Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
735 lượt xem

Phân tích truyện ngắn Lão Hạc ngắn gọn (9 mẫu) – Văn 8

Bạn đang quan tâm đến Phân tích truyện ngắn Lão Hạc ngắn gọn (9 mẫu) – Văn 8 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích truyện ngắn Lão Hạc ngắn gọn (9 mẫu) – Văn 8

Văn mẫu lớp 8: Phân tích truyện ngắn Hạc Nam gồm dàn ý chi tiết kèm theo 9 bài văn mẫu giúp các em học sinh tham khảo viết bài văn mẫu phân tích đàn hạc hay hơn.

lão hạc là một truyện ngắn đặc sắc và đặc sắc của con người cao cả viết về đề tài người nông dân trước cách mạng. câu chuyện chan chứa tình người, xúc động với nỗi buồn khi tác giả kể lại cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau thương của hạc. vậy hãy theo dõi bài viết dưới đây từ download.vn:

phân tích sơ đồ truyện ngắn Lão Hạc

  • i. giới thiệu
  • đôi nét về nam cao: một nhà văn hiện thực xuất sắc
  • tóm tắt tác phẩm Lão Hạc: thể hiện chân thực và xúc động về số phận đau thương của người nông dân xưa xã hội phong kiến ​​và tôn vinh những phẩm chất cao quý của nó qua hình tượng lão Hạc

ii. nội dung bài đăng

1. nhân vật lão hạc

a. tình cũ hạc

  • một người nông dân già yếu, neo đơn ⇒ hoàn cảnh bi đát
  • vì nghèo, ông định bán cậu vàng, kỷ vật của con trai, người bạn thân của mình và chọn con đường đi. cho đến khi tôi kết thúc.

b. tâm trạng của hạc xung quanh việc bán cậu vàng

– cậu vàng là chú chó cần cẩu mà cậu rất yêu thích:

  • cho ăn bằng bát lớn bằng bát của người giàu; ăn gì thì cho chúng ăn chung
  • lúc rảnh rỗi thì dắt ra ao tắm, bắt chấy
  • mỗi lần uống rượu anh lại cắn vài miếng và đưa mảnh. như thể mọi người mang đồ ăn cho tôi.
  • liên tục nói với cô ấy về cha cô ấy, sau đó nói với cô ấy, ôm cô ấy.

– quyết định bán con chó vàng là một việc rất khó khăn, một việc quan trọng ⇒ suy ngẫm, nghi ngờ, suy nghĩ mãi

– tâm trạng, biểu cảm khi bán chó:

  • cười như thánh thót, mắt ầng ậng nước
  • khuôn mặt cô chợt co rút lại, những nếp nhăn tụ lại buộc nước mắt chảy ra,
  • đầu nghiêng sang một bên bên cạnh, miệng gần như trẻ thơ
  • ông già đang khóc.

⇒ sử dụng từ tượng hình, từ tượng thanh dày đặc, liên tiếp ⇒ rất đau khổ, ăn năn, than thở, ngập tràn nỗi buồn.

⇒ lão Hạc là một người nông dân sống có tình có nghĩa, trung thành, rất mực trung thực

⇒ tấm lòng yêu thương của người cha nghèo.

c. cái chết của con sếu

– Anh ấy yêu cầu giáo viên 2 điều:

  • Chăm sóc mảnh vườn, khi con trai bạn trở về, hãy đưa nó cho nó
  • Lấy hết số tiền dành dụm được và nhờ ông giáo và hàng xóm làm ma cho nó nếu nó chết. .

– nguyên nhân: nhận thức sâu sắc, rõ ràng tình hình, không lối thoát.

– Mục đích: để giữ gìn tài sản cho con cái và không muốn làm phiền hàng xóm.

– vật lộn trên giường, đầu tóc xõa tung, quần áo xộc xệch, đôi mắt hằn vệt dài, ông già hú vía, sùi bọt mép …. ông già giật bắn người về phía sau … chật vật đi tới. giờ để chết

⇒ việc sử dụng dày đặc và liên tục các từ tượng thanh và từ tượng thanh ⇒ làm nổi bật cái chết đột ngột, bi thảm và dữ dội của con sếu

⇒ là người có lý trí sống cao đẹp, coi trọng danh dự làm người hơn sinh mạng; một người cha hết lòng yêu thương con cái, một người nông dân lương thiện, đoan chính, tự trọng.

2. tính cách của giáo viên

  • chúng ta có cùng nỗi khổ về nghèo đói; có cùng nỗi đau phải bán đi những thứ mình yêu thích nhất
  • thương cảm, thông cảm cho hoàn cảnh của lão Hạc, tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ lão.
  • lão một người hiểu đời, hiểu người, có tấm lòng vị tha cao cả

⇒ thầy là một trí thức chân chính, tôn trọng nhân cách, không mất niềm tin vào những điều tốt đẹp của con người.

iii. kết thúc

  • khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
  • nêu cảm nghĩ của mình qua câu chuyện này

phân tích truyện lão Hạc – mẫu 1

Nhận xét về cách viết truyện ngắn của Nam Cao, GS Hà Minh Đức viết: “Khi viết về những nhân vật này, ngòi bút của Nam Cao không lạnh lùng, khách quan mà gắn bó thiết tha; không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động … tác giả. tự coi mình là người trong cuộc “.

Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong truyện kể về những người nông dân phải trải qua những đau thương tột cùng, Giáo sư Hà Minh Đức viết: “Khi viết về những nhân vật này, ngòi bút của Cao Mân không lạnh lùng, khách quan mà chân thành gắn bó; không châm biếm, châm biếm mà chân thành và xúc động”. . Tác giả tự nhận mình là người trong cuộc. “Trong số tập truyện ngắn của Nam Cao, Lão Hạc là một điển hình cho phong cách viết về những người nông dân chịu thương, chịu khó.

viết về lão Hạc – nhân vật chính của truyện, một người nông dân nghèo khổ cực khổ – ngòi bút của con người cao cả đã thể hiện tình cảm thiết tha. khi chưa hiểu rõ cảm xúc của lão hạc thì giọng điệu của ông giáo dưới ngòi bút của nhà văn như đang viết về một loại chi phèo nào đó, nở mày nở mặt: “Nghe câu đã chán… nó nói nó nói về chuyện đó … thế quái nào mà lão có một con chó mà lão có vẻ lo lắng đến vậy? Có khi lão còn tỏ ra kiêu căng, coi thường người nghèo: “ông già đánh giá cao con chó vàng của mình thế nào so với tôi, và năm cuốn sách của tôi” .an lạnh lùng khách quan: Tôi nhìn nó một cách “hờ hững” để rồi mơ tưởng về một thời “đam mê”, tươi đẹp, chăm chỉ và đầy “hy vọng lớn lao”.

ta bắt đầu cảm nhận được một hình bóng đơn điệu của phố thị bình giáo trong lịch sử lâu đời: người lạnh lùng, sờ sờ sờ soạng… nhưng tác giả không dừng lại ở đó, ông đưa ra những trang viết về cảm xúc và Mối quan hệ của ông chủ với lão hạc từ từ tiến triển theo những lời kể của ông lão, khiến người đọc càng cảm nhận rõ hơn những rung động sâu xa của trái tim tác giả: con trai ông lão thất tình, bỏ vợ cao su, bỏ cái. cha vài đồng bạc để “ăn quà”, con chó và một mảnh vườn nhỏ bị mất, để cha trông chờ, dành dụm, dành dụm mà không biết bao giờ mới về! Vợ mất, con tha hương, một mình giữa tuổi già và cận kề cái chết. ngòi bút của nhà văn bùi ngùi, xúc động: “Ta già rồi mà ngày đêm lẻ loi, ai mà chẳng buồn”. Đó là lý do tại sao “khi tôi buồn, có một con chó làm bạn giúp tôi một chút”, để nói đến “ông già rơm rớm nước mắt”. Đến đây, cô giáo thốt lên: “Giờ tôi không còn thấy tiếc 5 cuốn sách của mình như ngày xưa nữa”.

trước những mối đe dọa rình rập, những tổn thất chồng chất, sư phụ đành phải an ủi lão cẩu, người mà chúng tôi nghe bao đau thương, xót xa: “lão cẩu! Ta có quyền ở lại một chút, lão cẩu có quyền gì không?” “. nên tác giả không thờ ơ, hiểu anh là người tốt, từng câu trần thuật như đong đầy cảm xúc: thương con, không nỡ bán chó – nỗi nhớ của tôi. nhưng rất tốn kém để gây quỹ và bạn không muốn chi tiêu số tiền bạn đã tiết kiệm được cho nó. nhưng cái khốn nạn cứ ập đến: “thị mất phiếu bầu”, “hạc không có việc làm”… xôn xao cứ ập đến. ngòi bút của nhà văn ngậm ngùi nhìn con hạc. trong cảnh khóc ròng vì bị bắt chó, nam thanh niên cao lớn bất ngờ bật khóc. ông giáo hỏi như để giấu nỗi đau: “có được phép bắt không”, rồi đau đớn chối từ, ông kết luận: “ở đời ai cũng thế thôi ông ạ!”, khổ ai cũng khổ, kiếp người thế thôi. không khác gì một con chó. nếu số phận của một con chó kết thúc bằng cái chết bi thảm, con người cũng không khá hơn, hung bạo hơn gấp trăm lần.

Nhà văn vô cùng đồng cảm với “những người cùng khổ”, ông muốn chia sẻ nỗi tủi nhục với họ, bởi “một chút vuốt ve, một chút yêu thương cũng đủ để nuôi sống họ” (thal blue). nhưng vị cao nhân còn sâu sắc hơn, ông tức giận vì cuộc đời tồi tệ đã cướp đi bao nhiêu người lương thiện như loài hạc, nên ông đã lấy một sợi lông mà khóc cho những con người đang tranh nhau sống chết.

phân tích truyện lão Hạc – mẫu 2

Nam cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực trước cách mạng. các tác phẩm của ông được sáng tác về hai chủ đề chính là trí thức và nông dân, nhưng thành công lớn nhất của ông là khi viết về đề tài người nông dân. Khi viết về người nông dân, các nhà văn có xu hướng tìm tòi, khám phá những vẻ đẹp, phẩm chất nằm sâu trong con người của họ. câu chuyện về lão hạc là một tác phẩm như vậy.

Ngay từ đầu, nhân vật lão Hạc có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao quý tiêu biểu cho người nông dân. số phận của lão Hạc cũng là số phận chung của bao người nông dân trước cách mạng. vợ mất sớm, anh ở vậy, gà trống nuôi con. chàng trai lớn lên vì không cưới được người mình yêu nên giận dỗi bỏ nhà ra đi. ông lão ở một mình với đứa con vàng, một kỷ niệm do đứa con trai để lại. nhưng cuộc đời anh ngày càng bi đát, anh bệnh tật, chắt chiu dành dụm cho con nên anh đành phải bán cậu vàng – một người bạn ở bên để vơi đi nỗi buồn khi anh phải xa con. . khi bán ông lão vô cùng đau đớn, ân hận. sự ăn năn ấy được thể hiện qua cách miêu tả đặc sắc: cười như mếu, mắt ngấn nước, mặt bỗng nhăn lại, đầu nghiêng sang một bên, miệng thụp xuống như một đứa trẻ, khóc hu hu. hoàn cảnh của anh quá bất hạnh, anh luôn sống dằn vặt, tự làm khổ mình.

nhưng ẩn chứa trong đó là những phẩm chất cao quý của một người nông dân lương thiện. anh là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương ấy được thể hiện ngay cả với một loài vật: anh gọi chú chó là cậu vàng, anh nịnh nọt như một đứa trẻ, anh chăm sóc cậu vàng rất tốt: anh cho nó ăn buổi sáng anh ăn một bát như một phú ông không những thế còn nói chuyện, mắng nhiếc cậu vàng, cậu vàng làm cho ông bớt cô đơn, bớt nhớ nhà thương con. Tình cảm sâu nặng của ông đối với chú vàng đã bắt nguồn sâu sắc từ tình yêu thương của lão Hạc dành cho con trai, con chó là kỷ vật thiêng liêng mà người con đã để lại cho ông trước khi ông lên đồn điền cao su.

tình cha con trong lão Hạc cũng vô cùng sâu nặng và thiêng liêng. do nghèo không lấy được vợ cho con, khổ nhiều nên bao nhiêu tiền kiếm được anh đều dành dụm cho con, anh chịu đựng cực khổ, anh mặc cho người ta chửi, nhưng anh nhất định không chịu tiêu tiền. . của trẻ em. sau khi ốm nặng anh ấy chỉ ăn khoai tây, mọi người ăn chuối, rồi anh ấy ăn sung nấu chín, củ kiệu, củ kiệu, ý tôi là anh ấy ăn gì thì ăn, v.v … và cuối cùng anh ấy lo lắng về việc tiêu hết tiền cho. con trai ông, vì vậy ông đã chọn cái chết để bảo toàn tài sản của con trai mình. Cái chết đau đớn của con sếu xuất phát từ tấm lòng thương con thầm lặng nhưng rất đỗi thương tiếc.

Dù nghèo khó nhưng anh ấy luôn giữ vững phẩm giá của mình. anh không nhận sự giúp đỡ của ai, kể cả khi cô giáo đề nghị giúp đỡ, anh cũng hậm hực từ chối, vì anh hiểu hoàn cảnh gia đình của cô giáo cũng bấp bênh như chính mình. lòng tự tôn đó còn được thể hiện qua cách anh ta tìm đến cái chết. Trước khi mất, anh để lại tiền cho người thân lo ma chay, không muốn làm phiền hàng xóm. nó chết vì ăn mồi chó, một cái chết đau đớn và dữ dội như một lời tạ tội với cậu vàng. cái chết của hạc là sự khẳng định sức sống bất diệt trong nhân cách của nó.

Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm, ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. ông chủ thương cảm sâu sắc cảnh ngộ của lão Hạc: ông an ủi, động viên khi lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn cố gắng để lão vui vẻ lạc quan. ông cũng là người hiểu rõ nhất vẻ đẹp tính cách của con hạc: “không đời nào chưa hẳn buồn, hay vẫn buồn nhưng buồn theo một nghĩa khác”. nghĩa khác là con người có nhân cách cao quý nhưng phải chết một cách gian khổ, đau đớn và cái chết ấy càng làm cho nhân cách cao quý của người đó càng tỏa sáng.

nghệ thuật trần thuật xuất sắc: câu chuyện được kể bằng nhân vật tôi (ông giáo), người luôn ở bên cạnh lão hạc, làm cho câu chuyện chân thực, gần gũi, đồng thời dòng tự sự trôi chảy, tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện cho kết hợp miêu tả, tự sự và bình luận một cách tự nhiên, sinh động. giọng nói linh hoạt, thay đổi linh hoạt. nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, chuyển biến những bước ngoặt của truyện, giúp bộc lộ rõ ​​tính cách, phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một khía cạnh nổi bật của văn bản: nhân vật được thể hiện qua ngoại hình, ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, phản hồi của các nhân vật khác, nên sự thật là nội dung nhân vật trông chân thực và sinh động hơn.

Với nghệ thuật trần thuật độc đáo, ngôn ngữ giản dị, cao cả hấp dẫn đã cho người đọc thấy được bức chân dung về số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng, họ bị xô đẩy đến bước đường cùng là tìm đến cái chết. nhưng đằng sau đó còn là một bức chân dung tinh thần cao đẹp: giàu lòng yêu thương và nhân cách cao đẹp.

phân tích truyện lão Hạc – mẫu 3

Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng, “” Lão Hạc” là một truyện ngắn đặc sắc và đặc sắc của một nhà văn có tầm cao). một truyện ngắn đầy tình người, xúc động với nhiều nỗi niềm khi tác giả kể lại cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau thương của một lão nông nghèo. nhân vật lão hạc đã để lại trong lòng chúng ta nhiều kỉ niệm khi nghĩ về số phận con người, số phận của những người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.

lão hạc, một người đàn ông nghèo khổ và bất hạnh. ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng … đó là tài sản, là vốn liếng của anh ta. vợ mất đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, từng chút một anh đi làm thuê kiếm sống qua ngày. người con trai duy nhất không có trăm bạc lấy vợ, cảm thấy “nhục nhã” đã “chán ghét” đi làm công nhân đồn điền cao su ở nam kỳ, ly thân năm sáu năm không về. tuổi già, cuộc sống cô đơn, bất hạnh tích lũy. con hạc chỉ có thể làm bạn với con chó vàng. ông già bị ốm trong thời gian 2 tháng 18 ngày. không có người thân giúp đỡ, lo cho bát cháo, chén thuốc! Tình huống đó thật đáng tiếc! sau một trận bão lớn, cây ăn trái trong vườn bị tàn phá. thị trấn bị mất kinh doanh sợi. phụ nữ và các cô gái trong làng làm việc chăm chỉ, mang theo mọi thứ bên mình. sau trận ốm, con hạc trở nên rất yếu, không ai thuê cô làm việc nữa. nạn thất nghiệp! giá gạo tăng từng ngày. ông lão và cậu bé vàng, mỗi ngày ăn một suất cơm trị giá ba xu mà vẫn “đói”. anh ấy đã tiết kiệm được bao nhiêu tiền để bán hoa màu trong vườn, anh ấy đã tiêu gần hết trong thời gian bị bệnh!

” nhưng đời người không phải chỉ có một lần đau khổ (…). lão hạc! Mình không có quyền giữ mình một chút sao? “Vì vậy, nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế nào khi nghe lão Hạc nói về ý định bán con chó. Mất một xu rưỡi, hai xu”. Lão hạc rất yêu quý cậu vàng, nhưng “lão hạc lấy đâu ra tiền? Lão hạc phải bán vàng cho bọn lưu manh, lưu manh Bán vàng xong lão hạc bị đẩy sâu xuống vực. . Cảm thấy mình là “trai hư”, đủ lớn để “lừa một con chó” cơn đói và nỗi cô đơn ngày một nặng hơn, con sếu chỉ ăn khoai tây, chuối và quả sung luộc, ăn su hào, một loại củ, hoặc bữa ăn ốc, từ chối tất cả đều được chủ nhân giúp đỡ một cách “gần như uy quyền”, coi ông là chỗ dựa tinh thần của mình. con sếu già đã ăn mồi chó để tự tử, chết thảm thương: tóc xõa xuống, mắt dài lòa xòa, hú vía, sùi bọt mép. miệng, và anh ta đã chiến đấu trong hai giờ trước khi chết! cái chết rất khốc liệt!

thân phận con người, kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo cao cả của mình, Huấn Cao đã bày tỏ lòng thương xót đối với những con người cùng khổ, bế tắc phải gặp cái chết bi thảm. chi poo tự sát bằng mũi dao, rận bị siết cổ chết … và cần cẩu bị giết bởi mồi chó! lão hạc từng hỏi chủ nhân: ” … nếu kiếp người cũng khổ đau thì ta phải làm gì để cuộc sống thực sự hạnh phúc?>

lão hạc, người chất phác, hiền lành, tốt bụng. ông già yêu bạn rất nhiều. Em biết anh buồn vì không có tiền lấy chồng, người cũ thương anh lắm … anh đi làm cạo mủ cao su thì đau lòng lắm. Ông cụ chỉ biết kêu lên: “Thẻ của anh, người ta giữ. Ảnh của anh, người ta chụp rồi (…). Là của người khác, không phải của con tôi?” “Cao su đi dễ dàng và khó trở lại” (bài hát nổi tiếng). con hạc bỏ đi năm sáu năm rồi chưa về. sản xuất trong vườn, bán bất cứ thứ gì bạn có thể dành dụm cho mình, hy vọng khi trở về bạn “có vốn làm ăn”. Ông lão tự nhủ: “Vườn cây thuộc về con, mẹ nó mua thì nó hưởng …”. Tôi đói và khổ, nhưng lão hạc vẫn giữ lại ba sào ruộng cho tôi. anh ta đang tìm cái chết, anh ta thà chết chứ không bán một cái đăng. tất cả dành cho bạn, một sự hy sinh thầm lặng lớn lao!

Lòng tốt của lão hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng mà người con đã bỏ lại. người xưa yêu thích, gọi nó là “gần vàng”. để anh ta ăn cơm bằng bát sành như một người giàu có. bắt rận hoặc đem xuống ao tắm. bất cứ cái gì anh ta ăn, anh ta chia sẻ với anh ta bằng vàng. ông già ngồi uống rượu, đứa trẻ vàng ngồi dưới chân ông, cắn một miếng như người ta gom thức ăn cho một đứa trẻ. ông lão giao đứa con vàng cho nó như giao nó cho một người thân: “chú vàng nó ngoan lắm! nó không cho nó giết … nó để nó nuôi con vàng nó …”. có thể nói đứa trẻ vàng được hạc chăm sóc, nuôi nấng từ nhỏ, như cháu nội; nó là nguồn vui, là chỗ dựa tinh thần, là nơi sẻ chia yêu thương, giúp hạc vơi đi phần nào nỗi buồn cô đơn đắng cay. cậu bé vàng là một phần cuộc đời của loài sếu. nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm nổi lên bản chất tốt đẹp của người nông dân khốn khổ và bất hạnh này. do đó, sau khi bán vàng cho anh ta, thoát khỏi cảnh nghèo khó, lão hạc đã chìm xuống đáy vực của bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng bi thảm.

lão hạc là một người nông dân nghèo chất phác, giàu lòng tự trọng. trong hoàn cảnh túng quẫn phải ăn củ chuối… thầy mời ăn khoai uống nước chè, anh cười hiền và năn nỉ “thầy cho lần khác”. cô giáo bí mật giúp đỡ, “gần như hách dịch” từ chối. con điếm bất đắc dĩ phải bán con chó; sau khi bán đi, ông lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: “già như vậy rồi mà còn lừa chó nữa”. ông trả lại nguyên vẹn mảnh vườn cho con trai, như một lời nguyền: “mảnh vườn là của con (…), nếu mẹ nó mua thì nó sẽ được hưởng”. trước khi chết, ông trả lại người làm vườn cho con trai, và trả lại ông 30 lạng bạc để “nếu chết thì gọi cho ông một ít…”, vì không muốn làm phiền hàng xóm. nam cao đã tinh tế đưa nhân vật người lính thường, “kẻ cắp” vào cuối truyện, tạo nên sự so sánh độc đáo, làm nổi bật tấm lòng trong sáng, đàng hoàng của lão Hạc, một lão nông chân chất đáng kính.

Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, đau khổ và bất hạnh. sống lặng lẽ, nghèo khó, cô đơn; cái chết quằn quại và nhức nhối. Tuy nhiên, lão Hạc mang trong mình nhiều đức tính tốt đẹp như ngọt ngào, giản dị, vị tha, nhân hậu, trong sáng và giàu lòng tự trọng… lão Hạc là tấm gương tiêu biểu của người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Nam Cao thể hiện sự chân thành, giàu lòng nhân ái và sự kính trọng, thấm nhuần tinh thần nhân đạo tuyệt vọng.

phân tích truyện lão Hạc – mẫu 4

Nam cao là một nhà văn lớn viết về người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông vẫn cảm nhận được vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn họ trước bờ vực của cái chết: cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một trong những tác phẩm đó. nhân vật chính của vở kịch, nhân vật lão Hạc dù gặp hoàn cảnh bất hạnh, đau thương nhưng vẫn giữ tình yêu thương cho những người thân yêu và hơn hết là lòng tự trọng cao đẹp. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một tư duy nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc, cũng như bao người nông dân Việt Nam khác, trước cách mạng phải chịu cảnh nghèo đói, cơ cực, cơ cực. nhưng anh ấy cũng có những hoàn cảnh rất bất hạnh của riêng mình. vợ mất sớm. Con trai của ông lão uất ức vì không cưới được người mình yêu nên đã bỏ đồn điền cao su. anh ta chỉ có một cậu bé vàng làm kỷ vật để làm bạn. nên đồng thời phải chịu nhiều đau khổ: đói khát, cô đơn và tuổi già đau đớn, bệnh tật. rồi cuộc đời lận đận, xô đẩy anh vào bước đường cùng của cuộc đời. anh đã phải mất hết ruột gan và bán đi con chó vàng mà anh yêu quý nhất. ông lão bán chó đau đớn tột cùng: “mặt nhăn lại, các nếp nhăn chụm lại, buộc nước mắt chảy dài, đầu nghiêng sang một bên, miệng gần như trẻ con”, “ông già khóc hu hu”.

XEM THÊM:  Cấu tạo phân tử của hợp chất hữu cơ, bài tập áp dụng – hóa 9 bài 35

lúc đầu là “có ngày anh ấy chỉ ăn khoai tây”, “khoai tây hết rồi, anh ấy có thể tạo ra thứ gì đó, ăn nó. Có ngày anh ấy ăn chuối, có ngày thì ăn sung luộc, có ngày thì ăn rau .mama , có khi bằng mấy củ hoặc bữa hến, bữa ốc ”. đến mức không còn gì để ăn, để sống. thì điều gì đến cũng sẽ phải qua. không còn đường sống, lão cẩu chỉ còn cách chết. và đó là một cái chết rất đau đớn, nhục nhã: chết “nhờ” ăn mồi chó để tự tử! cái chết của ông rất dữ dội: sùi bọt mép, co giật khi hai người đàn ông lực lưỡng siết chặt ông. cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó vàng để rồi rùng mình nhận ra cái chết của mình không khác gì cái chết của một con chó. nghèo đói, khổ đau nhiều nhưng không có nghĩa là anh đánh mất phẩm giá của mình. tư tưởng anh đã nhờ con chó cướp mồi. giáo sư cũng nghi ngờ anh ta. nhưng không, lão Hạc vẫn vẹn nguyên tình yêu thương phú quý, đáng trân trọng và lòng tự trọng cao cả của người nông dân.

Tôi yêu bạn rất nhiều. Văn học Việt Nam đã có “tình cha con nghĩa nặng” của Hồ Bảo Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ca ngợi tình cha con. và trong đó cũng phải kể đến “lão hạc” nam cao. vì tình yêu với con trai, bà chấp nhận đối mặt với sự cô đơn và tuổi già để con trai bà có thể ra đi theo ý mình. Tôi đi rồi, cô ấy dồn hết tình yêu thương cho chú chó vàng. đừng chỉ nghĩ rằng ông lão đánh giá cao “cậu” vàng vì nó là một con chó đẹp và khôn. điều quan trọng nhất khiến ông yêu cậu bé vàng đến mức chia cho cậu từng bữa ăn, cho cậu ăn bằng bát như một con người để rồi khi chết cậu lại quằn quại vì đau đớn, vì con chó là kỉ niệm duy nhất mà con trai ông có. ông già bỏ đi. nhìn vào con chó, anh ta nghĩ rằng anh ta nhìn thấy con trai của mình.

không chỉ vậy, anh ấy yêu tôi đến mức chấp nhận cái đói, thậm chí là cái chết, nhưng anh ấy không chịu bán khu vườn của tôi. nếu ông bán vườn, ông sẽ có đủ tiêu để giúp ông vượt qua thời kỳ khó khăn. nhưng ông trở nên lo ngại khi con trai ông trở về không có đất để sinh sống và làm ăn. nên ông chấp nhận cái chết và xin chủ nhân giữ đất cho con trai mình. ồ! Tình yêu của ông dành cho con cái thật cảm động biết bao! yêu thương những người thân yêu của mình, lão Hạc cũng là một con người sống có phẩm cách trước cuộc đời đầy rẫy những cám dỗ và tội lỗi. trong hoàn cảnh như của bạn, người ta có thể cướp, cướp hoặc thậm chí sống nhờ vào người khác (ví dụ như một người lính chân, hoặc một người phụ nữ trong bữa ăn “no nê” từ một người đàn ông cao lớn …) nhưng những con sếu già không ‘ t.

với sự giúp đỡ của ông giáo (vốn chẳng ra gì, chỉ là củ khoai, củ sắn) ông lão “từ chối gần như hách dịch” khiến ông giáo nhiều lúc bực bội. tư tưởng hắn năn nỉ hắn trộm chó, “vừa hay không vừa.” đến lượt vị giáo sư cũng nghi ngờ: “người đàn ông đáng kính ấy giờ cũng theo quân tư đi ăn? Thật là cuộc sống mỗi ngày một buồn hơn”. nhưng cuối cùng mọi người đều bàng hoàng và hoang mang trước cái chết tức tưởi của anh. hoặc theo một cách khác: bạn có thể bán khu vườn. nhưng ông nghĩ đó là khu vườn của con trai mình. Và tôi thà chết chứ không ăn thịt của bạn!

Niềm kiêu hãnh của con sếu tỏa sáng nhất khi cơ thể nó chịu nhiều tổn thất nhất. anh đã chọn cái chết, một cái chết tàn nhẫn, để tâm hồn được trong sáng và tràn đầy tình yêu thương với tất cả mọi người, kể cả với chú chó vàng tội nghiệp. nhưng có một chi tiết khác cũng rất cảm động. ông lão đã tính rằng dù chết cũng không làm phiền mọi người: gửi ông thầy mấy chục lạng bạc, định nhờ thầy lo ma chay để khỏi làm phiền hàng xóm khi tôi đi ngủ. ! ôi lão hạc! Để xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật nhân vật tài tình. điều này được thể hiện qua đoạn văn miêu tả ngoại hình và cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo nghe câu chuyện lừa bán cậu vàng, trong đoạn văn miêu tả sự đấu tranh dữ dội và đau đớn của lão Hạc trước cái chết của lão. ngôn ngữ được nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu hình thức và rất gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam Cao đã đoàn kết đến cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thời đại đã cưu mang họ đến bước đường cùng và lối thoát nhanh nhất là cái chết dã man. nhưng trên hết, nhà văn đã biết trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp của những người nông dân ngay cả khi họ đã đi vào ngõ cụt. không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống có nhân cách. giữa cái đói, sự tự tôn là một thứ gì đó xa xỉ tột độ. Vì miếng ăn, con người có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất nhân tính. nhưng đáng kính trọng đối với sếu, nó không chỉ giữ cho tình yêu của họ luôn tươi mới mà còn là lòng tự trọng của họ.

và chính nhờ vẻ đẹp rực rỡ ấy của lão hạc mà con người thanh cao đã trải lòng: “đời chưa hẳn đã buồn”. không buồn vì có những người cao thượng như con hạc. Qua câu văn đó, người viết đã thể hiện thái độ tốt đẹp của người nông dân Việt Nam đối với cách mạng. điều đó vô cùng quý giá vì trước cách mạng, người nông dân bị coi như rác, thậm chí có nhà văn còn coi người nông dân “như con lợn mà không biết suy nghĩ”. và như vậy, ý nghĩ của người thanh cao thật đáng khen biết bao!

nhân vật lão Hạc của nhà văn nam cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý và đáng trân trọng. Từ khi có lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm giá của mình. Tạo hình nhân vật này, nam văn Huấn Cao đã khẳng định một quan điểm nhân sinh sâu sắc.

phân tích truyện lão Hạc – mẫu 5

Nam cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Qua nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh hoang tàn, đổ nát của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. cái nghèo ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng nhiều đến nhân cách, nhưng trong cái nghèo đầy bi kịch, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân vẫn tồn tại và lặng lẽ tỏa sáng. câu chuyện về lão hạc thể hiện tầm nhìn nhân sinh sâu sắc của con người thanh cao. Trong đó, nhân vật chính là một người nông dân gặp nhiều bất hạnh vì nghèo khó nhưng sống giản dị, nhân hậu, yêu thương con cái và tôn trọng bản thân.

vợ mất sớm, lão Hạc dồn hết tình thương cho đứa con trai duy nhất. ông sẽ hạnh phúc biết bao nếu con trai ông được hạnh phúc, nhưng con trai ông đã bị phản bội vì quá nghèo và không đủ tiền để lấy vợ. thương con, ông thấu hiểu nỗi đau của con khi nghe lời cha, không bán mảnh vườn lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận chia tay tình yêu. Càng thương con, ông càng đau đớn vì không thể giúp con hoàn thành tâm nguyện của mình, đến nỗi ông bỏ nhà đi làm đồn điền đất đỏ ở phía Nam Tổ quốc. mỗi khi nhắc đến con trai, lão Hạc lại bật khóc. bà hạc rất yêu quý con chó vì nó là kỷ niệm duy nhất của con trai bà. ông lão trìu mến gọi nó là đứa trẻ vàng và cho nó ăn những món ăn tốt cho sức khỏe. suốt ngày thì thào nói nhỏ với con vàng. đối với ông, đứa con vàng là hình ảnh của người con trai ông yêu, một người bạn cùng ông chia sẻ nỗi cô đơn. Vì vậy, anh đã nhiều lần cố gắng bán vàng nhưng vẫn không bán được.

nhưng nếu hạc không muốn bán cậu vàng vì nhớ con, thì cũng vì thương con nên nhất định chia tay với anh. ông già tội nghiệp! Bạn đã tính toán xem mình ăn bao nhiêu mỗi ngày, nên ăn rẻ là hai xu. Nếu cứ tiếp tục như thế này thì mình sẽ không thu được đồng nào… thôi bán đi, đừng tiết kiệm tiền bạc, tiền bạc. bây giờ, tiêu một xu cũng là tiêu tiền của bạn. tiêu nhiều như vậy chỉ chết! Vì vậy, vì lo tích góp và giữ lại cho con trai một ít vốn liếng, hạc đã phải chia tay chú chó yêu quý của mình. Đưa ra quyết định đó, tôi vẫn rất đau và buồn. Ông lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán con vàng mà lòng xúc động khôn nguôi. ông già day dứt vì cảm giác mình đã lừa được một con chó. sự đau khổ của ông già tiếp tục tích tụ. Trước đây, anh ta day dứt vì nghèo mà không lấy được vợ cho con, nay chỉ vì nghèo mà anh ta càng day dứt hơn vì đã cư xử không đúng mực với một con chó. ông lão cố gắng chịu đựng nỗi đau đó với mục đích duy nhất là bảo toàn chút vốn liếng cho con cháu.

Biểu hiện cuối cùng của tình yêu đối với trẻ em là cái chết của ông già. anh nông dân nghèo đó đã tính toán đủ thứ rồi: giờ không làm ăn được gì… mảnh vườn này thuộc về mẹ anh giữ cho riêng mình, tôi không ăn được của anh… Bán vườn để ăn cũng không được. .. là vì thương con, muốn giữ một số vốn để giúp con thoát nghèo nhưng con sếu đã tự chọn cái chết cho mình. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và bạo lực. nghe những lời tâm sự đầy tin tưởng của lão hạc với ông giáo, không ai kìm được sự ngậm ngùi, thương cảm và cảm phục. một người quá bất hạnh vì nghèo! một người cha yêu thương con cái của mình rất nhiều!

Không chỉ vậy, qua từng trang truyện, ta còn thấy lão Hạc là một người tốt bụng và giản dị. cả đời ông sống trong lũy ​​tre làng. trong làng chỉ có ông giáo là người có học nên tìm đến thầy để chia sẻ nỗi niềm. lời nói của chú hạc đối với cô giáo luôn lịch sự và tôn trọng. đó là một cách thể hiện sự tôn trọng đối với một người nông dân hiểu biết nhiều và biết nhiều chữ. hoàn cảnh của lão Hạc là một thời nghèo khó, nhưng một mình lo toan, xoay sở, cố gắng sống trong sạch, tránh xa cách ăn ở vụng về. anh ấy thậm chí còn kiên quyết từ chối sự giúp đỡ vì thương hại.

Tôi đã chuẩn bị mọi thứ cẩn thận. Trước khi chết, ông lão nhờ ông giáo viết giấy bảo dưỡng vườn tược cho con trai và gửi ông giáo 30 đồng để lo mai táng. anh ấy không muốn mọi người tiêu tiền vì anh ấy. có lẽ vì tốn kém nên mọi người không phật lòng? không làm phiền mọi người, đó cũng là một cách giữ gìn phẩm giá. một phẩm chất đáng quý mà một ông già trông thô kệch có được!

Nhà văn cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi thống khổ, bất hạnh vì cái nghèo và vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của những người đàn ông cao lớn, hình ảnh con hạc luôn gợi cho chúng ta về những con người nghèo khó nhưng chất phác với tình cảm trân trọng và yêu thương.

phân tích truyện lão Hạc – văn mẫu 6

lão hạc trong truyện cùng tên là một trong những nhân vật “để đời” của nam cao. lão hạc, một người nông dân nghèo khổ, cơ cực nhưng không dị dạng như chi poo mà ngược lại có một tâm hồn cao đẹp, một nhân cách cao cả. ông lão sống một mình trong cô độc, nhọc nhằn. Ông lão chỉ còn một đứa con trai để nương tựa lúc tuổi già, nhưng ông uất ức bỏ đồn điền cao su: “Đến cao su thì khó về”. Lão Hạc phải đi làm thuê kiếm sống, đồng thời cố gắng thu vén để dành dụm lo cho con cháu.

nhưng một trận ốm khiến anh trắng tay. sức lực yếu dần “việc nặng không làm được nữa”, việc nhẹ “đàn bà đánh ai”. ông già không có việc làm. sau đó bão. hoa màu trong vườn bị tàn phá. lúa ngày càng xấu đi. “một ông già một con chó, mỗi ngày cơm ba xu mà nhà vẫn đói ăn, cuối cùng cũng phải ăn khoai, khoai cũng hết. Từ đây làm được gì, ăn đi.” sau này ăn chuối, có khi ăn sung nấu chín, có khi mắc khén, có khi thêm củ kiệu, hoặc ăn hến, ăn ốc.

Thực ra, lão hạc đã làm gì với cái ngõ cụt như vậy? anh ta vẫn có khu vườn đó, con chó vàng đó, mà anh ta có thể bán và tiêu xài. nhưng anh ấy sống cho con cái chứ không phải cho bản thân. Đây là điều mà ít người hiểu được. người ta chỉ thấy sự lười biếng của ông lão. có ông giáo sư hàng xóm vì ngại ngùng, nhưng vừa thú nhận chuyện đó với vợ, ông ta đã bị đuổi ngay: “Cho nó chết đi! Nó cũng đói, nhưng tên tư nhân, một tên lưu manh chuyên đánh bả chó, đã bị hắn.” rất vui khi anh ta đến xin một ít, anh ta bĩu môi: “Nó giả vờ! thật ra chỉ là tẩm bổ thôi, nhưng chưa đủ tốt. “Ngay cả sư phụ, dù hiểu rõ lão cẩu hơn nhưng cũng trở nên nghi ngờ.

Mọi người chỉ hiểu anh ấy khi anh ấy đã chết. tự tử bằng cách cầm bả chó của những người lính thường. Anh mất đi nhưng sẽ sống mãi trong lòng mọi người như một tấm gương đạo đức hiếm có. hiếm có người cha nào thương con như hạc. nghèo khó nhưng luôn nghĩ đến bổn phận làm cha, chăm lo chu toàn cho dù đồng nghĩa với đau khổ, đói khát và cái chết bi thảm. hình ảnh đứa trẻ bị bỏ rơi, sự quan tâm chăm sóc của đứa trẻ luôn ám ảnh, day dứt trong tâm trí chị. khi còn ở nhà, ông cụ không cho bán vườn lấy vợ, điều này cũng xuất phát từ sự tính toán thật thà của người cha. Tôi thực sự thất vọng. Do đạo, cha mẹ phải lo cho con cái bằng vợ, là nhà, là tổ ấm gia đình. nhưng hoàn cảnh của ông lão không hoàn toàn. người con trai ra đi căm phẫn, ngày trở về đã khó, tuổi lại già.

Bao nhiêu lần nó nói với thầy điều này: tiền vườn, tiền bán con chó vàng, tiền vườn, nó không dám đụng vào, vì đây là tiền của các con, của tiền mà cha mẹ nợ để lại cho con cái. nếu không thì không phải là “tôn giáo”. Ông lão đã bao lần buộc tội người làm vườn bằng cách quát mắng con trai: “Không bán thì tôi chỉ định giữ chứ không giữ để ăn! để đó đi, khi nào tôi quay lại, nếu bạn không đủ tiền cưới, tôi sẽ thêm vào cho bạn; Nếu anh ta có đủ tiền cưới vợ, tôi sẽ cho vợ chồng anh ta một số vốn để làm ăn “. khu vườn của tôi.

thu được bao nhiêu tiền từ mảnh vườn, anh gửi hết cho cô giáo để cô giữ hộ. sau đó anh ta chết để không bao giờ phải chạm vào nó. ôi lão hạc, người đàn ông bề ngoài rách rưới, khùng khùng thế mà lại chan chứa tình người. không chỉ cho đứa trẻ. tấm lòng nhân hậu của ông lão còn được thể hiện qua tình yêu lớn lao của ông dành cho chú chó vàng mà ông gọi là “cậu vàng”, như một người phụ nữ hiếm hoi gọi con trai mình đến cầu nguyện. chỉ cần nhìn cái cách nó cưng nựng chú chó: “ôi không! ôi không! chú vàng của nó ngoan lắm! nó không để nó giết nó … nó để nó nuôi chú vàng của nó” …, hay vô cùng đau khổ của đứa con trai khi nó nói với cô giáo rằng nó đã bán con chó. “mặt cô ấy tự nhiên nhăn lại. những nếp nhăn chụm lại, buộc nước mắt chảy ra. Đầu nghiêng sang một bên và miệng nhỏ như một đứa trẻ” đủ để thấy rằng cô ấy cảm thấy có lỗi với con chó của tôi và tôi cảm thấy tội lỗi như thế nào. để bán nó.

chân chất, giản dị, tốt bụng, đầy tình yêu thương và trách nhiệm, con hạc cũng rất giàu lòng tự trọng. đối với người thầy mà anh hết mực tin tưởng và kính trọng, anh vẫn luôn tâm niệm để không bị coi thường. nó đói, nó kêu “kiếp người khổ như kiếp chó”, nhưng khi được thầy mời ăn khoai, uống chè tươi thì nó từ chối. anh kiên quyết “từ chối mọi thứ”. khi thầy giấu vợ, nhiều khi thầm muốn giúp vợ một việc gì đó thì bị anh từ chối “gần như hách dịch”. sau đó anh ấy cố tình xa dần với giáo viên.

cuối cùng, con sếu chết. chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như cái chết của một bậc cao nhân. vì qua cái chết này đã tỏa sáng tất cả phẩm giá cao quý của Người, sáng mãi trong lòng mọi người. Mới đây, người ta đã biên tập một bộ phim về các nhân vật nam ca sĩ, phim làng múa ngày ấy. nhà văn kim lan được mời đóng vai lão hạc. Kim Uni đã suy nghĩ rất kỹ về nhân vật của mình, anh nói: “Lão Hạc không chỉ là một người nghèo mà còn là một người có cá tính, tự trọng và bất khuất.”

Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với kỳ lân kim loại. Tôi cũng phát hiện ra rằng những phẩm chất đó của hạc khiến tôi phải suy nghĩ sâu sắc. cái chết của hạc đã để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn, nhiều bài học quý giá. Bài học sâu sắc hơn là trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, người ta phải giữ được danh hiệu cao quý. giữa con người chúng ta phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu để trân trọng và thông cảm hơn với người khác, phải tin tưởng hơn vào mọi người và vào cuộc sống. và phải biết căm thù xã hội bất công, những thế lực xấu xa đè bẹp và bắt bớ con người như loài hạc.

Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: “cho lão chết đi! ai nói có tiền mới khổ. Người làm lão khổ chứ ai làm khổ lão!”. nhưng thật ra sống là con người, có những thứ dù khổ, dù phải khổ cũng phải giữ lấy. chết quá cố lên! đó là những thứ thuộc về đạo đức, nhân cách con người như con hạc đã gìn giữ.

vì vậy, hơn 60 năm (truyện lão hạc ra đời năm 1943) lão hạc vẫn sống với chúng ta, sẽ tiếp tục sống với chúng ta. và dù cuộc đời này nhiều nỗi buồn, nhưng có những người như con hạc, cuộc đời “chưa hẳn đã là buồn”.

phân tích truyện lão Hạc – văn mẫu 7

nam cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những tác phẩm để lại cho người đọc nhiều day dứt và ám ảnh. mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một kiếp người, một kiếp người trong xã hội. cao nam tập trung khai thác số phận người nông dân trước cách mạng tháng 8, sự bế tắc, cùng cực đã khiến cuộc đời họ chìm trong nước mắt. truyện “lão Hạc” là một trong những câu chuyện cảm động về hình ảnh xấu của người nông dân, đồng thời toát lên vẻ đẹp tinh thần đáng quý của nó. đây là giá trị nhân văn của tác phẩm này.

Bối cảnh lịch sử của nam cao là thời kỳ đất nước chìm trong cảnh nước mất, nhà tan, người dân lầm than, đói khổ, không nơi nương tựa. đã xây dựng một nhân vật nông dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này, tác giả muốn khắc họa chế độ thực dân phong kiến ​​và cuộc sống nghèo khổ của người nông dân. tác giả chọn cách trần thuật đơn, ở ngôi thứ ba, theo lời ông giáo, hàng xóm của lão Hạc. khi đó câu chuyện sống động hơn, chân thực hơn và khách quan hơn. độc giả có thể quan sát và dõi theo cuộc đời của một con người trải qua bao thăng trầm, biến cố.

những câu đơn giản chạm đến trái tim người đọc một cách chân thực và nhẹ nhàng nhất. từng mảnh đời còn vất vả tỏ ra lười biếng, nghèo khổ nhưng lòng nhân ái, vị tha và tình yêu thương nồng nàn được thể hiện trong họ. cuộc đời của lão hạc thật buồn, thê thảm. vợ mất sớm, anh ở với con trai. nhưng kể từ khi con trai bà đi làm rẫy cao su, bà không còn tin tức gì nữa. anh ấy yêu bạn, thì anh ấy yêu cuộc sống của chính mình và không thể làm gì cho bạn. lão hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, chân chất, chất phác, chịu khó. ai thuê anh ta làm gì thì làm. nhưng cuộc sống vất vả, mưu sinh vất vả, sức khỏe yếu, không muốn phụ thuộc vào con cái, bà con lối xóm.

xấu hổ, bế tắc, anh nghĩ đến việc bán vàng cho anh. nhưng tình cảm của ông với cậu vàng quá khăng khít nên không đơm hoa kết trái, nhiều lần bán không được. Sự căng thẳng trong tâm hồn khiến anh ta ngày càng ốm yếu hơn. nhưng rồi vì không có gạo mà ăn, lấy vàng mà nuôi. ông không muốn dành số tiền dành dụm được cho con trai bằng cách bán hoa màu và lấy từ khu vườn nhỏ ba mẫu Anh. vì vậy anh ta đã tan nát trái tim của mình để bán vàng của cô ấy, đúng hơn, anh ta phải lừa dối để bán vàng của cô ấy.

Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng cảm động, day dứt và đau đớn của con hạc. ông già tự thú: “Mình già như thế này rồi mà còn định lừa chó”. Người thầy kể lại cảnh tượng: “Mặt anh ta bỗng dưng co lại, những nếp nhăn chụm lại, buộc nước mắt chảy dài. đầu anh ấy nghiêng sang một bên và miệng nhỏ như một đứa trẻ. ông già đã khóc “. một đoạn văn đầy cảm xúc, một đoạn văn khiến người đọc không cầm được nước mắt.

XEM THÊM:  Tóm tắt tác phẩm vào phủ chúa trịnh

một người nông dân giản dị, ngay cả khi bán chó. anh không muốn cô đau lòng, muốn cô chết trong thanh thản nhưng thật ra lòng cô hoang mang quá. Truyện Lão Hạc khiến người đọc cảm động, thương cảm, khâm phục vô cùng. tuy nghèo nhưng ông vẫn quyết định dành trọn tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất của mình. Hạc hết mực yêu thương con và quyết hy sinh thân mình vì con. nên ông quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con trai mình. một người cha rất mực yêu thương con cái và là một người quan tâm, chu đáo. anh đã định sẵn cho mình một cái chết êm đềm nhất, ngọt ngào nhất. Ông lão dựa vào câu chuyện của ông chủ sau khi ông mất để giao mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc.

chi tiết ông giáo kể cho vợ nghe về lão hạc, vợ bảo “cho lão chết đi! ai bảo có tiền mới khổ! lão làm lão khổ chứ ai làm lão hạc. Gia đình tôi vui lòng giúp đỡ cái ông già. các con tôi đói “. bất lực, cô giáo chỉ biết ngậm ngùi than thở: “ôi, những người xung quanh, nếu không cố gắng hiểu họ, tôi thấy họ thật điên rồ và ngu ngốc, xấu xa, xấu xa, tai tiếng, toàn viện cớ để tôi độc ác và không bao giờ yêu ”. thực sự đây là một cuộc đối thoại mang giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống đối với mọi người xung quanh. có lẽ nam chính thượng thư ngầm đồng cảm với những con người bất hạnh, sống lương thiện nhưng lại bị ruồng bỏ.

Cái chết của con sếu là cái chết thương tâm làm thức tỉnh biết bao người. cái chết ấy đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến ​​còn nhiều bất công, đẩy người nông dân vào ngõ cụt. sự bế tắc và nghèo khó đã dẫn đến cái chết thương tâm đó. ông giáo đã có một suy nghĩ sai lầm khi nghe tin con hạc đến xin chó. nhưng anh ấy thực sự muốn kết thúc cuộc đời mình, anh ấy không muốn trở thành gánh nặng cho con trai mình.

Tại sao bạn lại chọn cái chết đau đớn và bất hạnh đó? Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người thắc mắc, nhưng có lẽ cái gì cũng có lý do của nó. nó phản ánh sự trì trệ đến cùng cực của xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. có lẽ nàng hạc muốn tự trừng phạt mình vì tội “lừa chó”, đồng thời muốn yêu thương con mình đến cùng. cái chết ấy chỉ có quân sư và người lính bình thường mới có thể hiểu được.

Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh người đọc bởi hình ảnh người nông dân cơ cực trong xã hội phong kiến. đồng thời khẳng định vẻ đẹp tinh thần lấp lánh của dân tộc mình.

phân tích truyện lão Hạc – văn mẫu 8

Nam cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. những tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh những vùng quê nghèo khó. trong hoàn cảnh ấy, anh vẫn lặng lẽ thấy những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo được tỏa sáng. truyện lão Hạc là một trong những tác phẩm đó. nhân vật chính là một người nông dân nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn có những phẩm chất cao quý và đáng trân trọng.

Câu chuyện được kể thông qua ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão Hạc đã làm cho câu chuyện trở nên chân thực và sinh động hơn. Qua lời thầy, chúng ta được biết về gia cảnh đáng buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất uất ức vì vợ quá nghèo nên vào Nam làm rẫy trên đồn điền cao su, ly thân được một năm. . có gì mới. Kỷ niệm duy nhất mà con trai ông để lại là chú chó mà ông vẫn trìu mến gọi là cậu vàng. mỗi khi nhớ con, anh lại ngồi nói chuyện với con để an ủi. do đó, có thể nói ông là người bạn tri kỷ của cố nhân. nhưng sau đó, cái đói bủa vây. một trận ốm đã làm kiệt quệ tiền bạc tích cóp của anh. Ông ấy vẫn còn mảnh vườn, nhưng ông ấy không thể bán nó vì ông ấy muốn để dành cho con trai mình. Vì vậy, sau nhiều lần định bán số vàng, lần này anh ta quyết định tống khứ nó đi. bà không muốn lãng phí số tiền ít ỏi mà bà dành dụm được cho con trai mình.

Cảnh ông lão bán vàng thật xót xa. trong cả cuộc đời của mình, anh ta chưa bao giờ dám lừa dối bất cứ ai. nhưng lần này nó lại lừa một con chó khiến nó đau lòng và trách nó: “nó cố tỏ ra vui vẻ nhưng hình như nó đang cười mà mắt nó ngấn nước … mặt nó bỗng rưng rưng … bỗng nhiên nó anh ấy đang nhún vai. Các nếp nhăn chụm vào nhau, buộc nước mắt chảy ra. Đầu anh ấy nghiêng sang một bên và miệng anh ấy nhỏ như một đứa trẻ. Anh ấy ậm ừ và khóc … “

Ông lão tìm đến thầy để giãi bày nỗi lòng. ông muốn nhờ cô giáo chăm sóc khu vườn cho ông cho đến khi con ông trở về. rồi cũng xin sư phụ lo tang lễ cho mình nếu sau này già yếu. suy nghĩ và tính toán của ông rất đơn giản và trung thực. nhưng mọi thứ đều được anh ấy sắp xếp cẩn thận. ông già lo lắng cho con trai mình, sau đó lo lắng về cái chết của mình ảnh hưởng đến thị trấn. điều này giống như một dự đoán rằng một sự kiện lớn sẽ xảy ra với bạn.

kể từ ngày bán cậu vàng, và cũng kể từ khi biết nói và dựa dẫm vào ông giáo, nếp sống của lão cũng thay đổi: “lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi củ khoai cũng hết, lão hạc làm gì cũng được”. , ăn đi. Đôi khi nó ăn chuối, đôi khi nó ăn quả sung luộc, đôi khi nó có centella asiatica, đôi khi với một số loại củ hoặc một bữa ăn của trai và ốc. ” tuy rằng vẫn còn ba mươi lượng bạc, nhưng hắn không muốn ảnh hưởng đến “cơ nghiệp” của ta. xuất phát từ tình yêu thương của một người cha đã khiến anh phải chịu cảnh nghèo khó. nhưng đó không phải là lý do tại sao anh ta phát triển những thói quen xấu. ông lão vẫn duy trì nếp sống “rách nát, rách rưới”.

cuộc sống bế tắc đã đẩy con sếu tìm đến cái chết như một lối thoát. Đầu tiên, anh ta đến một nhà quân sự tư nhân để xin một ít mồi câu chó. khi nghe tin, sư phụ cảm thấy vô cùng đau lòng: “ôi, lão cẩu! Người đáng kính đó bây giờ cũng theo quân tư đi ăn sao?” Ai cũng nghĩ sau này sẽ sa vào tội lỗi khi nghe những lời lẽ của bọn lính thường: “nó giả tạo! thật ra nó mới chửa hoang thôi chứ chưa chắc đã tốt lắm rồi. Nó chỉ đòi mồi chó cho tao thôi.” , anh ấy nói rằng bất kỳ con chó nhà nào cũng sẽ đến khu vườn của bạn …

Tôi sẽ cho nó ăn. Nếu thắng, tôi và anh ta uống rượu. “Nhưng rồi cái chết của anh ta đã làm thay đổi suy nghĩ của mọi người:” Con hạc nằm vật vã trên giường, đầu tóc bù xù, quần áo xộc xệch, mắt rối tung. rồng sọc. ông già rú lên, sùi bọt mép, toàn thân giật bắn lên từng hồi. hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người ông già. anh ta đã chiến đấu trong hai giờ và sau đó chết. cái chết thật tàn bạo không ai hiểu tại sao anh lại chết vì một cơn bạo bệnh đau đớn và đột ngột như vậy. chỉ có tôi và quân tư nhân mới có thể hiểu được. “Anh ấy vẫn trong sạch, nhưng cái chết của anh ấy thật đau đớn và bi thảm.

“lão hạc” đã cho ta hiểu được thân phận lầm than, khốn khổ, tù túng của người nông dân nghèo có tâm hồn cao thượng trong chế độ thực dân phong kiến ​​tàn ác thời bấy giờ. Đồng thời, câu chuyện cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải biết quan tâm, giúp đỡ những người có số phận éo le hơn mình.

phân tích truyện lão Hạc – văn mẫu 9

Nam cao (1915 – 1951), tên thật là Trần Hựu tri, sinh ra tại làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. ông được coi là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, một bậc thầy về truyện ngắn Việt Nam. hình ảnh vùng quê lầy lội, nước đọng, đói rách thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh khôn nguôi. cao nam đã viết rất nhiều về nạn đói. Cái đói ảnh hưởng rất nhiều đến nhân cách, nhưng trong hoàn cảnh đói khát bi đát, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo vẫn âm thầm tồn tại và tỏa sáng. một trong những tác phẩm thể hiện tầm nhìn nhân đạo sâu sắc của con người cao cả là truyện Lão Hạc. nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, cuộc đời gặp nhiều bất hạnh. tuy nhiên, anh vẫn giữ được bản chất lương thiện, nhân hậu, tình yêu thương nhiệt thành dành cho con cái, đức hy sinh cao cả và lòng tự tôn đáng nể của mình.

Qua nhân vật này, Nam Cao giúp người đọc thấy rõ hoàn cảnh và số phận đáng thương của người nông dân Việt Nam trong chế độ thực dân phong kiến ​​tàn ác bấy giờ.

Nhân vật kể chuyện là ông giáo, người hàng xóm thân thiết của hạc. Nhờ đó, câu chuyện trở nên gần gũi và chân thực hơn. tác giả giới thiệu cho người đọc cách chung sống, chia sẻ vui buồn cùng các nhân vật. do đó, người đọc có cảm giác rằng họ đang tận mắt chứng kiến ​​sự diễn ra của câu chuyện bi thảm này.

Tác giả kết hợp tự sự với miêu tả, đan xen hiện tại và quá khứ, hiện thực bằng ca từ. lời kể thay đổi linh hoạt tuỳ theo tình huống. Cảm xúc phần lớn được thể hiện gián tiếp xuyên suốt câu chuyện, nhưng đôi khi trực tiếp qua những câu cảm thán đầy xót xa và sợ hãi, ẩn chứa triết lý sâu sắc về cuộc sống và thân phận con người.

gia đình lão Hạc rất đau buồn, vợ chết yểu, đứa con trai duy nhất bỏ đi làm thuê ở đồn điền cao su, ly tán một năm không có tin tức. con hạc mang đến cho bạn tất cả tình yêu của nó. ông sẽ hạnh phúc biết bao nếu con trai ông được hạnh phúc, nhưng con trai ông lại bị phản bội vì quá nghèo.

Tôi yêu bạn, anh ấy hiểu nỗi đau của bạn. con trai nghe lời cha, không bán mảnh vườn lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận tan vỡ tình yêu. càng thương con, bà càng thấy có lỗi với anh vì cô đã không thể giúp anh hoàn thành tâm nguyện của mình. bà hạc mỏi mòn chờ con về, ngày đêm lao động kiếm sống. Dù đói khổ nhưng ông vẫn quyết tâm chăm sóc vườn tược, không ăn tiền dành dụm được cho các con. sau một trận ốm dài, anh ấy cảm thấy rất yếu. số tiền tích lũy đã cạn từ lâu. và cơn bão gần đây đã phá hủy tất cả các loại cây trồng trong vườn. giá lúa liên tục tăng nhưng chiếc xe cẩu cũ kỹ không còn ai thuê nữa. vì vậy anh đã bình tĩnh đưa ra một quyết định quan trọng. Sau khi đeo bám bán được chú chó vàng yêu quý của mình, ông lão đã xin chủ một việc …

trước tiên, anh ta nói với giáo viên về việc bán con chó vàng.

Lão Hạc rất yêu quý con chó vì nó là kỷ vật duy nhất của con trai bà. ông lão trìu mến gọi nó là đứa trẻ vàng và cho nó ăn những món ăn tốt cho sức khỏe. với anh ấy, đứa con vàng là người bạn đồng hành đầu đời của bạn. mỗi khi nhớ con, bà lại thủ thỉ an ủi. Do quá quyến luyến, anh đã cố gắng bán số vàng nhiều lần nhưng vẫn không bán được.

Cuối cùng, vì tình yêu mà ông dành cho con trai của mình, ông đã phải chia tay với nó cho tốt. ông già tội nghiệp! còn không có cơm mà ăn, lấy gì cho hắn ăn vàng? ông không muốn dành số tiền ít ỏi mà mình tiết kiệm được cho con trai bằng cách bán những cây trồng mà ông trồng được từ khu vườn nhỏ ba mẫu Anh của mình.

Lão Hạc tính đi tính lại phải bán vàng để dành dụm mà lòng đau xót, xót xa. Ông lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán con vàng mà lòng xúc động khôn nguôi. ông lão đau khổ, dằn vặt và cứ tự trách mình mặc cảm: đến tuổi này rồi mà còn lừa dối con chó. Cả đời, ông già tốt bụng này có dã tâm lừa dối ai! Thật là một thái độ và cách cư xử đáng thương của con sếu: nó đang cố tỏ ra vui vẻ. nhưng hình như anh ấy đang cười và mắt anh ấy ngấn lệ … mặt anh ấy đột nhiên co giật. những nếp nhăn chụm vào nhau buộc nước mắt chảy ra. đầu anh ấy nghiêng sang một bên và miệng nhỏ như một đứa trẻ. ông lão khóc hu hu … nỗi thống khổ của ông tích tụ mãi không thôi. trước đây chỉ vì nghèo nên không lấy được vợ cho con, bây giờ chỉ vì nghèo mà phải cư xử không đứng đắn với một con chó.

nhưng không chỉ vậy. qua từng trang truyện, chúng ta cũng hiểu thêm về một ông lão Hạc tốt bụng và giản dị. cả đời ông sống trong lũy ​​tre làng nên những suy nghĩ, tính toán của ông rất giản dị, chân chất. ông cụ tìm đến thầy để chia sẻ cảm xúc và quan trọng hơn là tìm được chỗ dựa tinh thần:

… và nói với anh ấy. ông già nói với tôi rất ít và rất dài. nhưng nó có thể được rút gọn thành hai thứ. điều thứ nhất: người đã già, con đã đi xa, lại còn dại dột, nếu không có người chăm sóc thì khó có thể duy trì ruộng vườn làm ăn nơi phố thị này; Tôi là người nhiều lời, nhiều lý lẽ, mọi người nể tôi nên ông ấy muốn nhờ tôi gửi cho ông ấy ba ha vườn của con trai ông ấy; ông già viết lá thư đưa cho tôi để không ai nghĩ đến; Khi nào con ông ấy về ông ấy sẽ nhận mảnh vườn, nhưng chứng thư có thể để lại tên tôi, để tôi chăm sóc nó … điều thứ hai: ông già yếu lắm, không biết sống chết lúc nào, tôi. không có nhà, nếu họ chết, không ai có thể chăm sóc họ; làm phiền hàng xóm, chết không nhắm mắt; anh ta cũng được hai mươi lăm đồng bạc và năm đồng bạc, anh ta bán con chó được ba mươi đồng bạc, anh ta muốn gửi cho tôi, nếu nó chết tôi sẽ đưa nó ra ngoài, nói với hàng xóm giúp đỡ, gọi nó một chút, còn lại bao nhiêu tôi phải hỏi hàng xóm …

Nghe những lời tâm sự đầy tự tin của lão Hạc, không ai có thể kìm được sự xót xa, thương cảm và cảm phục cho một con người dù bất hạnh vì nghèo khó nhưng không nghĩ đến bản thân mà dồn hết tình yêu thương cho đứa con thơ. Nam giới.

Tôi đã chuẩn bị mọi thứ cẩn thận. Trước khi chết, ông lão nhờ cậu chủ chăm sóc vườn tược và gửi cậu chủ ba mươi đồng để lo việc chôn cất. anh ta không muốn thị trấn trả tiền cho anh ta. có lẽ vì tốn kém nên mọi người không phật lòng? không làm phiền mọi người, đó cũng là một cách giữ gìn phẩm giá. Ông già bề ngoài trông có vẻ điên rồ, nhưng bên trong ông ấy có một phẩm chất đáng quý biết bao!

Về tuổi tác, con hạc còn có thể sống lâu, nhưng nó chỉ còn lại ba mươi lạng bạc, nếu sống tiếp thì phải ăn bớt vốn liếng, nên nó đã chọn cái chết để bảo vệ cả nhà cửa ruộng vườn. con trai của bạn. Cái chết tự nguyện này bắt nguồn từ tình yêu sâu sắc nhưng thầm lặng dành cho con trai, từ lòng tự tôn đáng kính của chú sếu.

Lão Hạc nói với ông giáo với giọng lễ phép, kính cẩn và có phần hơi quá đáng. là một cách để thể hiện sự tôn trọng với người biết đọc và viết:

được rồi, nhưng dù tôi có đào bao nhiêu trong vườn của anh ấy đi chăng nữa thì tôi cũng tiêu hết. anh ta không có vợ con. Tôi nghĩ nó không chăm sóc được, nếu tôi bán mảnh vườn thì sao?… Tôi cắn rơm, tôi cắn cỏ, tôi lạy chủ! Nếu thầy cô cho rằng tình yêu của tôi là cũ và cũ, thì cô giáo có thể gửi cho tôi.

Tình hình đã chững lại, nhưng anh ấy vẫn duy trì lối sống trong sạch, tránh xa lối ăn uống vụng về và khó chịu:

Tôi luôn thấy con sếu chỉ ăn khoai tây. sau đó khoai tây cũng sẽ được hoàn thành, từ đó, bạn có thể làm một cái gì đó, ăn nó. một hôm ăn chuối, một hôm ăn sung luộc, một hôm ăn bánh canh, có khi nhỏ vài giọt hoặc một bữa trai, ốc.

Khi ông giáo kể cho vợ nghe về hoàn cảnh của lão Hạc, bà đã gạt đi:

– hãy để anh ta chết! ai bảo có tiền mới khổ! lão nhân gia làm cho hắn đau khổ, nhưng là ai làm cho hắn đau khổ! gia đình tôi hạnh phúc biết bao khi giúp được anh ấy? những đứa con của tôi đang đói…

bất lực, cô giáo chỉ biết than thở: ôi! Còn những người xung quanh, nếu chúng ta không cố gắng tìm kiếm và hiểu họ, chúng ta chỉ thấy họ là những kẻ điên rồ, ngu ngốc, tồi tệ, xấu xa, xấu xa… đều là những cái cớ để chúng ta độc ác; Tôi chưa bao giờ yêu …

Đây là triết lí thấm đẫm tình cảm chân thành của con người thanh cao trước những số phận bất hạnh của cuộc đời. Nam cao khẳng định một thái độ sống, một cách đối nhân xử thế: cần quan tâm, chăm sóc, suy nghĩ đúng đắn về những người sống xung quanh mình, nhìn nhận và đánh giá họ bằng con mắt cảm thông, con mắt yêu thương. chủ đề trong truyện cùng tên của nam cao. Anh tin rằng con người chỉ xứng với danh phận con người khi họ có thể đồng cảm, biết trân trọng và biết trân trọng những điều đáng quý và đáng thương ở người khác.

Cái chết bi thảm của hạc là biểu hiện cuối cùng của sự hy sinh quên mình. chính vì thương con và muốn giữ lại cho con một ít vốn liếng giúp anh thoát nghèo mà hạc đã chọn cái chết cho mình. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và bạo lực, đầy bi kịch.

Hoàn cảnh đói nghèo đã đẩy con sếu coi cái chết như một hành động giải thoát. chi tiết này phản ánh số phận bi đát, bế tắc của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội thực dân phong kiến ​​đầy áp bức, bất công.

Thực ra, sếu đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình kể từ khi bán cậu vàng. Khi nghe tin lão Hạc hôm qua đến đòi chó, ông giáo trố mắt ngạc nhiên: ôi lão cẩu! … Cái đáng kính ấy giờ cũng theo quân tư đi ăn à? cuộc sống mỗi ngày một buồn hơn.

đây là một chi tiết nghệ thuật quan trọng có tác dụng đánh lạc hướng gây bất ngờ, đảo ngược những suy nghĩ tốt đẹp về lão Hạc và tất cả. Thực tế, cuộc sống mỗi ngày một buồn hơn vì nó đã đẩy một người lương thiện như con hạc đến vị trí không dám chấp nhận rủi ro như bao người khác. nghĩa là những con người vốn nhân hậu, tự trọng nay lại bị thực phẩm làm hư hỏng. Câu nói lấp lửng và đầy châm biếm của anh Tư đã đưa tình huống câu chuyện lên cao trào: anh giả vờ! thực ra nó chỉ hấp thụ thôi, nhưng vẫn không vừa. anh ta chỉ xin tôi một ít bả chó … anh ta nói rằng bất kỳ con chó nhà nào sẽ đến vườn của anh ta … anh ta sẽ cho anh ta ăn. nếu anh ấy thắng, anh ấy và tôi sẽ uống rượu.

chứng kiến ​​cái chết đau đớn, xót xa vì ăn phải bả chó của lão Hạc; mọi nghi ngờ trong lòng cậu chủ đều tan biến: không! cuộc đời không quá buồn, hay vẫn buồn nhưng buồn theo một nghĩa khác.

Cuộc đời không hẳn là buồn vì có những người trong sáng như lão hạc, nhưng thật đáng buồn khi những người có nhân cách cao đẹp như lão hạc lại không thể sống nổi. Tại sao một cụ già đáng thương và đáng kính như vậy lại phải chịu cái chết thê thảm như vậy ?!

Bạn đọc không khỏi thắc mắc, lựa chọn cái chết của con hạc như thế nào để tự tử bằng bả chó. tại sao anh ta không chọn một cái chết nhẹ nhàng hơn, êm dịu hơn? Ông già lương thiện này chưa từng lừa dối ai trong đời. lần đầu tiên trong đời anh buộc phải lừa một con chó vô tội, người bạn thân nhất của anh. sự lựa chọn này dường như chứa đựng ý chí trừng phạt bản thân. thử thách lòng trung thực, phẩm giá đáng trân trọng của con hạc. nên cái chết đầy bạo lực này gây ấn tượng mạnh hơn cho người đọc.

Cái chết đau đớn, xót xa của lão Hạc được người đàn ông cao lớn miêu tả với niềm tiếc thương vô hạn: Tôi vội vã vào trong. con hạc đang vùng vẫy trên giường, xõa tóc, quần áo xộc xệch, mắt mở to. ông già rú lên, sùi bọt mép, toàn thân giật giật từng hồi, nảy lên từng hồi. hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người ông già. anh ta đã chiến đấu trong hai giờ và sau đó chết. cái chết thật tàn bạo không ai hiểu tại sao anh lại chết vì một cơn bạo bệnh và đột ngột như vậy. chỉ tôi và quân đội tư nhân mới có thể hiểu được.

Nhà văn cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi thống khổ, bất hạnh vì cái nghèo và vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của những người đàn ông cao lớn, hình ảnh lão hạc luôn gợi cho chúng ta về những con người nghèo khó nhưng chất phác, giàu lòng nhân ái và đáng trân trọng.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích truyện ngắn Lão Hạc ngắn gọn (9 mẫu) – Văn 8. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *