép lại bài thơ bằng tấm lòng chân thành của người ở lại. cấu trúc nhà ga tương ứng này khẳng định lại một lần nữa trái tim trung thành và đầy màu sắc của những người tham dự và cư dân.

Người ta gọi “viet bac” là một điển hình của thơ ca cách mạng vì nó là sự kết hợp giữa trữ tình và chính luận. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện rõ tính dân tộc qua việc sử dụng thể thơ lục bát và lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi. Chính vì những điều đó mà bài thơ đã gợi lên tình cảm cao quý nhất của truyền thống dân tộc, đó là lòng thuỷ chung.

“viet bac” không chỉ là một câu chuyện nhỏ mà còn chứa đựng cả một câu chuyện lớn. không chỉ thuật lại cuộc chia tay giữa người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Nam mà còn cho người đọc thấy được mười lăm năm đấu tranh gian khổ, gian khổ và anh dũng của dân tộc. Chính vì vậy mà trong nhiều năm qua, Việt Bắc luôn có một vị trí nhất định trong tâm trí người đọc.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 9

Sau chiến thắng lừng lẫy trên chiến trường Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, miền Bắc nước ta được giải phóng, mở ra một trang mới trong lịch sử đất nước và một trang mới. giai đoạn của cuộc cách mạng.

Tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử trọng đại này, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài văn tế Việt Bắc. Đây là một bài thơ dài, gồm 152 dòng được viết theo thể lục bát. Hầu hết các bài thơ đều miêu tả một thời kỳ cách mạng và kháng chiến gian khổ, oanh liệt ở chiến khu Việt Bắc, nay đã trở thành kỷ niệm sâu sắc trong lòng người. Phần tiếp theo, tác giả nói về sự gắn bó máu thịt giữa vùng cao và miền xuôi trong viễn cảnh thanh bình, tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ca ngợi công lao của Bác Hồ và Đảng đối với dân tộc. Có ý kiến ​​cho rằng: Việt bắc là đỉnh cao của thơ phú và là tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

câu thơ trong sách giáo khoa được trích từ phần đầu của bài thơ trong viet bac:

Bạn có nhớ mười lăm năm đến, nhớ cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ đài phun nước?

Với cấu trúc dạng câu hỏi và trả lời, người đọc sẽ liên tưởng đến một dạng quen thuộc trong các bài hát nổi tiếng: Khi em về có nhớ anh không? khi về thì nhớ răng cười… nhưng ở cảnh này, dường như nhà thơ chỉ mượn hình thức từ những bài ca dao, còn nội dung thì đổi mới từ quan hệ tình cảm lên một tầm cao mới: đó là ý thức. nguồn. Vì vậy, điều duy nhất cần nhớ ở đây, trước hết là nhớ về cội nguồn, cội nguồn yêu thương trong những năm tháng kháng chiến gian khổ: Chàm cho người chia ly, nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay … nỗi nhớ nhà thuở trước. chia ly sao mà xót xa, sao đau lòng quá! nó không phải là một sự ngẫu nhiên, và nó không phải là không có lý do. Trong giây phút thiêng liêng ấy, mọi kỉ niệm như ùa về, nhất là kỉ niệm đã từng ở bên nhau: Em nhớ những ngày anh đi. mưa, suối, lũ, mây và sương mù … tất cả thiên nhiên, cảnh vật và con người miền Bắc Việt Nam dường như đã ngừng trôi. Trong một khổ thơ gồm 14 dòng đan xen các sự kiện “me voy” – “me volvo”, tác giả sử dụng một cấu trúc rất đặc biệt: mỗi câu thơ (sáu chữ) “me voy” tương ứng với một câu theo sau “I’m back”, và cả tám câu (tám chữ) đều có sự cân đối về hình ảnh và nhịp điệu rất hài hòa:

– mưa từ sông suối // mây có sương mù

– miếng cơm manh áo // chiến đấu hết mình

– bổi để rụng // măng đã già

– um um xám // đầy son môi

– hãy nhớ khi bạn chống lại người Nhật // khi chúng ta còn ở Việt minh

các cụm từ màu xanh lục “đi” – “về” thay thế và tám cụm từ được chia thành hai bên, được phân tách bằng dấu phẩy (,) … tạo ra sự cân bằng phản ứng nhịp nhàng như thể trên cùng một vai, trong cùng lý tưởng của cùng một chủ thể. đặc biệt là câu tôi đã viết, tôi nhớ rằng tôi là sự hòa hợp giữa hình ảnh của chúng tôi và chính tôi đến mức đồng nhất.

trong câu tiếp theo:

tôi với tôi, tôi với tôi, trái tim tôi luôn kiên định …,

phép ngược (ba phần ba ngắt ở câu lục) và phép nghịch, tự thân hai đối tượng: ta đan xen vào nhau nhiều hơn, để nỗi nhớ được phân bố ở đây thành ba hồi (nỗi nhớ giữa kẻ về và kẻ ở. người ở lại)) còn được so sánh với nỗi nhớ người yêu – một cung bậc thiêng liêng và thơ mộng nhất của con người, gắn liền với mọi cảnh vật, đời thường: lúc nào cũng trèo lên đỉnh núi, mặt trời chiếu xuống. , bản khói sương, sớm khuya và lặp đi lặp lại: nhớ từng … cứ mỗi lúc một tăng lên, cụ thể. hàng chục lần khi nhắc đến nỗi nhớ, gắn với những sự kiện, con người cụ thể thì ý nghĩa của nỗi nhớ cũng không hẳn giống nhau. nỗi nhớ nhà đối với bạn học, nhớ lớp học, cơ quan, nhớ nhà đời thường rất đặc trưng ở miền núi: nhớ sao tiếng mõm rừng buổi chiều, tiếng vồ đập cối lúc đêm khuya đều như nhau … tiếng trâu húc, tiếng vồ đập lúa nơi con nước dường như vẫn còn vang vọng, dường như vẫn còn thấm đẫm hình ảnh viet bac. Nó vẫn chưa hết! nỗi nhớ còn in đậm hoa người cùng rừng xanh, hoa chuối, mai trắng nở trong rừng; người làm nón, chị hái măng … dòng: rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao trong nắng với con dao thắt lưng là dòng “ngông cuồng”, vượt mức của một câu miêu tả, đạt a. sự tài hoa trong nghệ thuật phối màu xanh rừng (màu nền) và hoa chuối, đỏ tươi, đặc biệt là sự phản chiếu rực rỡ từ bên kia đèo. hình ảnh thiên nhiên: con người nơi đây bỗng có hồn, bừng sáng, lay động. Đó cũng là lời nhắn gửi tình cảm của người ra đi và người ở lại: khi về thì nhớ nhau, khi về lại nhớ nhau, đèo Giàng, sông Lô, phố Năng…; nỗi nhớ như một sợi dây tình cảm bền chặt: nhớ cao lang, nhớ nhị hà… nỗi nhớ ấy được chuyển từ chủ thể sang đối tượng: người ấy nhớ về ai? trong nỗi nhớ không chỉ có cảnh và người, không chỉ có thiên nhiên và sinh hoạt – trong nỗi nhớ vẫn vẹn nguyên âm thanh réo rắt của cuộc hành quân ái quốc:

những con đường ở miền bắc việt nam của chúng ta đêm đêm ầm ầm như rung chuyển đất trời trùng điệp. ánh sao trên đầu vũ khí của bạn và chiếc mũ đỏ của nandan, ngọn đuốc đỏ, từng nhóm bậc thang, những tảng đá vụn và tất cả những ngọn lửa bay …

Không phải một con đường, mà nhiều con đường Việt Nam, tiếng bước chân đoàn quân chan hòa. các câu thơ được nối với nhau qua phép điệp (trùng điệp), qua hình ảnh thơ kéo dài vô tận: trùng điệp – ánh sao – nón lá – công dân… tạo nên sức mạnh tổng hợp, phá cách nhấn chìm. kẻ thù: bước chân nát bét và ngọn lửa bay. một loạt các động từ mạnh được sử dụng để mô tả sự toàn vẹn dâng trào dữ dội. nếu ở câu thơ trước, nỗi nhớ tạo nên âm hưởng chiến thắng:

tin vui chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, dien thoai vui ve dong thap, an khevui den viet bac, đèo hồng

Niềm vui chiến thắng dường như tràn vào giới hạn của câu thơ, tràn ngập khoảng trống giữa các từ và các câu thơ … ad infinitum!

Niềm vui khôn xiết, nỗi nhớ trở về thủ đô kháng chiến. Lá cờ đỏ thắm từng lồng lộng cửa hang, chính giữa là hình ảnh Bác Hồ, biểu tượng của lý tưởng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. cuối câu thơ là một sự khái quát:

mười lăm năm, ai quên quê hương cách mạng dựng nước cộng hòa

Ý thức về cội nguồn, lòng biết ơn quê hương cách mạng là lẽ sống, lý do làm người chân chính. một viet bac gian khổ, bền bỉ, một viet bac yêu nước, yêu nước – sẽ mãi là nỗi nhớ, niềm day dứt khôn nguôi. bài thơ được thể hiện bằng vần điệu truyền thống, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị nhưng chứa chan tình cảm, đậm đà tính dân tộc, dân gian, thể hiện sâu sắc tình cảm không chỉ của tác giả mà còn là tình cảm của tất cả chúng ta đối với người thân yêu của mình. quê hương. từ viet bac.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 10

Trong văn học Việt Nam, tou hu được biết đến với thể loại thơ trữ tình – chính trị. đề tài lịch sử đi vào thơ anh nghe ngọt ngào và nghiêm túc. Điều này đã được thể hiện rõ nét qua vở kịch “viet bac”, một bài hát nói về lòng trung thành, thủy chung của quân và dân.

Bài thơ đã tái hiện thành công tình cảm sâu nặng, thủy chung của người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Trước hết, tình cảm ấy được thể hiện rất rõ qua kết cấu của tác phẩm. bài thơ là lời đáp của nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng trong hoàn cảnh của những người kháng chiến trở về từ chiến khu Việt Bắc. Cuộc chia tay lịch sử ấy đã được tái hiện qua những cảm xúc dịu dàng về biết bao kỷ niệm đẹp và những hoài niệm tha thiết về năm tháng đã qua. tác giả đã khéo léo sử dụng lối đối đáp gần gũi, quen thuộc với các câu ca dao, câu đối qua các đại từ “yo” – “ta”, tạo nên những vần thơ đầy tình người, tình dân tộc sâu sắc, tình cảm cách mạng.

Bài hát đầy tình yêu chung thủy được tái hiện ngay từ giây phút đầu tiên qua lời kể của người ở lại:

“Khi trở về, anh có nhớ mười lăm năm mặn nồng ấy không? Có nhớ trông cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?”

Tác giả đã sử dụng thành công cách hỏi đáp ngọt ngào, thiết tha để nhớ lại “mười lăm năm tha thiết ấy”. đó là khoảnh khắc mà người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc trở nên đoàn kết, thắm thiết. những đại từ “ta” – “ta” gắn với tình tứ trong thơ bình dân kết hợp với điệp ngữ “nhớ” được lặp lại bốn lần đã diễn tả thành công tâm tư, tình cảm của “kẻ ở người đi”.

Trước tiếng nói của người dân Việt Nam, các “trợ lý” – chiến sĩ cách mạng không khỏi “tức tưởi”, “bồn chồn”:

“giọng ai nghiêm nghị bên cồn quặn thắt ruột gan, bước đi không yên. Chàm, tay trong tay, biết nói gì hôm nay …”

nỗi nhớ nhung của người “tham dự” đối với cảnh và tình đối với việt bắc đã được thể hiện qua những cử chỉ cụ thể, đặc biệt là hành động “nắm tay nhau biết nói gì hôm nay” thể hiện nỗi nghẹn ngào trong lòng. những cảm xúc không thể diễn tả thành lời. nối tiếp mạch cảm xúc ấy là những kỉ niệm ấm áp của cuộc kháng chiến gian khổ. không gian thuộc về nỗi nhớ và ý nghĩ ấy mở ra bằng hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống gắn liền với nghĩa tình của con người Việt Nam: “suối phun mưa”, “suối lũ”, “mây rủ nhau”, “cơm tung tóe”. giao lại thái ấp “cùng những năm tháng lịch sử kháng chiến chống Nhật:” cây đa mới “,” đình hồng thái “. ​​nổi bật nhất là nỗi nhớ về một con người đầy da diết, da diết:

“nhớ gì bằng nhớ người yêu, trăng trên đỉnh núi, nắng chiều trên lưng, nhớ từng làn khói sương sớm mai bếp lửa quê người. Nhớ từng cánh rừng qua ngày sông lê lạch lấp em nhớ em đây này đắng cay ngọt bùi. ”

Những địa danh và tên gọi cụ thể đã diễn tả thành công vẻ đẹp độc đáo của “mặt trăng trên đỉnh núi, mặt trời ở lưng đất”. tác giả đã sử dụng điệp ngữ “nhớ từng” kết hợp với bút pháp liệt kê để miêu tả từng khoảnh khắc thời gian, không gian của núi rừng Việt Nam qua các hình ảnh: “làng khói sương”, “rừng trúc”, “nui thia ban ngày”. sông ”,“ suôi pera ”khiến nỗi nhớ càng thêm vang dội với âm hưởng ngọt ngào như da diết. Đặc biệt, nhớ đến viet bac là nhớ đến tấm lòng đồng cam, cộng khổ cùng với sự sẻ chia, thấu hiểu về cuộc kháng chiến gian khổ: “thương nhau, sẻ sắn về / chia nửa bát cơm, đùm bọc lẫn nhau. chăn. ” . tình cảm gắn bó ấy là một trong những biểu hiện làm sáng lên vẻ đẹp của lòng yêu nước, một mạch hào kiệt xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm gắn bó của “người đi” – “người ở” đã được tái hiện thành công thông qua những biện pháp nghệ thuật giàu bản sắc dân tộc với những đặc điểm của thơ lục bát – một thể thơ đan xen giữa trữ tình và chính luận. Tác giả đã vận dụng khéo léo thể thơ lục bát truyền thống kết hợp với cấu trúc thất ngôn quen thuộc trong ca dao, dân ca. Bên cạnh đó, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ giàu hình ảnh đã được sử dụng khéo léo để tạo nên chất giọng ngọt ngào, tình cảm của một bản tình ca mang đậm tình cảm cách mạng.

Như vậy, qua bài thơ “viet bac” ta thấy được tình cảm thắm thiết thắm thiết giữa quân và dân ta trong những năm kháng chiến gian khổ cũng như tài năng của nhà thơ. khả năng diễn đạt một câu chuyện chính trị trở nên cảm động, trữ tình và say mê.

phân tích các bài báo tiếng Việt – mẫu 11

viet bac là một trong những tác phẩm quan trọng trong chương trình ngữ văn 12, đặc biệt là trong kì thi THPT quốc gia. cũng thảo luận về nội dung và nghệ thuật của mảnh vỡ của người việt nam.

tou huu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng, thơ ông luôn song hành với những mốc son cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ cùng tên được coi là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. viet bac là mở đầu phần i của bài thơ viet bac, là bài viết về cuộc chia tay đầy day dứt của quân dân ta, giữa kẻ ở và người đi, người đã ở bên nhau lâu ngày. thời tiết. (15 tuổi), 1945-1954) bâng khuâng sau chiến thắng 1954. Tác phẩm này chứa đựng đầy đủ phong cách thơ tiêu biểu của thể loại ngâm – một bài ca chính trị trữ tình đậm đà bản sắc dân tộc được thể hiện độc đáo cả về nội dung và nghệ thuật.

mở đầu là những lời tâm sự của viet bac, lời của người ở lại như bày tỏ một sự ăn năn nhớ nhung với người đã khuất:

“khi về có nhớ em không? mười lăm tuổi có nhớ em khi về không? Nhìn cây có nhớ núi, khi nhìn sông có nhớ nguồn?”

câu hỏi tu từ “em có nhớ anh không?”, “có nhớ không” có vẻ không sâu sắc nhưng đây là lời cầu chúc, lời nhắc nhở kỉ niệm 15 năm yêu nhau, muốn khơi gợi những kỉ niệm trong tương lai từ trái tim của những người đã khuất. . những cặp tình nhân, đôi lứa khi xa nhau nên nghĩa. cặp đại từ tự ta gợi nhớ đến câu ca dao đổi duyên, ở đây yếu tố đã mượn hình thức đối đáp giản dị này, đồng thời nội dung đổi mới nhận thức về cội nguồn, xuất xứ của kỉ niệm những ngày kháng chiến. hay tình quân dân. cặp đại từ này cũng thể hiện phần nào sự gắn bó thân thiết, yêu thương của quân và dân ta. “mười lăm năm ấy” là khoảng thời gian gắn bó giữa người việt nam và người cán bộ cách mạng kết hợp với cụm từ chỉ tâm trạng “khát khao thiết tha” đã nói lên tình cảm thắm thiết biết bao nhiêu tình nghĩa ấy.

Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại mang đến sự nghiêm trang, day dứt và trăn trở trong nỗi nhớ cho những người đã gắn bó kỷ niệm. nghệ thuật liệt kê kết hợp các cặp từ: cây – núi, sông – nguồn như để nhớ và khẳng định mối quan hệ này không thể tách rời như cây với núi, sông với nguồn và đây cũng là hình ảnh, cội nguồn của kỉ niệm, nỗi nhớ gắn liền với núi rừng Việt Nam.

trong những câu dưới đây là lời đáp của người đã khuất, lời của người cán bộ cách mạng đối với đồng bào cách mạng cũng thể hiện sự xót xa, nhớ nhung trong lúc chia ly:

“giọng ai đó đang trầm tư bên bờ sông, nằm sấp, bước đi không yên, Indigo, hôm nay nắm tay nhau nói chuyện…”

Sử dụng các từ “lo lắng”, “buồn”, “lo lắng” cùng với cử chỉ “nắm tay” để diễn tả tâm trạng xúc động và nhớ nhung khiến bạn không nói nên lời. việc sử dụng từ láy để chỉ “tiếng ai” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “áo dài” gợi lên hình ảnh con người Việt Bắc gần gũi, thân thương, dễ mến. kết thúc bằng dấu chấm lửng “…”, dòng 3/3/2 thể hiện tâm trạng không thể giải thích được, không muốn cho người đi khiến bao nỗi nhớ trào dâng. cuộc chia ly thật đau lòng …

Những câu hỏi của viet bac khiến kỷ niệm ở vùng đất này choáng ngợp:

“Em đi anh có nhớ những ngày mưa dầm sông suối mây mù Em về anh có nhớ chiến tranh cơm mặn, chiến đấu nặng nề Em về, núi rừng còn rừng anh có nhớ ai đã làm nên mùa thu, cành mơ? khi già có nhớ những mái nhà rặng tre xám xịt đầy lòng son anh có nhớ núi non thuở chống nhật, khi còn ở việt nam. , khi tôi đến Việt Nam, tôi có nhớ cái trạo của tôi, hồng thai, mái đình cây đa? “

nhớ lại những kỷ niệm về những ngày gian khổ với “mưa và suối”, “mây và mây”, và những kỷ niệm về những ngày đầu của cách mạng gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. “gạo đã nhúng muối, nặng thì hận.” không thể không nhắc đến tình cảm, sự thủy chung, nồng hậu “thẹn thùng, xám xịt, đầy son phấn”, gợi nhớ đến cao trào cách mạng, những địa danh thiêng liêng trong lịch sử đất nước “nhớ thuở kháng Nhật, thời việt minh”, “tan chao, hong thai, nóc nhà long, cây đa.”

Câu hỏi của vietnamese bac là để đánh thức và nhắc nhở mọi người trở về và không quên những kỷ niệm. mà còn để bày tỏ cảm xúc. nỗi nhớ và nỗi trống trải trong lòng người ở lại: “núi rừng nhớ ai”, “lấp lá rơi, lũy tre già”, những khẩu hiệu “Ta đi – Ta nhớ”, “Ta về – Ta về. nhớ rồi ”,… liên tiếp vang lên nhanh chóng tự nó nói lên sự lo lắng, băn khoăn không biết người đã khuất có còn nhớ, có còn lưu giữ những kỷ niệm xưa hay sẽ chối bỏ, sẽ quên:“ Mình đi rồi, liệu mình có bị thương nhớ không? ”. Nghệ thuật nhân hoá và hàng loạt tiếng lóng kết hợp với nhiều tiếng hoài niệm tha thiết đã thể hiện hình ảnh người đi tang thương nhớ với cảm xúc khôn nguôi đầy hoài niệm lúc chia tay.

“Tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, trước sau như một tưởng như ra đi, tôi nhớ về mình nơi cội nguồn của bao tình thương mến thương… mà không nhớ gì như nhớ người tình trăng trên đỉnh núi, nắng chiều nhớ từng bản khói sương sớm bên bếp lửa thân thương đi về nhớ từng cánh rừng bên bờ sông ngày, lạch lê la ta nhớ ngày ta. ở đây và ở đó, cay đắng và ngọt ngào … “

hai đại từ ta – ta cứ gần nhau mãi không rời “ta và ta, ta với ta” đắm say. nó không tách rời ý nghĩa như riêng biệt mà hòa vào nhau thành một lời khẳng định về lòng chung thủy. đài phun và nước càng nhiều thì tình cảm của chúng ta càng tăng lên, ai cũng biết đài và nước là vô cùng ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người đã khuất không quên bất cứ hình ảnh nào trong viet bac, trong thiên nhiên viet bac và trong con người ở đây.

thiên nhiên việt bắc là thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, tràn đầy sức sống, thiên nhiên vừa hiện thực vừa thơ mộng mang những nét đặc trưng của việt bắc: trăng trên đỉnh núi, nắng chiều ,. .Hình ảnh thiên nhiên luôn gắn bó mật thiết với con người. hãy nhớ rằng người Việt Nam luôn gắn bó với thiên nhiên, luôn cần cù, gần gũi, tràn đầy năng lượng, luôn lạc quan yêu đời, yêu công việc. những con người đầy tình cảm, gắn bó, chịu thương chịu khó gắn bó với các chiến sĩ cách mạng. Tôi cũng nhớ rằng, người Việt Nam ngoài bắc còn đầy rẫy khó khăn, vất vả. nhớ về dân tộc Việt Nam như vậy thể hiện nỗi xót xa của tác giả đối với cảnh ngộ của người dân Việt Bắc. để rồi nhớ lại cuộc sống và những ngày tháng ở chiến khu. cuộc sống kháng chiến tuy gian khổ, thiếu thốn nhưng vẫn lạc quan, yêu đời: sinh hoạt học tập, lễ hội, .. không gian yên bình, tĩnh lặng.

một trong những nét đặc sắc của viet bac là bức tranh tứ bình nhiều màu sắc. Qua những câu chuyện của các chú bộ đội, hình ảnh thiên nhiên thật sinh động và tươi sáng:

“Em về, anh nhắc về em nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng chiếu thắt lưng. Em nhớ đến hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng chiếu thắt lưng. Em nhớ mùa xuân, mộng trắng.” nở rừng nhớ người đan nón chuốt từng sợi rừng Chị hái măng một mình Rừng thu trăng soi trong hòa nhớ ai câu hát thủy chung. “

Người đã khuất khẳng định nỗi nhớ trong lòng, hình ảnh “hoa cùng người” cho thấy thiên nhiên và con người Việt Bắc luôn hòa quyện, là đối tượng của nỗi nhớ. mùa đông ở đây là màu xanh bạt ngàn của núi rừng việt nam, đâu đó được tô điểm và bừng sáng bởi màu đỏ tươi của hoa chuối, bài thơ tả cảnh mùa đông nhưng không có cảm giác lạnh lẽo, ảm đạm. hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” như xua tan đi cái lạnh giá nơi núi rừng, mang đến cảm giác ấm áp, gần gũi, thân thương. ở đây hình ảnh con người hiện lên với tư thế dũng cảm, tự tin trên đèo cao, con dao rừng được phản chiếu dưới ánh nắng làm cho hình ảnh con người tỏa sáng chính giữa bức ảnh. mùa xuân thơ mộng với màu trắng tinh khôi của hoa mơ, cả núi non ngập một màu trắng xóa. “Rừng trắng nở hoa” gây ấn tượng mạnh, dường như phong trào màu cờ sắc áo mới khoác lên mình màu áo tuyển Việt Nam. Hình ảnh bừng tỉnh đầy sức sống thể hiện tâm trạng phấn khởi khi xuân về.

thời gian này, người dân Việt Bắc đã hình dung ra hình ảnh lao động cần cù, cần cù, thông minh để tạo ra những sản phẩm làm giàu cho người Việt Bắc góp phần kháng chiến. Xuân đi qua, hè đến, hình ảnh thơ mang theo âm thanh náo nhiệt của tiếng ve và màu vàng tươi của hoa hổ phách, tiếng ve vang lên như khiến cả khu rừng đồng loạt đổ vàng. người Việt Nam hiện ra giữa tiếng ve và màu hổ phách rực rỡ trong tư thế lao động đời thường gợi cảm xúc trữ tình nên thơ. mùa thu được gợi lên bằng những hình ảnh cổ điển mang hương vị thơ tang, không khí thanh bình, êm ả, vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm cùng với ánh trăng. con người xuất hiện với lời ca về tình yêu thủy chung, khơi gợi niềm lạc quan, yêu đời và tình cảm gắn bó, thủy chung.

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, núi đá, chúng ta cùng nhau đánh về phía tây, núi trải một lũy sắt dày, rừng che bộ đội rừng, chúng bao vây địch, bao vây an sương mù bao la, vùng đất của chúng tôi, toàn bộ chiến khu của chúng tôi. ai nhớ ai đó? Tôi nhớ rừng thông, đèo giang, nhớ sông Lô, nhớ phố, nhớ cao lang, nhớ nhì hà… ”

trong giai đoạn đầu khi cách mạng còn non yếu, thiên nhiên Việt Bắc với núi non hùng vĩ, rộng lớn đã làm bạn với quân và dân ta, che chở cho quân, dân ta, “bao vây”, “vùng lên đấu tranh”. Sử dụng biện pháp nhân hoá để làm cho thiên nhiên Việt Bắc thêm sinh động và xúc động. chiến thắng của việt bắc là nhớ từng con sông, ngọn núi, con phố, .. một việt bắc với tinh thần chiến đấu anh dũng, sôi nổi của cuộc kháng chiến chống giặc, tinh thần đoàn kết – anh dũng kháng chiến

viet bac lớn lên với khí thế hào hùng, sôi nổi của chiến trận:

“những con đường bắc việt của chúng ta đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng điệp điệp vũ khí, mũ đỏ công dân nandan từng đoàn từng bậc đá vụn, khói lửa bay ngàn vạn. đêm sâu trong sương mù dày đặc đèn pha sáng như mai báo tin mừng chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, giếng trời vui trở về từ đồng thap, khevui về việt bắc, đèo từ, núi hồng ”.

từ quá khứ, tác giả mở ra hình ảnh một đội quân ngày càng đông, liên tục hành quân về đêm trong một không gian vô cùng rộng lớn. Nghệ thuật so sánh kết hợp với điệp ngữ đã gợi tả sức mạnh to lớn, sự trưởng thành, khí phách anh dũng của quân đội ta. nếu hình ảnh đoàn quân “trùng trùng điệp điệp” như gợi núi, nối tiếp nhau không ngừng, là một hình ảnh hùng tráng, thì hình ảnh ẩn dụ “đầu súng sao” lại là một bài thơ trữ tình đẹp để nghĩ về người cách mạng. lý tưởng soi đường, soi đường và bản chất việt nam là người bạn đồng hành của người chiến sĩ cách mạng. Những ngọn đuốc đỏ rực soi đường kết hợp với hình ảnh phóng đại “bậc thềm đá nát” thể hiện sức mạnh, ý chí quyết tâm và tấm lòng cháy bỏng trước mọi khó khăn của quân đội. đó là hình ảnh màn đêm không bóng tối, ánh đèn pha xua tan bóng tối, nghệ thuật so sánh “như thể ngày mai” kết hợp với nhịp thơ mạnh mẽ, tăng tốc đã thể hiện niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước. . nhớ việt nam cùng nhau nhớ niềm vui chiến thắng, tin tức chiến thắng từ khắp mọi miền đất nước được đưa tin về đây và lan truyền từ đây. nghệ thuật liệt kê những địa danh gắn liền với chiến thắng, nhịp thơ sôi nổi, giọng thơ thiết tha thể hiện niềm tự hào, vui mừng chiến thắng.

“có ai còn nhớ không? cờ đỏ thắm gió bay nơi cửa hang. giữa trưa nắng chói sao vàng miền trung, phủ bàn công việc quân dịch thu đông ngoài đồng là giải phóng, khơi thông giao thông để duy trì đê điều, phòng gian vd: thu lương đưa dao về miền ngược, thêm trường học miền … Còn đâu nỗi buồn quân thù hướng về việt bắc: Bác ho rực rỡ đâu nỗi đau của nòi giống về phương bắc duy trì sự sống. mười lăm năm rồi ai quên đường về? khi tạo nước cộng hòa tôi nhớ mái ấm gia đình hồng thai và cây đa lắm lừa “.

hãy nhớ rằng viet bac là cơ quan đầu não của cách mạng. Là nơi diễn ra các cuộc hiệp thương, phổ biến các chủ trương của Đảng và Chính phủ, chỉ đạo con đường cách mạng trong cả nước. tất cả những người dân Việt Nam, những người yêu quê hương đất nước đều đặt niềm tin, ước nguyện và hy vọng vào nơi đây. viet bac là nền tảng vững chắc, là nơi sản sinh ra những con người và những địa danh sẽ mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc: nóc nhà hồng thái, cây đa tân tự. Người ra đi muốn nhắn nhủ với những người con đất Bắc dù có trở về, ở xa nơi đây nhưng những gì đẹp đẽ nhất về người chiến sĩ cách mạng sẽ luôn được gìn giữ và phát huy.

Vị trí của chữ việt cũng như của các bậc tiền nhân trong thơ ca việt nam là điều không thể chối cãi. bài hát này vừa là chủ nghĩa anh hùng của cuộc kháng chiến, vừa là sự nhân từ trong tình cảm cách mạng của quân và dân, gửi gắm tất cả tâm tư tình cảm cũng như phong cách thơ của họ. chuyển thể và sáng tạo thơ lục bát vừa bình dân vừa hiện đại. sử dụng câu trả lời trong ca dao một cách giản dị, nhẹ nhàng nhưng nghiêm túc. đồng thời nhấn mạnh các ý tưởng và tạo ra một nhịp điệu âm nhạc nhịp nhàng thấm sâu vào tâm trí thông qua việc sử dụng các điểm đối âm nhỏ. lối nói mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đặc biệt là cặp đại từ quen thuộc và sáng tạo đối với chúng ta. các biện pháp tu từ: nhân cách hoá, phép liệt kê, v.v. chúng được sử dụng một cách tinh tế và khéo léo. tất cả đều đưa chúng ta về quá khứ với những kỉ niệm ngọt ngào, chân thành và một tình yêu nồng nàn, thủy chung và trung thành.

xem thêm: đoạn kết hay nhất của bài viết viet bac de to huu

Phân tích tiếng Việt – mẫu 12

nhà văn trữ tình chính trị xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam. những bài thơ của ông luôn hừng hực khí thế đấu tranh, bám sát từng sự kiện lịch sử. viet bac là một trong những bài thơ đó.

tác phẩm ra đời sau chiến thắng Diên Hi Công Lược, hiệp ước hòa bình được ký kết, hòa bình lập lại trên miền Bắc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Đảng và Chính phủ ta từ Chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của đất nước. Nhân cuộc chia tay đặc biệt này, cuộc chia tay giữa Việt Bắc và những con người trở về đồng bằng, Tố Hữu đã viết bài thơ về Việt Bắc.

mở đầu bài thơ là mong ước, lời nhắc nhở của đồng bào đã đi: “có về quê có nhớ /…/ trông cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. từ miss được gắn trong cùng một cấu trúc câu hỏi “bạn có nhớ tôi về bạn không? /… / bạn có nhớ tôi về bạn không?” nó làm cho nỗi nhớ da diết, khắc khoải hơn.

kỷ niệm đầu tiên được nhắc đến là mười lăm năm kể từ khi Việt Bắc làm căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỷ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện chân thực không gian của mình từ sự gắn bó với sông, núi và đài phun nước. tâm trạng của thiên nhiên cũng là nỗi nhớ da diết của chính con người.

Những kỷ niệm về tình nghĩa sâu nặng đã được tái hiện không chỉ chân thực mà còn đầy cảm xúc trong từng cặp lục bát. bạn có thể thấy rằng cụm từ “nhớ” trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm. đó là nỗi nhớ về những tháng ngày gian nan “mưa suối mây mưa”; Người Việt Bắc tuy nghèo nhưng chung tình, trọng tình nghĩa, đi đôi với chịu thương, chịu khó, “miếng cơm manh áo rắc muối, thù dai”, “nhát gan, chất xám, cả tấm lòng”.

đặc biệt là nỗi nhớ được gói gọn trọn vẹn trong một câu thơ súc tích và ý nghĩa: Em đi rồi anh có nhớ không em? cái tôi thứ ba là cách nói gần gũi, trìu mến thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng. sau những lời dặn dò, nhắc nhở nhiệt thành của đồng bào để lại là câu nói chắc nịch của cán bộ kháng chiến:

giọng nói của ai đó nghiêm nghị bên cồn cào trong bụng, bước đi không yên vết chàm, nắm tay nhau biết nói gì hôm nay …

tou đã sử dụng hết sức linh hoạt các từ láy “lo lắng”, “khổ sở, bồn chồn” giàu giá trị gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lý chán nản, lo âu, nhớ nhung, vương vấn. trong bài thơ, nổi bật nhất là hình ảnh chiếc áo chàm. Hình ảnh hoán dụ thể hiện sự tiễn biệt không chỉ của một người mà của toàn thể nhân dân Việt Bắc đối với tranh khi trở về.

và sự lưu luyến ấy sẽ là cơ sở để khẳng định tình yêu, lòng thủy chung của người ra đi và người ở lại: “ta với ta, ta với ta / Ta ra đi, ta nhớ mình / cội nguồn muôn nước, yêu nhiều lắm … ”. câu thơ “ta với ta / ta với ta” được chia thành 3/3, ở đầu và cuối mỗi phách đều có một cặp đại từ: ta, thể hiện sự gắn bó, quyến luyến, không thể tách rời.

sáu dòng sau đây, một cách rất ngắn gọn, súc tích và hay, đã tái hiện lại cảnh tượng việt bắc trong tâm trí tôi: “nhớ nhung như nhớ người yêu /…/ thia nii, day river, le stream, v.v. hoàn thành”. Hình ảnh so sánh “như nhớ thương người yêu” thật đặc sắc nó thể hiện sự chân thành, khắc khoải của chàng trai và cô gái, lấy hình ảnh so sánh như vậy thể hiện sự gắn bó thiết tha trong tình yêu.

những hình ảnh gợi cảm nên thơ: vầng trăng trên đỉnh núi, mặt trời chiều tà, sương khói, bếp lửa, rừng trúc, chõng tre … gợi lại vẻ đẹp rất thi vị của núi rừng. đặc biệt, ông còn sử dụng linh hoạt các địa danh nii thia, sông ngày, suối le càng tô đậm thêm nỗi nhớ của người đã khuất với núi rừng, với con người nơi họ ở. Những ngày tháng đấu tranh ấy tuy gian khổ, tuy vất vả nhưng chan chứa tình yêu thương: “Thôi nào, ta nhớ ngày / … / đĩa cơm chia nửa, chăn chung bữa cơm”.

bốn câu thơ là một lời khẳng định, khi chia tay người đã khuất sẽ không bao giờ quên những ngày tháng lưu luyến, ta và ta đã cùng chung nỗi niềm, cùng đau khổ, cùng chia sẻ đắng cay, chia ngọt sẻ bùi. và làm sao quên được người mẹ ở miền Bắc nắng cháy da lưng vẫn cõng con đi làm đồng, cần mẫn bẻ từng bắp ngô … đã gợi lên sự cần cù, chịu thương chịu khó của những người mẹ kháng chiến, đùm bọc và ủng hộ các chiến sĩ cách mạng.

và cả sân khấu sinh hoạt văn phòng với những âm thanh quen thuộc trong lớp học, tiếng hát lạc quan, vui tươi trong hoàn cảnh khó khăn. Bài thơ không chỉ đơn giản là tái hiện sự kiện, con người, cảnh vật mà còn chứa đựng nỗi nhớ, lòng biết ơn sâu sắc đối với các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam đã cưu mang mình.

ở tác phẩm này, có lẽ đẹp nhất và tài hoa nhất là khi bút pháp tác giả tạo nên hình ảnh tứ bình đặc sắc: “nhớ em /… / nhớ ai câu ân tình thủy chung”. hình ảnh mở đầu là cảnh mùa đông đặc trưng: rừng xanh hoa chuối đỏ tươi / bước cao nắng gùi dao thắt lưng. màu chính trong hình ảnh này là màu xanh lam. Trên nền xanh ngút ngàn ấy, “hoa chuối đỏ tươi” nổi bật, xua tan u ám và thổi bừng sức nóng.

Sức nặng của hai câu thơ tập trung ở hai chữ “bước cao” gợi lên tư thế tự hào của con người Việt Nam trong công việc lao động. rồi cảnh xuân tinh khôi với rừng mơ trắng: ngày xuân mơ nở trắng rừng / nhớ người đan nón đan từng sợi. núi rừng Việt Bắc ngập trong một màu trắng tinh khôi của hoa mai.

trong rừng hoa mai ấy, ta thấy hình ảnh con người Việt Bắc trong lao động, với vẻ đẹp cần cù, tài hoa hòa hợp với thiên nhiên thơ mộng, trong sáng. cảnh mùa hạ đặc trưng bởi một màu vàng ấm áp: tiếng ve kêu rừng đổ vàng / Nhớ chị hái măng một mình.

câu thơ trước chỉ có sáu âm tiết nhưng nó gợi lên một chuỗi chuyển động liên tục: tiếng ve kêu mùa hè đến, mùa hè với nắng chói chang nhuộm vàng cả khu rừng hổ phách. hình ảnh một người xuất hiện gọi là “chị” khiến người Việt Bắc có vẻ rất thân thương và gần gũi.

người ấy tỏ ra rất bình thản: “chị” “lẻ loi” giữa rừng trúc, lặng lẽ làm việc. bức tranh cuối là cảnh mùa thu: rừng thu, trăng soi bóng hòa bình / Nhớ câu ca dao thủy chung. hình ảnh mùa thu thanh bình, hạnh phúc, biểu tượng của hòa bình, cũng là mục tiêu mà cách mạng theo đuổi.

Trong dòng hồi tưởng, người bạn không quên nhớ về cuộc sống chật vật đầy khó khăn. Đó là khi cách mạng còn non trẻ, lực lượng còn non yếu, địch đến đánh đuổi thường xuyên, đó là một thử thách lớn cho ý chí của con người. nhưng dù khó khăn cũng không chịu khuất phục cả con người, núi rừng để chung sức đánh giặc. cuộc kháng chiến ngày càng mạnh, chúng ta thắng trận này đến trận khác.

giọng thơ đầy tự hào và vui sướng. khép lại bài thơ, tác giả còn vẽ ra một bản đồ vui mừng kéo dài khắp đất nước báo tin chiến thắng. nhịp thơ nhanh, vui tươi, phấn khởi cùng với sự xuất hiện của một số địa danh từ hàng trăm miền gắn với tin vui chiến thắng đã thể hiện tốc độ chiến thắng thần kỳ. chiến thắng đó đã lan tỏa khắp mọi miền đất nước, tạo nên ngày chiến thắng của cả dân tộc ta.

viet bac có thể coi là một bản tổng kết lịch sử của cách mạng dân tộc. Đoạn thơ đã tái hiện một cách chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc cùng với cuộc kháng chiến vĩ đại và anh dũng của dân tộc ta. bài thơ có sự kết hợp hài hoà giữa trữ tình và chính luận, thể thơ lục bát dân tộc, giọng điệu linh hoạt, hình ảnh giàu sức biểu cảm đã tạo nên một bài thơ xuất sắc.

viet bac test – mẫu 13

tou huu được biết đến như một tác giả trữ tình chính trị hay nhất trong văn học Việt Nam. những tác phẩm thơ của ông có thể coi là những sử liệu thơ ghi lại những sự kiện, sự kiện trọng đại trong lịch sử nước nhà. viet bac là một trong vô số bài thơ thuộc thể loại này, khi cảm xúc của những người ra đi, về cuộc kháng chiến trường kỳ kéo dài mười lăm năm của dân tộc đã kết thúc thắng lợi.

viet bac được thành lập năm 1954 khi ban chấp hành trung ương đảng chuẩn bị rời chiến khu viet bac về Hà Nội. chính vì vậy mà bài thơ là nỗi nhớ da diết, nhớ nhung, day dứt về bức tranh và của con người nơi đây. do đó, từ khổ thơ đầu tiên, tou đã nêu:

Khi quay trở lại, tôi nhớ mười lăm năm say đắm mình, bạn nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ đài phun nước

với kết cấu gia đình đối đầu và quan hệ, bài thơ thể hiện cuộc chia tay giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. tình yêu đôi bên rất sâu nặng, đằm thắm và nghiêm túc được thể hiện qua đại từ “ta – ta” gợi lên nỗi nhớ nhung, da diết lúc chia tay. lời nhắn nhủ của người ở lại thực sự xúc động, được thể hiện chủ yếu qua những câu nói, câu hỏi: có nhớ em không, có nhớ vang lên liên tục thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi. nỗi nhớ không lớn lao, xa vời mà bằng những thứ rất gần gũi, thân thuộc: cây cối, sông nước, núi non, đài phun nước. mỗi địa danh, mỗi không gian đều gắn với một kỷ niệm mãnh liệt và sâu lắng.

đáp lại lời người ở lại, lời người ra đi cũng không kém phần xúc động: “tiếng ai trầm tư bên rượu / quặn thắt ruột gan bước đi không yên / áo chàm đưa tiễn / nắm tay nhau. biết nhau. nói gì hôm nay “. chủ đề đã sử dụng linh hoạt hàng loạt từ ngữ, biệt ngữ giàu cảm xúc: nghiêm trang, sầu muộn, khắc khoải, thể hiện cảm xúc chân thành, nghiêm túc của người chiến sĩ cách mạng khi phải rời xa nơi mình gắn bó bao năm. dòng cuối còn lại ở giữa, nhịp thơ chậm lại, dừng lại thể hiện sự lưu luyến, không nỡ lòng của người ra đi.

Mười hai câu dưới đây là lời đối đáp của người Việt Bắc, kể lại một thời với những kỷ niệm đẹp trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp:

“Em đi rồi, anh có nhớ những ngày … tết, mái đình hồng thái, cây đa không?”

Hàng loạt không gian khác nhau lần lượt xuất hiện, không gian rừng núi, không gian sinh hoạt cộng đồng, … tất cả những không gian này đều gắn bó mật thiết với những người đã khuất. địa điểm được ghi nhớ từ xa đến gần, từ mưa, suối, lũ lụt, mây mù, địa điểm không xác định, đến địa điểm cụ thể, chiến khu, tân niên, hồng thai. khiến lòng người đi ra ngoài cũng là xúc động. không chỉ là những địa danh, họ còn đề cập đến cuộc sống đời thường rất đỗi giản dị, thậm chí khắc khổ trong những năm tháng chiến tranh ấy, đĩa cơm chấm muối, quả mơ, canh măng… nhưng vẫn thấm sâu vào lòng người. đằng sau mỗi câu, mỗi chữ ta còn thấy nỗi niềm, nỗi niềm của người ở lại, dòng cuối của khổ thơ là một câu hỏi tu từ khiến ta đau đớn, xót xa hơn bao giờ hết. .

Đáp lại tình cảm chân thành, thắm thiết của đồng bào để lại, các chiến sĩ cách mạng đã không ngần ngại bày tỏ ở đây lòng biết ơn và tình cảm sâu sắc đối với con người và thiên nhiên: “ta với ta, ta với ta /…. / the đêm khuya tiếng chày giã cối còn xa ”. khổ thơ là lời khẳng định chắc nịch tình cảm thắm thiết, bền chặt của người đi đối với người ở lại, đó là tình cảm “thủy chung, nghĩa tình” không thay đổi. và để khẳng định tình cảm chân thành ấy, người bạn tou cũng đã tái hiện rất tinh tế những kỉ niệm của mười lăm năm kháng chiến gian khổ nhưng rất đỗi vui tươi, hào hùng: khói sương, những cột mốc, những quen thuộc với dòng sông, ngày sông, một lớp học chữ trên những đêm trăng sáng, chia ngọt, sẻ bùi, tấm chăn đắp, lòng biết ơn vô hạn đối với người mẹ, nhưng nói chung là với người đã nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ. bài thơ không chỉ tái hiện ký ức về những năm tháng gian khó, hào hùng mà còn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với dân tộc Việt Nam.

Trong khổ thơ tiếp theo là hình ảnh đẹp nhất, thể hiện tài năng của một nhà thơ kiệt xuất: hình ảnh tứ tuyệt:

Ta nhớ ai ta nhớ câu hát ân tình thủy chung.

Hai câu thơ đầu là lời cầu xin của người đã khuất đối với người an nghỉ, đồng thời cũng là lời bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình. tám câu thơ tiếp theo vẽ nên cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và chân dung con người Việt Nam hiện dần lên suốt bốn mùa. mùa đông được mặc nhiên coi là mùa lạnh, mùa của sự héo úa, héo úa, nhưng trong hình ảnh tố ta thấy không phải sự cô đơn, lạnh lẽo mà là hình ảnh đỏ tươi của những bông hoa chuối trên nền xanh của núi rừng. màu đỏ rực lửa ấy đã làm tan đi cái lạnh giá của mùa đông, sưởi ấm không gian của thiên nhiên miền núi. sau sắc đỏ tươi của hoa chuối là đến sắc trắng tinh khôi của những rặng mai bạt ngàn mang đến cảm giác tươi mát, trong lành cho cảnh vật thiên nhiên. mùa hè rộn ràng tiếng ve và sắc vàng của rừng phách vàng, cả không gian ấm áp của mùa hạ. cuối cùng là cảnh thanh bình của ánh trăng êm dịu.

Mỗi câu thơ tả cảnh thiên nhiên là một bức chân dung của con người Việt Nam. trong mỗi hình ảnh, con người hiện lên rất mạnh mẽ và năng động. họ là những người đi rừng sáng thắt lưng khóa, chinh phục thiên nhiên. đến với hình ảnh mùa xuân, hình ảnh “người đan nón” dẻo dai và nữ tính, sắc sảo từng đường kim mũi chỉ. cô em gái đi hái măng một mình, nhưng không phải một mình em mà chiếm lĩnh cả cảnh vật thiên nhiên của mùa hè. và cuối cùng là bài hát lấp đầy không gian mùa thu. trong bất kỳ bức tranh nào, hình ảnh con người hiện lên rất năng động và mạnh mẽ, họ không hòa mình vào thiên nhiên mà chủ động chiếm lĩnh và thống trị toàn bộ không gian.

Trong mạch hồi tưởng, tác giả nhớ lại những năm tháng kháng chiến hào hùng của quân và dân Việt Bắc, tuy gian khổ nhưng cũng đầy hào hùng. Khi ấy, không chỉ người dân Việt Bắc, mà cả thiên nhiên cùng chung sức đánh tan quân xâm lược: “Núi giăng tường sắt dày / Rừng che lính rừng vây giặc”. Trải qua những năm tháng khó khăn, quân và dân ta đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn và thành công vang dội: “Đất Việt ta / … Những đoàn xe ra trận ngày đêm cắt ngang màn sương mù mịt mù của Việt Bắc. bài thơ hiện thực nhưng cũng vô cùng lãng mạn, nó không chỉ phá tan bóng tối của viet bac mà còn mở ra tương lai và hy vọng cho đất nước. câu thơ “đèn pha sáng như mai” là sự thể hiện tinh thần và niềm tin của tác giả.

viet bac có thể được xem như một bản tổng kết về cuộc kháng chiến trường kỳ và vĩ đại của dân tộc ta. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc, chân thành và vô hạn của tác giả nói riêng và các chiến sĩ cách mạng nói riêng đối với dân tộc Việt Nam. đồng thời bài thơ cũng thể hiện tài năng nghệ thuật của huý.

Phân tích bac sĩ Việt Nam – mẫu 14

Chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn thành thắng lợi là một sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta. Nhờ sự kiện trọng đại này, tháng 7 năm 1954 hiệp định chung được ký kết, hòa bình lập lại, miền bắc được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. do đó, các cơ quan trung ương của đảng đã rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Trong lúc tang tóc và nhớ nhung chia tay, người bạn đã viết bài thơ Việt Bắc để bày tỏ cảm xúc của mình.

Tất cả chúng ta đều biết rằng ông Toàn là một nhà thơ của gia đình kháng chiến. con đường thơ của ông gắn liền với con đường cách mạng. Với giọng thơ ngọt ngào, những sáng tác của anh chạm đến trái tim người đọc. và “viet bac” cũng không ngoại lệ. bài thơ “viet bac” được viết như một cuộc giao lưu giữa người ra đi và người ở lại trong giờ phút tiễn biệt đầy luyến tiếc sau bao năm gắn bó. đầu bài thơ là những lời tâm sự của người ở lại.

“Khi quay trở lại, tôi nhớ về mười lăm năm với niềm đam mê, tôi nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ đài phun nước”

Trong lúc chia tay, người bị bỏ lại dường như rất nhạy cảm với sự thay đổi của hoàn cảnh và nói để nhắc nhở người đã khuất về những kỷ niệm thân thiết. người ở lại hỏi về không gian: “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ đài phun”, họ hỏi về thời gian: “mười lăm năm ấy…”. cụm từ “Tôi có nhớ” tạo cho bài thơ một giai điệu hoài cổ. những người ở lại đang nhắc nhở những người đã khuất về đạo lý uống nước nhớ nguồn. nghe câu nói của người ở lại, người ra đi cũng ngập ngừng “đi một bước, đi một bước, dừng lại”. trong một cuộc chia tay hết sức tế nhị và sâu sắc, người ra đi nghẹn ngào khó nói thành lời: “nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay”. bàn tay ấy chứa đựng nhiều cảm xúc của người đã khuất. từng đường nhịp diễn tả một thoáng ngập ngừng của tác giả. sự tạm dừng đó đã tạo ra một khoảng thời gian im lặng để tập hợp các câu hỏi tiếp theo phát ra nhanh hơn. Với những câu nói mà người ở lại cứ hỏi, người ở lại nhớ về những ngày tháng ở chiến khu Việt Bắc. mười hai dòng của bài thơ được chia thành sáu câu hỏi như muốn xoáy sâu vào kỉ niệm. những ký ức đầu tiên là những ngày đầu gian khổ, khó khăn của chiến khu và cuộc kháng chiến: “rừng và đá”, “sương mù bốn bề”, “mưa suối, mây trời”… là những hình ảnh cho thấy. cả những ngày khó khăn và những ngày khó khăn của thiên nhiên. rồi đến cảnh vật, con người Việt Nam: những con người trung hậu, nhân hậu, chịu thương chịu khó: “miếng cơm chấm muối bao nhiêu hận thù”, “bông lau ngậm ngùi lòng người xám xịt”. và sau đó là ký ức về mảnh đất chiến khu từ thời kháng chiến chống Nhật thời Việt minh. Chỉ bằng mấy câu thơ, Tố Hữu đã chứng tỏ Việt Bắc là một nền móng vững chắc với những mốc son lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái. Mười hai dòng tiếp theo này không chỉ gợi lại những kỉ niệm xưa với người đã khuất mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật thơ của nhà thơ. trong những câu thơ sáu tiếng, mỗi câu “đi”, sau đó là một câu “trở về” chỉ một hướng đi của con người. nhà thơ đã khéo léo sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên từ nhiều nghĩa. hấp dẫn người đọc còn là nghệ thuật “đi – đi” kết hợp với động từ “nhớ” tạo nên giai điệu êm dịu, du dương trong lời ăn năn, lòng biết ơn thủy chung. hơn hết là đan xen những câu hỏi, nhưng không phải bằng hỏi mà bằng độc thoại nội tâm: “đi rừng núi nhớ ai – lấp bùn đánh mất mai để già”. . trước bao kỉ niệm của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định nghĩa tình không bao giờ thay đổi: “Ta với ta, ta với ta, lòng mặn nồng trước sau”. cặp đại từ “ta – ta” gắn bó mật thiết với nhau như mối liên kết mà từ đó nó bắt đầu với cái còn lại. lòng chung thủy ấy còn được so sánh với nước trong đài: “nước trong đài bao nhiêu thì tình bấy nhiêu”. câu thơ đã khẳng định lòng thủy chung bền chặt muôn đời, như tình yêu đôi lứa, như nước trong suối chảy mãi không nguôi. tác giả đã làm cho việc khai thác từ “xe hơi” rất tốn kém. Trong tiếng Việt, từ “tôi” chỉ bản thân hoặc người khác, giữa vợ và chồng. nhưng trong tác phẩm, “ta” vừa là người ở lại vừa là người ra đi: “khi ra đi thương nhớ”. cách sử dụng đa âm sắc này đã làm tăng tính nghệ thuật của bài thơ.

Sau lời hồi đáp của những người ra đi và những người ở lại, những người đã khuất bày tỏ cảm xúc của mình. nó là một ký ức không thể xóa nhòa. đầu tiên, hãy nhớ về viet bac. nỗi nhớ ấy réo rắt: “nhớ không bằng nhớ người yêu”. người ra đi nhớ về cảnh sắc thiên nhiên yên bình, thơ mộng. với các hình ảnh: “ánh trăng”, “nắng chiều”, “đèo núi”, “bếp lửa”…. và những con người có tấm lòng thủy chung son sắt: “bát cơm bẻ đôi, đắp chăn”. Nhà thơ cũng không quên hình ảnh người mẹ Việt Bắc: “nhớ mẹ đốt lưng – dắt con ra đồng bẻ từng bắp”. không chỉ cảnh sắc thiên nhiên, con người nơi đây mà những kỷ niệm bao đời nay của đồng bào, tình cán bộ, chiến sĩ ấm áp, khó khăn gian khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời cũng ùa về: “nhớ lớp – đêm khuya ngọn đuốc sáng trong giờ tiệc – nhớ sao cơ quan – gian khổ cuộc đời vẫn hát vang khúc đèo. “

Tiếp nối sự tưởng nhớ về người đã khuất là bức tranh tứ bình đẹp. cảnh và người quyện vào nhau qua bốn cặp lục bát, thể hiện qua bốn mùa. mùa đông hiện ra giữa bạt ngàn phản chiếu màu xanh với “hoa chuối đỏ tươi”. mùa xuân không gian bừng sáng bởi màu tinh khôi của “mộng mơ”, mùa hạ là “rừng phách vàng” trong tiếng ve kêu. mùa thu là ánh trăng dịu nhẹ trong khúc hát ân tình thủy chung. một bức tranh tươi đẹp tràn đầy sức sống đã hiện ra trước mắt người đọc chỉ bằng vài câu thơ của nhà thơ.

Cuộc kháng chiến gian khổ nhưng anh dũng là kỷ niệm không thể phai mờ trong lòng những người đã khuất. Người quá cố nhớ về những ngày tháng gian khổ Việt Bắc, mảnh đất anh hùng của thiên nhiên và những người lính đánh giặc “núi rừng, ta đánh tây”; nhớ những chiến công vang dội gắn liền với các địa danh: “Phủ thông, giang sơn”, “nhớ sông, nhớ phố – nhớ chữ cao – lang, nhớ nhì – hà”. những người ra đi vẫn nhớ hình ảnh những người Việt Bắc ra quân. Trên khắp nẻo đường bắc việt tinh thần chiến đấu “ầm ầm như đất rung đêm” sức mạnh quân đội với sức mạnh quân đội “trùng trùng điệp điệp” nối tiếp nhau trong một trận đánh đẹp mắt trong “đầu súng”. cuộc hành quân tổng lực của toàn thị xã với tinh thần chiến đấu kiên quyết: “Dân công đuốc đỏ từng đoàn – đá dăm, lửa bay”. Với tinh thần chiến đấu ấy, những chiến công vang dội nối tiếp nhau: “Tiếng lành đồn xa trăm miền”. với những chiến thắng này, ông đã dẫn đến sự khẳng định cuối cùng về tính đúng đắn của đường lối cách mạng của Đảng. chính vì vậy mà phần cuối của bài thơ được dùng để tuyên truyền cho câu thơ đó, đồng thời khẳng định rằng Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là niềm tin và niềm tự hào.

cuối bài thơ là một cảm xúc khó quên. Bài thơ việt bắc không chỉ là bài thơ tiêu biểu của thơ ca kháng chiến mà còn là tác phẩm thể hiện rõ nét phong cách thơ của cụ. Với sự vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát, thành công của cặp đại từ “anh – ta”, bài thơ đã có chỗ đứng vững chắc trong lòng người đọc và nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

…………

tải xuống tệp để xem thêm phân tích về Việt Nam

XEM THÊM:  Những nhà văn nổi tiếng và xuất sắc nhất nền văn học thế giới

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay (21 mẫu) – Văn 12. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *