Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
232 lượt xem

Phân tích tác phẩm bình ngô đại cáo

Bạn đang quan tâm đến Phân tích tác phẩm bình ngô đại cáo phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích tác phẩm bình ngô đại cáo

phân tích bài văn nghị luận tuyệt vời của nguyễn trai mang đến 15 bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao nhất của các bạn học sinh lớp 10 qua đó các bạn có thêm gợi ý tham khảo và hiểu bài. nắm vững kiến ​​thức cơ bản, củng cố kỹ năng viết, mở rộng vốn từ vựng để biết cách viết bài văn cho riêng mình.

Dân ca cao được sáng tác vào năm 1428, được coi là bản anh hùng ca vang dội trong cuộc kháng chiến chống vương triều, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai, đánh dấu bước phát triển về tư tưởng, nhận thức so với lần thứ nhất. tuyên ngôn của thuyết thường thức. vì vậy đây là 15 bài viết hay bàn về thông báo lớn , mời các bạn học sinh lớp 10 xem qua và tải về tại đây.

Bạn đang xem: Phân tích tác phẩm bình ngô đại cáo

phân tích sơ đồ của hũ cao

i. giới thiệu:

– Giới thiệu về tác giả Nguyên trai: một nhà chính trị, quân sự, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, tài năng với sự nghiệp cầm bút.

– miêu tả chung về tác phẩm: là một thiên anh hùng ca, một bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc.

ii. nội dung:

a. tiền đề lý thuyết

* suy nghĩ của con người

– “nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo dùng để chỉ mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lý.

– “tính nhân văn” trong quan niệm của nguyễn trai

  • kế thừa tư tưởng của Nho giáo: “thiên hạ thái bình” – làm cho cuộc sống của nhân dân được bình yên, hạnh phúc
  • cụ thể hóa bằng một nội dung mới là trừ bạo – vì nhân nghĩa mà dân tộc trừ bạo tàn và giặc ngoại xâm.

→ Với một ý nghĩa mới và tiến bộ, nguyễn trai đã vạch trần luận điệu gian dối của kẻ thù, đồng thời phân biệt rõ kẻ thù chính nghĩa và kẻ thù không đội trời chung.

<3

* sự thật về độc lập dân tộc

– Nguyễn Trãi đã xác định địa vị độc lập của Đại Việt bằng một số bằng chứng thuyết phục: nền văn hiến lâu đời, ranh giới lãnh thổ riêng biệt, phong tục nam bắc phong phú, đậm đà bản sắc. Dân tộc có lịch sử lâu đời qua các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần, Hào.

→ bằng cách liệt kê, tác giả đưa ra những bằng chứng hùng hồn và thuyết phục để khẳng định rằng Đại Việt là một quốc gia độc lập, đó là sự thật không thể chối cãi.

– những từ “trước đây, từ lâu, xưng tụng, chia rẽ” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của đại việt.

– thái độ của tác giả:

    of vietnam is the king.

→ thể hiện ý thức cao đẹp về chủ quyền và độc lập của tác giả.

– bằng cách liệt kê, trích dẫn các kết thúc phản sự thật: lưu cung, ám chỉ, ô tô, ô ma, …

→ là lời cảnh báo mạnh mẽ và cũng thể hiện niềm tự hào về những việc làm của dân tộc Đại Việt.

b. phản ánh lý thuyết vào thực tế.

* tội ác của kẻ thù.

– tội ác xâm lược: từ “man, lợi dụng” thể hiện sự cơ hội, xảo quyệt của kẻ thù, chúng mượn cớ “diệt giang hồ” để gây chiến tranh xâm lược nước ta.

→ vạch trần lý thuyết gian lận và trộm cắp của nước đối phương.

– tội ác chống lại nhân dân:

  • khủng bố, giết người vô tội: nướng thịt người da đen, chôn vùi trẻ em da đỏ
  • khai thác thuế, cướp bóc tài nguyên và sản vật của nước ta
  • hủy hoại môi trường, hủy diệt sự sống
  • bóc lột công việc, phá hoại sản xuất.

→ sử dụng biện pháp liệt kê, tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù.

→ gợi lên hình ảnh những con người đáng thương, đáng thương, đau khổ

→ nỗi xót xa, đau xót, đồng cảm với nhân dân, căm phẫn kẻ thù của tác giả.

* lòng căm thù của nhân dân đối với kẻ thù.

– Hình ảnh phóng đại “tre nam không ghi hết tội ác, nước đông hải không khử mùi tanh” lấy cái vô cùng của thiên nhiên để nói về tội ác của kẻ thù.

– câu hỏi tu từ “có thể… chịu được không?”: tội ác không thể tha thứ của kẻ thù.

→ thái độ bất bình và bất khuất của nhân dân ta

⇒ đoạn văn là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thù

c. sự tiến hóa của thang máy sơn lam.

* hình ảnh một anh hùng anh hùng

– xuất xứ: một nông dân trồng vải “trên sa mạc”

– chọn chân đế nâng: “núi lam sơn cước nghĩa”

– có lòng căm thù giặc sâu sắc và sôi sục: “tưởng thù lớn thì chung trời, hận thù thề không cùng …”

– Có lí tưởng, hoài bão lớn, biết trọng dụng người tài: “lòng cứu nước … từ trái”.

<3

→ hình ảnh le loi vừa là một con người bình thường giữa đời thường vừa là một anh hùng thời loạn. hình tượng le loi cũng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa lam sơn, nguyễn trai thể hiện tính cách bình dân của cuộc khởi nghĩa.

* lam nâng con trai.

– giai đoạn đầu của cuộc khảo sát:

  • khó khăn về quân trang, lương thực: lương mấy tuần liền, quân không có vũ khí
  • tinh thần quân dân: nỗ lực, quyết tâm (ta cố gắng vượt khó), đồng tâm, hiệp lực (dùng 2 điện tích để xây dựng công trình, hòa với nước sông)

→ chặng đường đầu đầy khó khăn, thử thách, nhờ tinh thần lạc quan, đồng lòng, đoàn kết, biết dựa vào dân đã giúp nghĩa quân lam sơn vượt qua mọi khó khăn.

– giai đoạn phản công và chiến thắng

  • Nghĩa quân liên tiếp giành được nhiều thắng lợi to lớn, tiêu diệt địch ở các thành phố mà chúng chiếm đóng “trần tri, sơn thọ… chúng thoát” và tiêu diệt quân tiếp viện của giặc “ding co… tự sát”.

→ thủ pháp liệt kê tái hiện không khí của một trận chiến máu lửa, sôi sục với những chiến công oanh liệt liên tiếp của quân ta, cũng như thất bại ê chề, nhục nhã của kẻ thù.

+ sự thất bại nhục nhã và bi thảm của kẻ thù:

  • nghệ thuật phóng đại, phóng đại những thiệt hại, mất mát tột cùng của kẻ thù. đó là những thất bại ê chề, nhục nhã, “xác chết chồng chất, bẩn thỉu hàng nghìn năm, trùm đầu, bị giết …”, “tướng công hoàng phúc … xin hãy cứu mạng”
  • kẻ thù vị tướng ham sống, sợ chết, xin hàng.

+ khí thế và hành động vang dội của quân và dân ta:

  • cách nói phóng đại, cường điệu: “gươm mài đá núi cũng vậy, voi uống nước sông cũng phải cạn, đánh một trận…”, ca ngợi lòng hào hiệp, nghĩa khí. tinh thần của quân đội ta.
  • thực thi chính sách nhân từ “thần không giết … nghỉ”. Đây là cách ứng xử nhân đạo và khôn ngoan của nghĩa quân lamson, nó làm cho chúng ta thấy được bản chất chính nghĩa của nghĩa quân, đồng thời là bước chuẩn bị cần thiết cho chính sách đối ngoại sau này.

→ nghệ thuật đối lập đã thể hiện rõ các cực đối lập trong cuộc chiến giữa ta và địch, từ tính chất của cuộc chiến đến khí thế, sức mạnh, hành động và cách ứng xử

→ niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của tác giả.

d. niềm tin, ý chí.

– giọng văn trang trọng, hào sảng thể hiện niềm tin và tư tưởng sâu sắc của tác giả

– Sử dụng những hình ảnh về tương lai của đất nước như “cộng đồng nơi đây bền vững, giang sơn từ đây đổi mới, hòa bình vững chắc”, hình ảnh vũ trụ “kiến trúc, vầng trăng mặt trời, ngàn lau nguyệt quế ”

→ đất nước và vũ trụ đang chuyển động theo chiều hướng tốt hơn và tươi sáng hơn.

→ Đây không chỉ là lời kết mà còn gửi gắm niềm tin, sự lạc quan vào sự nghiệp dựng nước của dân tộc.

e. nghệ thuật

– sử dụng một cách sáng tạo và thành công

– sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố chính trị và văn học.

– sử dụng phép liệt kê, phóng đại, tương phản, ..

iii. kết luận:

  • nội dung và nghệ thuật chung của tác phẩm
  • gắn với “nam quốc sơn hà”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.

sơ đồ tư duy đại cao

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo hay nhất (15 Mẫu)

Phân tích bài Đại cáo Bình Ngô – Mẫu 1

Nguyên trai là một nhà quân sự vĩ đại, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. đã đóng góp vào kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học đặc sắc, có sức sống lâu bền trong lòng độc giả mọi thế hệ, và “ông” là một trong những vở kịch đó. . “Binh ngo dai cao” ra đời sau chiến thắng của cuộc khởi nghĩa lam sơn chống lại quân xâm lược. tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà còn là một áng văn chính luận yêu nước, một chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta.

Được viết theo thể cáo, một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc, tác phẩm “Hũ ngô đóng chai” của Nguyễn Trãi cũng có thiết kế rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo đưa ra luận điểm chính đáng, làm cơ sở, nền tảng của chân lý độc lập dân tộc.

hành động nhân từ là để giữ hòa bình cho người dân và binh lính trước khi đối phó với bạo lực

Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, dùng để chỉ mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với nhau trên cơ sở tình nghĩa, đạo lý. Với Nguyễn Trãi, “chính nghĩa” nên gắn với “yên dân” vì ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân đội xâm lược nước ta, Nguyễn trai cho rằng, muốn “dân yên” thì trước hết phải lo “dẹp bạo”, nghĩa là đánh đuổi quân xâm lược đang đàn áp nhân dân và đẩy lùi. người dân đến một cuộc sống khốn khổ, khốn khổ. như vậy, với hai câu thơ đầu của bài cáo, nguyễn trai đã nêu lên tiền đề tư tưởng của toàn bộ tác phẩm, đó là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng đó luôn ăn sâu vào lòng dân, xét cho cùng, đây là một tư tưởng tiến bộ, đổi mới. . Hơn nữa, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi còn nêu lên sự thật khách quan để khẳng định nền độc lập tự do của dân tộc ta từ bao đời nay.

cũng giống như nước ta trước kia, đã xưng hùng xưng bá từ lâu, núi sông chia cắt nam bắc. phong tục nam bắc cũng khác nhau triệu, đinh, ly, trần từ bao đời nay, gây độc lập với Hán, Tang, Tông, mỗi bên đều xưng đế. phương pháp mạnh yếu theo thời gian là khác nhau, nhưng thế hệ nào cũng có.

Dường như đoạn văn đã gợi lại cho chúng ta những truyền thống đáng tự hào từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Đại Việt là một quốc gia có truyền thống văn hóa và phong tục tập quán lâu đời, có biên giới và lãnh thổ riêng. Đồng thời, so sánh các triều đại phong kiến ​​Đại Việt với các triều đại phong kiến ​​phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc, mà còn thể hiện niềm tự hào và niềm tự hào của dân tộc với truyền thống văn hiến hàng nghìn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lý độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê và kể lại những chiến công hào hùng, tất yếu của quân đội ta trong các trận đánh trước đây.

trừ khi công chúng tham lam, đó là lý do tại sao họ thất bại, đó là lý do tại sao họ phải tiêu diệt hàm của tử thần để bắt chiếc xe dosong bach dang và giết o ma

Dựa trên tiền đề công lý và sự thật độc lập ở đoạn một và đoạn hai, đoạn hai của bài nêu cao sâu sắc và chỉ rõ tội ác man rợ của kẻ thù. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Con người và gia đình quan tâm đến các vấn đề của mọi người. ngoài đồng thì lòng dân ai oán.

Lợi dụng tình hình đất nước giang hồ đang co quắp, kẻ thù xâm lược nước ta với cái cớ gian trá là “phá hồ” để lừa bịp nhân dân. Để rồi sau đó, chúng thực hiện hàng loạt chính sách man rợ và dưới ngòi bút của chúng, Nguyễn Trãi đã trở mặt, vạch trần hàng loạt tội ác không thể tha thứ của kẻ thù. chúng sát hại những người vô tội một cách dã man và tàn ác.

hét lên những người da đen trong ngọn lửa dữ dội, chôn vùi những đứa trẻ da đỏ xuống hố thảm họa

kẻ thù tàn ác đến mức nào, đến những “con đen”, “con đỏ” ​​cũng không tha. hai động từ “nướng”, “chôn” đặt ở đầu câu như diễn tả sự tàn sát dã man tột cùng của chúng, giết người không ghê tay. Ngoài ra, chúng còn tàn sát con người bằng cách đẩy họ đến những nơi đầy rẫy nguy hiểm, nơi mà một khi đã bỏ đi thì rất khó để sống sót trở về.

những người bị buộc xuống biển để tìm ngọc trai, mệt mỏi vì cá mập và cá mập. những người bị bắt lên núi tìm vàng, rừng sâu khổ ải, nước độc

Đồng thời, tội ác của kẻ thù còn đè nặng lên đầu người dân những chính sách tài chính vô lý, không dừng lại ở đó, chúng còn tàn phá môi trường sống, môi trường tự nhiên.

trộm sản vật, bắt chim trả về, nơi lưới người đan xen, bắt hươu đen, nơi đặt bẫy diệt côn trùng và cây cỏ,

Như vậy, với hàng loạt hình ảnh chân thực, rõ nét và sử dụng sự đối lập giữa tội ác của kẻ thù và tiếng nói thống khổ, mạnh mẽ của nhân dân, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên bản cáo trạng tội ác man rợ của kẻ thù và bản cáo trạng. kết thúc bằng một so sánh đáng lo ngại và phổ biến về tội ác của họ.

thật độc ác, nam sơn trúc không ghi hết tội bẩn, nước đông hải không khử được mùi hôi.

Tiếp theo, ở đoạn 3 của bài văn tế, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược. và hơn hết đó là hình ảnh của thủ tướng.

Ta ở đây: núi lam sơn đặt nghĩa nơi hoang vu để nương náu

với đại từ gần gũi tự xưng là “ta” và cách dùng từ “nơi”, “nơi” đã cho thấy nguồn gốc của vị tể tướng le loi. người anh hùng đó cũng từ nhân dân mà ra, anh cũng xuất phát từ lòng dân và thấu hiểu nỗi vất vả của nhân dân. người anh hùng ấy mang trong mình một lòng căm thù giặc sâu sắc – “nghĩ đại thù cứu thiên hạ”, “hận thù không thề sống chung” với bao nhiêu trăn trở, trăn trở đến nỗi “đau thấu não ruột”, “quên mình ăn cho hả giận ”và cả“ tròn vành vạnh trong đêm mơ ”vùng dậy dấy binh khởi nghĩa. Mặc dù cuộc khởi nghĩa đó diễn ra giữa lúc “thế giặc là mạnh”, gặp muôn vàn khó khăn, nhưng điều đó không thể ngăn cản bước đi và ý chí của người lính lê lết, lòng yêu thương nhân dân, lòng khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và vì thế. , ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn đó, anh ấy vẫn tìm ra cách chiến đấu, dẫn dắt cuộc chiến của chúng ta đến thắng lợi.

hoàn toàn ổn:

công lý đen để đạt được sự hung dữ và sử dụng lòng tốt để thay thế bạo lực

Chính nhờ chân lý và con đường đó mà cuộc khởi nghĩa của chúng ta đã vượt qua khó khăn và ngày một đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, với việc tái hiện lại trận chiến và chiến thắng của quân dân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh người anh hùng nghĩa sĩ mà còn tái hiện rõ nét từng giai đoạn của cuộc kháng chiến. Thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân ta gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn về nhân lực: “đào tẩu không người giúp”, lương thực thiếu thốn,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, nghĩa quân vẫn đồng lòng, đồng sức. thì trong những giai đoạn cuối của cuộc chiến, quân đội ta đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. mở đầu là những chiến công ở trận bo đăng, trận lân trà, sau đó là những trận thắng tay kinh, đông đô, ninh kiều, … và sau đó là chuỗi chiến thắng liên tiếp:

ngày mười tám, trận chi lang, trận chiến liễu bại ngày 20, trận ma an, trận liễu, cái chết đầu tiên của cái thứ hai mươi lăm, tính lượng minh là bị đánh bại và chết vào ngày 28, tể tướng và người kế vị của ông ta tự sát.

Có thể nói, bằng tất cả quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, làm cho nó thất bại thảm hại và kinh hoàng. Đồng thời, trong trận đánh đó, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã được xây dựng nên khi địch thua trận, nghĩa quân ta vẫn nhường đường rút lui, không những không tha chết mà còn cung cấp ngựa cho chúng. , món ăn. và thuyền để trở về đất nước. Và có lẽ vì thế, chiến thắng của chúng ta là chiến thắng của lòng nhân từ, nhân từ và tinh thần hiệp sĩ.

Cuối cùng, dựa trên luận điểm chính đáng và thực tế của trận chiến, đoạn cuối của bản báo cáo đã tuyên bố hòa bình và độc lập của dân tộc.

cộng đồng ở đây là bền vững. từ đây, sự đổi mới (…) từ xa và gần là một tin tốt.

Với giọng văn hào hùng, trang trọng xen lẫn niềm vui và niềm tự hào dân tộc, bản tuyên ngôn độc lập đã được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể nhân dân. câu nói đó không chỉ thể hiện niềm tự hào dân tộc mà còn thể hiện niềm tin vào tương lai đất nước hòa bình, thịnh vượng.

Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và chính luận, sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn linh hoạt, “Từ bi” của Nguyễn Trãi xứng danh là “thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.

Phân tích hũ ngô cao – mẫu 2

Từ xưa đến nay, ngoài bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho độc lập chủ quyền lãnh thổ của nước ta, còn có hai tác phẩm cổ trang và sử thi khác cũng được coi là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. đây là nam quốc sơn hà từ ly thương mại và đại gia cao từ nguyễn trai. ở mỗi thời đại với những hoàn cảnh khác nhau, những quan điểm khác nhau nhưng chúng ta đều thấy ở mỗi bản tuyên ngôn những giá trị tư tưởng vô cùng tiến bộ và đúng đắn. Nếu vở kịch nam quốc sơn hà đã khẳng định vững chắc chủ quyền lãnh thổ, tuyên ngôn độc lập của thành phố Hồ Chí Minh thể hiện quyền con người to lớn, thì đại ca lại là một khía cạnh khác. Đó là ý tưởng rằng chúng ta nên quan tâm đến mọi người, yêu thương mọi người và dập tắt tình trạng bất ổn, để cuộc sống của mọi người được ấm no và hạnh phúc. điều này được thể hiện rất rõ ràng trong đoạn 1 của bài báo.

Sau khi nước ta thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, vua đã sai Nguyễn trai viết lời khai ngô bên. năm 1428, báo cáo này được công bố rộng rãi. Bình Ngô đại cáo đã thuật lại và tóm tắt quá trình đánh đuổi quân Minh ra khỏi lãnh thổ của nhân dân ta, thể hiện chiến công vang dội và hùng hồn tuyên bố chủ quyền của dân tộc. tác phẩm được viết theo thể cáo, là một thể văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhà vua ban hành để mọi người trong nước biết đến. chiếc nồi ngô lớn gồm ba phần liên kết chặt chẽ với nhau. phần đầu thể hiện tư tưởng của tác giả, đó là tư tưởng nhân nghĩa. Ở phần thứ hai, Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của quân xâm lược và phần cuối là lời tường thuật về những trận đánh và chiến công trong chiến tranh của quân và dân ta. Toàn bộ phóng sự thể hiện niềm tự hào dân tộc sâu sắc cùng với lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền lãnh thổ không kẻ thù nào có quyền xâm phạm. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi đề cập trong đoạn 1 của tác phẩm này.

Trước đây, trong xã hội phong kiến, tư tưởng Nho giáo là một hệ tư tưởng gắn bó mật thiết với nhân dân. và nguyen trai cũng không ngoại lệ. báo cáo bắt đầu với một tư tưởng nhân từ xuất phát từ Nho giáo:

“Cốt lõi của lòng nhân từ nằm ở sự bình yên của thiên hạ, quân tử trừng trị trước bạo lực”

Trước hết, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của con người. nhân là nhân, có nghĩa là. chủ nghĩa nhân văn là ý tưởng, hành động hướng tới lẽ phải, vì quyền, lợi ích của con người và bảo vệ lợi ích của con người. Nguyễn Trãi coi nhân nghĩa là tư tưởng đầu tiên cần thiết để trị nước. Để đất nước phát triển, phồn vinh, không còn bóng dáng giặc ngoại xâm, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc thì người lãnh đạo đất nước là bậc quân vương phải có trách nhiệm yêu dân, thương dân như con đẻ. lợi ích của người dân luôn luôn được đặt lên hàng đầu. tuy nhiên, chỉ thương dân, thương dân thôi chưa đủ, hoàng đế phải biết “trừ gian diệt bạo”. bạo ở đây là bạo loạn, giặc đến xâm lược nước ta. cái ác đang hiện hữu trước mắt và người đứng đầu đất nước phải có trách nhiệm diệt trừ nó, đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. lòng yêu thương, quan tâm đến nhân dân đã hình thành nên tư tưởng và hành động chống lại kẻ xâm lược. Đây cũng chính là lý do và giá trị cốt lõi làm nên thành công của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của Vua Lê Lợi.

Để kiểm chứng ý tưởng của mình, Nguyễn Trãi đã dẫn ra những tấm gương lịch sử:

“cũng như trước đây nước Đại Việt ta xưng là văn hiến lâu đời, núi sông chia cắt nam bắc. Phong tục nam bắc cũng khác triệu, định, ly, tran đối với nhiều các thế hệ, gây ra nền độc lập với Hán, Tang, Tông và mỗi bên đều tự xưng.

Nước ta trước đây đại việt tuyên bố độc lập bốn phương, chúng ta có nền văn hiến hàng nghìn năm trước, có sự phân chia địa lý, lãnh thổ rõ ràng và rõ ràng với các nước khác. chúng tôi cũng có các nền văn hóa khác nhau ở phía bắc và phía nam. Cũng như các triều đại trước, từ các triều đại “triệu, định, ly, bình”, họ đã xây dựng nền độc lập của mình. Không những thế, Nguyễn Trãi còn lấy dụ từ các triều đại ở Trung Quốc: “Hán, Đường, Tống, Nguyên” từng xưng đế một phương. Trải qua các triều đại của lịch sử, nền độc lập, chủ quyền mà họ xây dựng là minh chứng không thể phủ nhận. Cái nhìn sâu sắc của Nguyễn Trãi thể hiện ở chỗ ông không chỉ lấy gương sáng của các triều đại trong nước, mà còn lấy dẫn chứng từ Trung Quốc, để tăng thêm tính đúng đắn của luận điểm này. mỗi thời kỳ đều có những nhân tài, những anh hùng kiệt xuất:

“Tuy mạnh yếu khác nhau ở từng thời điểm, nhưng ở mỗi thời điểm vẫn có những thiên tài”

nguyen trai cho rằng, thiên tài đất nước không bao giờ thiếu, bởi mỗi thời đại đều sản sinh ra nhiều bậc hiền tài đóng góp cho đất nước. họ đã khiến kẻ thù của mình phải chịu thất bại và sỉ nhục:

“cứu cung điện vì lòng tham công tiếc việc không thành, triệu đại lợi phải diệt vong, cửa tử bẫy sông bạch đăng làm chết. Đã coi là việc xưa nay rồi, chứng cứ còn ghi. “.

một số cái tên được nhắc đến: “lưu cung, triệu tiết, hàm hàm, hay ma” đều là kẻ thù ham danh, ham xâm lược nước khác. kết cục mà họ phải chịu đựng vô cùng đau đớn. Nguyễn Trãi đã sử dụng hàng loạt động từ mạnh như “bắt sống”, “giết tươi” để thể hiện thái độ quyết đoán, không khoan nhượng trước các thế lực thù địch. một khi chúng dám xâm phạm, xâm hại đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, nền độc lập của Tổ quốc thì chúng sẽ phải gánh chịu những hậu quả khôn lường. hai dòng cuối của đoạn đầu là lời tuyên bố mạnh mẽ của tác giả:

“vấn đề trước đã được kiểm tra, bằng chứng vẫn được ghi lại”

Tác giả kết luận suy nghĩ của mình về “tính nhân văn” với tuyên bố rằng “bằng chứng vẫn còn trong hồ sơ.” đây là một sự thật lịch sử không thể phủ nhận, không thể phủ nhận. các triều đại trước đã có những chiến công lừng lẫy, giành được quyền tự chủ, sao ta không làm được, huống chi vua chúa là một người vô cùng thông minh, sáng suốt, biết lo cho cuộc sống của mình? cũng có thể nói đây là phần kết của luận điểm đầu tiên nên tác giả vạch trần tội ác của kẻ thù trong phần tiếp theo.

Với lập luận sắc bén, logic, dẫn chứng rõ ràng, rành mạch, nguyễn trai đã làm nổi bật ý chính của đoạn đầu. đó chính là “tư tưởng nhân nghĩa”, thương dân, chăm lo đời sống của nhân dân và dập tắt các cuộc bạo loạn đang diễn ra lúc bấy giờ. chúng ta có thể thấy ở tác giả tấm lòng sâu nặng nghĩa tình với nhân dân, một trợ thủ đắc lực, nghĩ hơn người, phò tá cho hoàng đế.

nguyễn trai là một trong những tác gia lớn của nền văn học cổ Việt Nam, điều đó được thể hiện rất rõ trong tác phẩm này. cho đến ngày nay, nó vẫn là một tuyên ngôn độc lập hùng hồn, hùng hồn mỗi khi nó được lặp lại.

phân tích báo cáo lớn của năm – mẫu 3

Nguyên trai (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài năng, có công lớn trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại thái bình, thịnh vượng cho đất nước. ông cũng là một nhà thơ và nhà văn lớn với một khối lượng lớn các tác phẩm bao gồm cả chữ Hán và văn học du mục. trong số đó có thể kể đến một số tác phẩm như: Đại cao bình ngoại, Quan trung liệt truyện, Quốc âm thi tập, Ức trai thi tập …

dai cao binh ngo ‘được coi là “thiên cổ hùng văn”, một bản tuyên ngôn độc lập và địa vị dân tộc mạnh mẽ và hùng hồn. trong đó, hạt nhân là phần đầu của tác phẩm với lý tưởng nhân văn được thể hiện rõ nét:

hành động nhân từ là để giữ hòa bình cho người dân và binh lính trước khi đối phó với bạo lực

nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của đại cao bình, mục tiêu chiến đấu hết sức cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa lam sơn. Mở đầu bài viết, tác giả nêu một luận điểm chính trị. Việc làm nhân đạo của Nguyễn Trãi ở đây là “an dân”, “trừ bạo”. “yên dân” là giúp cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, để nhân dân có thái bình thì đất nước mới ổn định và phát triển. tác giả giới thiệu “yên dân” như để khẳng định tôn chỉ “lấy dân làm gốc” là quy luật bất khả xâm phạm ở mọi thời đại, là tài sản, sức mạnh và sức sống của một dân tộc.

nguyen trai rất tháo vát khi cô ấy nhận ra và giải quyết thành công vấn đề cốt lõi đó. hành động nhân từ tiếp theo là “trừ gian diệt bạo” ám chỉ bọn quân tử, bọn ác ôn chuyên bóc lột người. chúng tra tấn dã man, cướp bóc và vùi dập nhân dân ta xuống vực thẳm đau khổ. “dĩ hòa vi quý”, “trừ bạo”, hai điều tưởng chừng như không liên quan đến nhau, nhưng lại là hai yếu tố hỗ trợ và bổ sung cho nhau, bởi nếu dân không yên thì sẽ trừ bạo, khó khăn lại càng được nhấn mạnh. và được thực hiện đồng thời, thống nhất với nhau. quan tâm đến sự bình yên và phúc lợi của nhân dân cũng có nghĩa là chống lại kẻ thù của nhân dân, loại bỏ những kẻ tham lam, tàn bạo, tức là những kẻ “cuồng tín” chà đạp lên cuộc sống của nhân dân, gây ra bao nhiêu tai họa.

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là một phạm trù đạo đức hẹp hòi mà là một lý tưởng xã hội: chăm lo cho mọi người được sống hạnh phúc, bình yên. điều quan trọng hơn là ở đây, nguyễn trai đã nâng lý tưởng, tình cảm đó thành chân lý. ông không nói chung chung về nhân loại, nhưng chỉ bằng một hai câu ngắn gọn, tác giả đã đi vào khẳng định điều cốt lõi cơ bản nhất, trọng tâm nhất và giá trị nhất. không chỉ vậy, lòng nhân đạo còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

“Cũng giống như nước Đại Việt, chúng ta đã từng xưng là văn hiến từ lâu, núi sông chia cắt nam bắc, phong tục cũng khác nhau” triệu, định, ly, bình, dân, xây dựng nền độc lập. cho các thế hệ han, tang và tông nguyễn mỗi bên. xưng đế ở một bên. Tuy mạnh yếu khác nhau theo thời gian nhưng mỗi thế hệ đều có một kiệt tác.

khi nói rõ sự thật này, nguyễn trai đã đưa ra một quan niệm được coi là đầy đủ nhất thời bấy giờ về các yếu tố tạo nên một đất nước độc lập. nếu 400 năm trước, ở Nam quốc sơn hà, lý thường quốc chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên cơ sở ý thức dân tộc và độc lập dân tộc, trong Chiếc bình trên đà, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn yếu tố là văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. đây là điểm sáng tạo thể hiện trí tuệ của nguyễn trai. Ở mỗi quốc gia, nền văn minh cổ xưa không lẫn vào đâu được, đất đai, núi non, sông ngòi, đồng ruộng, biển cả đều được phân chia rõ ràng.

phong tục tập quán cũng như văn hóa của mỗi miền nam bắc cũng khác nhau. ở đây, nguyen trai nhấn mạnh rằng cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những đặc điểm riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi, tẩy xóa. cùng với đó là từng triều đại để khẳng định chủ quyền của mình. Qua câu thơ, nguyễn trai đã đặt triều đại “triệu, định, ly, bình” của ta ngang hàng với “hán, tang, tông, nhân dân tệ” của Trung Hoa, điều đó cho chúng ta thấy, không tự cao tự đại, có lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ. , không thể có một sự so sánh vô cùng hoa mỹ và tinh tế như vậy.

Cuối cùng là có tài năng, con người cũng là một yếu tố quan trọng để khẳng định sự độc lập của chính mình. Dù thời gian “mạnh yếu khác nhau”, nhưng anh hùng vẫn luôn ở đó, câu thơ như một lời cảnh báo cho những ai, những người muốn chinh phục nước Đại Việt.

Dựa vào 5 yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như đầy đủ về nền độc lập của một nước. so với tác phẩm “nam quốc sơn hà” của Ly thuong kiet thì bình thực sự hay hơn, hoàn thiện hơn, hoàn thiện hơn về nội dung và tư tưởng. Ngoài ra, để nhấn mạnh nền độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết song song của nước ta và Trung Quốc: về biên giới, phong tục: hai nước giống nhau, về các triều đại: bốn triều đại cường thịnh của chúng ta so với bốn triều đại của Trung Quốc và tài năng mà chúng tôi luôn có đã cho thấy chúng tôi không thua kém họ.

Xuyên suốt bài thơ, nguyễn trai đã sử dụng nhiều từ chỉ sự hiển nhiên cố hữu để nói lên sự tồn tại của đại việt: “trước đây”, “lâu rồi”, “chia”, “còn”. khác “đã nhân lên sức thuyết phục. Nghệ thuật thành công nhất của khổ thơ đầu – cũng như của bài văn – là hình thức văn xuôi được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là bằng chứng khẳng định nền độc lập, vượt qua các cuộc chiến tranh với phương bắc trước đây. trong lịch sử họ đều thất bại là minh chứng rõ ràng nhất:

sau đó:

Trừ khi cung điện tham lam, đó là lý do tại sao nó thất bại. hàng triệu người thích chết. Cổng Hàm bị sông Bạch Đằng Độ bắt sống chết tươi. công việc cũ đã được kiểm tra và ghi lại.

>

nguyễn trai tổng kết những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giữ gìn độc lập dân tộc. cách liệt kê, chỉ ra những dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được ghi nhận bằng những lời lẽ chân thực, hào hùng thể hiện lòng tự tôn, tự tôn dân tộc. người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của nguyễn trai đã lên một tầm cao mới bằng việc tuyên bố cụ thể, rõ ràng từng chiến công hiển hách của quân và dân ta: “cửa ải tử thần”, “non sông gấm vóc”, ”. có sự khinh bỉ và căm ghét thất bại của quân xâm lược không biết tự lượng sức mình: “lưu cung … tham công tiếc việc”, “triệu phú … như to”, toa làm, ma, tất cả. phải chết một cách thê thảm.

câu ca dao một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là nước có nền độc lập tự chủ, có tài năng và tướng giỏi không thua kém nước nào. kẻ nào muốn thôn tính hoặc xâm lược chúng ta sẽ phải lãnh kết quả thảm hại. Cuộc chiến chống kẻ thù, bảo vệ Tổ quốc là cuộc chiến vì công lý và lẽ phải chứ không phải như nhiều cuộc chiến vô nghĩa khác, chính vì vậy dù có chuyện gì xảy ra thì công lý nhất định sẽ đánh bại cái ác theo quy luật của tạo hóa.

con cáo lớn đầy cảm hứng trữ tình và có bản chất anh hùng hiếm có. trong đó, phần đầu của tác phẩm, với nghệ thuật hai năm một lần, đã đề cập đến hai nội dung chính gần như ở cuối bản báo cáo: tính nhân văn và ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam. vì vậy đoạn trích có giá trị vô cùng sâu sắc đối với đất nước ta, khẳng định dân tộc ta có tinh thần nhân nghĩa, có tinh thần độc lập tự chủ.

bài thơ giúp chúng ta hiểu về chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của ông cha ta, từ đó bồi đắp lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm, xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập, chủ quyền của đất nước.

phân tích báo cáo tuyệt vời của năm – mô hình 4

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo hay nhất (15 Mẫu)

Sau hai mươi năm của cuộc kháng chiến chống quân Minh và sau hơn mười năm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1416 – 1427), bản Đại cáo bình Ngô ra đời là một điều tất yếu. Trên phương diện hành chính quan phương, đây là một văn kiện lịch sử nhằm thông báo, tuyên bố rộng rãi về nền độc lập của dân tộc sau nhiều năm gian truân, khổ cực, “tướng sĩ một lòng”. Nhưng đây còn là một áng văn yêu nước hùng tráng, kết tinh của biết bao nhiêu trái tim yêu chuộng hòa bình của dân tộc, mà tác giả Nguyễn Trãi là người đã thổi hồn vào đó qua từng con chữ, câu văn. Mạch cảm xúc không vì thế mà khô khan, cứng nhắc như vốn có, ngược lại đầy cháy bỏng, tha thiết… để mỗi chúng ta được ôn lại truyền thống oai hùng của lịch sử đất nước.

Cáo là một chi quen thuộc, cũng như chiếu, biểu, hic, v.v., được sử dụng trong các cung điện để ban hành các sắc lệnh quan trọng vào thời điểm của vua hoặc quan trưởng. nhưng magnum opus là một tuyên bố lớn khác với ý nghĩa thông thường, theo mùa đó. bởi vì nguyễn trai đã đưa khát vọng, niềm tự hào, kiêu ngạo của nhân dân và của chính mình thành một văn kiện lịch sử để báo trước sự kiện trọng đại của dân tộc với sức sống bền bỉ, bất diệt. Tuy được viết bằng chữ Hán nhưng bản dịch hiện tại cho đến nay hầu như không có sự khác biệt lớn, vẫn giữ nguyên ý nghĩa. bố cục của báo cáo gồm bốn phần rõ ràng và thống nhất. mục 1, nêu luận điểm chính trị. đoạn 2 vạch trần tội ác của kẻ thù. phần 3, cuộc khởi nghĩa đầy gian khổ và tất yếu thắng lợi của quân và dân ta. phần 4, tuyên bố độc lập. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Trãi đã viết nên một bài chính luận xuất sắc bậc nhất và trở thành mẫu mực cho văn học chính luận Việt Nam thời trung đại.

ở phần đầu của báo cáo, tác giả viết: “hành động nhân từ là để ở trong hòa bình và bị trừng phạt trước khi quan tâm đến bạo lực

nhân nghĩa – một tư tưởng quen thuộc, dùng để chỉ cách cư xử tốt đẹp giữa con người với nhau trong quan niệm đạo đức Nho giáo. tại sao nguyễn trai lại đề cập đến nó ở đầu báo cáo? Đó không chỉ là lý tưởng đạo đức suốt đời trong sự nghiệp cống hiến cho đất nước và sáng tạo văn học của Người mà còn là những điều mới mẻ, nâng tầm ý nghĩa cao hơn cái trước. vì cốt lõi của con người thờ uc trai là bình an tâm hồn, làm cho con người có cuộc sống bình yên, hạnh phúc. thì trong hoàn cảnh không liên quan, “quân phạt” xâm lược, muốn dân chúng được bình yên, không gì khác hơn là không lo bạo loạn. nghĩa là vì lợi ích dân tộc, phải tiêu diệt những tên bạo chúa hại dân, kể cả những kẻ thù thống trị sắt đá và những kẻ bán nước vì danh lợi, vinh hoa phú quý. Trên cơ sở lấy “dân làm gốc”, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Biết trông cậy vào sức dân là một chiến lược chính trị vĩ đại đem lại những thắng lợi to lớn cho dân tộc trong mọi thời đại. Vì vậy, lòng nhân từ trong bình nói riêng và sự nghiệp văn chương, thơ phú của Nguyễn Trãi đã trở thành đạo lý dân tộc, lý tưởng xã hội sáng ngời.

Từ lập trường nhân hậu đó, tác giả đã xây dựng được cơ sở lý luận vững chắc, nêu lên luận điểm đúng đắn ngay ở phần mở đầu của báo cáo.

như đất nước Đại Việt của chúng ta trước đây … bằng chứng vẫn còn lưu lại.

Đây là đoạn văn đã khắc ghi vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm nhất của nền độc lập. lập luận so sánh đa chiều sắc bén đã khẳng định những khía cạnh cốt lõi để xác định chủ quyền của mỗi quốc gia. bỏ qua yếu tố lớn nhỏ, mạnh yếu mà xem xét, cân nhắc những điều được hay không được. văn hóa, sông núi, phong tục tập quán, lịch sử và sự hùng vĩ của đại việt ta so với đại hán, phương bắc có cả hai, thậm chí tương xứng, song song. Vẻ đẹp mà Nguyễn Trãi mang lại không chỉ khẳng định nền độc lập dân tộc mà còn thể hiện quá trình để sức sống độc lập ấy tồn tại một cách mãnh liệt. chỉ là một đoạn văn nhỏ cho thấy toàn bộ lịch sử năm trăm năm, với sáu lần đánh tan quân thù. không gì có thể tự hào hơn, không gì có thể thay đổi được chân lý đó. những chứng tích lịch sử năm xưa lại càng “khóa chặt” cơ sở lý luận về độc lập dân tộc, về lẽ phải trong cuộc trường chinh bảo vệ Tổ quốc của vị vua quá cố và bản thân tôi.

chủ quyền quốc gia độc lập nên nếu ai vi phạm là mang tội nặng. quân giặc bán nước cầu vinh thời bấy giờ:

Thật tàn nhẫn thay tre nam son không viết hết tội bẩn thay nước đông hải không khử mùi hôi

Tại sao người cố vấn ngay chính của le loi lại cương quyết như vậy về tội ác của mình? Nguyễn Trãi đã dày công viết cả một đoạn văn, có lẽ đẫm nước mắt, của lòng căm thù sôi sục dồn nén bấy lâu nay. từ âm mưu thâm độc xâm lược họ Hồ, vấn nạn / cơ hội gây hại, lợi dụng tình hình đất nước rối ren do hồ gây ra, chúng đưa ra những lý lẽ xảo quyệt để phá hoại họ Hồ, hòng lừa đảo đất nước. Mọi người. đến những hành động xâm lược, bóc lột tàn bạo, man rợ khôn lường. Dưới góc nhìn của Nguyễn Trãi, qua lăng kính tư tưởng nhân nghĩa, an dân, tội ác không thể chấp nhận của ông là lừa trời, lừa dân. do đó, lối viết cường điệu, ngôn ngữ tượng hình và giọng điệu đanh thép đã cho phép ông phơi bày bộ mặt man rợ, trơ trẽn của bọn cướp. thật đau đớn, tê tái khi nhớ lại:

hét lên những người da đen trong ngọn lửa dữ dội, chôn vùi những đứa trẻ da đỏ xuống hố thảm họa

Điều đáng sợ của kẻ thù là ngay cả những đứa trẻ da đen và đỏ cũng không tha cho chúng. hai động từ nướng, để chôn, mô tả một cách rùng rợn về cuộc tàn sát của anh ta. nhưng không những thế, chúng còn quấy rối người dân, chúng bẫy hươu đen, bẫy đến đâu chúng bắt người xuống biển mò ngọc, lên núi tìm vàng. Biết bao người dân vô tội đã phải bỏ mạng vì cá mập, vì bệnh tật trong rừng sâu nước độc. cảnh ngộ của những đứa trẻ thay cho những góa phụ nghèo chỉ là một trong rất nhiều nỗi đau khổ của những người tốt để lại. về kinh tế, họ cũng đẩy đất nước vào cảnh nghèo đói. đánh thuế nặng để khai thác, cướp bóc tài nguyên, khoáng sản, phá cả trồng lúa, dệt vải… ngay cả sâu bọ, cây cối cũng không tha. các từ place, place and place chỉ một không gian rộng lớn và gây ra những cuộc chiến tranh và mối hận kéo dài trong hai mươi năm để chỉ một thời gian dài sẽ hủy diệt nhân loại và hủy diệt toàn bộ thế giới. tội ác của hắn thực sự không thể tha thứ cho trời đất, thần thánh và con người. lời tố cáo dường như thấm đẫm máu và nước mắt của nhân dân mà nguyễn trai đã tổng kết. mỗi chữ, mỗi câu đều chất chứa nỗi buồn và sự tức giận. những bằng chứng về tội ác đó là lời tố cáo mạnh mẽ nhất, là sự kiện lịch sử xác đáng nhất để chứng minh rằng việc diệt trừ bạo tàn, bạo ngược, dối trá của nhân dân ta là một hành động chính nghĩa của kẻ thù. người thực hiện sứ mệnh.

Trước kẻ thù nguy hiểm và thâm độc như vậy, việc diệt trừ bạo tàn không hề đơn giản. Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi cho chúng ta thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn còn sơ khai. và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là hình ảnh thủ lĩnh của tướng quân le loi:

đó là tôi:

núi lam sơn sinh ra nghĩa, là chốn nương thân.

cách nói gần gũi ta, xuất thân núi rừng hoang vu, cũng từ nhân dân mà ra, hắn bảo vệ bác ái. vị lãnh tụ mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc, thề không đội trời chung, thề không sống chung với bao nỗi lo toan, xót xa, xót xa, quên ăn vì giận, run và lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những tháng ngày nếm mật nằm gai, thấu hiểu nỗi cơ cực của cuộc đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn lúc đầu hoàn toàn yếu thế. đúng vào thời điểm khởi nghĩa là lúc giặc mạnh, nhân tài của ta khan hiếm, ngay cả lực lượng chi viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu, tiếp tế lương thực cũng khan hiếm, khó khăn. Vậy điều gì giúp bạn và đối tác của bạn chiến thắng? không phải là:

tấm lòng cứu nước, còn muốn nặng lòng hướng đông; xe của những tấm lòng nhân ái, thường xuyên hỗ trợ, vẫn được để bên trái.

Vị tướng nhận được vận mệnh lớn lao mà ông trời ban tặng, biết vượt qua nghịch cảnh cũng tìm được con đường chiến đấu. vì vậy mới có tinh thần đoàn kết giữa nhân dân bốn phương một nhà, tướng sĩ đều một lòng một dạ phụ tử; chúng ta có kế hoạch đánh kẻ mạnh đánh kẻ yếu, đánh ít hơn kẻ thù, và trên hết, chúng ta có chính nghĩa và nhân dân cao cả:

hoàn toàn ổn:

<3

Đó là lý do tại sao mỗi ngày mỗi ngày, lực lượng kháng chiến càng mạnh lên, chớp thời cơ, quân ta mở các chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.

Trong phạm vi phóng sự có hạn, nhưng bằng sự tài tình khéo léo của mình, nguyễn trai đã tái hiện chân thực nhiều góc độ, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra toàn cảnh chiến trường. . Trước hết là những trận chiến liên tiếp và kéo dài bao trùm khắp các vùng miền. chiến dịch bắt đầu bằng trận bo đăng, xứ chè xứ nghệ, tiếp tục tiến về phía tây xứ thanh, sau đó tiến thẳng vào đồng làm với hai trận ninh kiều và thiện đồng, bảo vệ thành công thành dài. . “cậu bé khai đức” là vị vua của triều đại Ming lúc bấy giờ phải điều quân đến giúp nhưng nghĩa quân lam sơn đã chặn đứng viện binh bằng những trận đánh liên tiếp dũng mãnh:

Tham khảo: Một Số Mở Bài Hay Cho Truyện Kiều

ngày mười tám, trận chi lang, thất bại liễu, ngày hai mươi, trận yên, đầu liễu, ngày hai mươi lăm, tử tính lượng minh, ngày hai mươi tám, trưởng. thư ký tòa án tự mình là người thừa kế.

có thể nói, trong một đoạn văn dài, người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như sấm chớp, tre non bay, tre non bay, đánh nhau lâu rồi lao về phía trước, giữ lấy. sự thúc đẩy:

chiến đấu một trận sạch sẽ mà không có bất ngờ chiến đấu với hai trận chiến tàn khốc

Tinh thần quật cường, quyết chiến, quyết thắng anh dũng của vị tướng:

– nhuệ khí trở nên mạnh mẽ, khí phách hiên ngang- quân tử giỏi kén rể, tôi tớ chọn kẻ mài ngà mài đá, đá núi mòn, voi uống nước, sông phải cạn kiệt

Chúng tôi ở thế chủ động tấn công, xâm nhập toàn bộ trận địa. từ không khí đến khung cảnh đều để lại nhiều ấn tượng:

khủng khiếp, màu sắc của gió phải thay đổi, sự tàn phá của mặt trời và mặt trăng phải mờ. nhìn lại từ khi bắt đầu bước vào thang máy, đó là một điều kỳ diệu, một sức mạnh phi thường.

nhưng quá trình tường thuật cuộc khởi nghĩa không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta mà còn miêu tả một cách sinh động và chân thực về thất bại của kẻ thù. chỉ cần nghĩ đến cảnh lang giang, xác lang nằm đầy đường / xương cốt, chậu than, máu chảy đỏ lòm trên đất nước ta không khỏi khiếp sợ. nếu ta chủ động, địch sẽ rơi vào thế bị động, mất thế trận. chứng liên tục loại trừ hiểm nguy, cứu trận, đầu hàng chờ đánh bại, sức lực kiệt quệ … kẻ thù, cả tướng và binh đều suy sụp tinh thần, mất ý chí nghe tiếng thở mà mất hồn, cầm cự. thở và nín thở. tìm cách trốn thoát, những kẻ lộ đầu, những kẻ chết, những kẻ bại trận và chết, và những người thừa kế của họ… thất bại ê chề, nhục nhã đó là kết quả tất yếu của họ.

tuy nhiên, tuyến nhân văn mà nguyen trai – le loi vẽ ra từ đầu luôn rõ ràng. ta thắng nhưng ta biết dừng, không dồn địch vào thế khốn cùng mà ngược lại ta còn mở đường cho hắn một cuộc đời, cũng là để cho muôn dân được nghỉ ngơi, tiếp thêm sức mạnh. Tôi đã cho họ thuyền và ngựa để trở về. do đó, chiến thắng của chúng ta là chiến thắng của tinh thần hiệp sĩ, nhân từ và nhân đạo. Vì vậy, kẻ thù tuy bị đánh bại, nhưng vẫn đầu hàng, sẵn sàng cởi áo giáp, trói tay van xin hàng phục, quỳ gối xin lỗi, như hổ đói vẫy đuôi van xin sự sống, nó đã đến. trở lại sân, nhưng tim tôi vẫn đập và chân tôi run rẩy.

Giọng văn quyết liệt, sôi nổi, ngôn ngữ giàu hình ảnh, lối viết tương phản, đậm chất sử thi, Đại cáo bình dị đã làm sống lại những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. lòng kiêu hãnh, tự hào không chỉ ở những chiến công, mà còn ở sức mạnh toàn dân, quyết một lòng làm nên chiến thắng vẻ vang.

Từ sáng đến cuối, giọng văn có phần thoải mái, mang lại không khí vui tươi khi đề cập đến chủ đề quan trọng nhất, đó là độc lập, hòa bình.

giao tiếp bền vững từ đây

mọi người đều tốt

để từ nay chấm dứt cảnh tàn khốc, khốc liệt, không còn những ngày tháng tăm tối, đau thương dưới ách đô hộ của kẻ thù. bản tuyên ngôn độc lập như vang lên đầy tự hào, mang lại niềm vui, niềm tự hào cho hàng triệu người dân. khao khát bấy lâu nay, cả non sông rạng rỡ, ngay cả mặt trời, mặt trăng, vũ trụ cũng sáng ngời. Từ nay, dân tộc có thể tự hào ngẩng cao đầu hướng tới một ngày mai tươi sáng, kỷ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.

600 năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi xa nhưng cây ngô Đại Bình vẫn căng tràn nhựa sống như thuở ban đầu. văn kiện lịch sử có ý nghĩa tư tưởng to lớn, bản tổng kết xuất sắc về lịch sử nước nhà, cũng là tác phẩm văn học tiêu biểu từ ngòi bút của danh thần Nguyễn Trãi. tác phẩm là nguồn cảm hứng vô tận cho các thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, ý chí chiến đấu bảo vệ và xây dựng đất nước.

Phân tích hũ ngô cao – mẫu 5

nguyễn trai là một danh nhân văn hóa thế giới, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác to lớn. Bên cạnh những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật còn có những tác phẩm giàu tính chiến đấu, và một trong những tác phẩm đó không thể không kể đến chiếc bình ngô đồng. Vở kịch là sự tổng kết về cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian khổ và anh dũng của dân tộc.

Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng vẻ vang, tiêu diệt viện binh của địch. Lúc bấy giờ, vường thống đã rào ở thành Đông Quan để chờ hai đạo quân tăng viện do hai tướng giỏi là tướng thăng và văn thanh chỉ huy, nhưng hai đạo quân này đã bị quân ta chặn đánh, xin hàng và rút quân. đến vùng quê, đất nước. Nguyễn Trãi vâng lệnh chúa công viết bài “Đại cáo bình thiên hạ” để báo cho toàn dân biết việc dẹp giặc Ngô. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của quốc gia, được ban hành vào đầu năm 1428.

trong phần đầu của tác phẩm, nguyễn trai đã nêu ra luận điểm chính đáng: nhân nghĩa cốt ở yên / Quân tử phạt bạo. lòng nhân đạo được hiểu là tình yêu thương con người. nhưng với nguyễn trai, tình yêu đó phải được thể hiện bằng những hành động cụ thể: “dĩ hòa vi quý”, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, nhưng trên hết là trừng trị kẻ có tội, kẻ xâm lược. vì vậy, lòng nhân đạo của ông xuất phát từ lòng yêu thương con người, mong muốn con người có cuộc sống bình yên. đây là tư duy tiến bộ của nguyen trai, và cũng là lần đầu tiên người có vị trí quan trọng xuất hiện trong một văn bản có tầm quan trọng lớn.

Trong phần tiếp theo, ông đưa ra năm yếu tố cơ bản để khẳng định sự tồn tại có chủ quyền của Đại Việt. nền độc lập của chúng ta dựa trên: giới hạn lãnh thổ, phong tục, tập quán, truyền thống lịch sử và chủ quyền của chính mình mà “bên này xưng là bên kia”. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. đây là một bước tiến lớn so với buổi tuyên ngôn độc lập đầu tiên: nam quốc sơn hà.

sau khi nêu luận điểm đúng đắn, với giọng văn mạnh mẽ, nguyễn trai đã vạch trần tội ác của kẻ thù. để tố cáo tội ác của mình, ông lập quốc, dùng ngôn ngữ rất chính xác: nhân nghĩa, nhân cơ hội thể hiện sự nhại lại của kẻ thù: phu nhân diệt hồ. không những thế, Người còn nhân nghĩa để tố cáo tội ác của kẻ thù khi thống trị nhân dân ta. chúng hủy hoại cuộc sống của nhân dân bằng những hành động hết sức man rợ: rang người da đen trong ngọn lửa dữ dội / chôn vùi những đứa trẻ da đỏ xuống hố thảm họa. không những thế, chúng còn phá hủy môi trường sống của muôn loài cây cỏ; chính sách tài khóa mạnh mẽ, cướp bóc tất cả sản vật của nước ta, phá hoại côn trùng và thực vật, phá hủy cách sống của muôn loài. chúng dùng dân ta làm công cụ phục vụ chúng: một số bị bắt xuống biển mò ngọc, một số khác bị đưa lên núi tìm vàng, tội ác của chúng thấu đất, vang tận trời xanh, không thể dung thứ được: trời ơi đất hỡi. trái đất tha thứ / ai nói các vị thần có thể lấy nó. câu hỏi như một lời cảnh báo, cũng thể hiện sự đau xót của tác giả đối với bi kịch mà thị phải gánh chịu. Bằng những hình ảnh tương phản, giàu giá trị gợi cảm, tác giả đã tố cáo tội ác của kẻ thù một cách hùng tráng nhất.

Sau những lời lẽ đau thương nhưng cũng đầy sức mạnh, Nguyễn Trãi tiếp tục kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất yếu thắng lợi của quân và dân ta. Trong những ngày đầu khởi nghĩa, tình hình quân ta rất khó khăn, quân địch đông nhất, quân ta đẹp như ban mai / tài hoa như lá mùa thu. mối quan hệ đó khiến việc nâng đỡ thậm chí còn khó khăn hơn. nhưng dưới sự lãnh đạo của anh hùng liệt sỹ, quân ta đã giành thắng lợi trọn vẹn. le loi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc: nghĩ đến kẻ thù lớn, căm thù giặc, ông thề không đội trời chung, mang trong mình một ý chí quyết tâm cao độ để tiêu diệt quân xâm lược, đem lại bình yên cho nhân dân. ông không chỉ coi trọng người tài, mà còn coi trọng vai trò của con người: dân tứ xứ, một nhà, dựng lên ngọn tre, ngọn cờ phất phơ. tất cả những người nhỏ bé khiêm tốn tụ tập dưới biểu ngữ của louis. đây là lần đầu tiên mọi người được đặt ở vị trí trang trọng như vậy. điều đó đã tạo nên sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc. chính sự đoàn kết đó đã đem lại thắng lợi này đến thắng lợi khác cho nhân dân ta: đánh một trận, quét sạch bất ngờ / đánh hai trận, chim bay tán loạn / gió to thổi bay lá khô / thông reo vỡ đập.

lời tuyên bố chiến thắng mở ra kỷ nguyên độc lập của dân tộc thật đậm đà và đầy tự hào: xã hội từ nay đã ổn định / Đất nước đổi mới từ đó, nước ta bước vào thời kỳ độc lập. chủ nhân, thịnh vượng dưới triều đại mới. đồng thời cũng rút ra những bài học lịch sử: khôn thì thái, thái, trăng thì đền, để khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới của dân tộc sau bao hoạn nạn. đồng thời nhận định, thắng lợi của chúng ta là nhờ có sự kết hợp giữa sức mạnh thời đại và sức mạnh truyền thống dân tộc – âu cũng là nhờ sự giúp đỡ tiềm ẩn của tổ tiên trời đất.

Văn bản là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và văn học. kết cấu bài văn chặt chẽ, lập luận vô cùng sắc bén, lời lẽ đanh thép, tố cáo tội ác của kẻ thù, nói lên sự hùng hồn, độ lượng trước những việc làm của nhân dân ta. nhưng bên cạnh đó cũng đầy chất văn học nghệ thuật với những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, giàu giá trị hình ảnh, làm xao xuyến lòng người đọc.

Vở kịch là một bài hát ca ngợi cuộc khởi nghĩa thần kỳ của Lam Sơn đã đặt dấu chấm hết cho giặc ngoại xâm. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ, rõ ràng tội ác của kẻ thù đối với nhân dân ta. hơn nữa, đại cao bình ngoại còn là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, xứng đáng là huyền thoại anh hùng bất hủ của muôn đời.

phân tích hũ ngô cao – mẫu 6

Nguyên trai (1380-1942), biệt hiệu là Ức trai, là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài năng, đã tích cực tham gia và có nhiều đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân đội, được phong quân sư. Với những công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nguyễn Trãi đã trở thành công thần khai quốc đầu tiên của triều Lê sau này. tuy nhiên, việc tham gia sâu vào chính trị và những đóng góp to lớn đã khiến anh trở thành cái gai trong mắt của nhiều thế lực chống đối, để rồi cuối cùng, anh và gia đình bị kết án tử hình trong Tam tộc (Bi kịch gia tộc), khiến mọi người cảm thấy đau đớn và nỗi buồn. Ngoài là một nhà chính trị, quân sự tài ba, Nguyễn Trãi còn được biết đến là một nhà văn chính luận kiệt xuất, với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng mỗi bài báo đều để lại ấn tượng khó phai mờ, trong đó có hai tác phẩm tiêu biểu là Quan Trung Tứ mệnh và Bình . ngo dai cao. là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, nhưng theo cách nói của Trần Đình huý “về hệ thống, tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi vẫn là Nho gia, nhưng là một nhà Nho phóng khoáng, trí tuệ rộng rãi, không cấu trúc nên không những gần gũi mà còn giàu có, cao sang. hơn hẳn lối sống của dân tộc trước đây “. Có thể thấy, tư tưởng của nguyễn trai bao gồm ba điểm chính: thứ nhất là tư tưởng nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phục vụ mệnh lệnh của trời và cuối cùng là tư tưởng về nhân dân, là tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với các danh nhân, liệt sĩ cùng thời, và có thể thấy rõ hệ thống tư tưởng này trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Người là Bình ngô đại cáo. tuyên ngôn độc lập thứ hai của quốc gia sau nam quốc sơn hà.

XEM THÊM:  ý nghĩa của tác phẩm vào phủ chúa trịnh

pan ngo dai cao “được sáng tác vào cuối năm 1427, khi nghĩa quân lam sơn chiến thắng vẻ vang, tiêu diệt 150.000 quân tiếp viện của quân xâm lược do Liêu thang và moc thanh. Nguyễn Trãi vâng lệnh Lê Lỗ viết lời báo công dẹp giặc, đồng thời cũng là tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra triều đại mới, Vương triều hậu Lê thịnh vượng, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do cho dân tộc.binh ngo dai cao được đọc vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa của danh hiệu “chảo ngo đại cao”, có thể giải thích ở đây rằng vua nhà minh là người ở xứ ngô nên khi nói “bánh ngô” thì chúng ta sẽ hiểu đó là một người bình thường đã quyết định xâm lược. Hay một cách hiểu khác, ngày xưa Trong p Vào thời tam quốc, nước ngô là nước cai trị đất nước ta một cách tàn ác và vô nhân đạo, cái tên “ngô chiến” hay còn gọi là “nước ngô” đã trở thành một từ khóa ám ảnh người dân ta. từ bao đời nay, nên nói đến giặc ngô đồng nghĩa với kẻ xâm lược tàn bạo, độc ác. “đại cáo” có nghĩa là phóng sự lớn, ở đây nguyễn trai muốn khẳng định đạo lý lớn của dân tộc “đem chính nghĩa lớn lao khắc phục hung tàn / dùng nhân ái thay bạo lực” là sợi chỉ chung xuyên suốt tác phẩm. thứ hai, “đại cáo” này còn gắn liền với thể loại văn bản triều đại đương thời, có ý nghĩa pháp lý, tác giả muốn khẳng định đây cũng là văn bản pháp luật đại việt, có giá trị, tức là tương đương với văn bản pháp luật từ Vương triều nhà Minh, khẳng định nền độc lập của dân tộc.

ở phần đầu của báo cáo, nguyễn trai đã nêu ra những luận điểm công bằng với mục đích làm cơ sở và căn cứ xác đáng để hiển thị toàn bộ nội dung của báo cáo.

“Công việc của lòng nhân từ bao gồm việc giữ hòa bình cho dân chúng, quân tử bị trừng trị trước tiên để dẹp bỏ bạo lực; như trước nước ta đại việt xưng hùng xưng bá đã lâu, núi sông chia cắt, phong tục nam bắc cũng khác nhau; từ triệu, dinh, ly, tran bao đời nay xây dựng căn cứ địa độc lập với han, tang, tông, mỗi bên anh hùng một đạo riêng; tuy mạnh yếu có lúc khác nhau nhưng những thiên tài anh hùng vẫn luôn ở đó

do đó: lưu cung tham lam việc công nên thất bại; hàng triệu quyền lợi lớn phải diệt vong; cửa hàm bắt sống con sông bạch đăng làm chết cổ công o ma, chứng tích còn ghi ”

trước hết, nguyễn trai nêu lên ý tưởng về lòng nhân từ thể hiện ở việc yêu thương con người, được thể hiện qua những việc làm cụ thể trong đó là “dĩ hòa vi quý” tức là người đứng đầu. đất nước cần có trách nhiệm bảo vệ cuộc sống bình yên và ấm no của nhân dân. đi theo bảo vệ cuộc sống yên bình đó, “quân tử trừng trị trước bạo tàn”, vốn là một dẫn xuất từ ​​điển tích cổ, ngụ ý rằng muốn “yên dân” thì phải diệt trừ tham lam, tàn bạo, những thế lực phá bĩnh. sự bình yên của nhân dân. ở đó nhìn từ quan điểm mới, tiến bộ của nguyễn trai: “nhân nghĩa” là gắn với yêu nhân dân, yêu hoà bình, yêu nước sâu sắc. Luận điểm thứ hai mà Nguyễn Trãi đề cập là sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt ta từ bao đời nay, được tác giả khẳng định là chân lý khách quan qua năm yếu tố cơ bản để chứng minh cho luận điểm của mình. trong đó có nền văn hóa độc lập đã có từ lâu đời “xưng hùng xưng bá”, có cả lãnh thổ riêng, “núi sông chia cắt”, rồi về văn hóa chúng ta cũng có những phong tục tập quán riêng. . mua khi “phong tục nam bắc cũng khác nhau”. Xét về lịch sử, nếu phương Bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì nước Đại Việt của chúng ta cũng không kém gì các triều đại Đinh, Lý, Trần đã nhiều lần giành độc lập. Truyền thống lịch sử đặc biệt này còn được cụ thể hóa trong câu thơ “tuy mạnh yếu khác nhau / nhưng thời đại nào cũng có anh hùng”, nêu rõ ở đời nào, triều đại nào chúng ta cũng có những anh hùng nổi tiếng trong sử sách, hiển hách. những việc làm để bảo vệ nền độc lập dân tộc của ta, gây cho kẻ thù nhiều thất bại và tang thương. đó là lý do tại sao có những câu như “lưu cung tham lam, thất bại; triệu đam mê lớn phải diệt vong; tử tù bắt xe làm chết; bệt sông giết o ma”, đó là những bằng chứng, sự thật không thể chối cãi, in trên từng trang sách lịch sử bao đời nay của nước ta. Và cuối cùng kết lại những yếu tố trên là sự khẳng định độc lập chủ quyền của riêng dân tộc trong bài thơ “Mỗi bên xưng đế, mỗi phương” thể hiện phong thái tự tin, mạnh mẽ và ý thức tự cường dân tộc của nhà Nguyễn. Quốc gia. rằng vua phương nam chỉ tự xưng là “hoàng đế” chứ không phải là “vương” theo cách coi thường, khinh bỉ của nước phương bắc, coi ta là nước chư hầu, lệ thuộc vào “quận” của mình. Như chúng ta thấy rõ qua bài cáo này, Nguyễn Trãi đã phủ nhận hoàn toàn quan điểm ngạo mạn đó, khẳng định sự chia cắt giữa hai dân tộc trên tất cả các lĩnh vực địa lý, lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán và chủ quyền lãnh thổ, tạo nên một hệ thống lý luận, một cơ sở vững chắc. cho sự phát triển của các luận văn sau. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã rất tinh tế trong việc xây dựng khái niệm quốc gia – nhà nước dựa trên 5 yếu tố trên, đây là một bước tiến lớn, hoàn thiện định nghĩa về Tổ quốc so với thời tuyên ngôn độc lập. nó chỉ bao gồm hai yếu tố lãnh thổ và chủ quyền, cho thấy tài năng lý luận và bề dày tư tưởng của một tài năng kiệt xuất đi trước thời đại. Ngoài ra, ngoài nội dung chính của luận điểm, sức thuyết phục của quan điểm trên còn nằm ở cách tác giả Nguyễn Trãi sử dụng các từ như: trước, lâu, chia, cũng khác. nhưng tất cả những từ này đều thuộc cùng một lĩnh vực khẳng định sự thật hiển nhiên, cố hữu và cổ xưa của sự thật mà tác giả đã tuyên bố.

Sau khi trình bày hai luận điểm vừa nêu, Nguyễn Trãi đã vạch ra tội ác của kẻ thù đối với nhân dân ta. tác giả đã đứng ở hai vị trí là vị thế của dân tộc và vị thế của con người để tố cáo tội ác của kẻ thù. Trước hết, về lập trường dân tộc, ông đã tố cáo và nhận rõ âm mưu cướp nước của kẻ thù thông minh qua những câu thơ sau:

“Gần đây: dân lo việc nước, nên trong nước, lòng dân phẫn uất, kẻ điên nhân cơ hội hãm hại kẻ ác, bán nước cầu vinh”

dùng các từ “nhân dân”, “nổ” để vạch trần âm mưu lừa bịp của triều đình là kéo quân vào nước ta với danh nghĩa “diệt giang hồ”, nhưng thực chất là nhân cơ hội xâm lược Đại Việt. dựa vào việc ho quy ly lên ngôi không danh chính ngôn thuận, không được lòng thiên hạ, hòng được sự ủng hộ của thiên hạ đại việt để thực hiện kế hoạch bẩn thỉu mà họ đã ấp ủ bấy lâu nay.

với tư thế nhân văn, nhân hậu, đứng về quyền sống của nhân dân để tố cáo chế độ phản nhân đạo của kẻ thù. thứ nhất là kẻ thù hủy diệt cuộc sống của nhân dân bằng một chế độ diệt chủng vô cùng tàn bạo, man rợ “rang người da đen trong lửa dữ / vùi con đỏ xuống hố tai họa”. tội thứ hai là phá hoại môi trường sống của người dân đại việt “thuế nặng, trong sạch, không núi non / sâu hại cây cỏ”, thuế cao đã đẩy người dân vào con đường bị cưỡng bức làm cạn kiệt tài nguyên của đất nước, gây nên sự hủy diệt lớn lao. đối với các loài tự nhiên, cắt đứt đường sống của vạn vật. tội thứ ba của hắn là dùng con người như một công cụ nói chuyện để cướp bóc hàng hóa, một công cụ phục vụ cho lòng tham không đáy của hắn “mà hắn buộc phải xuống biển tìm ngọc trai, khoan thay cho cá mập, được đưa lên núi tìm kiếm. của vàng mà khốn nạn rừng sâu nước độc! nay xây nhà, mai đắp đất, cành nào phục vụ cho phù hợp? vô cùng độc ác và tàn bạo. ách thống trị tàn bạo của quân xâm lược đã khiến những người dân vô tội đi đến cơ cực, bị hủy hoại đường sống và đặt dân tộc ta vào thế hiểm nghèo khi phải đối mặt với cảnh “rừng thiêng nước độc” với “cá mập mềm”. chưa kể cuộc sống êm đềm bấy lâu nay cũng tan vỡ khi “nát cả nghề làm ruộng”, gia đình đang hạnh phúc bỗng chốc mất đi người chồng, người cha “bé thay vì góa bụa nghèo khó”. tàn nhẫn đến mức “tre nam không ghi hết tội”, cái thứ rác rưởi bẩn thỉu này, dù có dùng nước đông hải thì cũng vĩnh viễn bẩn thỉu. Nguyễn Trãi viết: “Trời đất làm sao tha cho được? ai bảo nhân dân chịu nổi? “. Đó là sự căm giận trước sự cai trị tàn bạo của kẻ thù, đồng thời cũng là tấm lòng đầy đau xót trước những đau thương mà nhân dân ta đã phải chịu đựng trong mấy chục năm gần đây. Viết bài tố cáo ở đoạn văn này, ta thấy rõ việc sử dụng nghệ thuật tương phản giữa quân dân ta và quân thù, nhằm nhấn mạnh và khắc sâu thêm nỗi đau của nhân dân và tội ác man rợ của kẻ thù. Ngoài ra, nguyễn trai còn sử dụng những hình ảnh phong phú. ở giá trị biểu cảm, giàu sức gợi như “tre nam sơn”, “đồng hải”, dùng cái vô cùng, cái cực để miêu tả vô cùng trước tội ác của kẻ thù, đôi khi giọng điệu xót xa, đau xót, xót xa khi kể về cảnh ngộ của nhân dân, nhưng cũng có lúc đanh thép, hùng hồn để buộc tội kẻ thù “há mồm, nhe răng ra, đầy máu mỡ” chán chê / trời đất có tha ai nói người ta chịu. rlo? ”. Đó là lời lên án kẻ thù, một lời ngỏ, một lời nói để gửi gắm lòng căm thù đối với đối tượng đã gây ra bao đau thương cho dân tộc, giống nòi.

Tiếp tục làm sáng tỏ chân lý trong thực tiễn, Nguyễn Trãi đã nói về tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa lam sơn, kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và niềm tin rằng cuộc khởi nghĩa sẽ thắng lợi. Trong chặng đầu “vạn sự khởi đầu nan” của Tể tướng Lê Lợi gặp muôn vàn khó khăn, đầu tiên Nguyễn Trãi đã tái hiện lại mối quan hệ giữa ta và địch. Về phía kẻ thù, khi ngọn cờ khởi nghĩa của ta được giương cao cũng là lúc “thế giặc mạnh”, kẻ thù lợi dụng thói “ngang ngược” để tung hoành, phô trương thanh thế để đàn áp nhân dân. . . mặt khác, từ phía chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại “tài như sao mai, tài như lá thu”, vốn đã thiếu người, lại thiếu sức mạnh, hơn hết là những người phụ nữ có tài mới vực dậy được. để giúp đỡ những người giúp đỡ, trên đường chạy, thảo luận về chiến lược chống lại kẻ thù. “Người trông ngày càng vắng, bóng tối như đại dương” người thì mất tích, lực lượng mỏng, con đường khởi nghĩa còn quá mông lung, vì so với địch thực, lực lượng của ta không thể cầm cự được bao lâu. một vấn đề đáng lo ngại nữa là ngoài thiếu nhân lực, chúng ta còn thiếu vật chất “thủy vận khó khăn / núi non trùng điệp kéo dài mấy tuần / bộ đội huyện không có trang bị”, thiếu lương thực, vũ khí và thiếu nguồn tiếp tế, tình hình kinh tế khiến nghĩa quân nhiều lần phải chống trả, khó giữ vững nhuệ khí. Có thể thấy rõ tương quan thế lực giữa ta và địch hoàn toàn khác hẳn thế yếu thuộc về nghĩa quân Lam Sơn. Và để vượt qua tất cả những khó khăn trên, lật ngược thế cờ để giành được thắng lợi lừng lẫy trước kẻ thù phải kể đến yếu tố tiên quyết đó là sự lãnh đạo tài tình của người lãnh đạo nghĩa quân – le loi. le loi có đầy đủ các yếu tố của một vị lãnh tụ vĩ đại: có lòng căm thù giặc sâu sắc, có quyết tâm cao độ trong việc thực hiện lý tưởng cao cả là khôi phục đất nước và độc lập dân tộc. Tôi đau đầu nhức óc suốt mười mấy năm trời … chỉ trăn trở về một vấn đề. . “ông cũng là người biết trọng hiền tài” cỗ xe khôn thường lo mặt trái “, biết quý trọng vai trò của con người, biết tập hợp sức người, đó là điều kiện tiên quyết để quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Ngoài ra le loi còn có khả năng thu phục lòng dân tạo nên tình đoàn kết bền chặt trong toàn quân, binh lính từ trên xuống dưới một lòng đánh giặc. ” một nhà, tre dựng ngọn cờ sóng / Tình cha nghĩa quân, hòa cùng nước sông chén rượu ngọt ”. Cuối cùng, một yếu tố không thể thiếu ở một thủ lĩnh đó chính là tài mưu lược và tài thao lược của quân đội le loi “ưu thế trận mạc, dùng yếu đánh mạnh / dùng quân mai phục, lấy ít địch càng nhiều”.

Sau giai đoạn đầu khó khăn của cuộc khởi nghĩa, nhưng với vai trò chủ đạo được nêu cao, nghĩa quân bắt đầu bước vào cuộc phản công mạnh mẽ để giành thắng lợi. Trong giai đoạn đầu, quân ta tấn công vào các vị trí khác nhau của địch, khiến chúng kiệt quệ và phải cầu viện, khác với giai đoạn đầu, nghĩa quân đã liên tiếp giành được những chiến công vang dội, và quân địch nhận hàng loạt thất bại vô cùng nhục nhã. . bên ta thì “trận bo đăng sấm chớp / Vùng chè tre chẻ tro / nhuệ khí đã được củng cố / nghĩa quân càng thêm mạnh”, còn kẻ thù hèn nhát thì chỉ lấy được nước ”trần tri, sơn hà, song thất khí. . “thiên lý / ly an, hướng chính, nín thở tìm đường thoát thân.” Quân ta liên tục chiếm lại các đồn lũy, vùng đất đã rơi vào tay giặc như: Tây kinh, đông đô, thiện đồng, ninh kiều, khiến địch quân thua hụt hơi, còn bên địch thì ai cũng nhận trận thua, giặc giã, “máu chảy thành sông”, “xác đầy nội tạng”, tướng phủ đầu, con chết trận, vua còn anh em tuy cố gắng cứu sống nhưng kết quả buộc phải “bó tay mong nhận được thất bại của quân thù. khôn cùng kiệt “. Cuối cùng, những gì những kẻ chủ mưu nhận lại là nỗi nhục nhã của hàng nghìn người sau khi” ham danh lợi một thời, cười nhạo thiên hạ “. Tóm lại, kẻ thù đã xuất hiện với rất bại trận, nhục nhã, trong khi quân dân ta là vinh quang chiến thắng sáng ngời với tư tưởng nhân nghĩa “vì một lát làm việc, cười cho cả thiên hạ” không đánh mà dân khổ, ta đây để trừng trị. trái tim ”, làm nên chiến thắng rất đáng trân trọng.

Đến giai đoạn thứ hai, sau khi quân địch thất bại thảm hại, chúng vẫn ngoan cố không chịu rút về nước, thay vào đó chúng cử thêm quân tiếp viện do hai tướng soái thanh và liêu thang. chúng điều hai đạo quân vào nước ta tiêu diệt nghĩa quân, giành lại thế chủ động. Lúc này, nghĩa quân ta tiếp tục quá trình kháng chiến, tiếp tục khí thế của giai đoạn đầu đánh chặn địch ở vùng biên giới, phá tan âm mưu thâm độc của chúng. nhưng cuối cùng, trước khi đồn “chặt đứt quân tiên phong”, “cạn kiệt nguồn lương thực”, “ta sẽ dùng đao để tiêu diệt… thêm quân tứ phía bao vây thành / hẹn đến giữa tháng 10 mới tiêu diệt được. kẻ thù / binh đao. “khéo chọn dũng / tôi tớ chọn nanh” nên cái mà kẻ thù nhận lại chỉ là tai họa hơn người chứ không phải thảm khốc nhất, “chi mau chiến, liễu thang mất vị”, “ghế chiến cưỡi, liễu thang thất thần ”, lương minh chết, ba khanh định tự tử, sĩ khí vốn đã sa sút nay càng điên cuồng chém giết lẫn nhau, ta chưa đánh mà giặc đã nổi dậy, nghĩa quân. của moc thanh giẫm đạp nhau để thoát thân, thảm thương vô cùng, nhưng với tư tưởng nhân từ mọi lúc, chẳng những không bắt bớ, tiêu diệt, mà “thần thánh không giết hại, nhân tâm mở lối. lòng hiếu thảo”. rút về nước với tinh thần thành kính, đồng thời để quân dân nghỉ ngơi dưỡng sức khôi phục đất nước sau chiến tranh. nghệ thuật chủ đạo trong toàn bộ đoạn văn kể về hai giai đoạn chống giặc của quân ta là lối viết sử thi miêu tả bằng những hình ảnh lớn, thể hiện sự kì vĩ của thiên nhiên, cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo, với những động từ nối tiếp nhau thể hiện những rung cảm của những trận đánh liên hoàn, sử dụng những tính từ để tối đa để tạo ra sự tương phản sâu sắc giữa ta và địch. Ngoài ra, còn có nghệ thuật sử dụng câu văn linh hoạt, chiến thắng của ta được thể hiện bằng những câu ngắn gọn, thể hiện sự vội vàng, quyết tâm cao độ và khí phách anh hùng, còn chiến thắng kẻ thù được thể hiện bằng những câu văn dài, thể hiện bản chất vô song.

Cuối cùng, Nguyễn Trãi đã tuyên bố chiến thắng, khẳng định chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. “xã hội từ nay bền vững / giang sơn từ nay đổi mới”, tuyên bố thắng lợi, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, xây dựng một nhà nước Đại Việt tự chủ, thịnh vượng dưới thời vua chúa. . Mới. để rồi rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của đất trời và thiên nhiên, “vũ trụ có khôn thì thái / Mặt trời, trăng sao ăn năn rồi trời lại sáng” thể hiện niềm tin vào vận mệnh mới của dân tộc. , sau khi đã trải qua cơn hoạn nạn của lịch sử. thứ hai là chiến thắng của chúng ta được tạo nên là nhờ sự tổng hợp sức mạnh của thời đại “ngàn năm thắng lợi”, và yếu tố thứ hai là sức mạnh của truyền thống “âu cũng là nhờ trời đất, thiêng liêng của tổ tiên. họ đã ủng hộ trong im lặng. ”

pan ngo dai tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa lam sơn, vở kịch được coi là bản tuyên ngôn độc lập, bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc đã có từ ngàn đời nay, văn chương anh hùng vẫn còn nguyên giá trị cho hàng ngàn đời nay của chúng ta. quốc gia . về nghệ thuật, đó là sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lí luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, lời văn chặt chẽ, hùng hồn, chất văn học nghệ thuật được thể hiện qua lời văn giàu cảm xúc, câu văn giàu hình ảnh. . .

phân tích báo cáo về vựa ngô vĩ đại – mẫu 7

Nếu bài thơ “nam quốc sơn hà” có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc, thì bài “chảo ngo đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là “thiên hạ hùng văn”, là bản nguyên bản của bản tuyên ngôn thứ hai. của độc lập và chủ quyền của đất nước mình. Đây là một tác phẩm mang những đặc trưng cơ bản của thể loại hồ ly nói chung, bên cạnh đó cũng mang những nét sáng tạo riêng của tác giả.

Sau khi quân ta đánh tan quân xâm lược, nguyễn trai tuân theo lệnh của Lê Lợi viết vở kịch “chảo ngo đại cao”. Bản báo cáo này được xuất bản vào tháng 12 năm 1428 với mục đích tóm tắt quá trình chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc và tuyên bố độc lập của dân tộc ta. Báo cáo là một thể loại văn học chức năng và văn lập luận có từ thời cổ đại ở Trung Quốc, và thường được sử dụng bởi các vị vua, lãnh chúa và các nhà lãnh đạo để trình bày một chính sách, chủng tộc hoặc tuyên bố sự kiện. đó là để mọi người biết. Đặc điểm cơ bản của thể loại này là được viết bằng văn xuôi hoặc câu thơ, nhưng hầu hết các bài cáo đều được viết bằng văn xuôi, có sử dụng các phép đối, các câu dài, ngắn tự do. “plan ngo dai cao” là một phóng sự có thiết kế chặt chẽ, lập luận sắc bén, giọng văn mạnh mẽ và lời lẽ hùng hồn. Thiết kế của báo cáo được chia thành bốn phần: phần thứ nhất, tác giả phơi bày luận điểm chính đáng hay nói cách khác là tư tưởng nhân văn của tác giả; nội dung chính của phần hai là những tội ác không thể tha thứ của kẻ thù; phần thứ ba tác giả thuật lại cuộc chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta và phần thứ tư là lời tuyên bố chiến thắng, khẳng định chủ quyền, vị thế của dân tộc.

Quân xâm lược nước ta là quân Minh, nhưng tiêu đề bài cáo là “ngoằn ngoèo” đã thể hiện được dụng ý và dụng ý nghệ thuật của tác giả. “ngô” là từ chỉ chương chu nhân, vốn gọi là ngô công, dấy binh ở giang sơn, đồng thời dùng để chỉ tam quốc ngô triều và các triều đại phương bắc sang xâm lược nước ta. nhân dân ta gọi chúng là kẻ xâm lược ngô đồng với thái độ khinh bỉ và căm thù. tiêu đề “binh ngoa cao” là lời tuyên bố về công cuộc dẹp giặc ngoại xâm và ý chí quyết thắng của cả dân tộc ta trước kẻ thù tàn ác.

Phóng sự mở đầu bằng tư tưởng nhân hậu chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo:

“công việc từ thiện bao gồm việc giữ bình tĩnh cho dân chúng, quân tử bị trừng trị trước để trừ bạo”.

“nhân nghĩa” có nghĩa là suy nghĩ, hành động vì con người, đấu tranh cho quyền được bảo vệ sự sống của con người. có ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát triển bền vững. vì vậy, những người đứng đầu đất nước phải bảo đảm “yên dân”, “trừ bạo”, dẹp yên giặc ngoại xâm và tay sai trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. tư tưởng nhân nghĩa mà nguyễn trai đề cập đến là tư tưởng diệt cái ác trị vì dân, chiến đấu quyết liệt để bảo vệ lãnh thổ, vì:

“cũng giống như nước Đại Việt của chúng ta trước đây, có nền văn hiến lâu đời, núi sông chia cắt nam bắc. Phong tục nam bắc cũng khác triệu, dinh, ly, trần từ bao đời nay, gây độc lập với hán, tang, tông và mỗi bên tự xưng là độc lập. Dù phương pháp mạnh yếu tùy thời, luôn có thiên tài. “

Nước ta có nền văn hiến lâu đời, có ranh giới, phong tục tập quán độc đáo và có bề dày lịch sử sánh ngang với các triều đại phong kiến ​​phương Bắc. Các triều đại Triệu, Định, Lý, Trần được so sánh ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nhân dân tệ của Trung Quốc để thấy rằng dân tộc ta cũng có sức mạnh riêng, không phải là một dân tộc nhỏ bé, tầm thường. các từ “trước”, “đô”, “chia” đã thể hiện sự tồn tại và phát triển của đất nước ta trong lịch sử như một thực tế không thể chối cãi. Điều đó khiến chúng ta tự hào về đất nước của mình, một đất nước được xây dựng bởi những con người nhân hậu, cần cù và chất phác với lòng yêu nước sâu sắc. Dù các triều đại lịch sử có lúc mạnh, lúc yếu nhưng các anh hùng liệt sĩ, anh hùng phò vua giúp nước luôn hiện diện. nhờ họ mà quân xâm lược bị thất bại nặng nề:

“cứu cung điện vì lòng tham công tiếc việc không thành, triệu đại lợi phải diệt vong, cửa tử bẫy sông bạch đăng làm chết. Đã coi là việc xưa nay rồi, chứng cứ còn ghi. “.

Các tướng lĩnh miền Bắc đã bị các anh hùng hào kiệt của đất nước ta “giết chết”, “bắt sống” và nhận kết cục thê thảm. Những cuộc chiến này đã được ghi vào sử sách làm bằng chứng cho muôn đời sau. quân xâm lược “thích làm lớn”, “tham công tiếc việc”, muốn nhanh chóng thôn tính nước ta, nên việc bị “diệt vong” cũng là điều tất yếu. sức mạnh của quân và dân ta đã tiêu diệt bọn xâm lược gian ác, độc ác. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi được thể hiện bằng giọng điệu hào hùng, các mặt đối lập hài hòa đã thể hiện lòng tự hào dân tộc, niềm tin vào sức mạnh của một dân tộc nhỏ bé nhưng vô cùng kiên cường.

Tội ác của kẻ thù đã được tác giả nâng tầm tố cáo bằng những bằng chứng xác thực và hùng hồn. Giặc Minh đã lợi dụng hoàn cảnh của lòng hồ lúc bấy giờ để “thừa nước đục thả câu”, thực hiện âm mưu xảo quyệt của chúng:

“cá nhân họ gây sự, để lại lòng người thù hận. Quân đội điên cuồng chớp thời cơ gây hại, kẻ ác bán nước mưu cầu vinh quang.”

triều chính nhà Hồ rối ren, loạn lạc, vua quan không chăm lo đến đời sống của nhân dân, khiến “lòng dân bất bình”. Lợi dụng điều đó, quân xâm lược nước ta, bọn ác ôn âm mưu bán nước để mưu cầu vinh hoa, phú quý, nhưng hèn nhát không vùng lên đánh giặc.

Quân đội buộc nhân dân ta phải sống trong cảnh nghèo đói, bất bình với những hiểm nguy luôn đe dọa sự tồn vong của họ:

“chúng nướng dân đen trong ngọn lửa dữ dội, chôn những đứa trẻ còn đỏ hỏn trong hố tai họa. dối trời, lừa dân bằng muôn ngàn mưu mô, gây ra chiến tranh và thù hận suốt hai mươi năm. biển tìm ngọc, mỏi cá mập, người lên núi tìm vàng, khổ ải rừng sâu, nước độc, nơi không có lưới, con người náo động, con nai đen sập bẫy, nơi đặt bẫy. đặt. diệt hết sâu bọ, cây cỏ, thay người góa bụa nghèo khó. xây nhà, dựng đất mai sau, viên nào phục vụ cho vừa.

Chúng hung dữ, phi nhân tính, chúng dùng muôn ngàn mưu đồ để thôn tính nước ta. nhân dân lao động thật đáng thương và vô tội khi bị chúng dùng thủ đoạn bóc lột và tàn sát. hành động của bọn xâm lược rất man rợ, chúng “nướng đen” trên lửa để tiêu khiển hoặc “chôn” chúng xuống hố tai họa để thỏa mãn sự tàn ác. họ lấy cuộc sống của người dân của chúng tôi để giải trí. còn gì tàn nhẫn hơn thế? Không chỉ bóc lột nhân dân ta bằng thuế má, kẻ thù còn cướp bóc mọi sản vật quý hiếm của nước ta để phục vụ cho lòng tham không đáy của hắn. nhân dân ta buộc phải xuống biển mò ngọc, lên núi tìm vàng, phải đối mặt với muôn vàn thú dữ như cá mập, cá mập hay sự khắc nghiệt của nơi rừng thiêng nước độc. họ giăng lưới và bẫy để bắt chim để làm quần áo và đệm, hươu đen để làm thuốc bổ. ngay cả những cây không bỏ qua. “chúng phá cả sâu bọ, cây cỏ”, chúng bắt nhân dân ta phải phục công xây nhà, đắp đất sét không ngừng, “chúng tiêu hết nghề nông” mà “máu ăn chưa no”. dù vậy, sự bóc lột tàn nhẫn vẫn không đủ để thỏa mãn lòng tham của họ. họ ly tán, gia đình ly tán, gây nên cảnh “gia giảm”, tang tóc khi vợ bỏ chồng, con cái mồ côi cha mẹ,… tội ác của kẻ thù đã thấu đến tận trời đất. không thể tha thứ, “tre nam sơn không ghi hết tội”, “nước đông không khử mùi hôi” dơ bẩn của nó. Tính chất vô hạn của Tre Nam, Nước Đông Hải không thể so sánh với sự man rợ, tàn ác của quân xâm lược nhà Minh trong suốt hai mươi năm “gây chiến, làm thù”. tác giả sử dụng các phép liệt kê, cường điệu, câu hỏi tu từ “ông trời có chịu được không?” và những hình ảnh vừa khái quát vừa cụ thể để tố cáo tội ác của kẻ thù với lòng căm thù giặc sâu sắc.

Đối mặt với sự xâm lược của kẻ thù, anh hùng le loi “vùng lên”, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lam sơn:

“nghĩ đến những kẻ thù lớn, họ sẽ chiến đấu chống lại kẻ thù và thề không sống cùng nhau.”

Chúng ta không thể sống chung dưới một trời một vực và kẻ thù, Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa để chiến đấu vì nước, vì dân. nhưng khi “cờ sòng phẳng giương lên” thì đúng lúc “thế giặc mạnh”. thêm:

“đẹp như sao mai, tài hoa như lá mùa thu, chạy không cần người trợ giúp, là nơi hiểm ác ít người tranh luận.”

buổi đầu khởi nghĩa, anh hùng liệt sĩ gặp muôn vàn khó khăn khi giặc mạnh, đẹp trai, tài giỏi lại không có nhiều nhân tài, chiến lược trận mạc thiếu người bàn bạc giúp đỡ. số nhân tài, quân sĩ ít, lương thực cũng cạn dần. khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng vị tướng quân vẫn “cố sức vượt khó”, chỉ cần nhân dân bốn phương đồng lòng, nhất trí thì cuộc khởi nghĩa nhất định thắng lợi. không có cờ, nhân dân ta dùng tre làm cờ, không có nhiều rượu để khích lệ quân, le lói rót rượu xuống sông để các tướng sĩ cùng nhau uống “chén rượu thơm”. . / p>Không chỉ tập hợp, đoàn kết quân dân ta mà còn biết sử dụng các chiến lược đánh giặc, “đánh yếu đánh mạnh”, “địch ít, thù nhiều”. nhưng điều quan trọng nhất là le loi luôn ủng hộ ý tưởng nhân từ:

<3

Nhờ ý chí quật cường, vượt qua mọi khó khăn và tinh thần chiến đấu quyết liệt, nghĩa quân đã giành được những chiến công vang dội:

“đem đại nghĩa chiến thắng oanh liệt, dùng nhân khí thay hung tàn. trận pháp bôn ba, sấm chớp, tre miền chè chẻ tro tàn. Tinh thần nghĩa quân mạnh hơn. Mất hồn, ly an , hướng chính, nín thở cầu xin ta thoát, thang thắng đuổi dài, ta chiếm lại Tây đô, chiêu binh tấn công, khai hoang đất đồng xưa, máu ninh kiều chảy thành sông, cá nổi … tuỵ vạn dặm, xác đầy nội tạng, dơ dáy ngàn năm phước báo trần hiep phải vạch trần đầu thù, giặc phải chết .vương thông tháo gỡ hiểm nguy. , nhưng lửa càng cháy lớn hơn, cứu được trận chiến, nhưng quân ta hung hãn hơn. “

Quân ta chiến đấu với sức mạnh và khí thế quyết liệt, khiến quân địch dễ dàng, nhanh chóng tán loạn như chẻ tre, tro bay. tứ trấn tri tướng, sơn thọ, ly an và đại thần triều chính thấy vậy thì “hết hồn”, “nín thở chạy trốn”, các tướng khác thất thế đầu hàng. các trận chiến ở chi lang, ma an, can trảm, v.v. chúng đã khiến cho các tướng sĩ phải tự sát, chết thảm, “trói tay xin hàng”, “chạy ngang chạy trốn”. Tinh thần chiến đấu của nghĩa quân được Nguyễn Trãi khắc họa qua hai câu:

“đánh một trận, dọn dẹp không có gì bất ngờ, đánh hai trận để tiêu diệt chim.”

sức mạnh ấy đã khiến “thừa tướng phải trói tay xin hàng”, đô đốc dừng lại “dâng sớ giải tội”. chiến thắng của quân ta đã làm cho “hoa gió đổi màu”, “mặt trời trăng sao phải tối”, xác giặc “đầy đường”, máu giặc trôi ”. màu đỏ”. quân đội ta đã giành được thắng lợi đáng khâm phục và anh dũng. Từ một người bình thường xuất thân từ chốn “hoang vu”, anh hùng áo vest đã trở thành một vị tướng tài ba với những tài thao lược dùng binh đánh giặc. Đặc biệt, vị tướng ấy còn khiến ta khâm phục với ý chí sắt đá, khắc phục mọi khó khăn, nhân nghĩa khi ban cờ ngựa, phương hướng chính, năm trăm chiếc thuyền sang hồ, tiến cống cho vua. , ra lệnh cho mấy nghìn con ngựa về nước nhưng chúng vẫn “hồn bay phách lạc”, “tim đập chân run”. họ không thể tin rằng người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nước ta sẽ mở ra cho họ một con đường sống, một con đường trốn chạy trở về quê hương. Đó là “kế hoạch kỳ diệu” của le loi để nhân dân ta được “yên nghỉ” và cũng là để duy trì hòa bình giữa hai nước.

Khi miêu tả những trận đánh của quân ta, tác giả đã sử dụng những động từ mạnh như “hồn xiêu phách lạc”, “tim đập chân run” …, những tính từ chỉ sự mở rộng như “con đường đầy xác chết”, “máu đỏ chảy. trong nước ”,“ máu đen thấm đẫm ”,“ vỡ mật kinh hoàng ”, … và thời gian, địa điểm diễn ra các trận đánh được liệt kê để nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Ông tỏ rõ thái độ mỉa mai kẻ thù của mình khi anh ta gọi họ là “những tên khốn nạn khai quốc”, “những tên khốn nhát gan, những tên côn đồ”.

phần cuối của bản báo cáo là lời tuyên ngôn, khẳng định nền độc lập của dân tộc:

“sự giao tiếp từ đây sẽ bền vững, từ đây chuyển thế sang một thế giới mới, rồi mặt trời, mặt trăng sẽ sám hối và sau đó sẽ thấy nhục hình ngàn năm, trong sạch muôn đời. nền thái bình vững bền đó cũng là nhờ tổ tiên linh thiêng đã âm thầm phù hộ; hỡi giành tấm áo nhung, để tiếng vang ngàn năm, biển trời hòa bình, muôn thuở ban phát.

im lặng của kẻ thù, đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, trì trệ rồi êm đẹp, mặt trời và mặt trăng tối rồi lại sáng. đó là quy luật vận động tất yếu của lịch sử, quy luật thịnh – suy của mỗi quốc gia. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới để xây dựng đất nước Đại Việt ngày càng giàu mạnh dưới thời vua Lê Lợi. nhờ có “ngụ ý giúp đỡ của tổ tiên sáng suốt và thánh thiện của trời đất” nên mới có được chiến thắng vẻ vang như vậy. sức mạnh, sự phò trợ của thần thánh và sức mạnh của nghĩa quân lam đã đánh đuổi giặc, làm sạch nước nhà. Một đất nước sẽ phát triển bền vững nếu có những chính sách phù hợp để chăm lo cho đời sống của người dân.

Với bố cục cô đọng, cách sắp xếp câu văn hài hòa, giọng văn chính luận hóm hỉnh, “panô cao” không chỉ tố cáo tội ác của quân mà còn ca ngợi chiến công. cuộc khởi nghĩa của lam sơn và anh hùng lê lết. Nguyễn trai đã đề cao tư tưởng nhân nghĩa “thiên hạ thái bình”, “trừ bạo” và tư tưởng lấy dân làm gốc để phát triển đất nước ngày càng thịnh vượng.

phân tích báo cáo về bát ngô vĩ đại – mẫu 8

Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba của dân tộc mà còn là một nhà thơ, nhà chính luận kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc viết bằng cả chữ Quốc ngữ, chữ Hán và chữ Hán. Đặc biệt, nói đến những bài chính luận của Nguyễn Trãi, chúng ta không thể không nhắc đến “Đại Cáo bình ngô” – tác phẩm được Nguyễn Trãi viết theo lệnh của Lê Lợi sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc”.

“Hũ ngô đại bảo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo, một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc với thiết kế và cấu trúc chặt chẽ. Mở đầu bài báo, tác giả Nguyễn Trãi đã đưa ra luận điểm chính đáng làm cơ sở tư tưởng cho toàn bộ bài báo cáo của mình.

<3

Chỉ với hai câu mở đầu bài báo cáo của mình, tác giả đã nêu lên ý tưởng xuyên suốt bài báo cáo đó là lòng nhân đạo, một phạm trù tư tưởng xuất phát từ Nho giáo, dùng để thể hiện hành vi và quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau. và với nguyễn trai, tư tưởng nhân văn đó bắt đầu từ tư tưởng “dĩ hòa vi quý”, “trừ gian diệt bạo”. Có thể nói, đây là cơ sở cốt yếu của toàn bộ phóng sự xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ thương dân, thương dân mà tiêu diệt bạo quyền, đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi cũng đã nêu những chân lý khách quan, độc lập, làm cơ sở lý luận vững chắc cho việc khẳng định nền độc lập dân tộc cũng như làm sáng tỏ ý kiến ​​của bài cáo. .

cũng giống như nước ta trước đây đại việt xưng hùng xưng bá lâu đời, núi sông chia cắt, phong tục nam bắc cũng khác nhau triệu, đinh, ly, trần do Người dựng nên. một cơ sở độc lập qua nhiều thế hệ với Hán, Đường, Tống, mỗi bên tự xưng là hoàng đế. phương pháp mạnh yếu theo thời gian là khác nhau, nhưng thế hệ nào cũng có.

chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như tác giả nguyen trai đã tái hiện một cách chân thực và rõ nét những truyền thống vẻ vang ngàn năm của dân tộc. Trước hết, đất nước ta có một nền văn hóa và phong tục tập quán từ Bắc vào Nam có từ hàng nghìn năm trước. đồng thời nước ta cũng là nước có biên giới và lãnh thổ riêng, được mọi người công nhận. đặc biệt nhất là khi so sánh các triều đại phong kiến ​​nước ta với các triều đại phong kiến ​​phương bắc, tác giả đã đặt các triều đại và nhân dân ta ngang hàng với các triều đại phong kiến ​​phương bắc. , đó không chỉ là cơ sở của sự độc lập mà còn thể hiện niềm tự hào. và niềm tự hào dân tộc của tác giả nguyễn trai. không dừng lại ở đó, để khẳng định chân lý khách quan cho nền độc lập tự do của nước ta, tác giả còn tái hiện những trang lịch sử vẻ vang, hào hùng với những chiến công vang dội qua bao núi rừng của quân và dân ta năm xưa.

cứu công nên thất bại, hàng triệu quan lớn phải tiêu diệt. Cánh cổng tử thần bắt được xe dosong bach dang và giết chết anh ta.

Hơn nữa, dựa trên cơ sở lý luận đã nêu, trong phần sau của bài tường thuật, tác giả Nguyễn Trãi đã chỉ ra một cách sâu sắc tội ác man rợ, thâm độc của kẻ thù. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược nước ta của kẻ thù.

Con người chỉ đang gây rắc rối. ở quê, lòng người đầy ai oán.

như vậy, chỉ với bốn câu, tác giả đã vạch rõ cho người đọc thấy âm mưu xâm lược của kẻ thù. Nghĩa quân lợi dụng tình hình loạn lạc ở nước ta dưới thời nhà Hồ, với mưu đồ gian dối là “diệt giang hồ”, tiến vào thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn nữa, không chỉ vạch ra âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả Nguyễn Trãi còn tố cáo, vạch rõ những hành động, tội ác man rợ của kẻ thù trên hầu hết các lĩnh vực bằng những hình ảnh và từ ngữ độc đáo. Tội ác đầu tiên của giặc Minh mà tác giả Nguyễn Trãi nhắc đến là tội thảm sát, giết hại người dân vô tội.

hét lên những người da đen trong ngọn lửa dữ dội, chôn vùi những đứa trẻ da đỏ xuống hố thảm họa

Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng, ​​tác giả đã phác họa rõ nét sự tàn bạo, dã man của kẻ thù. ngay cả những “dân đen”, những “trẻ đỏ” – những người vô tội, cũng không chịu dừng lại. tất cả đều cho thấy hành vi giết người tàn nhẫn của kẻ thù. Ngoài ra, chúng còn tàn sát những người dân vô tội, đẩy những người da đen đó vào rừng thiêng, nước độc đầy rẫy hiểm nguy, những nơi mà một khi đã bước vào thì sẽ không có ngày quay lại, dù có trở lại hay không.

người thì buộc phải xuống biển mò ngọc, chán cá mập, người thì lên núi tìm vàng, rừng thiêng nước độc khốn khổ.

Đồng thời, tội ác của kẻ thù còn thể hiện ở những chính sách thuế nặng nề, vô lý cùng với những chính sách tàn phá môi trường, cảnh quan thiên nhiên, hủy hoại cuộc sống của hàng nghìn người và động vật trên đất nước ta.

thuế nặng, sạch sẽ, không núi non … để thu hái sản vật, bắt chim về, nơi giăng lưới người phiền, nơi bẫy nai đen, nơi đặt bẫy hại cả côn trùng như đối với cây trồng.

>Như vậy, bằng hàng loạt hình ảnh chân thực và giàu tính tượng trưng, ​​đoạn 2 của bài phóng sự như một lời tố cáo mạnh mẽ, trong đó tác giả nguyễn trai đã vạch rõ tội ác, những hành động man rợ, ghê tởm của quân xâm lược. và sau đó, tất cả những tội ác đó được tác giả tóm gọn trong một câu thơ giàu sức khái quát và hình tượng. đồng thời qua những câu thơ đó cũng giúp ta thấy được sự căm phẫn tột độ của tác giả.

thật là tàn nhẫn thay cho tre nam không ghi hết tội ác.

không chỉ dừng lại ở việc vạch ra tội ác của kẻ thù, “Hũ ngô” của nguyễn trai còn tái hiện một cách chân thực và sâu sắc quá trình kháng chiến và chiến thắng của quân và dân ta. . mở đầu đoạn văn là hình ảnh vị tướng, vị anh hùng:

Ta ở đây: núi lam sơn đặt nghĩa nơi hoang vu để nương náu

đại từ “ta” được đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định, thể hiện rõ xuất thân, nguồn gốc, xuất thân, hoàn cảnh của người anh hùng liệt sĩ. xuất thân từ nhân dân, có lẽ hơn ai hết, tôi thấu hiểu những khó khăn, thậm chí là lòng căm thù giặc sâu sắc: “hận thù không thề sống chung”. nhưng người anh hùng ấy không chỉ có lòng căm thù giặc sâu sắc, mà trong lòng còn có biết bao nhiêu trăn trở, trăn trở đến nỗi “đau lòng”, “nếm mật nằm gai”, “quên cả ăn giận”. tính đường đánh lui quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng vùng lên khởi nghĩa, mang theo tất cả niềm tin và con đường đấu tranh vững vàng, góp phần vào thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta. tuy nhiên, không chỉ tái hiện chân dung vị tướng, đoạn 3 của phóng sự còn tái hiện lại những khó khăn, gian khổ và những chiến công vang dội của quân và dân ta. Trước hết, thời gian đầu khởi nghĩa, nghĩa quân ta gặp muôn vàn khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. đó là những lúc quân giặc còn rất mạnh, tài năng của ta còn hạn chế, “tài như lá mùa thu”, “bay không có người giúp”,… nhưng, bằng tất cả ý chí, quyết tâm của mình và với một đường lối đúng đắn. chiến đấu kiên cường “đem chính nghĩa thắng hung tàn”, “dùng nhân nghĩa thay cường bạo”, nghĩa quân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập được nhiều chiến công vang dội. Tác giả tự hào kết thúc đoạn 3 của bài tường thuật bằng việc tái hiện những chiến công hiển hách và liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. mở đầu cho những chiến công đó là chiến thắng bo dang, tra lan, sau đó là cả vùng trần tri, sơn thọ, lý an, … và hàng loạt chiến công ấy nối tiếp nhau.

ngày mười tám, trận chi lang, trận chiến liễu bại ngày 20, trận ma an, trận liễu, cái chết đầu tiên của cái thứ hai mươi lăm, tính lượng minh là bị đánh bại và chết vào ngày 28, tể tướng và người kế vị của ông ta tự sát.

Như vậy, trong phần ba của phóng sự, tác giả nguyễn trai đã tái hiện một cách chân thực và sâu sắc về hình tượng vị tướng quân lê lết và những khó khăn mà nghĩa quân ta gặp phải trong những ngày đầu kháng chiến và đặc biệt là những chiến công vang dội. của quân và dân ta trong cuộc chiến khó khăn đó. đặc biệt, sau chiến thắng, nghĩa quân ta còn viện trợ ngựa, tàu thuyền, lương thực cho địch để chúng rút lui. Những việc làm đó của quân ta một lần nữa thể hiện tư tưởng, luận điểm chính nghĩa mà nghĩa quân ta suốt đời theo đuổi. và sau đó, dựa trên lý luận và thực tiễn đã được nêu ra, phần cuối của báo cáo là tuyên ngôn độc lập và hòa bình cho dân tộc.

cộng đồng ở đây bền vững và ở đây để đổi mới … từ xa đến gần, mọi người đều giỏi báo cáo

Với giọng văn hào sảng và hùng hồn, lời tuyên bố của Nguyễn Trãi đã được mọi người biết đến rộng rãi. câu nói đó không chỉ là lời khẳng định độc lập, hòa bình, thống nhất đất nước mà qua đó còn thể hiện thái độ ngợi ca và tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của dân tộc khi bước vào thời kỳ mới.

Tóm lại, “Chiếc lọ bím tóc” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử, mà còn là một chính luận sâu sắc với sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình. . Dù trải qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử dân tộc, nhưng giá trị và ý nghĩa to lớn của bài cáo vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.

phân tích báo cáo về vựa ngô vĩ đại – mẫu 9

tin lớn của dân tộc là một bài tường thuật dài, được công bố rộng rãi để mọi người biết cách dẹp giặc ngoại xâm, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. do đó, nó được coi là tuyên ngôn độc lập.

Như chúng ta đã biết, sau một thời gian kháng chiến tăng quân (1418 – 1423), nghĩa quân Ích Sơn chuyển sang thời kỳ phản công. Mùa đông năm 1427, sau khi đè bẹp 10 vạn viện binh của địch, đất nước ta hoàn toàn giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Thù lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên (có lòng với trời) và sai Nguyên trai làm tờ trình báo cáo toàn dân thắng lợi cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. . bước sang giai đoạn xây dựng hòa bình một cách rực rỡ. Như vậy, báo công là trong lúc toàn quân và nhân dân tưng bừng chào mừng chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ và anh dũng.

trước hết, binh ngo đại cáo là một luận văn chính luận tóm tắt một cách chính xác, ngắn gọn về cuộc khởi nghĩa lam sơn, trên cơ sở nhiệt thành yêu nước và nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân nghĩa, về dân tộc, về dân tộc. bao trùm phóng sự là niềm tự hào vô bờ bến về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến và khí phách của dân tộc Việt Nam.

Nhìn chung, nồi ngô lớn có thể được chia thành bốn phần:

phần 1. khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thống bất khuất của dân tộc (từ thuở sơ khai đến nay vẫn ghi lại những chứng tích …)

phần 2. tố cáo tội ác của bọn giặc cướp lợi dụng tình hình nước ta đang co ro, đem quân sang xâm lược, gây bao đau thương cho nhân dân (Bên cạnh người dặn lòng phải giữ vững …) .

phần 3. mô tả quá trình nâng lam sơn, mục đích của cuộc đấu. những khó khăn ban đầu (quá trình đấu tranh), những chiến công hiển hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (đời sau cũng chưa từng có).

phần 4. tuyên bố kết thúc, cuộc chiến khẳng định vị thế của dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước thịnh vượng và trường tồn (tiếp tục cho đến hết).

Ở phần đầu, trước hết, lời khái quát khẳng định lý tưởng kháng chiến. chiến đấu là nhân loại. Tiếp theo, Nguyễn Trãi cho rằng Việt Nam là một nước văn hiến, từ bao đời nay đã sánh ngang sức mạnh của Trung Quốc về nhiều mặt. Nội dung trên được tác giả thể hiện bằng những câu văn trang nhã, xúc động gợi không khí lịch sử trang nghiêm.

hành động nhân nghĩa là để yên cho dân chúng, quân tử, trừng trị bạo tàn, như đại việt ngày xưa, giả danh văn hiến đã lâu, núi sông chia đôi. phía bắc và phía nam. phong tục nam bắc cũng khác nhau về triệu, dinh, ly, tran từ bao đời nay, gây nên thế độc tôn có han, tang, tông, mỗi bên hùng cứ một phương

ở đây, sự nhấn mạnh là tư duy nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và lập trường độc lập của dân tộc. lòng nhân đạo gắn liền với sự bình yên trong tâm hồn. Nguyễn Trãi quan tâm hàng đầu đến cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. đây là tư duy tiến bộ vượt bậc của nguyen tra, làm cơ sở chung cho toàn bộ báo cáo. Để nêu bật ý chí độc lập, tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng lối nói sóng đôi. Đại Việt và Trung Quốc đã tồn tại cùng thời gian qua nhiều thế hệ. mỗi quốc gia có một lãnh thổ, mỗi quốc gia có phong tục tập quán với các triều đại khác nhau. Vì là một đất nước có bề dày lịch sử, luôn có những bậc hiền tài xuất thân, giặc giã luôn thất bại. nội dung được thể hiện bằng các thuật ngữ rất công bằng. Tuy nhiên, nếu để ý thì thấy cân sức, dường như tác giả càng muốn đặt nặng Đại Việt hơn nữa bằng những chiến công hiển hách của mình (Cổng Hàm Tử bắt Đồ Xe – Sông Bạch Đằng giết Ô Mã). Vì vậy, có thể nói, ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa là niềm tự hào trước truyền thông vẻ vang của dân tộc.

Phần thứ hai của bản báo cáo là phần tố cáo kẻ thù. Lợi dụng lòng hồ để mất lòng dân, kẻ thù cấu kết với bọn Việt gian bán nước, điên cuồng cướp nước ta, gây ra bao tội ác không nhân nhượng trời đất:

hét lên những người da đen trong ngọn lửa dữ dội, chôn vùi những đứa trẻ da đỏ xuống hố thảm họa

Đọc lại sử sách xưa, chúng ta có thể thấy hai câu trên không phải là cách nói phóng đại chút nào, mà là sự thật: giặc rất hung hãn, chúng thường moi ruột người ta, treo cổ lên cây rồi nấu xác chết. người ta dùng dầu mỡ để châm đèn, có khi họ còn vui vẻ tra khảo những người vô tội. Ngoài ra, kẻ thù thực hiện một hệ thống cống nạp mạnh mẽ để cướp bóc của cải (người bị buộc phải xuống biển tìm ngọc trai, chán ăn với cá mập, người bị bắt lên núi tìm vàng, chết tiệt rừng sâu nước độc. ). Hậu quả là chúng đã gây ra những hậu quả khủng khiếp cho đất nước ta, sản xuất đình trệ (toàn bộ nghề nông bị tiêu diệt), môi trường sinh thái bị tàn phá nghiêm trọng (hại cả sâu bọ và cây trồng), đẩy người dân Đại Việt vào cảnh khốn cùng. hoàn cảnh (nhỏ nhoi thay người đàn bà góa nghèo)… tội ác của giặc cộng dồn đến nỗi có chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến trời đất không thể dung tha, thần và người được. không chịu được đau thương và hận thù, người dân Đại Việt phải cùng nhau đứng lên.

Phần thứ ba thuật lại quá trình cuộc khởi nghĩa từ ngày đầu đến ngày toàn thắng. thay mặt le loi báo cáo: em đây, núi lam sơn tăng nghĩa … lời nói phải mở lòng trước thần dân: xót xa, đau đầu, đã mười năm trôi qua – … quên ăn do tức giận, chiến lược suy nghĩ cẩn thận – suy nghĩ cho đến bây giờ, suy nghĩ cẩn thận.

buổi đầu khởi nghĩa rất khó khăn: quân giặc đông mà ta ít người, nhân tài khan hiếm như sao mai, như lá mùa thu. có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân lính thì ít (khi linh sơn, lương cạn vài tuần, khi huyện đội không có chi đội) … tuy nhiên nhờ sự kiên trì, quyết tâm đã vượt qua khó khăn. , nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đúng đắn …, chúng ta đã từng bước xây dựng được một lực lượng vững mạnh dẫn đến chiến thắng.

Đoạn sau, Nguyễn Trãi tập trung vào quá trình chiến thắng. Điều đáng chú ý, trên thực tế, từ lúc phất cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh thắng nhiều trận. nhưng ở đây nguyễn trai chỉ tập trung vào một số trận đấu tiêu biểu nhất của từng thời đại.

Trong giai đoạn đầu của trận đại chiến, tác giả kể về hai trận chiến ác liệt diễn ra ở bo đăng và tra lan. quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy tán loạn, quân ta nhanh chóng giành thắng lợi. ở đây, nguyen trai đã miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn nêu bật được cốt lõi của hai trận đánh, đó là những pha hãm thành bất ngờ. do đó, quân địch hoảng sợ, hoang mang, quân ta càng đánh càng hăng:

khí thế anh hùng càng mạnh, âm thanh càng lớn, tri âm càng lớn, càng khó nghe, linh khí kém, bình yên vô sự, đường đường chính chính, nín thở tìm kiếm trốn thoát.

>

Trong đợt hai, quân ta mở chiến dịch thanh nghệ để đẩy mạnh ra bắc. Nguyễn Trãi đã nói về hai trận đánh có ý nghĩa chiến lược và được tiến hành vô cùng ác liệt, đó là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. địch huy động toàn lực sinh tử để cố thủ, ta quyết thắng vang dội nên trận đánh trở nên vô cùng ác liệt. Bằng cách phóng đại, nguyễn trai đã tạo cho người đọc ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của kẻ thù:

máu ninh kiều chảy thành sông, vạn dặm bị cuốn trôi. xác chết chất đống bên trong, bẩn thỉu hàng nghìn năm. phúc báo thù: tran hiep co dau lộ đầu. kẻ thù: ly luong phải chết.

Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung viết vào chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. đây là bản anh hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kỳ. Như mọi người đã biết, sau một loạt thất bại, kẻ thù phải rút lui, nhưng thay vào đó, với bản tính ngoan cố của mình, ông đã gửi quân tiếp viện hào phóng và chia ra nhiều hướng tiến về Đại Việt. hai vị tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo thế đỉnh cao đè bẹp quân ta:

đinh tháng chín, liễu thang đưa quân ra khỏi sân khấu, tháng mười năm đó, miêu tả tách đường từ vân nam di chuyển.

nhưng tôi đã chuẩn bị tốt. hai gọng kìm của địch liên tiếp bị bẻ gãy:

Chúng ta trước điều nguy hiểm, chúng ta đã chém trúng mũi tên. sau đó, chúng tôi cử tướng chặn đường và cắt nguồn thức ăn.

sau đó, có một loạt các chiến thắng. lời văn háo hức như hơi thở của người viết, dòng chảy ào ạt như muốn hòa nhịp với cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân và những đợt tấn công dồn dập của nghĩa quân:

ngày mười tám, trận chi lang, thất chiến liễu, ngày 20, chiến yên, liễu trụ. Ngày hai mươi lăm, Bá tước Lương Minh đại bại và bị giết. Ngày hai mươi tám, Tể tướng Lý Khanh. cùng một người thừa kế.

Sau đó, báo cáo tập trung vào một trọng tâm cụ thể của cảnh chiến trường. câu văn được biên soạn lại, súc tích, đầy hình ảnh phóng đại bên trái sức mạnh to lớn và khí thế ngút trời của quân đội ta:

quân giỏi kén người dữ, người này chọn người có nanh, gươm mài đá, đá núi mòn cả, voi uống nước, nước sông phải cạn, đánh một trận, sạch không. kỳ thú, đánh nhau hai trận, chim muông tán loạn, gió mạnh thổi bay lá khô, kiến ​​trúc đổ gãy.

hình ảnh quân ta càng hùng tráng bao nhiêu thì hình ảnh kẻ thù càng thảm hại bấy nhiêu, từ giọng điệu vui mừng, tự hào của tác giả chuyển sang giọng điệu mỉa mai đầy khinh bỉ:

tướng giặc bị giam cầm, như hổ đói vẫy đuôi cầu đời, vu không giết xác trời, ta dọn đường cho tế, phò mã, hướng, cho năm trăm chiếc thuyền đi hồ. và họ vẫn có linh hồn của họ bay cánh kiến. vuong thong, anh em phò mã, phát mấy vạn con ngựa về nước mà lòng dạ chân run.

báo cáo kết thúc. câu thay đổi với tốc độ thong thả. giọng nói nhẹ nhàng và vui vẻ:

Từ nay về sau, cộng đồng nơi đây sẽ làm mới bền vững giang sơn.

nhưng niềm vui không ồn ào. tác giả hiểu rõ hơn ai hết cái giá thân thương của chiến thắng và lòng biết ơn sâu sắc của đồng bào, tổ tiên trần gian đã giúp đỡ.

đại điệp quả thực là một tác phẩm chứa đựng nội dung lớn lao, tư tưởng cao cả, được thể hiện bằng bút pháp nghệ thuật, xứng đáng được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà ly nguyệt giáo. ra đời trong thời đại văn học, câu chuyện không chia thành phóng sự mà đầy chất văn học, hình ảnh từng tầng lớp, văn hóa thay đổi, giọng văn linh hoạt, khéo léo thể hiện những tình huống nổi dậy khác nhau, và những cung bậc cảm xúc khác nhau của nhà văn, thực sự xứng đáng tiêu đề của sử thi hoành tráng.

phân tích báo cáo về vựa ngô vĩ đại – mẫu 10

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo hay nhất (15 Mẫu)

“Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong văn học chữ Hán cổ điển nước ta, là bản anh hùng ca bằng thể văn biền ngẫu, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, kể tội quân xâm lược, ngợi ca anh hùng, hào kiệt và võ công trừ bạo của dân tộc ta.

bài ca ngất ngưởng còn là một bài ca trữ tình thiết tha về nỗi đau nước mất nhà tan, tràn đầy niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. cáo là một thể văn cổ có từ xa xưa, thường được hoàng đế dùng để chỉ định, ban sắc và che chở cho quan lại và mọi người dân, gọi là “báo thọ”, “văn phong”, “phúc báo”. . ., vốn là tên của một thi hào trong văn bản thường thương do zhou chiêng công bố việc ban thưởng thanh thế, xóa bỏ triều đại và sau này trở thành thể loại văn học thông báo những sự kiện quan trọng cho thiên hạ biết đến. Đặt tên cho bài văn tế này là “Đạo Đại Cao”, Nguyễn Trãi muốn dùng lại tên Đại Cao để báo trước đạo lớn và bày tỏ ý muốn tiếp nối truyền thống lâu đời của nhân loại. bình là phách, ngô là tên nước cổ thời tam quốc. Minh thai đến zhou yuan chuong dấy quân ở đất giang sơn, lúc đầu gọi là ngo quốc công, nên quân triều ming gọi là ngo quân. tiêu đề của bài đăng này có nghĩa là một tuyên bố về chính nghĩa của việc chống lại những kẻ xâm lược ngô.

XEM THÊM:  Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học

Đó là một thể loại văn học vì nó mang tính chủ quan, không nhất thiết phóng sự nào cũng có giá trị văn học. Nhưng do tư tưởng lớn, sự kiện trọng đại, và ca từ hùng hồn, hùng hồn, bài hát “viết bằng lòng thương” của nguyễn trai thay cho tiếng lê lết đã trở thành bản hùng ca vang danh khắp năm châu.

Ở phần đầu của báo cáo, tác giả nêu ngay lập tức quan điểm của mình:

“hành động nhân từ bao gồm việc giữ hòa bình cho người dân và binh lính trước khi đối phó với bạo lực”

Hai câu này đều có nghĩa là: Mục đích chính của lòng nhân từ là làm cho thiên hạ thái bình, nhưng muốn bình an vô sự thì trước hết phải lo tiêu diệt quân tàn bạo. Tư tưởng đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam. do đó, dưới đây, bài tường thuật nhắc lại truyền thống “yên dân trừ bạo” của các triều đại “từ triệu dinh, trấn, giữ độc lập tự chủ từ bao đời nay”, mỗi thế hệ đều có một anh hùng vươn lên chiến thắng bạo tàn, ra đi nhân dân. kết quả là thất bại trong việc cứu sống vương triều han, một triệu năm diệt vong. để làm, cuộc sống của o ma đã bị giết, một người nào đó đã bị bắt giữ. Trong đoạn văn này cần lưu ý rằng, ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã cho rằng đây là truyền thống văn hiến Đại Việt. “Đại việt” là quốc hiệu của nước ta trong các thời đại và thời đại. Thời Đinh lấy quốc hiệu là “Đại Cồ Việt” cũng theo tinh thần đó. đồng thời nêu quan điểm mỗi bên “làm hoàng đế một phương”, chống lại hoàng đế phương bắc, tiếp nối truyền thống ly nam, ly bình từ đời trước. do đó, bài diễn văn lớn mở ra không chỉ với ý tưởng nhân văn, mà còn với vị thế của một quốc gia có chủ quyền. phần mở đầu nhằm khẳng định rằng sự nghiệp sinh lợi là sự tiếp nối vẻ vang của những truyền thống đó.

phần thứ hai của bài đề cập đến tội ác của kẻ thù và cảnh ngộ của nhân dân và đất nước dưới ách thống trị của kẻ thù. trận đánh nào cũng phải có lý do, lý do chính đáng nhất là tội ác của kẻ thù và hoàn cảnh của nhân dân. tác giả đã sử dụng mười hai cặp đối lập để tố cáo kẻ thù và phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân. đáng chú ý nhất là bản chất vô cùng phá phách và tàn bạo của bọn xâm lược:

“Họ nướng những người da đen trong ngọn lửa khốc liệt, họ chôn những đứa trẻ da đỏ xuống hố tai họa.”

“dân đen”, “con đỏ” ​​là hình ảnh quy ước của những người trăm họ, vô tội. quân giặc coi dân ta như dê cừu, dùng hết sức tàn phá. họ đã lừa dối trời, họ lừa dối dân chúng, họ điều động quân đội, và trong hai mươi năm, họ hủy diệt loài người, và họ hủy diệt trời đất. không có gì bị phá hủy một cách tàn bạo:

“Thuế nặng, sạch, không có núi”, những người nhặt rác, bẫy chim, nơi ẩn náu trong lưới của nhiều người, bẫy hươu đen, bẫy nai đen, bất cứ nơi nào họ đặt chúng ”

“tiêu diệt côn trùng và thực vật” phá hủy nông nghiệp… ”

Số phận bi thảm của thị trấn được nhắc đến với cảm xúc xót xa:

“Người ta buộc phải xuống biển, quay lại tìm ngọc, khoan thay cho cá mập. Kẻ lên núi, mò cát tìm vàng, rừng sâu khổ ải, nước độc.”

“tải nặng”

“nhún vai thay vì góa phụ khốn khổ.”

Tác giả đã khắc họa một bức tranh khái quát về tội ác chất chứa của kẻ thù, đó là “tre nam không ghi hết tội”, “nước đông không tẩy”.

Xem thêm: Truyện Kiều Sáng Tác Thế Kỷ Bao Nhiêu

Người xưa chép sách và thẻ tre. tội ác của giặc dù có đốn hết tre ở nam sơn cũng không ghi hết tội. “khanh truc nam thu” là thành ngữ của lu thị xuân thu, người Trung Quốc thường dùng để kể lại tội ác của kẻ thù trong các bài thơ, hic, ở đây dùng để vạch trần tội ác của kẻ thù, rất hữu dụng. lời tường thuật của kẻ thù kết thúc bằng một đối âm đầy khiêu khích và đầy khiêu khích như một biệt ngữ:

“Liệu trời đất có dung thứ cho việc người ta bảo người dân mình phải cố chấp?”

Phần thứ ba của bản báo cáo là thông báo quá trình nuôi quân và kháng chiến thắng lợi. đây là phần trữ tình và mới mẻ nhất của bài luận.

Đoạn đầu tiên của phần này bao gồm mười lăm cặp đối lập nói về ý thức sứ mệnh của le loi và quá trình xây dựng sự nghiệp đầy khó khăn của cô khi mới bắt đầu. tác giả đã xây dựng hình tượng người anh hùng dân tộc, một hình tượng trữ tình cao cả và thống nhất.

Sử dụng phương pháp tự trình bày, bản báo cáo lớn mô tả tấm lòng, tinh thần, tài năng và mục đích có ý nghĩa của le loi. với hàng loạt vị ngữ, đoạn văn thể hiện thế giới nội tâm phong phú. một bản trình bày táo bạo:

“Ta đây rồi, núi xanh mọc lên cho chốn hoang vu nương tựa”

ý thức về sứ mệnh, coi thù hận của đất nước, nỗi đau của hàng trăm gia đình là của riêng mình, ngày đêm ở bên cạnh mình trong suốt hai mươi năm.

“Nghĩ đến kẻ thù lớn, có thể chống lại kẻ thù, chúng ta thề sẽ không sống cùng nhau đau khổ và đau đầu, có khi mười năm trôi qua ngậm mật giữa bụi gai, chắc là một hai buổi sáng”

“Tôi quên ăn, quên ngủ, ngay cả trong giấc mơ, tôi cũng lo lắng về việc phục hồi đất nước của mình: trằn trọc trong giấc ngủ chỉ khiến tôi lo lắng một điều”

Những hình ảnh “nếm mật nằm gai”, “quên cả ăn giận”, “lăn lộn trong mơ” gợi cho em về tấm gương chịu thương chịu khó, nung nấu ý chí chiến đấu vì chính nghĩa. >

Những khó khăn, vất vả ban đầu như thiếu người, thiếu quân, thiếu ăn đã thử thách tinh thần nhẫn nại, trọng nhân tài và khả năng tập hợp quần chúng. người tài như sao trong sáng, như lá mùa thu hiếm thấy, lòng cầu nguyện của le loi cũng rất chân thành.

Bên trái là chỗ ngồi cao quý mà thái tử phi giao cho quân đội mời người gác cổng là hậu viện về hợp tác với mình. nhưng càng đợi lâu, “người vắng bóng” càng nhiều và vai trò chủ động của chủ cửa hàng càng trở nên nổi bật.

Bản thân chúng ta phải hiến thân nhanh hơn để cứu người đang chết đuối. cuối cùng, người anh hùng đã tập hợp mọi người dưới ngọn cờ chính nghĩa của mình, tạo thành một khối đẹp đẽ:

“Dân tứ xứ có nhà, giương cao lũy tre, phất cờ, tướng sĩ có lòng tốt, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”

Hình ảnh “lũy tre làm cờ” nói lên chí khí quật khởi của nhân dân, chủ trương đại nghĩa. hình ảnh “non sông hòa cùng ly rượu ngọt” thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.

đồng thời, le loi đã có một chiến lược và chiến thuật rất tốt:

“một vị trí chiến lược, sử dụng yếu so với mạnh để sử dụng phục kích, ngày càng ít kẻ thù.”

Phần thứ hai của bài báo nói về cuộc phản công thành công. đây là phần vui mừng, phấn khởi của bản báo cáo: nhưng những chiến công liên tiếp rõ ràng, được kể bằng một giọng tự hào và hả hê. ở đây hình ảnh người lãnh đạo nghĩa quân tiếp tục hiện lên, hình ảnh sức mạnh của nghĩa quân, nhưng nổi bật nhất là hình ảnh thất bại nhục nhã trước kẻ thù.

Tác giả không giới hạn việc kể lại tin tức về cuộc chiến hay tóm tắt chiến thắng, mà còn tự hào về sức mạnh của công lý:

“Trận địa sấm sét vang dội, vùng chè chẻ ngọn tre”

le loi “thay trời hành đạo”, cảm nhận sức mạnh của nghĩa quân mạnh như sức mạnh ngút trời, không một thế lực nào có thể chống lại được:

“gươm mài đá mòn, đá núi cũng mòn. Voi uống nước, nước sông cạn. Đánh một trận, sẽ sạch tuyệt vời. Đánh nhau hai lần, diệt chim và chim, và gió thổi lá khô.

những hình ảnh “đá núi mòn”, “nước sông khô cạn”, “rõ ràng sạch sẽ”, “chim bay tán loạn”, “lá khô lau sạch”, “đập vỡ tan hoang” đòi hỏi rất nhiều công sức. sự tiêu diệt phi thường của nghĩa quân và sự sụp đổ không thể vượt qua của quân địch. đó là những phép ẩn dụ thể hiện quy mô vũ trụ và khổng lồ của sức mạnh chính nghĩa.

với hình thế khổng lồ, uy nghiêm và hình ảnh chiến thắng chóng vánh như chẻ tre, khiến giặc trở tay không kịp, vài ngày thắng, vài ngày giết được tướng giặc.

>

Hình ảnh thất bại của kẻ thù đã thể hiện rõ sức mạnh của quân đội ta. những người còn sống đang phải khiếp sợ.

hình ảnh le loi điều khiển quân đội của mình khẩn trương, khôn ngoan, chủ động, tốc độ, khôn ngoan tuyệt vời.

khác với kẻ thù “thông minh kiệt xuất”, le loi đề cao chiến lược “mưu kế, trừng trị, nhân tâm”. “Tôi không đánh, nhưng nhân dân chịu thua, bây giờ tôi định trừng trị, với tấm lòng công lý”. cả câu này không chỉ nói về chiến thuật mà còn nói về chiến lược: le loi không muốn dùng vũ lực để chiến đấu, mà muốn “trừng trị âm mưu, nhân tâm” trước, nhưng kẻ thù bại trận cũng không biết hối cải. mưu sự, nhận lỗi làm sai nên vụ lợi mới theo đuổi đến cùng. đây, le loi bộc lộ một thiên tài quân sự lỗi lạc:

“thừa tướng tiến hành một chặng đường dài, quân ta chiếm lại kinh đô phía tây chiêu binh mãi mã. đất đồng xưa khai hoang ”

“Chúng ta cử binh lính nguy hiểm đi trước, chúng ta cắt đứt quân tiên phong, sau đó chúng ta cử tướng chặn đường và cắt đứt nguồn lương thực.”

chúng ta chiến thắng, nhưng chúng ta không giết người, chúng ta không hiếu chiến, nhưng chúng ta rất rộng lượng với lòng hiếu thảo, yêu hòa bình và thực hiện những kế hoạch lâu dài.

“tướng giặc bị giam cầm, như hổ đói vẫy đuôi cầu xin cứu sống thần vu không giết, trong lòng trời mở đường báo hiếu ………… chúng sinh háo sắc. , sợ chết, nhưng thực sự hòa giải và kết hôn, toàn quân tốt hơn, những người an nghỉ ”

Quân địch vẫn còn bàng hoàng, kinh ngạc, tạo thành dư âm mãi mãi về chiến thắng vĩ đại.

Tóm lại, tác giả không chỉ kể về chiến công mà chủ yếu miêu tả sự oai hùng, tầm vóc của chiến thắng, tác dụng lâu dài của chiến thắng và đặc biệt là vẻ đẹp nhân văn, bản lĩnh của người chiến thắng. những tính năng này mang lại cho báo cáo một màu sắc hoành tráng.

Phần cuối thể hiện niềm tin về sự thái bình lâu dài của đất nước, nhờ trời đất, tổ tiên giúp đỡ.

Bài ca ngất ngưởng không chỉ hay vì phản ánh chiến công hiển hách, thể hiện tầm vóc tư tưởng lớn lao của con người mà còn bởi ngôn ngữ giàu hình ảnh và âm nhạc. Trong bài văn này, các cặp văn chương cân đối, tứ – văn đã phát huy tác dụng thẩm mĩ trong việc xây dựng những hình tượng oai hùng của một nhân vật sử thi, thấm đượm tình cảm dân tộc cao cả. binh ngo dai cao thực sự là một thiên anh hùng ca do nhà thơ viết nên.

phân tích nhận xét của đại cao – mẫu 11

vua lê thanh tông đã từng nói: “lòng trai dậy ánh sáng rong ruổi”. Nhiều năm qua, Nguyễn Trãi được mọi người nhớ đến và đánh giá là nhà văn, nhà thơ lớn của Việt Nam, nhà tư tưởng, nhà chính trị lớn của dân tộc Việt Nam thế kỷ XV. các tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa tư duy ngay thẳng, lòng yêu nước với lập luận sắc bén, mạch lạc, lời văn hùng hồn, thuyết phục, lấy ý dân làm gốc.

một trong những tác phẩm của ông thể hiện rõ điều này là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. tác phẩm ra đời khi le loi lên ngôi hoàng đế, gọi là thụy miên (có tâm với trời) và ce nguyen trai. báo cáo với toàn dân rằng cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược đã thắng lợi vĩ đại, đất nước ta bước vào thời kỳ xây dựng hòa bình.

pan ngo dai cao là một luận văn chính luận tóm tắt một cách chặt chẽ và súc tích cuộc khởi nghĩa lam sơn, trên cơ sở nhiệt thành yêu nước và ý thức dân tộc, dân tộc mới sâu sắc. bao trùm lên phóng sự là niềm tự hào vô bờ bến về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến và khí phách của dân tộc Việt Nam. Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã cho rằng cuộc chiến đấu này là vì lợi ích của nhân dân:

đã từng nghe: cốt lõi của lòng nhân từ là giữ mọi người

nguyen trai viết từ tận đáy lòng mình chứ không phải chỉ là cách nghe. Theo đạo đức Nho giáo cổ đại, nhân nghĩa là điều mà mỗi con người phải có, nó được thể hiện ở cách cư xử đối xử tốt với người khác. ở nguyễn trai, tính nhân văn đã nhân lên một tầm cao hơn và còn mở rộng hơn nữa: đó là quan tâm đến mọi người, giúp đỡ mọi người – con người ở đây nói với một ý nghĩa bao trùm cả thế giới.

tác giả kể “yên dân” như để khẳng định tôn chỉ “lấy dân làm gốc” là quy luật bất khả xâm phạm trong mọi thời đại – nhân dân là hạt nhân, là tài sản, là sức mạnh, là sức sống của cả một dân tộc. nhân nghĩa cũng “trừ gian diệt bạo”, bạo ngược là quân vương triều, ác nhân chuyên ức hiếp thiên hạ. Có thể thấy, Nguyễn Trãi đã coi ‘dân’ là rường cột của một quốc gia, người chèo thuyền cũng là dân, người lật thuyền cũng là dân. ý tưởng này tuy đơn giản nhưng mang một ý nghĩa sâu sắc.

trong các cuộc kháng chiến, nhân dân đã đóng vai trò quan trọng quyết định thắng bại của cuộc kháng chiến đó. nếu dân mạnh, lòng dân yên thì chắc chắn sẽ chấm dứt mọi sự tàn bạo của kẻ thù. Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hẹp hòi mà trở thành lý tưởng xã hội. điều quan trọng hơn là ở đây, nguyen trai đã nâng lý tưởng, tình cảm đó lên thành chân lý.

Ông không nói về loài người một cách chung chung, mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn, tác giả đã đi vào một nhận định cốt lõi cơ bản nhất, trọng tâm nhất và có giá trị nhất. không chỉ vậy, lòng nhân đạo còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

giống như đất nước Đại Việt của chúng ta trước đây ……….

mọi người đều có một kiệt tác.

khẳng định chân lý này, nguyễn trai đã đưa ra một quan niệm được coi là đầy đủ nhất thời bấy giờ về các yếu tố cấu thành một quốc gia độc lập. nếu 400 năm trước, ở Nam quốc sơn hà, lý thương kiều chỉ xác định được hai yếu tố lãnh thổ. và chủ quyền trên cơ sở ý thức dân tộc và độc lập dân tộc, trong bình cúc họa mi, nguyễn trai đã bổ sung thêm bốn yếu tố là văn hóa và lịch sử, lịch sử, phong tục và nhân tài.

Để nêu bật lập trường độc lập, tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng lối nói sóng đôi. Đại Việt và Trung Quốc đã tồn tại cùng thời gian qua nhiều thế hệ. nền “khai hóa” đất nước phương Nam do dân tộc Việt Nam gây dựng, trải qua bao thăng trầm, tàn khốc, mất mát của chiến tranh. đất, núi, sông, đồng ruộng và biển cả được phân chia rõ ràng. phong tục tập quán cũng như văn hóa của mỗi miền nam bắc cũng khác nhau.

ở đây, nguyen trai nhấn mạnh rằng cả china và dai viet đều có những đặc điểm riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi, xóa bỏ. cùng với đó là từng triều đại để khẳng định chủ quyền của mình. Qua câu thơ, nguyễn trai đã đặt triều đại “triệu, định, ly, bình” của ta ngang hàng với “hán, tang, tông, nhân dân tệ” của Trung Hoa, điều đó cho chúng ta thấy, không tự cao tự đại, có lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ. , không thể có một sự so sánh vô cùng hoa mỹ và tinh tế như vậy. cuối cùng là tài năng, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định sự độc lập của chính mình.

Tuy thời thế “mạnh yếu khác nhau” nhưng anh hùng vẫn luôn ở đó, bài thơ như một lời cảnh báo cho những ai, những nước nào muốn thôn tính đại việt. Để tăng thêm sức thuyết phục gấp bội, Nguyễn Trãi đã dùng nhiều từ ngữ chỉ sự hiển nhiên cố hữu trong việc khẳng định sự tồn tại của Đại Việt: “trước sau”, “lâu đời”, “chia cắt”, “cũng khác”. .

Nghệ thuật thành công nhất của đoạn đầu – cũng như đoạn văn – là thể thơ lục bát được nhà thơ khai thác triệt để. khẳng định nền độc lập và ý thức hệ của mình, nó chỉ ra những cuộc chiến tranh trước đây. ở đây với phương bắc trong lịch sử đều thất bại:

do đó: hãy cứu cung điện khỏi lòng tham mà anh ta đã thất bại … bằng chứng vẫn còn được ghi lại.

Trong bài thơ này, Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giữ gìn nền độc lập tự do cho Tổ quốc. cách đưa ra lời khai rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chân thực, hào hùng, thể hiện niềm tự hào và tự hào về đất nước.

nội dung được thể hiện bằng các thuật ngữ rất giống nhau. tuy nhiên, nếu để ý cán cân, tác giả dường như càng muốn đặt nặng hơn vào đại việt từng chiến công hiển hách của quân và dân ta: “ham tu”, “bach đăng”, .. thêm vào đó là sự khinh bỉ, căm thù trước thất bại của quân xâm lược không biết tự lượng sức mình: “lưu cung… tham công tiếc việc”, “triệu phú… như điếu đổ”, cỗ xe làm gì. Ôi mẹ ơi, ai cũng phải chết một cách thê thảm.

câu ca dao một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là nước có nền độc lập tự chủ, có tài năng và tướng giỏi không thua kém nước nào. tất cả những trang sử vẻ vang và hào hùng ấy đã được sử sách của chúng ta ghi lại một cách cẩn thận, không thể phủ nhận và không ai có thể thay đổi được. Xuyên suốt bài Đại Cáo Bình Ngô đại cáo, ngòi bút của Nguyễn Trãi thể hiện rõ tấm lòng hiếu dân. hết lòng thương dân, thương xót những bi kịch mà đội quân điên cuồng lợi dụng, vì kẻ ác vẫn bán nước vì vinh quang.

Lợi dụng tình hình chính trị rối ren, kẻ thù cấu kết với Việt gian bán nước, cướp nước điên cuồng, xâm phạm chủ quyền quốc gia, và còn phạm nhiều tội ác: tra khảo dân đen trên đỉnh núi. lửa chôn cậu bé đỏ hỏn trong hầm tai họa Đọc sử sách xưa ta thấy hai câu trên không phải là cách diễn đạt cường điệu chút nào mà là sự thật: giặc rất ác liệt, chúng thường rút lui. ruột người treo trên cây, nấu xác chết. Với dầu mỡ để thắp đèn, họ đôi khi có những câu hỏi thú vị về những người vô tội.

ngoài ra, kẻ thù còn thực hiện một hệ thống cống nạp mạnh mẽ để cướp đoạt của cải (người dân buộc phải lặn xuống biển tìm ngọc trai, mệt mỏi thay thế cá mập, được đưa lên núi để tìm cát vàng, thật khốn nạn rừng sâu và nước độc). lòng tham vô đáy, chúng đã gây ra bao đau thương cho nhân dân ta lúc bấy giờ, sản xuất đình trệ (nông nghiệp, ngư nghiệp phân tán), cuộc sống của người dân bị hủy hoại không còn gì bằng (bị tiêu diệt hết các loài côn trùng, cây cỏ), đẩy con người đến cảnh đìu hiu, khốn khổ (nhún vai thay của góa phụ bất tận) …

Tội ác của giặc cộng dồn đến nỗi có chặt hết tre rừng cũng không tài nào ghi hết, khiến trời đất không dung, thần dân cũng đành chịu. anh đã vạch trần bản chất thật của kẻ xâm lược bằng những câu nói đầy tức giận và bi thảm. đau đớn và căm thù, nhân dân Đại Việt phải cùng nhau đứng lên.

Ta ở đây: núi lam là nghĩa trỗi dậy ………… ..là lúc giặc mạnh.

Tập trung khắc họa hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát một cách trọn vẹn những phẩm chất tiêu biểu nhất của người yêu nước thế kỉ XV. đặc điểm của những con người yêu nước trong văn học giai đoạn này thường có những đặc điểm sau: xuất thân bình thường; anh bước đầu gặp nhiều khó khăn nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì; biết tập hợp, đoàn kết toàn dân; biết sử dụng tài tình các chiến lược và chiến thuật; biết giương cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động. Có thể nói, le loi là hình ảnh tiêu biểu của những người yêu nước, dám hy sinh thân mình để đối mặt với giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc.

Tinh thần và quyết tâm cao như núi, nhưng buổi đầu khởi nghĩa gặp rất nhiều khó khăn: quân giặc đông mà ta ít người, nhân tài khan hiếm như sao mai. , như lá mùa thu. có lúc bị vây hãm, lương thực hết, binh ít (khi linh sơn, lương hết tuần, quân huyện không có chi đội) … tuy nhiên nhờ sự kiên trì và quyết tâm. vượt qua khó khăn, nhờ sự cần cù lao động của các tướng lĩnh, nhờ sự đoàn kết toàn dân và chiến lược, chiến thuật đúng đắn …, chúng ta đã từng bước xây dựng được một lực lượng vững mạnh dẫn đến chiến thắng.

Đoạn sau, Nguyễn Trãi tập trung vào quá trình chiến thắng. Điều đáng chú ý, trên thực tế, từ lúc phất cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung vào một số trận tiêu biểu nhất của mỗi thời đại. Trong đoạn đầu của trận đánh lớn, tác giả có nhắc đến hai trận đánh ác liệt xảy ra ở Bồ Đằng và Trà Lân.

Đối phương hoàn toàn bị bất ngờ, lạc đường và bỏ chạy; quân ta nhanh chóng giành thắng lợi. ở đây, nguyen trai đã miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn nêu bật được cốt lõi của hai trận đánh, đó là những pha hãm thành bất ngờ. do đó, quân địch hoảng sợ, hoang mang, quân ta càng đánh càng hăng:

năng lượng càng nhiều, âm thanh càng lớn, tri âm càng to, càng khó nghe, tâm linh, bình an vô sự, chính đạo, nín thở tìm lối thoát

Trong đợt hai, quân ta mở chiến dịch thanh nghệ để đẩy mạnh ra bắc. Nguyễn Trãi đã nói về hai trận đánh có ý nghĩa chiến lược và được tiến hành vô cùng ác liệt, đó là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. địch huy động tổng lực sống chết cố thủ, ta quyết chiến quyết thắng; vì vậy, trận chiến trở nên vô cùng căng thẳng. Bằng cách phóng đại, nguyễn trai đã tạo cho người đọc ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của kẻ thù:

máu ninh kiều chảy thành sông, vạn dặm bị cuốn trôi. xác chết chất đống bên trong, bẩn thỉu hàng nghìn năm. phúc báo thù: tran hiep co dau lộ đầu. kẻ thù: ly luong phải chết.

Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung viết vào chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. đây là bản anh hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kỳ.

đinh tháng chín, liễu thang đưa quân ra khỏi sân khấu, tháng mười năm đó, miêu tả tách đường từ vân nam di chuyển.

nhưng tôi đã chuẩn bị tốt. hai gọng kìm của địch liên tiếp bị bẻ gãy:

Chúng ta trước điều nguy hiểm, chúng ta đã chém trúng mũi tên. sau đó, chúng tôi cử tướng chặn đường và cắt nguồn thức ăn.

sau đó, có một loạt các chiến thắng. lời văn háo hức như hơi thở của người viết, dòng chảy ào ạt như muốn hòa nhịp với cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân và những đợt tấn công dồn dập của nghĩa quân:

ngày mười tám, trận chi lang, thất chiến liễu, ngày 20, chiến yên, liễu trụ. Ngày hai mươi lăm, Bá tước Lương Minh đại bại và bị giết. Ngày hai mươi tám, Tể tướng Lý Khanh. cùng một người thừa kế.

Sau đó, báo cáo tập trung vào một trọng tâm cụ thể của cảnh chiến trường. câu văn được biên soạn lại, súc tích, đầy hình ảnh phóng đại bên trái sức mạnh to lớn và khí thế ngút trời của quân đội ta:

người quân tử giỏi kén người dữ, chọn kẻ gieo nanh, mài gươm, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông cạn, đánh trận, sạch sẽ. và không có gì lạ, chiến đấu hai trận, và phân tán chim và chim.p>

Hình ảnh quân đội ta lúc này hiện lên với sức mạnh to lớn, ý chí kiên cường, tầm vóc oai hùng trong vũ trụ. khi chống giặc, họ càng chiến đấu càng hăng hái, khí thế ngút trời bởi trái tim luôn tràn đầy tinh thần yêu nước. đó là lý do tại sao quân đội của chúng ta đã đánh bại kẻ thù. lúc này quân giặc hiện ra thảm hại:

gió mạnh thổi bay lá khô, con kiến ​​đổ sập, tướng giặc bị giam cầm, như hổ đói vẫy đuôi cứu mạng, vu không giết được xác trời, ta mở đường tàn sát. , phò mã, hướng chính đưa năm trăm thuyền đi hồ còn hồn bay phách lạc. vuong thong, phò mã của họ, đã vận chuyển mấy nghìn con ngựa về nước nhưng tim vẫn đập và run.

Những “cái tên” không giấu được sự hèn nhát, tủi nhục: trần tri, sơn thọ, ly an, phò chinh, vỹ thông, ma anh… tất cả đều tạo nên một cảnh chiến trường tuy loạn lạc. sáng kiến ​​hoàn toàn thuộc về phe chính nghĩa. quân giặc hỗn loạn, sợ hãi, tên nào cũng thảm hại vô cùng. nhưng dân ta yêu hòa bình, không thích cảnh quân tử:

Họ tham sống và sợ chết, nhưng để hòa bình thực sự, tốt hơn hết là nên nắm toàn bộ quân đội và để mọi người yên nghỉ.

kẻ thù “tham sống sợ chết”, ta không hết tình. ở đây thể hiện quan điểm của nguyễn trai “dù con cũng bạo”. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì phải trả giá bằng mạng sống, ông luôn bày mưu sát phạt, dùng chính văn với hơn 10 quân tử để tránh đổ máu, thu phục lòng người. với các tướng bại trận của giặc, được tha bổng và giúp về quê, không giết hại: trong lòng thiên lương, ta mở đường báo hiếu để giữ yên thái bình.

Chúng ta thấy rằng Nguyễn Trãi quả là một người nhân hậu, có tấm lòng nhân hậu, bác ái và cao cả! Bài báo kết thúc. những lời cầu nguyện thay đổi với tốc độ chậm rãi, thong thả và trang nghiêm. giọng nói nhẹ nhàng, vui vẻ và bình yên từ đây. Giang sơn từ đây đổi mới. nhưng niềm vui không ồn ào. tác giả hiểu rõ hơn ai hết cái giá phải trả của chiến thắng, và lòng biết ơn sâu sắc của đồng bào và tổ tiên thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. từ đây dân tộc bước vào kỷ nguyên mới. độc lập, tự do và hòa bình đã trả lại cho tất cả các nước.

Đoạn văn dựa trên những quy luật cần thiết của tự nhiên mà khái quát những điều cần thiết trong xã hội. xã hội phải đối mặt với những “đổi thay” mà vũ trụ cũng “xấu rồi xấu”, như mặt trời và mặt trăng “hối hận rồi lại qua”. và dường như chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa của hình ảnh đất nước đang gặp khó khăn, mới hiểu được thế nào là “hòa bình vững chắc mãi mãi”.

Đất nước đã hòa bình, hình ảnh đất nước trong tương lai ổn định và tươi sáng: “Biển yên muôn phương, muôn ánh đèn mới”. bài phóng sự cũng được viết với nghệ thuật đặc sắc: văn xuôi hùng tráng, hơi thở thơ như vũ bão, như sóng lớn, lời lẽ sắc như dao chém quân xâm lược, kết hợp tương phản với cấu tứ. nhịp điệu mạnh mẽ thể hiện hết những cung bậc cảm xúc dạt dào trong huyết quản của tác giả ngay cả trong những ngày nghĩa quân lam thắng trận.

Bản báo cáo đã ghi lại một thời kỳ đau thương và oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân đồng minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn, sáng tạo đã đem lại những trận đánh kinh hoàng, khiến kẻ thù phải khiếp sợ, dẫn đến thất bại toàn diện và nhục nhã. . binh ngo dai cao xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước.

Tóm lại, tác phẩm Đại cáo là chứa chan cảm hứng trữ tình và mang đậm chất anh hùng hiếm có. vì vậy đoạn văn có giá trị vô cùng sâu sắc đối với đất nước ta, khẳng định dân tộc ta có ý thức độc lập và nhân văn rất riêng. bài thơ giúp chúng ta hiểu được chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử chiến đấu hào hùng của ông cha ta xưa, từ đó bồi đắp lòng yêu nước, tự hào dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.

phân tích tác phẩm Đại bình phong – mẫu 12

Sau khi cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm thành công vào cuối năm 1427, Lê lợi đã lệnh cho Nguyên trai biên soạn Đại cáo bình ngoại để tổng kết một chặng đường lịch sử, ôn lại những năm tháng gian khổ, những chiến công hiển hách và vang danh khắp thị xã. . các tác phẩm được viết dưới hình dạng của một con cáo có nguồn gốc từ Trung Quốc từ thời cổ đại.

đây là một thể loại văn chính luận, một văn kiện chính sử có tầm quan trọng lịch sử đã được ghi vào sử sách Đại Việt sử ký toàn thư (1479). cũng như nhiều tác phẩm khác của thời trung đại, tên báo không phải do le loi hay nguyen trai lập mà do người đời sau thêm vào.

thật ra, trong sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi rõ: Cuối tháng 12 năm Định mệnh, “vua bình định được giặc Ngô, đại cáo của. thế giới, báo cáo đã được viết … ”. nhờ đó, tinh thần “ham tiền lớn” cũng đã được ghi nhận từ rất sớm và đi vào tâm trí của nhiều thế hệ độc giả. nhưng tại sao người xưa không nói là “bình thiên hạ” mà là “bình ngô đồng”? bản thân chữ “ngô” không phải là cách gọi giặc phương bắc hay mượn cách diễn đạt đơn giản “giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng” mà mang một ý nghĩa sâu xa hơn. >

Nguyên nhân là do người sáng lập nhà Minh, tên là Chu Nguyên Chương, trong sáu năm trước khi lên ngôi, Minh Thái Tổ đã từng xưng là Ngô Vương. Vì vậy, việc dùng từ “ngô” ở đây là để gọi tên tổ tiên của triều đại nhà Minh và thể hiện thái độ coi thường kẻ xâm lược. ngay cả với tổ tiên của mình được đặt tên như vậy, có gì sai khi coi thường vua Tùy Tông đang cai quản: “con nhà tuyen đức, vận động liên tục – điều xấu hổ, thăng quan lấy dầu chữa cháy”…

Tiếp cận bài đại cáo về ping ngo, độc giả hiện đại ngày nay cần lưu ý rằng đây là tác phẩm văn học tiêu biểu của thể loại chính luận thời trung đại. Về hình thức, tác phẩm được viết theo lối chữ Hán, gồm 74 liên kết (148 câu), bồi đắp thế mạnh của thể thơ tứ tuyệt, giá trị biểu cảm, ý nghĩa trong từng câu, từng khổ, tạo nên sự hùng tráng. bài hát . Quan trọng hơn, tác phẩm có ý nghĩa kết tinh truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm và những nét đặc sắc trong tư tưởng, quan niệm, nhận thức của nhân dân thời trung đại trên nền tảng lịch sử, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc.

Rõ ràng, báo cáo được viết theo lệnh của nhà vua và thay mặt nhà vua tuyên bố với thần dân, nên mọi nội dung đều phải thể hiện được tiếng nói của nhà vua trong vai trò trị vì. toàn bộ nội dung của tác phẩm Đại náo bình dị toát lên tinh thần nhân nghĩa thuận theo mệnh trời, đạo trời; Hành động của nhà vua phù hợp với ý nguyện của trăm họ, biến thành sức mạnh đánh tan quân xâm lược.

Cần lưu ý rằng ngay từ câu mở đầu của báo cáo, người ta nhấn mạnh rằng vai trò của người cai trị, của người có trách nhiệm, của bề trên, người quan tâm và chăm sóc cho tất cả các dân tộc: “hành động công chính bao gồm sự bình yên của nhân dân. ” quan niệm “nhân nghĩa” nên hướng đến “thiên hạ thái bình” (làm cho thiên hạ thái bình) cho thấy chủ đề “lòng nhân ái” không thể là đại đa số, mà chỉ có thể là việc lớn của giới trí thức và vua chúa. Chúa Trời. Có thể nói đây là một quan niệm tiến bộ nhưng vẫn không thể vượt qua được những quy luật và hạn chế tất yếu của lịch sử.

Khi tiếp cận Đại cương bình ngoại nói riêng, cũng như tất cả các tác phẩm văn học trung đại, cần đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử, văn hóa đương thời để hiểu đúng nội dung và cảm nhận đầy đủ các giá trị tư tưởng. . và sự tiến bộ về tư tưởng so với quá khứ. Ngoài ra, cũng cần đặc biệt lưu ý đến đặc điểm “văn – sử – triết bất phân biệt” đã được thể hiện rõ trong báo cáo.

những đặc điểm nổi bật của văn học so với tư tưởng lịch sử (ghi chép sự kiện, nhân vật, địa danh dưới dạng biên niên sử, tuyến tính thời gian, …) và triết học (quan niệm nhân sinh, thiên mệnh, số mệnh, thiên thời, địa lợi, nhân hòa). – trái đất – con người, v.v.). với đại bình ngo, dưới góc nhìn của một loại hình văn hóa trung đại vừa sâu sắc, vừa liên ngành, vừa khái quát, vừa khái quát, sẽ giúp người đọc phát hiện đúng những giá trị nội dung, nghệ thuật độc đáo, đa diện và phong phú của làm việc.

Trong phần mở đầu, báo cáo khẳng định nền độc lập, tự chủ và truyền thống lâu đời của dân tộc do sự khác biệt về văn hóa, lãnh thổ, phong tục tập quán và ý thức về bản thân. Nguyễn Trãi đã khái quát phẩm chất của người cai trị phải biết lấy hoà bình dân tộc làm cốt, trọng lòng thương dân, tôn trọng công lí, mọi việc làm đều phải hướng về lòng nhân hậu, giúp đỡ cho trăm họ. và các gia đình kiên quyết chống lại sự tàn bạo là nguyên nhân của cuộc nổi dậy và cũng là truyền thống của cả một dân tộc:

giống như đất nước ta trước đây, …….. nhưng mỗi thế hệ đều có một kiệt tác.

Từ lâu, các nhà nghiên cứu cho rằng bản báo cáo có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, đứng sau bản thứ nhất là bản ly thương kiết sử (?). định nghĩa kinh điển về dân tộc: “dân tộc là một cộng đồng gồm nhiều người, một khối ổn định, được hình thành trong quá trình lịch sử, ra đời trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một cấu trúc tâm lý chung thể hiện trong một nền văn hóa chung ”(từ điển triết học). .

nguyen trai cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của con người và sự tiếp nối của các thế hệ thiên tài, bất chấp mọi hung hãn, thắng bại, mạnh ai yếu. điều đó làm nên truyền thống yêu nước và dòng văn học yêu nước chủ đạo mà không thế lực nào có thể ngăn cản được. Từ việc ôn lại quá khứ xa xôi đến nhớ lại quá khứ gần, Nguyễn Trãi đã lý giải rõ nguyên nhân mất nước và tội ác của quân phiệt về mọi mặt: tàn sát dân lành, áp bức chúng sinh, sưu cao, hủy hoại nhân dân. môi trường sinh thái tự nhiên, phá hủy các ngành công nghiệp truyền thống, cướp bóc để thỏa mãn cuộc sống? sang trọng và thú vị … sau đó nó được khái quát hóa:

thật là độc ác, nam sơn tre không ghi hết tội, bẩn thỉu, nước đông hải không khử được mùi hôi. Chẳng lẽ trời đất sẽ chịu đựng được, ai bảo rằng ông trời có thể chịu đựng được?

p>

Trước tội ác của kẻ thù khiến cả trời đất, thần linh và nhân dân phẫn nộ, Nguyễn Trãi đã hóa thân vào vai tể tướng và kể về những ngày đầu nung nấu ý chí đánh giặc cứu nước. :

tôi đây: núi lam sơn dậy nghĩa, chốn hoang vu nương náu. ngẫm ra kẻ thù lớn, liệu họ có chung một bầu trời, căm thù kẻ thù nước thề không sống nữa …

Giọng thơ hoài cổ, đầy trăn trở, trăn trở và trở nên hòa quyện hơn ở tinh thần đoàn kết tứ phía, lòng trung kiên của những người quân tử bám núi, mưu lược chống giặc. kẻ thù:

Một phần căm giận sứ quân, một phần lo đường thủy khó khăn … người ta đóng bốn cối một nhà, dựng cọc tre, cờ sóng; tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa chén rượu ngọt nước sông. . đánh trận, dùng yếu chống lại mạnh, phục kích, hạ càng ít kẻ thù…

chỉ trong bản dịch, việc sử dụng lặp đi lặp lại các từ: “một phần tức giận … một phần lo lắng …”, “khi linh sơn giám đốc đã đi được vài tuần, khi quân khu không có. đội ngũ ”,… cho thấy mức độ căng thẳng trong suy nghĩ, cũng như khả năng đương đầu với mọi khó khăn, biến cố đang diễn ra nhanh chóng. lối suy nghĩ: “trời cố gắng cho mệnh lớn: ta nỗ lực vượt khó” thể hiện sâu sắc quan niệm triết học của Nho giáo về “cảm ứng thiên địa”, “thiên địa hợp nhất”, “thiên biến vạn hóa”, ” trời và người thay đổi “(trời và người được kết nối và cảm ứng, trời và người tạo thành một thể thống nhất; các nhà hiền triết có thể thay trời bằng cách hành đạo và dạy người).

Rõ ràng, đây là một lối suy nghĩ nằm trong truyền thống tư tưởng của Nho giáo về việc tôn sùng, thần thánh hóa, thần thoại hóa và vũ trụ hóa uy quyền của nhà vua. Trước khi tiếp tục tả xung hữu đột, Nguyễn Trãi một lần nữa khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, chính nghĩa của quân ta, nhất định sẽ đánh thắng kẻ thù có dã tâm, tàn bạo.

hoàn toàn tốt: cung cấp công lý tuyệt vời để đánh bại kẻ tàn ác, sử dụng lòng tốt để thay thế kẻ bạo lực.

đội quân mang “đại nghĩa” (chính nghĩa, đại nghĩa, cao cả) và “chính nghĩa”, hết lòng thương yêu, quên mình và quý trọng mọi người, tất yếu sẽ chiến thắng. từ đây, những địa danh gắn liền với chiến thắng (bo dang, tra lan, tay kinh, dong do, ninh kieu, ngon dong) và tên tuổi của những vị tướng giặc (trần tri, sơn thọ, ly an, phùng chinh, v.v.) tran hiep, l và luong) liên tiếp được nâng lên để phản ánh sức tiến công không thể ngăn cản của nghĩa quân:

chúng rút lui chờ đánh tan, giặc khôn kiệt sức không đánh mà chịu thua, ta định trừng trị, lòng dân có công. Tưởng họ biết hối cải nên đổi ý, nhưng họ vẫn tiếp tục gây gổ, âm mưu, thậm chí phạm tội …

Ở đoạn trước, Nguyễn Trãi đã cho rằng tư duy quân sự vừa mang tính chiến lược vừa là biểu hiện của nghệ thuật dùng quân tài ba. trong đó, từ mưu sát có nghĩa là “đánh xảo”, “tâm” có nghĩa là “đánh vào lòng người”. binh pháp cũ ghi: “trong việc dùng binh, chính sách cấp trên là hình phạt …, chính sách cấp trên là công lý”. Vấn đề là các sách cổ chỉ có hai từ mưu lược và công lý, mà không sử dụng các biểu thức của âm mưu và hình phạt. phải chăng nguyên trai đã dùng thủ pháp lật trang để câu thơ vẫn giữ được ý xưa mà lời ca vẫn mềm mại, âm điệu vẫn hài hòa “ngã phạt hai lòng, không tranh giành, không giấu diếm”.

nhưng có thể nguyen trai đã không trình bày nội dung của bộ óc theo nghĩa truyền thống (đánh vào lòng người), mà là sáng tạo và cập nhật nó trên bình diện con người theo cách mà bộ óc gồng mình “tim đập chân run”. . trái tim “,” tấn công bằng trái tim “, giải thích bằng trái tim nhân hậu, dùng lý lẽ để thuyết phục, khơi gợi và mở ra con đường sống cho đối phương. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi sự liên kết giữa hai từ này là một liên từ liên kết mà nó thể hiện sắc thái đối lập và toàn bộ câu có thể được dịch về phía trước: nếu bạn không chiến đấu, bạn sẽ đầu hàng, chúng ta sẽ chiến đấu với kẻ thù bằng cách chiến đấu, nhưng hãy tấn công bằng trái tim của bạn.

Tư tưởng lớn thể hiện ở chỗ, về lý thuyết ta đánh giặc thì xảo quyệt, nhưng về tình người, về nhân nghĩa, ta dùng trái tim để cảm hóa và mở mắt để kẻ thù hiểu rõ lòng người, đúng sai. là người đề cao lòng nhân từ và tích cực đứng trên đỉnh cao của lòng nhân từ để thấy hết hậu quả và than thở với suy nghĩ hẹp hòi của kẻ thù: “tưởng đã biết lễ sám hối, đã đổi ý, nào ngờ còn mưu, còn tội gây oan ”. Đó không phải là sự ngây thơ, ảo tưởng mà là lòng nhân từ cao cả của một nhà thông thái, từ một tầm cao con người vẫn muốn dọn đường cho kẻ thù, nhưng nếu anh ta vẫn cố chấp, tiếng nói của lý trí sẽ bị phá hủy một cách không thương tiếc.

nếu ở đoạn trước, tên người và địa danh xuất hiện riêng lẻ trong mỗi câu thơ, thì với phần sau hoàn chỉnh, nhiều câu thơ xuất hiện cùng lúc với thời gian, ngày tháng, tên người và tên từ. Trái đất. thậm chí ngay cả tên vương triều ming cũng bị vạch mặt và quát tháo, chỉ rõ hành vi phản quốc: “thằng nhãi khai đức, không ngừng điều động.” mặt khác, cách liệt kê thời gian theo trình tự thời gian tạo cảm giác về các sự kiện, sự việc thay đổi nhanh chóng. chiến công nối tiếp chiến công với đủ mọi cách đánh tan đồn diệt viện, chốt giữ nơi xung yếu, chặn đường cắt đứt nguồn lương thực. Có được thắng lợi đó là nhờ tinh thần đoàn kết, sức dân và ý chí đánh giặc:

một người lính tốt chọn một người đàn ông mạnh mẽ, anh ta chọn một người có nanh vuốt của mình. đánh một trận sạch sẽ không có bất ngờ, đánh hai trận tiêu diệt chim chóc …

Trong trận chiến khốc liệt này, bao nhiêu tên tuổi uy tín như bá tước, bộ tướng, đô đốc gắn liền với từng tên tướng giặc đã thất bại thảm hại. những hình ảnh ẩn dụ: đá núi mòn, nước sông cạn sạch như ý, chim muông bay tán loạn, lá khô trụi lá, đập sập, v.v … thể hiện sức mạnh ngang tầm vũ trụ, nghĩa là sự thành bại của kẻ thù được đo bằng những từ ngữ cụ thể. . , được thể hiện bằng những hình ảnh, động tác và hành vi chân thực, trần tục, trần tục: quỳ gối, dùng giá pháp, còng tay để được giúp đỡ, thi thể chất đống đầy đường, máu chảy đỏ cả mặt nước, hoảng sợ và vỡ mật, chạy qua nhau để trốn thoát, tan nát, khốn khổ, không kịp trở tay, cởi quần áo đầu hàng, hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, … những địa danh trên đất nước gắn liền với chiến công đánh giặc dẹp tan của quân ta, dẫn đến sự đồng cảm với tầm vóc của trời đất:

lung giang, lang sơn, xác chồng chất đầy đường; xương, than hồng, máu chảy đỏ và nước. khủng khiếp thay đổi màu của gió và mây, ảm đạm thay vì mặt trời và mặt trăng phải mờ …

Xuyên suốt phần trước, các câu văn dài ngắn đan xen, thay đổi linh hoạt tạo nên âm điệu như tiếng trống trận, lúc dồn dập, lúc ngân vang, lúc cao vút, lúc trầm buồn. Dễ dàng nhận thấy những cụm từ nói lên sức mạnh và khí thế quyết thắng của nghĩa quân Áo Lam thường ngắn gọn, mạnh mẽ, dứt khoát; những câu miêu tả sự thất bại của kẻ thù thường dài, có tính chất liệt kê, thuyết minh, thuyết minh. Đặc biệt, các thủ pháp nghệ thuật so sánh, tương phản, liên tưởng, cực tả giúp câu văn sinh động, giàu hình ảnh, dễ đi vào lòng người.

Sau khi đánh tan giặc, nguyễn trai một lần nữa đề cao tinh thần nhân nghĩa, đối xử đàng hoàng với kẻ thù ngay cả khi ở trong tình thế tột cùng: “thần không giết, lòng ta mở đường báo hiếu”. với tư tưởng sâu rộng của bậc hiền nhân, Người đã xác định rõ mục đích của việc hòa giải: “quân thích toàn quân, thiên hạ an dân” (suy cho cùng là toàn quân vì quân).<3 điều này thể hiện trí tuệ uyên bác của ông nhưng đồng thời cũng là bài học lịch sử mà chính ông đã chứng kiến. Là một học sinh trong thời kỳ làm nghề sơn mài, ông thấy rõ rằng cọc gỗ và lưới biển cũng vô dụng và sức mạnh của con người mới bất khả chiến bại: "thuyền lật thì dân trong như nước" (đóng cửa biển).

khi kết thúc, báo cáo trở lại nội dung chính thức và tuân theo các quy tắc của thể loại. câu thơ trở nên hoành tráng, chuẩn mực, hàm súc nhằm nhấn mạnh thời đại lịch sử đã bước sang trang mới và khẳng định sự trường tồn của dân tộc: “cộng đồng từ nay bền vững – giang sơn từ nay đổi lại … dĩ hòa vi quý – vạn sự nhục sạch ”. ngay trong phần kết luận này, tư tưởng hướng về các thế lực siêu nhiên của trời – đất – tổ tiên tiếp tục được nhấn mạnh: “Âu cũng cảm ơn tổ tiên thiêng liêng, sáng suốt của trời đất đã giúp đỡ chúng ta như thế này”.

Ở cả hai chiều không gian và thời gian, chiến công này sẽ còn vang dội mai sau và đem lại cuộc sống bình yên cho mọi miền đất nước: “áo bào chiến thắng, công lao nào mà có được. phương trời bình yên, biển trời bình yên, muôn nơi đổi mới ”,… tác phẩm Đại cao bình dị được coi là“ bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ”,“ thiên cổ hùng văn ”. “sử thi hùng tráng”, “văn kiện chính trị có tầm quan trọng lịch sử” và thuộc “thể loại văn bản hành chính của chế độ quân chủ”. .

Do tính chất chuẩn mực của một tác phẩm văn xuôi, các khía cạnh liên quan đến hình thức nghệ thuật thường ít có cơ hội được khám phá. hơn nữa, cách cắt nghĩa, cách hiểu và cách giải thích sâu sắc từng câu chữ của văn bản cho đến nay vẫn chưa được thấu đáo, đầy đủ và chính xác. tuy nhiên, chính nhờ lòng tự trọng của mình mà đại cao bình dị luôn tỏa sáng, mãi mãi thu hút mọi thế hệ yêu nước, yêu văn học Việt Nam.

Có thể nói, với một tác phẩm ngắn gọn, được viết theo lối viết ngẫu hứng, Đại cáo bình dị đã gây được tiếng vang vô cùng lớn, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần, bản lĩnh văn học, văn hiến và văn hiến dân tộc. Chính vì lẽ đó, tác phẩm đã được nhiều thế hệ đón nhận, khen ngợi, bình luận và đưa vào giảng dạy rộng rãi trong trường học.

phân tích tác phẩm Đại bình phong – mẫu 13

đọc thơ nguyen trai, xuan dieu cảm thấy: “Thi sĩ trán chạm mây, nhưng ruột thơ đốt một ngọn lửa hồng rất nóng.” Cái hay của thơ Nguyễn Trãi là ở chỗ, dù mang tầm vóc của một anh hùng dân tộc, nhưng ông vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi tính chân thực, thấm thía. một trong những tác phẩm đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ của ông là “truyện cổ tích anh hùng”, tức là “Cáo bình ngô đồng”.

vào cuối tháng mười hai, năm Đinh Mùi, “vua đã dẹp yên quân xâm lược và thiên hạ trở lại” (trích từ “Đại Việt sử ký toàn thư”), nguyễn trai đã viết báo cáo thay mặt le loi để tổng kết một hành trình, lịch sử, hồi tưởng lại những năm tháng gian khổ, những chiến công hiển hách và những phúc lành ban tặng cho muôn dân biết. Tác phẩm được viết dưới dạng tự sự, một thể loại văn học chính luận có nguồn gốc từ Trung Quốc thời trung đại và trình bày những sự kiện có tầm quan trọng lịch sử. báo cáo là sự kết hợp tuyệt vời giữa mục đích chính trị với nghệ thuật văn học, nơi giao thoa của hai nguồn cảm hứng: chính trị và sáng tạo nghệ thuật.

trước tiên, tác giả nêu ra luận điểm chính đáng của quốc gia.

luận điểm công bằng lần đầu tiên được thể hiện thông qua tư tưởng nhân văn ở phần đầu của bản báo cáo:

“Việc nhân nghĩa là ở yên dân, quân tử trừng trị trước bạo tàn”;

nhân nghĩa vốn là một tư tưởng của Nho giáo có ý nghĩa chính trị và đạo đức, dùng để chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người dựa trên tình yêu và đạo lý. quan niệm đó có ý nghĩa tích cực nhưng chỉ giới hạn trong những mối quan hệ cụ thể và hạn chế trong giới thượng lưu, chứ không phải là hệ tư tưởng cho tầng lớp “đỏ đen”. mà là một nguyễn trai, trên cơ sở đó đã kế thừa tư tưởng nhân văn tốt đẹp, và trên cơ sở đó cũng phát huy truyền thống đạo đức nhân hậu của dân tộc Việt Nam, trở thành một tư tưởng nhân đạo toàn diện: nhân nghĩa – yêu nước, thương dân – sợi chỉ đỏ đoàn kết tất cả các những suy nghĩ trong thơ anh; đường lối chính trị đúng đắn xuyên suốt sự nghiệp của Nguyễn Trãi: lấy dân làm gốc. với nguyen trai, điều cơ bản nhất của nguyen trai là “thôn nữ bất thành”. muốn giữ bình yên cho người dân, khi có kẻ muốn phá hoại cuộc sống của người dân, điều quan tâm đầu tiên của những vị quân tử nhân nghĩa và những người đã vì lòng thương dân mà nổi dậy là làm thế nào để diệt trừ bạo chúa. . đó là “ý nghĩa”. từ nơi mà mục đích rõ ràng của cuộc chiến bắt đầu: sự tàn phá tàn bạo vì lợi ích của con người. quan niệm về nguyễn trai đã có một tư tưởng phát triển vượt thời gian, cả trong chiến tranh và thời bình: luôn lấy dân làm gốc.

Tiếp theo, tác giả khẳng định sự tồn tại của độc lập dân tộc:

“Cũng giống như nước đại việt của chúng ta trước đây tự xưng là văn hiến lâu đời, núi sông chia cắt, phong tục nam bắc cũng khác nhau; ngoài triệu, dinh, ly, tran, nhiều đời đã xây dựng cơ đồ độc lập với han, lộ, tông, bên mạnh, bên yếu; Dù có những điểm mạnh và điểm yếu khác nhau, nhưng luôn có những người hùng. “

Đó là một sự thật lịch sử hiển nhiên: “trước sau như một, chia rẽ”. chủ quyền đất nước được thể hiện một cách sâu sắc, đầy đủ và toàn diện về mọi mặt: lãnh thổ, công dụng và phong tục tập quán, lịch sử thời đại, hiền tài. Với cảm hứng yêu nước và lòng tự hào dân tộc chính đáng, Nguyễn Trãi đã nói về đất nước một cách tài tình:

“thực hiện văn hóa của nhà nước”

Giọng nói có vẻ tự hào, hãnh diện. tự hào về lãnh thổ của mình, về nền độc lập với Trung Quốc, về “núi sông”: sông núi đẹp, rừng vàng, biển bạc, cánh đồng phì nhiêu mà tấc đất là một tấc vàng. thì sau này ở “quốc gia”, nguyen dinh thi ghi:

“Và khắp nơi trên đồng ruộng, gò đất không có bóng dáng, ước vọng, lối sống của tổ tiên.”

Chúng ta cũng tự hào về phong tục tập quán của chính mình, thể hiện sức mạnh dân tộc từ cái răng, cái tóc, từ cái ăn, cái mặc đến những bàn tay đan vào nhau trước bàn thờ tổ tiên; tự hào về giống nòi vinh quang, tinh hoa là hào kiệt. nếu như “nam quốc sơn hà” vẫn phải dựa vào sách trời, “tướng ông” dựa vào lợi ích của tướng quân, thì “ngô đại cáo” lại dựa vào nhân tố lịch sử muôn đời, cao cả, cố gắng. . tư tưởng độc lập dân chủ toàn diện, tiến bộ và sâu sắc, có sức thuyết phục lớn.

tiếp theo, nguyễn trai suy ngẫm về luận điểm chính đáng trong thực tế lịch sử để thấy rằng: kẻ thù đã làm những hành động bất nghĩa. đứng ở tư thế nhân nghĩa với nhân dân, tác giả đã theo dõi toàn bộ chặng đường 20 năm đấu tranh, giọng kể như bị bóp nghẹt, căm giận. những cụm từ đầy máu, nước mắt và lòng thương xót vô hạn:

“thiêu rụi người da đen trong ngọn lửa khốc liệt, chôn vùi đứa con còn đỏ hỏn của họ dưới hầm, tai họa, lừa gạt dân chúng, muôn ngàn âm mưu, gây thù hận, chấm dứt hận thù hàng chục năm, đánh bại nhân loại, hủy diệt trời đất. / p>

nguyễn trai đã vẽ nên bức tranh về nỗi thống khổ của nhân dân khi giặc ngoại xâm: người lên núi tìm vàng, người xuống biển tìm ngọc, cảnh ly tán, con cái, cái nghèo: Vợ mất chồng, con mất cha, những khó khăn quá lớn đã đẩy con người ta vào cảnh điêu đứng, nghề nghiệp bị hủy hoại, … hơn thế nữa, họ còn hủy hoại sự sống và sinh linh. Để viết được những câu văn ngắn gọn như vậy, Nguyễn Trãi chắc hẳn đã phải kìm nén rất nhiều nỗi đau mới có thể nhìn thẳng vào sự thật mà nung nấu tận xương tủy. 16 câu thơ là những trang viết đầy máu và nước mắt, không ngừng nghĩ về đất nước và con người trong những giờ phút bi tráng. không phải tất cả, tác giả phải nén lại thành hai câu văn giàu sức khái quát:

“khùng, trúc sơn không ghi hết tội, là bẩn, nước đông hải không khử được mùi!”

và tác giả tuyên bố, chúng tôi chiến đấu để bảo vệ công lý thông qua cuộc nổi dậy. chặng đầu gắn với hình ảnh thủ lĩnh le lói, linh hồn của cuộc khởi nghĩa. vị tướng xuất thân bình dân, nói năng khiêm tốn, có chí khí ở nơi xa, có quyết tâm, ý chí và lý tưởng chiến đấu: có những chiêm nghiệm. tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong những điều kiện vô cùng khó khăn: quyền lực không cân bằng, người tài, binh lính và đồ dùng cá nhân đều thiếu thốn. nhưng chiến thắng bằng ý chí kiên cường, le loi vẫn thu phục được lòng người tạo nên một khối đoàn kết:

“Dân tứ xứ có nhà, giương cao lũy tre, phất cờ, quân tử, phụ tử, chén rượu ngọt nước sông.”

>

và những người nổi dậy núi xanh đã mang lại sức mạnh phép thuật cho trận chiến:

“Đấng công bình vĩ đại đã chiến thắng oanh liệt, ngay cả đứa trẻ loài người cũng hung dữ và bạo lực.”

tác giả dùng một đoạn văn dài để nói về cuộc kháng chiến – khúc ca khải hoàn về những chiến công oanh liệt, bất ngờ với cảm hứng chủ đạo là lòng tự hào, tự tôn dân tộc:

“trận bo đăng sấm sét, lũy tre miền chẻ tro tàn … gươm mài đá mòn, núi đá cũng mòn. Voi uống nước, nước sông cạn phải chiến đấu một trận đánh, sạch không vô ích, thắng hai trận làm tan xác chim chóc… gió mạnh thổi bay lá khô, con kiến ​​rỗng sụp đổ. ”

những câu thơ sử dụng một loạt các động từ mạnh nối tiếp nhau để tạo ra những rung động nhanh chóng. bài thơ được viết ngược với kỹ thuật đối lập, nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm, dạt dào cảm xúc tạo nên khúc ca khải hoàn.

làm thế nào để kết thúc chiến tranh, khi quân thù bị đẩy vào thế cùng cực, những người lãnh đạo đã khôn ngoan kết thúc chiến tranh trong hòa bình để mở ra con đường báo hiếu. nó cũng là một biểu hiện của con người.

cuối cùng, kết luận của nguyen trai:

“Cộng đồng ở đây sẽ bền vững, từ đây biến đổi thành một thế giới mới, sau đó mặt trời, mặt trăng sẽ sám hối và sau đó họ sẽ nhìn thấy một ngàn năm trong sạch và vĩnh viễn cốt nhục, a hòa bình ổn định, âu cũng là nhờ tổ tiên linh thiêng đã âm thầm phù hộ cho chúng ta. ; ”

giọng điệu trang trọng, lời lẽ trang nghiêm, lời khẳng định lặp đi lặp lại: “từ nay về sau ổn định”. Nguyễn Trãi vui mừng báo tin đã khai mở niềm tin vào tự do dân tộc, khẳng định tương lai tươi sáng của đất nước, tràn đầy lạc quan.

có thể nói, “lọ lem ngô da cáo” là bản anh hùng ca vang dội trong cuộc kháng chiến chống nghĩa quân, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai, đánh dấu bước phát triển về tư tưởng và ý thức so với bản tuyên ngôn đầu tiên của ly Thường. một kiệt tác. với văn học trung đại Việt Nam, phóng sự là một chính luận xuất sắc trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa lý luận chính luận và phẩm chất văn học, giữa tư duy lôgic và tư duy tượng hình.

..

chúng tôi mời bạn tải xuống tệp để xem thêm phân tích về dai cao

Tham khảo: Tính chất hóa học của Cacbon Oxit (CO) Cacbon Đioxit (CO2) Ứng dụng và Bài tập – Hóa 9 bài 28

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích tác phẩm bình ngô đại cáo. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *