Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
927 lượt xem

Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà

Bạn đang quan tâm đến Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà

Bài văn Người lái đò sông đà gồm bài văn mẫu tóm tắt và 23 bài văn mẫu hay nhất. từ đó giúp các em học sinh có thêm gợi ý tham khảo, sở hữu bài văn ý nghĩa và lấy điểm bằng sự sáng tạo, mang màu sắc cá nhân khi làm bài thi đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2022.

Người lái đò sông đà được trích từ bài văn “song da” của tác giả nguyễn tuấn. tác phẩm là thành quả của nhiều dịp ông lên Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là thành quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. phân tích Người lái đò trên sông đà n. giúp ta cảm nhận được Dòng sông cho dòng chảy “hung bạo và trữ tình” trong nền văn học nước nhà như tình yêu và niềm tự hào của nhà văn Nguyễn Tuân đối với sông núi quê hương. và dưới đây là 23 mẫu phân tích người lái thuyền trên sông tốt nhất hãy xem chúng.

phân tích lược đồ người lái đò sông Đà

i. giới thiệu:

  • giới thiệu tác giả: nguyen thun là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
  • giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông đà” trích trong bài văn “sông đà” vi một trong những sáng tác tiêu biểu của nguyễn tuấn sau cách mạng tháng 8.

ii. nội dung:

* mô tả chung

– tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình lên Tây Bắc tìm kiếm “vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “vàng thử lửa” của người dân nơi đây.

* vẻ đẹp tàn khốc của dòng sông

+ bờ sông

  • “xây tường”, bay đi, đứng lên.
  • sông hẹp đến mức “con nai, con hổ đã từng nhảy từ bờ này sang bờ kia”.
  • “mặt sông chỉ buổi trưa mới có nắng”, “mùa hè đi thuyền cũng thấy lạnh”.
  • Khi đi qua đoạn này, mọi người đi qua đoạn này căng ra. Tôi có cảm giác như đang “đứng trong một con hẻm và nhìn ra cửa sổ trên tầng hai của tòa nhà vừa tắt đèn”.

→ một đoạn sông sâu, hẹp, tối tăm và lạnh lẽo đến mức khiến bất cứ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

+ nhanh

  • hát những câu hát “dặm dài, nước đóng băng, đá lở, sóng gió, quanh năm gió cuốn …”.
  • lời lăn tăn “,” gắt gỏng “vừa tạo ra âm thanh lẩm bẩm vừa gợi lên những hình ảnh khủng khiếp về nơi này.
  • được mô tả như những người đòi nợ

→ có thể gây ra nhiều nguy hiểm mà con người không thể lường trước được.

+ hút nước

  • nhìn từ xa, những dòng xoáy trên sông trông giống như má lúm đồng tiền trên má một cô gái, có khả năng kéo thuyền xuống đáy sông và đập vỡ tan tành.
  • những lớp xi măng này -giống như giếng hút đổ xuống sông để chuẩn bị làm nền cầu.
  • “Nước ở đây thở và nghe như tiếng cống đang chết đuối.”

<3

+ thác nước

  • âm thanh của thác nước nghe giống như “ai oán”, nó giống như “van xin”, “khiêu khích”, một giọng nói thô bạo “chế giễu”.
  • “rồi nó gầm lên. , hãy so sánh tiếng thác nước sông Đà với tiếng trâu đại ngàn xông vào xé rào lửa rừng.

→ giữ nước sông.

+ phản hồi

  • “cả một chân trời đá” → vô số đá của sông Đà.
  • mỗi mặt đá đều “nổi loạn”, “nhăn nheo”, “méo mó”.
  • sau đó chúng tạo thành đá như hình bát quái ở sông đà.

→ sông đà được ví như kẻ thù số một của con người

* Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

    Những con mèo đốt ruộng ”. cuả mùa xuân. .
  • bờ sông mênh mông “bờ sông, bãi sông đà, chuồn chuồn, bướm sông đà” kéo dài.
  • phép so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả bờ sông”. một ngân hàng thời tiền sử ”,“ hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa ”.

→ những cụm từ gợi tả vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà đã tạo nên một đoạn văn thơ.

* đánh giá

– với sự hiểu biết sâu sắc và cách miêu tả tinh tế → đưa người đọc đi từ sợ hãi đến ngạc nhiên khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

iii. kết luận:

– khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

…………

tải tệp xuống để xem thêm lược đồ phân tích Người lái đò sông đà

phân tích Người lái đò sông đà – mẫu 1

khi lòng tôi đã hướng về những con tàu khi đất nước khắp nơi hát vang, hồn tôi là Tây Bắc.

(ca dao – che lan vien)

Hoàn cảnh lịch sử xảy ra là khi cả nước đồng lòng theo tiếng gọi của “linh hồn Tây Bắc” để gây dựng lại một cánh đồng quê hương. Lúc bấy giờ, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ dường như đã trải qua quá trình biến đổi để đến với cách mạng. Trong đó không thể không kể đến nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Tuân như một cây độc dược trong nền văn học Việt Nam. nhà văn nguyễn tuấn đã sáng tạo ra tác phẩm “Người lái đò sông đà” thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Có thể nói, nói đến nghệ thuật đối với Nguyễn tuấn là nói đến sự tìm tòi và sáng tạo, bởi chính nhà văn là người sáng tạo lại thế giới. tác giả nguyễn tuấn sợ rằng bản thân của ngày hôm nay xuất hiện giống như của ngày hôm qua, hắn dường như sợ sự trùng lặp tầm thường. vì vậy anh ấy đã lấy “chủ nghĩa” của sự dịch chuyển “làm chủ đề cho công việc của mình, bạn phải đi để có thể viết ra những tác phẩm có giá trị.”

Hình tượng sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa nhưng phải đến Nguyễn Tuân, sông Đà mới hiện lên chân thực và vô cùng xúc động. Với ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình. con sông đà dường như có dã tâm xảo quyệt của kẻ thù số một, tất cả đều có thể cướp đi sinh mạng của bất cứ kẻ nào chẳng may rơi vào “trận mạc”… “chưa dừng lại ở đó, nước sông còn đà như đang sôi lên cả trăm độ… những tảng đá ở đây đã bị mai phục hàng ngàn năm dưới đáy sông ”. Nguyễn Tuân cũng miêu tả khi thấy có thuyền vào thì “nhảy ra túm lấy”… nhưng sự hung hãn dữ dội ấy vẫn không làm mất đi tính trữ tình của con sông Đà, nhà văn còn miêu tả nổi bật hình ảnh con sông trong những đoạn xuôi dòng, không những thế, ngòi bút của nguyễn tuấn bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, thơ mộng với cách miêu tả: “sông đà tuôn chảy như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tơ, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, hoa nở, tháng hai hoa gạo và khói núi cuồn cuộn, mèo đốt cánh đồng xuân. ”…

Chính ở dòng sông ấy, hình ảnh ông lái đò hiện lên, dữ dội và khác thường. Khi thấy mình trong trận chiến “một mất, một còn” với thác nước, tác giả Nguyễn Tuân Giờ cũng cho chúng ta thấy tài năng và bản lĩnh tuyệt vời của người lái đò. hình tượng người lái đò sông đà cũng là một hóa thân của tác giả, anh ta chỉ thích tham gia vào những trận đánh hiểm trở với những thác nước dữ dội, nhưng dường như anh ta cũng không thích chèo thuyền trên dòng sông phẳng lặng …

sử dụng giọng văn rất tự nhiên, phóng khoáng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật là một thành công của nguyễn tuân. hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng thời sông Đà cũng là kẻ thù mà là bạn cũ. chính dưới ngòi bút của tác giả, dòng sông không chết mà chuyển động mạnh mẽ, giàu cảm xúc trong câu chữ gợi hình ảnh, tất cả dường như tác động mạnh đến giác quan của người đọc. hình ảnh người lái đò cũng hiện lên sống động, hiện lên rõ nét … đối với nhà văn Nguyễn tuấn thì “đã là văn học thì trước hết phải là văn học”. Đầu tiên chữ viết phải đẹp và trau chuốt. và đó là lý do tại sao cái đẹp đã chi phối tầm nhìn của tác giả trên tất cả tác phẩm. hình tượng con người và vạn vật lúc này cũng qua ngòi bút của nguyễn tuấn được khai thác bằng những biện pháp nghệ thuật, tài hoa của người nghệ sĩ.

Qua bài văn, vẻ đẹp của dòng sông được đánh giá là một công trình sáng tạo của tạo hóa. con sông đà vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. nó đẹp từ hình dáng đến màu sắc, với những câu văn miêu tả dòng chảy của nước, tốc độ của dòng chảy của dòng sông cho ta vẻ đẹp biết bao. Nó cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn và nghệ sĩ. nước sông đà vào mùa xuân xanh ngọc bích, đến mùa thu nước sông đà đỏ như cồn, da mặt người ta bầm dập. ”Hình ảnh con sông ấy cho tác giả. không chỉ là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp mà còn rất gợi cảm, sông đà còn gây bao nỗi nhớ cho những ai gặp một lần rồi ra đi, gặp lại sông đà tác giả nguyễn tuấn cũng thấy lòng mình nhẹ tênh. và hạnh phúc như tìm lại được người bạn cũ mà phải thốt lên: “wow, nhìn ra sông, vui như thấy nắng tan sau mùa mưa, vui như thu lại giấc mơ tan vỡ”.

Cũng chính trong vẻ đẹp, một chất thơ hiện thực của đất trời, mà hình tượng con người hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa. Người lái đò sông đà khéo léo điều khiển con thuyền một cách chủ động và điêu luyện nhất như một nghệ sĩ. hình ảnh người lái đò luôn hiên ngang trên những con sóng dữ và buộc họ phải đầu hàng. với đoạn văn tả cảnh người lái đò vượt thác rất hay: “tay cầm bờm sóng thuận chiều, người lái đò nắm lấy dây cương, nắm chắc dòng nước, phóng nhanh về phía cửa sinh. và anh lái hết cỡ, chèo về phía cổng đá đó. nhà văn Nguyễn tuấn miêu tả hình ảnh anh lái con tàu như thể một nhạc công đang chơi vĩ cầm rất hay, nhịp nhàng không sót một nốt nhạc nào.

Có thể nói, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước tiến dài trong phong cách của Tuân Nguyễn. Trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân thời bấy giờ cũng thường tìm đề tài cho tác phẩm của mình bằng cách ngược về quá khứ. nguyễn tuấn luôn viết và học với thời đại đã qua. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy nhân vật của Nguyễn Tuân là một ông giáo cấp 3, nhân vật quản ngục có cái hài hước của một kẻ tiêu tiền “biết kẻ trên người”. tất cả các nhân vật “tan biến trong quá khứ” đều là anh hùng trên bàn cờ, họ đều coi thường đồ vật. Tuy nhiên, sau cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy tài năng và nghệ thuật ở những con người lao động giản dị và gần gũi nhất, ngay trong công việc bình thường mà họ đang làm.

với tác phẩm “người lái đò sông đà”, người lái đò hiện ra trước mắt chúng ta như một nghệ sĩ tài hoa, có tâm hồn hoàn mỹ. Nguyễn Tuân còn miêu tả hình ảnh những con người bình dị lái đò, thêm vào đó Nguyễn Tuân đã thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ đối với những con người có công trong công cuộc xây dựng đất nước. Chủ yếu bằng việc tái hiện hình ảnh sông núi Tây Bắc và thêm hình tượng người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện từ các ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của mình, như: Hội An. hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc. .. vạn vật, vạn vật dường như hiện ra trước mắt chúng ta thật hùng vĩ và sống động. ông tả đoạn “lượn quanh sông, thấy sóng tung bọt trắng xóa một chân trời đá”. sông đà còn có tiếng sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, rồi sóng dậy thác núi. đọc tác phẩm, người đọc như được chứng kiến ​​cuộc chiến đấu giữa người lái xe và ngọn thác, đồng thời khốc liệt chứng kiến ​​từng khúc sông, bất thường với đá ngầm, đá nổi và cả những dòng sông êm đềm, trữ tình làm sao.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta coi cụ Nguyễn Tuân được biết đến như một nhà văn tài hoa và uyên bác. bởi vốn liếng cũng như nguồn tri thức về lịch sử, khoa học, địa lý, sinh học… là vô cùng to lớn. tất cả những kiến ​​thức này cũng có xu hướng tràn ngập trong công việc của anh ta. Như bài văn “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện rõ, Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta về một quê hương. địa danh sông đà, rồi lịch sử sông đà đã được Nguyễn tuấn trình bày bằng những trang đầy uyên bác và tài hoa.

Đặc biệt, khả năng diễn đạt và khả năng ngôn ngữ của tác giả rất phong phú. mỗi từ khi đưa vào câu dường như đã được chọn lọc và gọt giũa cẩn thận. Nguyễn Tuân cũng đã khéo léo tạo ra nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi có vẻ thô, cũng có vẻ tản ra, nhưng lại rất cô đọng và tự nhiên. tác giả không chỉ viết lên những trang văn rực rỡ mà còn khiến người đọc cảm nhận được âm hưởng trong từng đoạn văn.

tác giả viết về người lái đò sông Đà, ngoài việc viết về quê hương đất mẹ, nhà văn nguyễn tuấn đã thể hiện nguồn tình yêu tha thiết đối với người lao động và thêm tình người. yêu thiên nhiên đất nước. thực tế, chính văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta vẻ đẹp của sự tài hoa và uyên bác.

bài phân tích người lái đò sông Đà – mẫu 2

nguyễn tuấn là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại. mỗi tác phẩm của anh là một bài ca về vẻ đẹp của cuộc sống, của con người, với những tâm tư, tình cảm gắn bó với đất nước. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, tình yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong hành trình trải nghiệm vùng thượng du Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang văn độc đáo, tái hiện độc đáo vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của dòng sông Đà. cũng như thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc qua bài văn “sông đà cồn cào”. giữa thiên nhiên bao la, rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nổi bật lên hình ảnh người lái đò gan dạ, dũng cảm, độc lập trên dòng sông đà, đưa con đò mưu sinh chiến đấu với dòng sông đà.

bài văn “Người lái đò sông đà” được trích từ tập “sông đà” sáng tác năm 1960, là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp mà nguyễn tuấn đã thu hoạch trong chuyến hành trình gian khổ và đầy thú vị về miền Tây Việt Nam. đất nước ném ra khỏi đất nước không chỉ để thỏa chí tìm đất mà chủ yếu là tìm kiếm cái ngàn vàng của thiên nhiên và “thứ vàng mười thử lửa” trong tâm hồn những con người lao động nơi đây. .

“Người lái đò sông Đà” là một bài văn về thiên nhiên và con người lao động Tây Bắc. giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc nổi bật lên hình ảnh con người, hình ảnh người lái đò mưu trí, dũng cảm. với phong cách nghệ thuật rất riêng, khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn tuấn, lái đò là một nghệ thuật và người lái đò là một nghệ sĩ.

Người lái đò sông Đà trong tác phẩm là một cụ già ngoài 70 tuổi đã lái đò trên con sông Đà này hơn 15 năm. có lẽ chính vì trải qua phần lớn thời gian làm công việc lái đò trên sông mà bản thân anh đã trở thành một người lái đò lão luyện “trên sông anh cho thì đi, anh xuống, anh quay lại hơn trăm lần điều chỉnh tay lái. sáu mươi lần … “.

nhân vật ông lái đò là một người từng trải, hiểu biết sâu rộng về nghề chèo thuyền và đã đạt đến trình độ “lấy mắt mà nhớ, tỉ mỉ như dính vạn vật trong lòng suối của mọi thác nước gian truân. ” Không dừng lại ở đó, nguyễn tuấn tiếp tục bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ông: “Con sông Đà đối với người lái đò ấy như một bản anh hùng ca mà ông biết đến cả dấu chấm than, dấu chấm, câu văn, thậm chí cả ngắt dòng”. p>

thật là một cách so sánh “rất văn chương” mà thú vị và mang đậm phong cách nghệ thuật của nguyễn tuấn. hình ảnh người lái đò với “mái đầu bạc phơ đậu trên thân hình cao nhỏ gọn như sừng sững” và cánh tay vẫn là cánh tay của một “đứa trẻ”, “còn quá trẻ”.

anh đối mặt với những thử thách của sông đà với những sức mạnh của thiên nhiên như những tảng đá ghê gớm, những vấp ngã kinh hoàng: dòng sông uốn lượn, thấy sóng tung bọt trắng xóa cả một chân trời đá. những tảng đá ở đây đã bị mai phục hàng nghìn năm dưới lòng sông, dường như mỗi lần thuyền xuất hiện ở quảng trường vắng vẻ nhưng ồn ào này là mỗi lần thuyền lỡ rẽ sóng, một trong hai hòn đảo này sẽ bị rơi ra. để nắm lấy con thuyền. ”

và một mình một chiếc thuyền, anh đã chiến đấu như một người dũng cảm: “… với cả hai tay giữ mái chèo không bị sóng đánh văng ra, chúng đã ném thẳng vào anh. mặt nước ầm ầm xung quanh anh ta, ào ào làm gãy mái chèo, vũ khí trong tay anh ta, ”và sóng“ đập vào đầu gối và mạn thuyền. ”

đôi khi họ đặt cả con tàu vào bánh răng. nước bám vào thuyền như một đô vật túm eo người chèo thuyền, đòi quay người giữa cơn bão nước ầm ầm. có khi tưởng chừng như người lái đò lao mình xuống sông … từng chi tiết đều được tác giả miêu tả chân thực, táo bạo, thể hiện sự hung dữ khủng khiếp của dòng thác đối với con người và làm chói mắt họ mà phải trả giá bằng mạng sống.

nhưng dũng cảm và dũng cảm thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là khả năng chèo lái con tàu đạt đến trình độ điêu luyện và nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân, người lái đò là một nghệ sĩ.

tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái đò lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái đò vẫn phanh chân, phanh tay, lùi xe ”như con thuyền lao đi. ” Xuống thác không phanh, cứ chạy về phía trước, không lùi, nếu không trúng tim dòng nước, thuyền sẽ lật nghiêng và chìm, nhưng không có mùi gì cả… ”.

sau đó, vẫn sử dụng biện pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh hết sức táo bạo, tác giả đã miêu tả con sông Đà như một sự chuyển mình đa chiều, mỗi nơi có một cạm bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có cách ứng phó riêng. có nơi nước sông “gào thét như đang sôi cả trăm độ, muốn hất tung con thuyền phải đóng trong nồi nước sôi khổng lồ”. “Nếu có dòng nước chảy sai, bạn sẽ chết ngay lập tức.”

có những “cái hút nước” xoáy sâu như cái giếng “những cái hút nó lên, chiếc thuyền trồng cây chuối úp ngược rồi lặn mất tăm”… thật là một con sông nguy hiểm và gian khổ đối với con người. tuy nhiên, “người lái đò cố nén vết thương, chân vẫn nắm chặt bánh lái…”. tuy gương mặt đã “méo mó” vì những đòn hiểm, “nhưng trong chiếc ghe ngo ngoe nguẩy chèo vẫn nghe rõ mệnh lệnh ngắn gọn và tỉnh táo của người lái tàu” …

qua việc miêu tả hết sức dữ dội của dòng sông, nguyễn tuấn đã ca ngợi lòng dũng cảm và tài trí của con người, ngợi ca chiến công oanh liệt của người lái đò đã vượt qua bao thác ghềnh, sóng dữ đưa thuyền về bến bình yên. , không chỉ một lần mà hàng trăm lần, trong suốt 15 năm lái đò qua sông Đà.

cuộc đọ sức giữa thiên nhiên hung dữ và loài người nhỏ bé, trong trận chiến đó, con người đã chiến thắng; trở lại cuộc sống trong hòa bình: “Dòng sông trở lại bình yên. đêm đó nhà phà đốt lửa hang, nướng ống cơm… ”

Từ đây, cảm hứng lãng mạn trong sáng lan tỏa trong từng câu văn hiện thực, tạo cho đoạn văn một sức hấp dẫn khó cưỡng. đối với tác giả, thiên nhiên là vàng của Tây Bắc, còn con người là chất của mười vàng thử lửa. trong suy nghĩ của nguyễn tuấn, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả mọi thứ.

“Người lái đò sông đà” là một bài thơ hay được đúc kết từ tình yêu quê hương tha thiết tha thiết của một con người muốn dùng văn chương để khơi gợi vẻ đẹp vừa hùng vĩ vừa trữ tình, thơ mộng của bầu trời và trên hết. những điều giản dị của người lao động Tây Bắc. hình ảnh người lái đò sông nước là tiêu biểu của nhân dân lao động Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, kiên trung, luôn bền bỉ, tận tụy với công việc. nổi bật giữa khung cảnh thiên nhiên bao la, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là những con người lao động nơi đây.

bài phân tích người lái đò sông Đà – mẫu 3

nhà văn là người dẫn đường cho người đọc đến với vùng đất của cái đẹp, bằng ngòi bút tài hoa của mình, nguyễn tuấn đã dẫn dắt người đọc đến với vùng đất của vẻ đẹp Tây Bắc, tìm đến với thi ca. nơi hoang sơ, có vàng mười trong tâm hồn người lao động nơi đây.

trước hết, đó là vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng, mềm mại của thiên nhiên Tây Bắc, của sông Đà. sự hùng vĩ dữ dội của sông đà trước hết là ở tảng đá xây tường thành. Ngay ở đây, cách dùng từ của Nguyễn đã làm say mê cái hồn của cảnh vật. từ “bức tường” gợi ra một cái gì đó u ám, thâm trầm và huyền bí như một thành cổ, một rãnh sâu, như một pháo đài bất khả xâm phạm. tiếp theo, những câu chuyện ví von gắn với hiện thực về cảm giác lạnh gáy khi ngồi dưới thuyền khiến thiên nhiên và không gian nơi đây vừa hùng vĩ, nhưng đầy lạnh lẽo, vô cùng huyền bí. sự hùng vĩ của dòng sông Đà còn ở tiếng thác ầm ầm: “nước uốn éo dặm, đá xô sóng, sóng vỗ rì rào, quanh năm gió gào”, giọng điệu “than thở van xin”. khiêu khích “giọng nói giễu cợt, chế giễu”. nhất là những công trình hút nước như cống bê tông, đầy rẫy những nguy hiểm rình rập. sông đà hùng vĩ, dữ dội, hung bạo, sự hùng vĩ hung bạo đó của sông đà khác với sông hương ở văn hoang phủ, sông đà hùng vĩ, dữ dội nhưng mang vẻ đẹp dữ dội, phóng khoáng như bản hùng ca của rừng già. . , trong khi dòng sông cho mang trái tim của một con thủy quái. Để thuần hóa và thuần hóa nó trong các bài văn của mình, Nguyễn đã chơi ngu bằng cách dùng “nước để tả lửa, rừng để tả sông”, từ đó thấy được sức mạnh cũng như sự hung dữ, dữ dội của con sông. vẻ đẹp của nó, mặc dù mãnh liệt, nhưng cũng theo một cách rất riêng.

nhưng ngoài vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, sông đà còn mang trong mình vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: “sông đà chảy còn trữ tình chân tóc, tóc mai ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa như hoa gạo nở tháng hai, cuốn theo mùi khói núi mèo đốt cánh đồng mùa xuân ”. Chỉ một câu chữ thôi, ta có thể thấy được toàn bộ sự chắt lọc trong tài năng và tâm hồn tinh tế của Nguyễn Tuân, ông luôn nhìn sự vật dưới góc độ văn hóa nghệ thuật, đây là minh chứng cho điều đó. Xưa nay người ta chỉ nói đến thơ, văn, tóc chứ ai gọi là tóc? Vậy nên, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà bỗng chốc mang đến cho nó những phẩm giá, nét đặc sắc của một tác phẩm nghệ thuật, không chỉ đẹp mà còn tao nhã, mượt mà, tràn đầy nhựa sống, sức sống xanh tươi như bừng nở trên đất đất nước này. Chất thơ trữ tình đó là tất cả tài năng và nội lực của ngòi bút Nguyễn được tích tụ trên trang viết, từ đó dẫn dắt người đọc đến với miền sơn cước.

nếu trên đây là vẻ đẹp của dòng sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội vừa thơ mộng trữ tình thì ngoài ra, Nguyễn tuấn trong “Người lái đò sông Đà” cũng đào sâu tìm vàng mười. tâm hồn của người dân Tây Bắc, điều có thể thấy rõ nhất ở đây là người lái đò. con sông có lúc dữ dội như muốn ăn tươi nuốt sống những con thuyền qua lại, nhưng dù vậy, người lái đò vẫn dùng hết sức lực để thuần hóa nó. người lái tàu khéo léo, vô cùng dũng cảm, đầy mưu lược và tài năng, anh đã vượt qua được cái chết của con thủy quái này. Tuy nhiên, ngay sau khi ngừng chèo, anh trở lại cuộc sống bình dị, lặng lẽ, không khoe khoang hay tự cao về thành tích của mình. hình ảnh ông lái đò chở hoa, từ đó thể hiện phần nào sự vận động trong nhãn quan của người dân nguyễn tuấn. trước đây anh chỉ nhìn thấy vẻ đẹp ở những con người đặc biệt, bây giờ anh nhìn thấy vẻ đẹp giản dị và lấp lánh của những người dân lao động trong cuộc sống mưu sinh, anh đã đi từ tháp ngà của nghệ thuật đến nơi gần gũi nhất với cuộc sống của nhân dân lao động, hòa nhập với hơi thở của cuộc sống mới. đó cũng là lý do văn nguyễn khuất phục trong “Người lái đò sông đà” làm ấm lòng bao người đọc.

“Người lái đò sông Đà” là một kiệt tác của Nguyễn tuấn, một trang hoa không ngủ trong dòng chảy văn học Việt Nam, qua đó một lần nữa ghi dấu ấn cá nhân của cụ Nguyễn vào lịch sử văn học nước nhà.

phân tích Người lái đò sông đà – mẫu 4

nguyen tuan là một người con của thủ đô hà nội, sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống về nghệ thuật. con người ưa “xê dịch”, với lối sống và cách viết phóng khoáng, vượt ra ngoài khuôn khổ của thời đại, quan niệm “cuộc đời là một trường du hành”, viết trước hết là để khẳng định cái tôi bản ngã. Khi sáng tác, Nguyễn Tuân cho rằng tác phẩm là một loại hình nghệ thuật, một cách nghiêm túc, thậm chí người cầm bút phải chịu “thắt lưng buộc bụng” để cho ra đời những tác phẩm có giá trị, có lẽ chính vì quan điểm độc đáo này. người ta cho rằng “cái tôi của nguyễn là nét thật”. của một nghệ sĩ “. Nói về đặc điểm của nhà văn này, người ta thường viết một số chữ tài hoa và uyên bác, ông không chỉ có tài văn chương, thiên tài về thể loại tùy bút mà còn có kiến ​​thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực, điều này mang lại cho tác phẩm của ông sự mới mẻ. và những góc nhìn toàn diện khiến người đọc phải kinh ngạc trước cách sử dụng ngôn từ điêu luyện và vốn kiến ​​thức phong phú của ông. Nguyễn tuẫn có nhiều sáng tác chia làm hai thời kỳ, trong đó tác phẩm tiêu biểu nhất sau cách mạng tháng Tám là bài viết về song da (1960), được viết trong thời kỳ. đi thực tế vùng cực tây bắc việt nam, người lái đò trên sông đà là một đoạn trích trong bài văn này với hai hình tượng trung tâm là sông đà và người lái đò trên sông đà.

còn xem kỹ bài tựa của nguyễn tuấn, trích từ câu thần chú của phan huy “ta ở sông, đông tau / đà giang độc bắc”, để nói về sự quý hiếm của con sông này, con sông khác có bao nhiêu con sông. phía dưới, chỉ có con sông đà chọn con đường khác thường và ngạo nghễ chảy về phía bắc. có lẽ chính cái tính thích ở một mình, một mình, trong này có cái gì đó giống cái tôi “ngông” của nguyen là phải tuân theo nên khi viết mình có cảm giác nguyen tuân theo dòng sông này một cách rõ ràng và say mê. mượn thơ của phan huy chu chưa đủ, nhà văn còn mượn một dòng thơ của nhà thơ Tây Ban Nha: “non sông hát đẹp làm sao” gợi vẻ đẹp phóng khoáng, thơ mộng của đà giang cùng với sự kiêu sa, hùng vĩ. dáng vẻ có từ bao đời nay của một dòng sông nơi núi rừng Tây Bắc.

con sông Đà đã xuất hiện trong tác phẩm với dáng vẻ vô cùng sống động, giống như một sinh vật, nó cũng có linh hồn, nó có nội tâm với cả cuộc sống, bắt nguồn từ đất nước Trung Hoa xa xôi, nó chảy qua hơn 400 km đến tìm biên giới từ nước ta, sau này nhập quốc tịch mường te, lai châu, với tên riêng là “da”. Chợt người ta liên tưởng đến cuộc đời đầy sóng gió của một đời người, nên khi đến dải đất hình chữ s này, con sông ban tặng bộc lộ bản chất hoang mang, ngạo nghễ khiến cả một vùng khó khăn. lúc dữ dội như đang giận hờn, lúc lại dịu dàng, thơ mộng và lãng mạn vô cùng. thứ nhất là con quái vật hung bạo và hùng vĩ, một con sông, chảy dọc theo hướng tây bắc, phần lớn thượng nguồn có lẽ là thác ghềnh, nguyễn tuấn trên hành trình thực nghiệm dài, cũng là người yêu thích “khổ hạnh” khám phá và nó bùng nổ, vì vậy dòng sông cho trong vở kịch có những cảnh đắt giá, khiến người ta chỉ đọc thôi cũng đủ thấy tầm cao và cảm giác lạnh lẽo của anh giữa dòng sông. Nguyễn tuấn miêu tả đoạn sông này bằng những hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh đá bờ sông xây thành”, rồi “trưa nắng ló dạng”, lại “lòng sông trải dài như một hẻm núi”, sinh động với vẻ đẹp. cảnh. ” con nai và con hổ đã từng vượt qua bờ bên kia ”, tạo cảm giác“ mùa hè mà cũng lạnh ”. Tất cả những hình ảnh này khiến người đọc liên tưởng rằng dòng sông giống như một nhân vật bí ẩn và lạnh lùng, người dùng đôi mắt sắc bén và khí chất u ám để quan sát và nghiên cứu tất cả những người đi vào giữa lòng sông, tạo ra áp lực vô hình và khó lường. Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu cho sự quái dị của con sông này, người ta phải thực sự thấy hãi hùng và dữ dội khi đọc những âm thanh mà Nguyễn Tuân đã rút ra từ vốn từ tiếng Việt của mình để tạo ra. . khoảng cách ghềnh mà hát là một cảnh “muôn dặm, đá nước, đá đập, sóng vỗ, gió thổi quanh năm luôn đòi nợ cho bằng được. bởi bất kỳ người lái đò sông nào có thể vượt qua “tới đó” và sau đó, ở khu vực vát dưới núi, xảy ra cảnh nước “thở và gào thét như thể một cái cống đang chết đuối, nước chảy róc rách như thể vừa chảy. đổ dầu sôi “. hoặc có bài hát lạ, với điệu bộ” nghe như than thở, rồi van xin, rồi khiêu khích, giọng gay gắt chế giễu “, gây cho người ta sự ngờ vực, sợ hãi dắt tay nhau chèo kéo. ở nơi thác đổ, dường sông thành thú, nước ở đó “gầm thét như tiếng đàn trâu mộng ngàn làm tổ giữa rừng trúc, rừng trúc như lửa đốt rừng lửa. , rừng lửa và rừng lửa gầm thét bầy trâu cháy da … ”. khiến người ta tưởng tượng ra một con quái vật biển đang kích động, tức giận hoặc đói đang quằn quại hoặc một người nào đó vô tình chạm vào chiếc cân lộn ngược để làm cho tất cả trở nên lộn xộn. Nhìn chung, tiếng nước trong cách miêu tả của nguyễn tuấn thật là hấp dẫn và lôi cuốn vô cùng, nó làm nổi rõ vẻ hầm hố, khó chịu của vùng thượng nguồn sông nước này.

Tất nhiên, vẻ dữ dội, hùng vĩ của sông Đà không dừng lại ở đó mà còn gây ấn tượng hơn bởi hình ảnh những con sông hút “chuyên dụng” của những con sông có độ dốc lớn như sông Đà. . Trong lăng kính của Nguyễn Tuân, những cửa hút nước ấy được miêu tả bằng nhiều hình ảnh gợi cho người đọc những liên tưởng sâu sắc, như những hình ảnh rất độc đáo “như một giếng bê tông được đổ xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. mặt giếng xây hoàn toàn bằng nước sông trong xanh với một khối thủy tinh dày, pha lê màu xanh lam ”, rồi trông giống như một“ chiếc cốc đựng nước bằng thủy tinh khổng lồ ”, rồi“ từ đáy bắn nước lên nhìn thành. thành phố vẽ mặt sông chênh vênh cột nước cao đến mấy thước ”,… qua những hình ảnh gợi cảm đó có thể thấy sông đà có những dòng xoáy rất đẹp, rất đẹp, trong xanh, nhưng cũng đẹp nó ẩn chứa muôn ngàn nguy hiểm cho ai lỡ đi mà rơi vào thì chỉ thân tàn ma dại, quả thật rất ứng với câu nói “càng đẹp càng độc” của người xưa. Và có lẽ tác giả đã có máu điện ảnh trong người, nên anh muốn tác phẩm của mình nổi bật hơn nữa và mang đến cho độc giả góc nhìn độc đáo bằng cách vẽ góc nhìn của một người quay phim liều lĩnh đặt cả máy lẫn máy vào vùng nước xoáy để ghi lại khoảnh khắc quay như vạch. phèn chua từ cái bình hấp thụ nước. nó thực sự khiến người đọc rùng mình và không khỏi khâm phục cách Nguyễn tuân theo chất điện ảnh trong bài viết của mình.

Bộ mặt của con sông da diết và khó tính này có lẽ được thể hiện một cách sinh động nhất qua hình ảnh những tảng đá và những “con sâu siêu nhỏ” mà chiến lược “thần sông và đá” bày ra để nuốt chửng bất kỳ kẻ khiêu khích nào. với những hình ảnh sống động về tảng đá mà cụ Nguyễn tuấn kể rằng đã mai phục ở đây hàng ngàn năm, chờ đợi một kẻ liều lĩnh với dáng vẻ háo hức “trỗi dậy” vồ lấy con thuyền, rồi dáng vẻ “ngỗ ngược”, “nhăn nheo”. méo mó ”ngoại hình, tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng,… đủ cả, khiến người ta không tin vào ánh hào quang mà họ tỏa ra. Ngoài ra, cuộc chiến ở đây không phải ai cũng dễ dàng sa lưới, họ tự chọn nhiệm vụ cho mình, có người xếp hàng, có người muốn đánh tay đôi, thậm chí có người còn giả vờ lộ lý lịch. , để những đứa trẻ, những người còn lại phục kích tàu để chúng không thể quay đầu trở lại. thế mới thấy độ khủng khiếp của những tảng đá này, chúng không chỉ được sắp xếp mà còn hiện ra những “con sâu vi kim” có tới 3 lớp, lớp cuối có nhiều cửa tử hơn, ít cửa sinh hơn, kênh sống hẹp, dòng chết dày đặc. . , dường như không cho kẻ thù bất kỳ cơ hội sống sót nào. Không biết có phải khó sống ở con sông này, nó thích đùa giỡn hay nó đã mang mối thù truyền kiếp với người dân nơi đây mà nó lại có bộ dạng ghê gớm như vậy, con người sống chết thế này.

tuy nhiên, khác với vẻ dữ tợn, thô lỗ và cục cằn khi nhìn thấy ở thượng nguồn, người dân ở hạ nguồn phải nhìn sông Đà với con mắt khác. dòng sông mang dáng vẻ êm đềm, từ góc nhìn cao xa trên mặt phẳng, dòng chảy như ngoằn ngoèo, một sợi dây êm đềm kéo dài khắp vùng Tây Bắc. nhìn gần hơn, nàng mang dáng vẻ của một người đẹp kiêu sa, quyến rũ với dòng chảy “dài miên man như một áng tóc trữ tình, chân tơ kẽ tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc nở rộ hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói từ núi rừng, mèo đốt nương xuân ”, hấp dẫn và lôi cuốn vô cùng. Ngoài vẻ đẹp hiền hòa, hiền hòa, bạn còn được ngắm nhìn một dòng sông Đà muôn hình vạn trạng với những màu sắc nổi bật, lãng mạn theo mùa, chẳng hạn như “vào mùa xuân, suối có màu xanh ngọc bích, nhưng sông Đà không phải là màu xanh. của dòng sông. “mùa thu nước sông đà đỏ như da mặt người bầm tím rượu, đỏ giận hờn căm hờn mỗi lúc một” nguyễn tuấn lưu luyến. đến quê hương đất tổ của mình đặc biệt với dòng sông này kiêu sa và khó nao lòng coi dòng sông là “cố nhân” nghĩ đến “sắc nắng hành khúc” trong thơ trữ tình với câu thơ nổi tiếng “yên hoa tam nguy. ha duong chau “, tức là màu hoa nở rực rỡ vào mùa xuân gắn với làn sương mờ trên mặt sông khiến lòng người thổn thức một cảm giác thân quen.” không biết người yêu “trên sân khấu của cánh đồng ngô, đàn hươu em, những bãi sông hoang vu với những câu chuyện cổ tích xưa, … khiến những người lữ khách xuôi dòng không khỏi xúc động.

Đó là một con sông, nhưng trong đoạn trích Người lái đò sông đà, hình tượng chính nổi bật nhất phải là hình ảnh người lái đò. bài ca dao này phải có nhiều nét tương đồng với đại thi hào Nguyễn Du, sông đà là thủy văn và người lái đò là thủy kiều, lấy sự dữ dội, hùng vĩ của dòng sông để làm nổi bật dáng vẻ anh hùng trong lao động của con người. Người lái đò thực sự xứng đáng được nhận danh hiệu “Vàng mười Tây Bắc”, anh không có tên, không có mặt, người ta chỉ có thể nhận diện anh qua công việc lái đò nặng nhọc và gian khổ của anh, công việc mà Nguyễn Tuân nói rằng anh đã làm. , đã đạt đến trình độ của một nghệ sĩ, một nghệ sĩ trong tác phẩm vượt sông Đà. Người đàn ông ấy tuy đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng vẫn miệt mài làm việc, như lời cụ Nguyễn khoa cử “không ai nhớ mặt”, nhưng hàng ngày vẫn sống và cống hiến cho sự nghiệp của đất nước. ông lão hiện lên nồng nặc mùi sông nước mênh mông, khắc khổ “tay quơ quơ như que củi, chân co quắp như bánh lái hư ảo, giọng chạy như thác đổ sông đà, dài thế gian như đang nhìn về bến xa xăm nào đó.” , … “.

nói rằng ông lái đò là một nghệ sĩ với mười phẩm chất vàng Tây Bắc bởi ông lão không chỉ là một người lao động bình thường mà ở ông cụ còn hiện lên hai vẻ đẹp nổi bật, đó là vẻ đẹp của một chiến sĩ dũng cảm trên chiến trường của cuộc sông, ngày ngày chiến đấu vì miếng cơm, manh áo và vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài hoa, say mê lao động, một bậc thầy trong nghệ thuật chèo thuyền, ngày ngày viết nên những bản hùng ca bất tận về công việc không ngừng nghỉ. Mọi người cũng có phần tò mò, tại sao hình ảnh mà Nguyên nhìn thấy lại là một ông già mà không phải là một thanh niên. Tuy nhiên, có câu “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, biết bao kinh nghiệm chinh chiến trên dòng sông gian nan, hiểm trở này đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, kinh nghiệm và cả cuộc đời của ông cụ, cho đến ngày nay, dù ông đã cao tuổi. , anh đã thực sự trở thành một người lái đò lành nghề, một nghề mà không một thanh niên nào có được. Ngoài ra, vẻ đẹp của ông lão còn đến từ sự liều lĩnh, dám nghĩ, dám làm, ông cho biết mình đã hơn trăm lần ngược xuôi dòng sông này, và hơn 60 lần cầm lái, hãy cố gắng lên thử hỏi có mấy ai đủ dũng khí đối mặt với sóng gió như bạn? rồi thêm vào đó là phẩm chất nghệ sĩ vàng của ông lão, nó còn nằm ở sự nhiệt tình và say mê trong công việc của ông, ông làm việc đó không chỉ để mưu sinh, tuy không tránh khỏi điều đó, nhưng quan trọng nhất vẫn là ông thực sự có đam mê. thích phiêu lưu mạo hiểm, anh ấy thích cảm xúc mạnh. Ông nói: “lái đò trên sông không thác thì dạy, chân tay dễ ngủ” nên ông cụ cũng là người hăng hái, dũng cảm với tâm hồn trẻ trung, sôi nổi không thua kém ai. Giờ đây, dù bản tính hiếu thắng, ham mê khám phá, chinh phục khó khăn, nhiều lần khiến anh lao đao vì bản tính cáu bẳn của con sông Đà vốn đầy “rễ nâu”, nhưng anh chưa bao giờ lùi bước hay coi đó là nỗi sợ hãi. , nhưng chúng ngày càng trở nên cứng đầu hơn. Nguyễn Tuân hiểu rõ tính cách này của người lái đò, vì bản thân tác giả cũng có tính cách như vậy, nên rất trân trọng so sánh những “gốc nâu” này với những người thợ siêu “huân chương”.

hình ảnh người lái đò trong lao động thực sự nổi bật khi nguyễn tuấn kiệt để tả cảnh ông đồ chèo đò vượt thác, quả thật là một trận chiến không khoan nhượng khi “kiếp người lái đò trên sông Đà là một hàng ngày phải đấu tranh với thiên nhiên, với thiên nhiên Tây Bắc mà có lúc tưởng như bộ mặt, trái tim của kẻ thù số một ”. ở đây, có thể thấy rõ chất nghệ thuật trong tâm hồn của người lái đò xưa, rất nghiêm túc, tỉ mỉ, cần mẫn và kiên nhẫn với công việc của mình. el rio da en su corazón đã trở thành một bản hùng ca tuyệt vời mà người nghệ sĩ dành cả cuộc đời để nghiên cứu và luyện tập, sao cho nhuần nhuyễn và điêu luyện đến mức thuộc lòng “từng điểm một”: câu văn, dấu chấm than, thậm chí cả đoạn văn. . thành dòng ”, khắc sâu trong tâm trí như“ đóng đinh vào tim ”từng nhịp từng pháp, không sót dù chỉ một nửa dấu. cuộc sống chinh phục, nơi ông được phép sử dụng tất cả tài năng, nhiệt huyết và những chiến thuật mà ông luôn nghĩ ra để chống lại những tảng đá, với những cây non tuyệt vời mà ông già đã đưa ra chiến trường với một tinh thần mạnh mẽ và kiêu hãnh, mái chèo thay mái chèo, cái duy nhất. thuyền thay chiến mã, tuy chỉ có một mình nhưng khí phách anh hùng của người lái đò không kém gì dòng sông chiến đấu khi đối mặt với “bọ hung”, ông lão đã không ngần ngại nắm lấy mái chèo để vượt qua thử thách và hiểm nguy của những tảng đá khó. lệnh ngắn tác động ”để các phi công phụ vượt qua được siêu vi đầu tiên một cách an toàn. sau đó ngay lập tức bước sang giai đoạn hai, cuộc chiến giữa người và sông giống như một bộ phim hành động sau đó càng trở nên gay cấn và hồi hộp. đến giai đoạn này, cửa tử ngày càng nhiều, cửa sinh lệch hẳn về phía hữu ngạn, nhưng đối với người lái đò thì đã quen ”, ông đã nắm chắc luật sông, thần tài. sỏi”. , “tuân theo luật sông”. bị những tảng đá ở nơi này mai phục ”nên ông lão tự tin“ cầm tay lái ”lao thẳng vào cổng sinh trước mặt xanh giận của những hòn đá sắp xếp và cửa ải cuối cùng và khó nhất, tất cả là cửa tử. , cửa ải ở giữa, ông lão chỉ còn cách nhìn thẳng vào mũi thuyền phóng mình vào đó để hoàn thành chặng thứ ba, rồi đắc thắng trở về xuôi dòng qua ba cửa ải sinh tử đó, một có thể thấy ông lão hiện lên với bản chất dũng cảm, sự phản kháng đã được trui rèn trong cuộc sống của người lính và lòng hăng say lao động, chinh phục thiên nhiên của một con người.

Người lái đò sông đà là một đoạn trích xuất sắc trong bài văn tế song đà, tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam trong thể loại văn chính luận, cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn tuấn. . ở đó, người ta bắt gặp hai hình ảnh vô cùng ấn tượng đó là hình ảnh con sông Đà với sự hùng vĩ, dữ dội và kiêu sa. Từ hình ảnh dòng sông, hình tượng người lái đò đã hiện lên sinh động, rõ nét, nổi bật với ba vai kéo, một người lao động bình thường, một chiến sĩ dũng cảm và một nghệ sĩ tài hoa đào thầy.

bài phân tích người lái đò sông Đà – mẫu 5

Nhà văn Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1945, ông đã để lại dấu ấn trong lòng độc giả với tập “Ngày xửa ngày xưa”. Sau cách mạng tháng Tám thành công, các sáng tác của ông vẫn giữ được những nét sáng tạo độc đáo riêng. Nguyễn Tuân được biết đến là một nhà văn tôn thờ cái đẹp. luôn muốn khám phá mọi ngóc ngách xinh đẹp trên thế giới về văn hóa và thẩm mỹ. con người và thiên nhiên xuất hiện trong văn học của ông như những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và tráng lệ.

người lái đò sông đà được trích từ bài văn sông đà do ông sáng tác năm 1960, bạn đọc sẽ cảm nhận rõ hơn điều đó. tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình gian khổ nhưng đầy thú vị của nhà văn lên vùng Tây Bắc hiểm trở. trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên uốn khúc, uốn lượn theo các sườn núi. sông đà nước chảy xiết, độ dốc lớn. chính những điểm khác biệt đó đã tạo cho đà giang một vẻ đẹp hoang sơ nhưng vô cùng tráng lệ. bởi chính sự hung bạo và trữ tình của dòng sông là cơ sở để làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.

Ngay từ những dòng chữ đầu tiên, nhà văn đã dẫn dắt người đọc cảm giác sợ hãi tột độ nhưng cũng ngây ngất, mê mẩn trước hình ảnh con sông Đà đầy hung bạo, dữ dội. điều đó thể hiện rõ ngay từ những mô tả đầu tiên như “những tảng đá bên bờ sông xây tường thành”. ở đây nhà văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để ví von những bãi đá bên bờ sông như những pháo đài kiên cố, kiên cố, ẩn chứa nhiều bí mật và nhiều hiểm nguy. người đọc càng đọc, họ càng thích thú với cách ví von và cách dùng từ ngữ của ông để miêu tả dòng sông, khác biệt và độc đáo. ông đã rút ra từ ngữ rằng mặt sông thường “chỉ vào buổi trưa” để có mặt trời. rồi đến những vách đá sừng sững như “lòng sông bẹp dúm như yết hầu”, rồi “có quãng như hươu, nai nhảy từ bờ này sang bờ bên kia”. nhà văn thể hiện những liên tưởng tưởng chừng chỉ tình cờ, ngẫu nhiên nhưng đầy dụng ý nghệ thuật. tài năng của nguyen là ở đó. Anh ấy nói mà không nói và hành động mà không làm. những hình ảnh và câu chữ đã được sắp xếp một cách tự nhiên theo cách mà không ai nghĩ rằng anh ta đã cố tình làm điều đó. như động từ “drown”. nó giống một từ dùng trong văn nói hơn là văn viết, nhưng khi nó xuất hiện với hình ảnh “như yết hầu”, nó hoàn toàn phù hợp và không từ nào có thể thay thế được.

Vẻ đẹp dữ dội của đà giang còn được thể hiện qua cảm giác se lạnh của nhà văn khi mùa hè đi qua, cảm giác ấy thể hiện không khí trong lành nơi đây và tạo nên một khung cảnh tuyệt vời, với những vách đá dựng đứng khiến con người ta thấy mình thật nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn. .

vẻ đẹp hung bạo của dòng sông, vì nó là tiền đề để tôn lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng người lái đò sau này. cảnh sông nước hung bạo cũng được khắc họa đậm nét nơi thác ghềnh. tác giả viết rằng sông phải dài hàng nghìn dặm mới là “nước chống băng, đá chống sóng, sóng chống gió”. chỉ một câu thôi nhưng nó lặp lại từ “hình khối” ba lần và hàng loạt âm sắc cao vút hiện ra khiến người đọc như bị sóng, gió và nước đánh bay lên cao hơn, mạnh hơn và bồi hồi hơn. qua đây, chúng ta thấy rõ sức mạnh của thiên nhiên thật khủng khiếp và lạnh lùng. là “giòn”, hầm hè như một con thú, cứng đầu và hung dữ. sẵn sàng giơ móng vuốt và thách thức con người.

tiếp theo, vẻ đẹp tàn bạo ấy còn được thể hiện qua những “hòn non bộ” khổng lồ ở sông vát ta mường. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân, những dòng xoáy được thả xuống “như những hố bê tông” để tạo thành nền của cây cầu. ở đây anh ấy nhân cách hóa vòng xoáy trong một người có thể thở và khóc. sự ví von của một cái cống nghẹt thật sinh động và hấp dẫn. Chắc chưa có nhà văn nào có thể hình dung và so sánh các hình ảnh với nhau độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói, nhờ có Nguyễn Tuân mà nhiều người dù chưa được nhìn thấy mặt sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được dòng sông nơi đây vô cùng hiểm trở. nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không tàu nào dám đến gần, nếu không sẽ bị hút và dìm xuống sông. thật đáng sợ!

đặc biệt là ở thác nước sông Đà, khía cạnh hung tợn, hiểm độc của con sông được tác giả “phơi bày” một cách rõ ràng. ông mô tả nó với những âm thanh và âm bội cực kỳ lớn và mạnh mẽ như “khóc gần hơn, hét to hơn”. ông nghe thấy tiếng nước đôi khi như “ai oán”, đôi khi là “van xin”, hoặc đầy “trêu chọc”. đôi khi nó gầm lên như “một con trâu ngàn mộng” đang chiến đấu trong lúc rừng rực lửa, không chỉ vậy, những tảng đá ở sông đà như hòa vào nhau thành một “chân trời đá” bao la. chúng có nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như “bất hảo”, “nhăn nheo”, “méo mó”. nhà văn sử dụng nhiều tính từ để miêu tả con người khiến những viên đá vô tri vô giác trở nên chuyển động. Với suy nghĩ đó, người đọc dễ dàng cảm nhận được sự lì lợm và bất cẩn của tảng đá. Đến đây, chúng ta có lý do chính đáng để nói rằng, bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, nhà văn đã biến dòng sông hiện tại thành “thủy quái khổng lồ” với dã tâm độc ác và nguy hiểm. đó là lý do tại sao mọi người ở đây coi anh ta là kẻ thù số một.

Qua bài phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà, có thể thấy, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo, dữ dội, dòng sông còn mang một vẻ đẹp thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. vẻ đẹp thiếu nữ ấy được tác giả cảm nhận qua nhiều góc độ, điểm nhìn khác nhau trong những không gian và thời gian khác nhau. với nguyễn tuấn, con sông đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như mái tóc người con gái đẹp tuyệt mỹ miền tây bắc “chảy như một áng tóc trữ tình, chân tóc và chân tóc như ẩn hiện trong mây trời tây bắc. hoa nở, hoa gạo vào tháng Hai và khói cuộn từ núi và mèo đốt cánh đồng mùa xuân. ”

Anh không quên miêu tả chi tiết sự thay đổi theo mùa của màu nước sông, chẳng hạn như màu xanh ngọc bích vào mùa xuân và “màu đỏ chín” vào mùa thu. không chỉ vậy, trong trí tưởng tượng của nhà văn, đôi khi con sông Đà lại ma mị “như một cố nhân”. anh thấy dòng sông vẫn còn “màu nắng tháng ba” với đôi bờ đầy chuồn chuồn, bướm lượn. từ xa đến gần, từ khái quát đến chi tiết, tác giả không quên miêu tả hai bờ sông nhuốm màu cổ tích. cả dòng sông vẫn mang trong mình những hoài niệm của quá khứ.

Khi phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà, không thể không nói đến nhân vật ông lái đò. nếu thiên nhiên bao la, dữ dội thì càng thể hiện vẻ đẹp tài năng, đức độ, trí tuệ của người lái đò. người lái đò ở đây cũng là một người lao động cần cù, chăm chỉ, mạnh mẽ và dũng cảm.

Phẩm chất cao đẹp của người lái đò được thể hiện rõ nét qua cảnh vượt thác sông Đà. Đối mặt với dòng sông đầy gian xảo và nhiều đòn hiểm, người lái đò phải hết sức tỉnh táo và vững vàng mới có thể vượt qua ma trận với ba vòng thử thách trên sông. đối mặt với “trận đá” căng thẳng, tài xế vẫn không hề nao núng. anh vẫn “giữ vững mái chèo để chúng không bị lật”. dù mặt nước reo vui làm gãy tay thuyền, nhưng sóng biển như “kẻ liều mạng” lao tới “đạp đầu gối trái vào bụng và mạn thuyền”. dù nước có đeo bám anh như “đô vật” muốn trả anh về nhưng sóng như muốn siết chặt đáy thuyền. và dù bị thương “biến dạng mặt mũi” nhưng anh vẫn quyết tâm không bỏ cuộc. Anh “cố nén vết thương, chân vẫn bấu chặt vào cabin” và lái con thuyền băng qua mọi “hạt vi mô”.

Rõ ràng ở đây tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò với nhiều nghệ thuật độc đáo trên nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao …, đồng thời với các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, và những câu văn ngắn gọn, súc tích đã làm hoạt hình thành công nhân vật người lái đò và dòng sông huyền thoại.

đoạn trích Người lái đò sông Đà thực sự là một áng văn chính luận vô giá. thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn khăn gói lên đường lên Tây Bắc để tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo và trữ tình của con sông có một không hai này. đồng thời trò chuyện với người lái đò để thêm yêu và hiểu những con người dũng cảm nơi đây.

phân tích Người lái đò sông đà – mẫu 6

Nói đến nguyễn tuấn người ta nghĩ ngay đến một văn nhân cả đời đi tìm cái đẹp. cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến sự hoàn mỹ. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân rất thành công cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ bài tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân để tìm kiếm “vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “vàng thử lửa” của người dân nơi đây.

ngay những câu đầu, nguyễn tuấn đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của con sông Đà. dòng sông không chuyển động giữa đôi bờ thơ mộng “cát trắng phẳng lặng”, mà đôi bờ “xây bức tường thành”, thật cao và vững chãi. sông hẹp đến nỗi “có lần hươu và hổ nhảy từ bờ sông này sang bờ sông bên kia”. “Mặt sông nơi ấy chỉ có buổi trưa”, “mùa hè đi chèo thuyền thì lạnh”, cái lạnh của từng lớp da, sự sợ hãi của thiên nhiên nơi đây. đi qua đoạn này, người ta có cảm giác như đang “đứng trong ngõ nhìn ra khung cửa sổ tầng 1 vừa tắt đèn”. Với hàng loạt hình ảnh gợi tả, Nguyễn Tuân đẩy người đọc từ phố thị đến khung cảnh hoang sơ, hãi hùng của thiên nhiên sông nước. người ta thấy một khúc sông Đà hiện ra trước mắt vừa sâu, vừa hẹp, tối tăm và lạnh lẽo đến mức khiến ai qua đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

Đi qua bảy mươi ba ghềnh, có thể kể tên năm mươi ghềnh, nhưng đáng sợ nhất là những ghềnh cất tiếng hát “dài hàng dặm, nước chảy ào ào, đá ào ào, sóng vỗ rì rào, gió cuốn quanh năm …” chính cấu trúc, tiết tấu nhanh, mạnh khiến người đọc không khỏi sợ hãi trước âm thanh của sóng, gió, nước và đá. những từ “lăn lộn”, “gắt gỏng” nghe thật ghê rợn và gợi lên những hình ảnh ghê rợn về nơi này. con sông cho được miêu tả là những kẻ sẵn sàng “đòi nợ” của người dân vùng sông nước. nó có thể gây ra nhiều nguy hiểm mà con người không thể lường trước được.

Nói đến nỗi kinh hoàng của sông Đà vẫn là chưa đủ. Nguyễn Tuân đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật khác nhau để khắc họa sự hung bạo của sông Đà. Nhìn từ xa, những dòng xoáy trên sông trông giống như lúm đồng tiền trên má một cô gái, nhưng không duyên dáng hay dễ thương, nó có thể kéo thuyền xuống đáy sông và xé nó ra từng mảnh. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh cửa hút nước với giếng bê tông được ném xuống sông để chuẩn bị làm chân cầu. hình ảnh so sánh này gợi lên chiều sâu hấp dẫn của các dòng xoáy và khiến người đọc sợ hãi khi tưởng tượng ra nó. còn sợ hơn khi đọc những câu miêu tả tiếng giác hơi. “Nước ở đây thở và nghe như một cái cống nghẹt thở.” nước không chỉ đổ ra nhiều và nhanh mà còn đặc quánh lại như thể người ta đổ dầu sôi vào. từ “bồi” gợi cảm giác mà dòng sông mang lại giống như một con thủy quái bị siết chặt cổ họng và quằn quại vùng vẫy. sự tàn bạo này khiến người viết liên tưởng đến hình ảnh một người quay phim táo tợn vác máy ảnh ngồi trên chiếc thuyền thúng lao xuống sông Đà rồi lật ngược ống kính để ghi lại một cảnh tượng hãi ​​hùng: một cái giếng trong xanh, đầy thủy tinh, như nếu sắp bị vỡ và rơi vào người, kể cả máy ảnh. thuyền quay thì màng màu cũng quay. Ngòi bút sắc như dao cạo của Nguyễn Tuân khiến người đọc có cảm giác như đang xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng không kém phần rùng rợn.

Sự hung bạo của sông Đà cũng được thể hiện qua các thác nước. nhà văn hướng sự chú ý của người đọc vào âm thanh của chúng và miêu tả chúng theo trình tự từ xa đến gần. “còn dài mới tới thác”, nhưng dã tâm và bộ mặt của “kẻ thù số một của con người” đã dần lộ diện. chúng đến với âm thanh “khóc gần hơn và hét to hơn”. tiếng thác nghe như “ai oán”, nghe như “van xin”, “khiêu khích”, giọng chát chúa mà “phũ phàng”. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa so sánh và nhân cách hoá này đã làm cho sông Đà hiện lên với trọng tâm phức tạp. “Rồi anh ấy gầm lên”, âm thanh khuếch đại như thể anh ấy đang ở đỉnh điểm của sự phấn khích tột độ. Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà với tiếng trâu ngàn đánh phá vòng vây của Lửa rừng.

và để tăng thêm vẻ hung dữ của sông Đà, nguyễn tuấn còn hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả những tảng đá của sông. hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác về vô số đá trên sông Đà. Những tảng đá sông Đà đã được ông Nguyễn thổi hơi thở theo từng mặt đá hiện lên những nét “nham nhở”, “nhăn nheo”, “méo mó”. rồi họ cũng lượn một vòng thành đá như hình bát quái trên sông đà.

qua ngòi bút của nguyễn tuấn, con sông hung bạo này không khác gì kẻ thù số một của con người. nhưng ít lâu sau, khi cơn bạo động qua đi, anh lại xuất hiện với những bức vẽ vô cùng trữ tình và thơ mộng.

từ trên máy bay nhìn xuống, “dòng sông đà như một áng tóc trữ tình, từng sợi tóc, từng chân tơ kẽ tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai nở rộ hoa gạo và nghi ngút khói núi. Con mèo đốt ruộng xuân. . ” so sánh sông đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã làm cho dòng sông hiện lên với vẻ đẹp của người phụ nữ. Thông thường, người ta sẽ thấy từ “áng” hay dùng để chỉ các tác phẩm nghệ thuật, nhưng ở đây nguyễn tuấn dùng để chỉ sông đà. có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, song da giống như một tác phẩm nghệ thuật do tạo hóa ban tặng.

sông Đà không chỉ đẹp về hình dáng mà còn đẹp về màu nước. tác giả đã quan sát dòng sông trong những không gian và thời gian khác nhau. dòng suối xanh ngọc bích, vừa trong vừa óng ánh. mùa thu cho nước sông đỏ, đỏ như da mặt người bị cồn. Với những miêu tả chi tiết, cụ thể và những so sánh độc đáo, con sông Đà hiện lên thật đẹp và đa dạng, qua đây ta cũng thấy được vốn hiểu biết sâu sắc cũng như năng lực quan sát tinh tế của nhà văn.

bờ sông đà mênh mông nối dài “bờ sông đà, bãi sông đà, chuồn chuồn, bướm sông đà”. câu văn được chia thành nhiều đoạn, tạo tốc độ viết nhanh. thì từ trên thuyền nhìn xuống, dòng sông toát lên vẻ “tĩnh lặng”, một sự tĩnh lặng tuyệt đối. sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa một sức sống dồi dào. nhà văn còn sử dụng những phép so sánh vô cùng gợi cảm qua việc miêu tả dòng sông “bến bờ hoang sơ như bến bờ tiền sử”, “bến bờ hồn nhiên như truyện cổ tích xưa”. nhà văn đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của con sông Đà, làm cho con sông Đà không chỉ hiện lên như một dòng không gian mà còn như một dòng sông của thời gian. cụm từ “thuyền tôi trôi trên sông đà” gợi lên sự êm đềm của dòng sông Đà và sự thanh thản của tâm hồn con người. Giữa khung cảnh thơ mộng ấy, nhà văn như nghe thấy tiếng còi sương – tiếng còi tàu xe lửa phú thọ – yên bái – lai châu, đó là âm thanh của cuộc sống đầy đủ, hiện đại.

Có thể thấy những cụm từ gợi tả vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà đã tạo nên một đoạn văn đầy chất thơ. thơ cảnh sông đà, thơ tâm hồn con người.

Với vốn kiến ​​thức uyên thâm và tài năng miêu tả nhạy bén, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ sợ hãi đến ngạc nhiên khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

đọc “Người lái đò sông đà” người ta càng hiểu thêm vì sao cái đẹp trong văn chương Nguyễn tuấn được mệnh danh là cái đẹp đã đạt đến độ hoàn mỹ. Tác phẩm một lần nữa khẳng định tài năng sử dụng ngôn từ bậc thầy của Nguyễn Tuân, giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông gửi gắm trong tác phẩm.

phân tích Người lái đò sông đà – mẫu 7

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một tùy bút đặc sắc, là kết quả của chuyến du ngoạn miền sông Đà của nhà văn từ năm 1958 đến năm 1960, in trên tạp chí sông Đà. cảm hứng gắn bó với đất và người Tây Bắc in đậm trong hình tượng người nghệ sĩ lái đò và dòng sông Đà vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.

“hướng tây bắc? chỉ có tây bắc tồn tại. khi lòng ta đã thành tàu, khi đất nước khắp nơi hát vang, hồn ta là Tây Bắc. “

(ca dao – che lan vien)

Trong những ngày cả nước hối hả theo tiếng gọi “hồn Tây Bắc” xây dựng lại một vùng quê quê hương đất nước, đã có biết bao nhà văn, nhà thơ tiến bước theo cách mạng. một nghệ sĩ yêu nước như vậy là Nguyễn tuẫn, cây độc dược trong văn học Việt Nam, đã đem lại hoa thơm cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua bài văn Người lái đò sông Đà, một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân, là đến với khám phá và sáng tạo, bởi “nhà văn là người tái tạo thế giới”. Nguyễn Tuân sợ cái tôi của ngày hôm nay cũng giống cái của ngày hôm qua, ông sợ sự trùng lặp tầm thường. do đó, anh ấy đã lấy “chủ nghĩa của sự dời chỗ” làm chủ đề công việc, mục đích sống của mình. Cuộc sống là để đi du lịch, để học hỏi những điều mới.

trước cách mạng, chỉ với một chiếc vali, Nguyễn tuấn đã bôn ba khắp mọi miền đất nước, nhưng với tinh thần của một người “nhớ quê hương”, bất mãn với cuộc đời. đó cũng là tâm trạng chung lúc bấy giờ. Sau cách mạng, ông cũng đi nhiều nơi nhưng với tinh thần của một người yêu quê hương đất nước, mong muốn được góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước.

chính nhà văn đã từng nói rằng, tây bắc là “tìm thấy thứ vàng mười của màu sắc của núi rừng Tây Bắc, và đặc biệt là thứ vàng thứ mười có sẵn trong tâm trí của tất cả những ai ngày nay đang nóng lòng lưu luyến công cuộc xây dựng Tây Bắc tươi sáng, hạnh phúc và bền vững hơn. ”Với tình yêu quê hương sâu sắc và nhiệt huyết tha thiết, Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển và tinh tế để viết nên những đóa hoa thơm về con người và thiên nhiên sông núi. . cái này…

Tác giả thường tìm kiếm cảm xúc cho các giác quan. vì lý do này, các bài viết của ông thường mang âm điệu của cuồng phong và bão tố. nhưng không có nghĩa là chúng mất đi nét ngọt ngào, thơ mộng. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo vừa trữ tình. có dã tâm xảo quyệt số một, có thể cướp đi sinh mạng của bất cứ kẻ nào chẳng may rơi vào “trận thủy chiến”… “nước sông vang dội như sôi lên cả trăm độ… những tảng đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục mọi người dưới lòng sông “và khi thấy thuyền đến, chúng” nhảy lên chộp lấy “…

nhưng sự hung dữ dữ dội ấy vẫn không làm mất đi tính trữ tình của sông đà. Tả dòng sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút của Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, đầy chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc hoa nở, tháng hai hoa gạo cuồn cuộn khói núi mèo đốt ruộng xuân”…

Trên dòng sông ấy, người lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. trong trận chiến “một mất, một còn” với thác nước, tác giả đã cho ta thấy tài năng và lòng dũng cảm tuyệt vời của người lính lái xe. Người lái đò sông đà là hóa thân của tác giả, người chỉ thích tham gia vào những trận chiến nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không thích chèo thuyền trên dòng sông phẳng lặng …

Giọng văn của Nguyễn Văn Tuân rất tự nhiên và tự do khi miêu tả hai trạng thái trái ngược nhau của cùng một sự vật. song da diết vừa trữ tình, vừa hung bạo, vừa “thù” vừa “lớn”, dưới ngòi bút của tác giả, dòng sông không chết mà chuyển động mạnh mẽ, linh động với những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh đến giác quan của người đọc.

người lái đò cũng hiện lên một cách sinh động, rõ ràng và sắc nét … đối với nguyễn tuấn thì “nếu là văn học thì trước hết phải là văn học”. chữ viết phải đẹp và trau chuốt. vẻ đẹp ấy đã chi phối tầm nhìn của tác giả toàn bộ tác phẩm. con người và vạn vật qua ngòi bút của Nguyễn tuấn đều được khai thác qua nghệ thuật và tài năng của người nghệ sĩ.

vẻ đẹp của sông đà là một công trình sáng tạo của thiên nhiên. nó vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. nó đẹp về hình dáng và màu sắc. mái tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn. nước sông đà cũng vậy. “Mùa xuân suối xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông đà lạt đỏ như da mặt người bầm dập vì rượu”.

Con sông ấy đối với tác giả không chỉ là một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp mà nó còn rất gợi cảm. khơi gợi nỗi nhớ cho những ai một lần gặp gỡ rồi lại ra đi. nối lại với sông đà, tác giả cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, vui sướng như được gặp lại người bạn cũ. “Wow, nhìn dòng sông, hạnh phúc như thấy mặt trời tan sau cơn mưa lớn, hạnh phúc như nhặt được một giấc mơ tan vỡ.”

và giữa thiên nhiên đất trời tươi đẹp và thơ mộng, con người hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa. ông đã chèo lái con tàu một cách chủ động và khéo léo. anh luôn đứng trên những con sóng dữ và buộc họ phải đầu hàng. “nắm lấy bờm sóng đi đúng hướng, người lái đò giữ vững tay lái, nắm chắc dòng nước, phóng nhanh ra cửa sinh, chèo một mạch vào cửa đá”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh anh lái tàu như thể một nhạc công đang chơi đàn vĩ cầm.

“Người lái đò sông Đà” là một sự thay đổi lớn trong phong cách của Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, các nhà văn thường tìm đề tài cho tác phẩm của mình bằng cách ngược về quá khứ, về quá khứ huy hoàng. Các nhân vật của Nguyễn Tuân là những người đào hoa tuyệt vời, những viên quản ngục có tâm trạng “ai biết người trên”. những nhân vật “vang bóng một thời” là những anh hùng ngang dọc, “bất chấp vạn vật”. nhưng sau cách mạng, nguyễn tuấn đã tìm thấy tài năng nghệ thuật ở những con người rất chất phác và cần cù.

đào tạo đã là dĩ vãng, chỉ có người lái đò ở đây cả đời gắn bó với công việc và cuộc sống. hình ảnh anh lênh đênh trên sóng nước, chống chọi với cái chết bên chiếc sào nhỏ bé đã gây được bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng anh huy chương anh dũng trên ngực áo như một niềm tự hào thiêng liêng. người lái xe hiện ra trước mắt chúng ta như một nghệ sĩ tài năng và dũng cảm. Qua việc khắc họa hình ảnh những con người bình dị lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ đối với những con người có công trong công cuộc xây dựng đất nước.

trong việc tái hiện hình ảnh núi rừng Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn tuấn đã kết hợp nhiều phương tiện từ nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc … mọi thứ, mọi thứ như hiện ra trước mắt bay bổng và sống động. . “đi một vòng quanh sông, thấy rằng sóng bọt đã phủ trắng cả chân trời đá.” tiếng sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dâng về phía thác núi, “người quay phim táo tợn… dũng cảm ngồi trên chiếc thuyền thúng bập bênh” rồi lao mình xuống “sông đà hút đáy”. . “để quay. phim…

mọi thứ nhà văn viết, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo, đều như được tái tạo lại trước mắt người đọc. Tiếp xúc với công việc của người lái đò sông Đà, chúng ta có cảm giác như đang đứng trước dòng sông ấy, chứng kiến ​​cuộc đấu trí giữa người lái và ngọn thác, khốc liệt chứng kiến ​​từng khúc sông, lởm chởm đá ngầm và đá. những dòng sông trôi và cả những dòng sông êm đềm, trữ tình.

trong đoạn văn, nguyễn tuấn vận dụng cả binh pháp, võ nghệ … trận chiến giữa người kỵ mã và đá sông đà diễn ra vô cùng thú vị và hấp dẫn: “mặt nước hừng hực”. , sóng nước là “đạp trái thúc gối vào bụng và mạn thuyền”. ông “chộp lấy thuyền như võ sĩ túm eo người chèo thuyền xin quay lưng”… tất cả những từ ngữ, hình ảnh mang đậm chất “quân tử, văn võ song toàn” ấy như gợi cho ta liên tưởng đến cảnh một thời loạn lạc. trận chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.

nguyenobecer từng được biết đến là một nhà văn tài năng và uyên bác. nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lý, sinh học … có xu hướng dồi dào trong các tác phẩm của ông. với người lái đò trên sông Đà, tác giả đã đưa ta về một miền quê hương. Vị trí sông Đà và lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân trình bày bằng những trang đầy “uyên bác”. nhiều địa danh được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như ta mường cược, là la, hát loong … tất cả đều thể hiện tầm hiểu biết rất rộng và sâu của tác giả khi viết về sông Đà …

Khả năng thể hiện bản thân và khả năng ngôn ngữ của Nguyễn rất phong phú. Mỗi từ, khi đưa vào một câu, dường như đã được trau chuốt và trau chuốt một cách cẩn thận. đã tạo ra nhiều từ mới và độc đáo. giọng nói đôi khi có vẻ gay gắt và kéo dài, nhưng nó rất cô đọng và tự nhiên. Nguyễn Tuân không chỉ viết nên những trang văn tài hoa, lịch lãm mà còn làm nên những vần thơ để đời. Khi đọc những dòng viết trên sông Đà trữ tình, chúng ta không khỏi trầm trồ, kinh ngạc trước giọng thơ nhẹ nhàng êm ái của Nguyễn Tuân.

viết về người lái đò trên sông Đà, viết về quê hương, nguyễn tuấn đã thể hiện được cội nguồn tình yêu tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất nước. sông đà càng đẹp và sống động, anh dũng, ngoan cường trong công việc, ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn: người lao động.

nguyễn tuân rất đơn giản từ công việc đến ngoại hình, cách ăn nói. nhưng anh ta là anh hùng trước mặt nguyễn tuân. nhà văn đã phát hiện ra ở con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa dám đối mặt với sóng to gió lớn để qua sông chèo đò. người lái xe xuất hiện trên công trường là một công nhân hăng say quên mình vì công việc.

cuộc sống xung quanh chúng ta vốn dĩ rất bình thường và cổ xưa. ngày này qua ngày khác, mây cứ bay và gió cứ thổi… nhưng chính nhà văn đã mang đến cho chúng ta một thế giới mới, tinh khôi, huyền diệu. nguyễn tuấn còn là một nhà văn, một cộng tác viên trong việc tái tạo thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. đó là chân trời của sắc đẹp, tài năng và sự uyên bác…

phân tích Người lái đò sông đà – mẫu 8

với bài văn nổi tiếng “Người lái đò sông đà” – trích từ cuốn “bài văn tế song da” xuất bản năm 1960, Nguyễn tuấn muốn ca ngợi ông là người lái đò tài ba, xây dựng trên dòng sông thiên nhiên hung bạo, tiếng nguyễn tuân theo. nhau ca ngợi tác giả của nó là một con người tài ba chèo thuyền xuôi dòng không thua gì thác. Chính từ thời kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng uyên bác trước cách mạng tháng Tám nay lại có cơ hội thể hiện một phong cách nghệ thuật thú vị trước cuộc sống nhiều đổi thay. tác phẩm tiêu biểu cho vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của dòng sông Đà và ca ngợi người lái đò sông nước giản dị mà hào hoa.

nguyễn tuấn là một đại văn hào của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời tìm kiếm và tôn vinh cái đẹp. Ông giữ một vị trí quan trọng và đóng góp đáng kể cho nền văn học hiện đại: thúc đẩy văn chính luận và văn học viết ở trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, tạo cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách xuất sắc, tài hoa và độc đáo.

Với tài năng đờn ca tài tử sẵn có trong tâm hồn người nghệ sĩ yêu cái đẹp, trí tuệ uyên bác và lối viết tinh tế, độc đáo, Nguyễn tuấn đã gây ấn tượng với người đọc bằng những tác phẩm vô cùng đẹp mắt. . đối với hắn, xinh đẹp là hoàn mỹ, dữ tợn là phi thường dữ tợn, đến cực điểm. Và trong chuyến hành trình gian khổ và thú vị đến vùng Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, anh đã tìm được một “nàng thơ” hoàn hảo: dòng sông chạm đến hai “đầu” trái ngược nhau đầy hấp dẫn: đói khát, hung bạo, dữ dội nhưng trữ tình, đẹp đẽ.

Sự tàn bạo của Đà giang đã được Obey Nguyễn thể hiện rất tài tình trong vở kịch. Khi viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng khoáng, thoải mái bởi “Người lái đò sông Đà” được viết theo thể văn chính luận. nó giống như một nhà quay phim dày dạn kinh nghiệm. đôi khi ống kính của người viết phóng to con sông Đà từ góc nhìn. Từ trên cao, Nguyễn Tuân nhìn thấy con sông Đà dài ngoằn ngoèo như một sợi dây.

đôi khi ống kính của nhà văn chuyển sang chụp cận cảnh từng khúc sông hẹp, cắt từng khúc sông để miêu tả sự tàn khốc của những khúc sông với hình ảnh “những tảng đá trên bờ sông, những bức tường thành, bề mặt của sông chỉ có buổi trưa mới có nắng. ”Thậm chí, có đoạn“ vách đá cắt lòng sông như cái yết hầu. đứng bờ bên này, nhẹ nhàng ném hòn đá sang bờ bên kia.

Có lần hươu và hổ nhảy từ bờ này sang bờ khác ”. ấn tượng hơn nữa là “ngồi trong khoang thuyền ở khoảng cách đó, dù mùa hè cũng thấy lạnh, tôi như đang ở mùa hè trong một con hẻm và nhìn cảnh cửa sổ trên tầng cao nhất của ngôi nhà. ” tắt đèn. Và phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua góc nhìn điện ảnh mà ông từng cảm nhận, tạo cho người đọc ấn tượng về vẻ đẹp hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.

Ghềnh, ghềnh vẫn đáng sợ trước sự dữ dội của gió – nước: khoảng cách của ghềnh hát dài hàng cây số, gió kết hợp với nước, với đá và với sóng tạo nên những dòng xoáy khủng khiếp. nước đụng băng, đá xô sóng, sóng đánh gió, quanh năm gió thổi, cứ như đòi nợ luôn ”. Sự dữ dội, hung bạo của ghềnh thác được khắc họa thành công, sinh động như thể hiện ra trước mắt người đọc qua nghệ thuật tài tình của Nguyễn. tuân theo một loạt động từ mạnh, câu có nhiều dấu phẩy liên tiếp. “và một phần nó thiết lập một nhịp điệu tăng tốc, vừa giống như sự dữ dội và hung bạo của dòng nước chảy xiết, vừa giống như tiếng tim đập của những người đi bộ trên sông.

thì rõ ràng ở nơi đó lòng sông rất hẹp, độ dốc của thác rất cao, nhiều suối chết, nước xoáy. Khi viết về dòng sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn gọn, chủ yếu dùng võ công, quân sự để miêu tả sự vận động của nước. cũng cảm nhận cuộc sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của người đọc. do đó, sông đà dường như là một nhân vật có cá tính và ngôn ngữ.

chúng ta cũng có thể thấy rằng nguyễn tuân tập trung miêu tả cảnh bạo tàn ở vùng đầu nguồn với sự liên tưởng rất táo bạo. ở những cửa hút nước như giếng bê tông, người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “Qua những cửa hút nước ấy cũng xoay cánh quạ”. nước ở đó “thở và gào thét như thể một cửa xả lũ”, có khi nghe như tiếng “đổ dầu sôi”. sông đà như một con thú xảo quyệt, chực chờ vồ những con tàu mỏng manh. “Do đó, không có con tàu nào dám ra khơi gần chỗ hút đó …

chiếc bè gỗ bơi qua đây vô tình bị nước cuốn trôi, có chiếc thuyền bị cây chuối lật ngược ngay lập tức rồi biến mất, nó lao xuống lòng sông đến mười phút sau mới về tìm thấy thi thể rã rời trên sông. dòng sông thấp ”. những so sánh, ví von gợi hình, gợi hình của tác giả“ như một cái cổng lũ ngạt thở ”,“ như một cái giếng xi măng ”. sự dữ dội của dòng sông mang lại nhưng chuyển động. bên kia sông, nguyễn tuấn đưa người đọc vào nỗi kinh hoàng hơn của sông đà.

trước hết là tiếng thác gào thét rợn người và hoang dã: sông đà đã biến thành một loại quái vật vừa hung ác vừa nham hiểm: “tiếng thác như một lời than thở, rồi lại một lần nữa như một van xin, rồi như trêu chọc, rồi giọng giễu cợt, rồi gầm lên như tiếng trâu mộng ngàn làm tổ giữa rừng trúc, rừng trúc nổ tung, phá rừng cháy, rừng cháy, rống cả đàn trâu. cháy. Trong đoạn văn này, tác giả đã huy động nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân cách hoá, liên tưởng, so sánh, sử dụng hàng loạt động từ mạnh, làm cho hình ảnh con sông trở nên đáng sợ như một nhân vật có dã tâm thâm độc, mưu mô xảo quyệt. .

tiếp theo là sự hung tợn và dữ dội của những bãi đá sông Đà, là những cửa tử ẩn nấp mai phục khiến người lái đò khiếp sợ. Với kiến ​​thức sâu rộng về quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao và phim ảnh, Nguyễn Tuân đã vạch ra một cuộc chiến tranh hấp dẫn như một cuốn sách lược quân sự về cuộc chiến đấu trên sông Đà. đá ở đây được chia thành ba con đường và năm cửa, bốn cửa tử và chỉ một cửa sinh.

XEM THÊM:  Tổng hợp câu hỏi Chị em Thúy Kiều | Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn

lòng sông trắng xóa, làm nổi bật những tảng đá đang xung trận, rằng những hòn đá và hòn đảo “trông như quân khởi nghĩa”, “có hương uy”, “có hương có vị”. nó giống như việc anh ta buộc con tàu phải khai báo tên của nó trước khi chiến đấu. “Nghe có vẻ như” hãy lùi lại và dám cho chiếc thuyền tốt vào “.

thác nước trên sông này thật độc đáo, thật thông minh! nó giống như một trận phục kích rồi đột nhiên anh ta chồm dậy túm lấy con thuyền ở khúc cua sông, có khi anh ta sơ hở để dụ con thuyền ra và rồi đột nhiên anh ta quay lại để tự vệ. . khi đánh cận chiến đâm xuyên hông người chèo thuyền, bẻ gãy cán mái chèo, sau đó đá vào đầu gối trái thúc đầu gối vào bụng, tung hết đòn âm, đòn tỉa, rồi túm thắt lưng đòi lật úp bụng người chèo. người lái đò trên chiến trường. nó nhói lên và gào thét vang vọng cả một vùng sông nước hoang vu.

Đồng thời, viết về sông nước, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ ​​mình là một nhà văn có tấm lòng yêu quê hương tha thiết vì trong văn học nghệ thuật viết về sông núi là viết về giang sơn. Về giang sơn là viết về đất nước. đây là tình yêu thường trực trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước cách mạng, tình yêu quê hương đất nước của Nguyễn Tuân đã được bộc lộ một cách thầm kín qua vở kịch Không quê.

Không chỉ vậy, ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung miêu tả vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của sông Đà, đặc biệt là vùng hạ lưu sông. Những người yêu văn học đều biết rằng da giang hiện ra qua ngòi bút của Nguyễn tuấn nên thơ, lãng mạn, trữ tình, vô cùng tao nhã.

nếu trong đoạn văn trên, nguyễn tuấn miêu tả dòng sông Đà hung bạo với kiến ​​thức chủ yếu là võ nghệ, quân sự bằng những câu văn ngắn gọn, nhiều động từ, nhiều trắc nghiệm thì trong đoạn này, nguyễn tuấn chủ yếu sử dụng kiến ​​thức về du lịch, kiến thức lịch sử và kiến ​​thức văn học với những câu văn của họ lan tỏa như nhịp chèo nhẹ nhàng của con thuyền tôi trôi trên sông Đà. Nếu để ý, một người yêu văn học sẽ nhận thấy có mười bốn câu thơ nguyễn tuân ở cuối bằng một âm thanh bằng phẳng tạo cảm giác mênh mang êm dịu.

vẻ đẹp của sông Đà, nhưng có lẽ cũng là vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn tuấn, mỗi người mỗi khác qua những góc nhìn khác nhau. khi nhà văn bay qua sông Đà, từ trên sông nhìn xuống, điều đầu tiên nhìn thấy là hình dáng như “sợi dây ngoằn ngoèo”, rồi “từng dòng sông va vào đại dương đá”. “Bỏ qua những đám mây” là rất gian xảo. và cô đọng hình ảnh “dòng sông chảy như một áng tóc trữ tình, tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai hoa nở vẫy núi mờ sương. Mèo đốt ruộng xuân”.

và những lần sau, khi nguyễn tuấn “nhìn mây xuân trên sông đà” hay nhìn xuống mây thu nhìn xuống mặt nước sông đà thì thấy sông hiện ra là sông. vẻ đẹp dịu dàng tràn đầy sức xuân với muôn vàn sắc màu đổi thay diệu kỳ: “mùa xuân thì suối xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông đà lạt đỏ như da mặt người bầm dập vì men rượu”. dòng sông đẹp và sống động biết bao chứ không phải là dòng sông đen ngòm như “thực dân Pháp bóp nát sông ta đổ mực miền Tây và gọi tên miền Tây nằm”.

và sông đà đẹp theo một cách khác, khi nguyễn tuân theo và dẫn dắt người đọc băng qua khu rừng. ông đã gọi dòng sông ba lần từ “cũ”. Nguyên nghe theo, ấn tượng với màu nước sáng như đứa trẻ nghịch gương vào mắt rồi bỏ chạy. và chợt phát hiện ra trong lấp lánh ấy “một tia nắng tháng ba của vương triều tang” hoa thanh bình, ba vầng trăng, đại dương rộng mở “. bờ sông Đà chao liệng chuồn chuồn, bướm lượn.

Nhà văn vui sướng, say mê khi gặp lại non sông. cảm giác ấy được ông so sánh với niềm vui khi thấy “nắng giòn sau cơn mưa tầm tã”, “như nối lại giấc mơ tan vỡ” – cái nắng sưởi ấm tình cảm, gần gũi của tác giả trong cảm giác “lặng lẽ và ấm áp như một người bạn cũ. sẽ được tìm thấy. ”

Một lần nữa, khi con thuyền lướt dọc bờ, tác giả đã khám phá ra vẻ đẹp quyến rũ hơn rất nhiều của dòng sông. Ấn tượng đầu tiên đối với người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng êm ái: “dường như từ những ngày cuối đời, dòng sông này đã tĩnh lặng như vậy”. dòng sông bây giờ không chỉ là của hiện tại mà ngược về quá khứ xa xưa với sự so sánh và liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: “bến sông hoang sơ như bờ tiền sử”.

Bờ sông thơ ngây như một câu chuyện cổ tích xưa ”. càng đọc, chúng ta càng cảm thấy tác giả đã hòa vào cỏ cây, sông nước, như say mê đắm chìm vào không gian nơi đây để dần hiện ra trước ống kính vẻ đẹp sống động – đó là những mầm ngô “nườm nượp”. là mấy trấu non đầu mùa ”, là“ núi cỏ đang ra chồi non ”, là“ bầy hươu vùi đầu ăn những chồi cỏ ướt đẫm sương đêm ”. , người ta có thể nhìn thấy một sức sống trẻ trung, tươi mới và ngon lành ẩn hiện, lớn lên và chuyển động.

Kỳ diệu hơn là khi nhà văn dường như đã nghe thấy giọng nói của con nai: “nhà thơ nâng mái đầu mượt mà của mình khỏi sương trên cỏ” cũng như dòng sông “nghe thấy tiếng nói êm dịu của người xuống dốc”. và từ hiện tại, anh mơ về tương lai lắng nghe tiếng “còi báo sương” hay “muốn giật mình vì tiếng còi hú của chuyến tàu đầu tiên” hòa vào dòng sông “lặng như nỗi nhớ”.

Có thể nói, tâm hồn nhà văn xốn xang với ước mơ dòng sông đẹp hơn ngày mới được xây dựng. về cuối bức tranh con sông Đà càng trở nên đẹp đẽ và sống động hơn với “cỏ sương mù”, rồi “một đàn cá chuồn xanh nhảy mặt sông trắng như bạc rơi” và “tiếng cá đánh nước sông xua đàn hươu đi. ”. cảnh vật thiên nhiên tiếp tục mở rộng với vẻ đẹp vừa thực vừa ảo trong cái nhìn đầy chất thơ của nhà văn.

Chúng ta cũng thấy hai nghệ thuật nhân hoá và so sánh được nguyễn sử dụng rất tài tình. ông cảm nhận con sông đà và so sánh, so sánh nó với mái tóc của một người con gái rất thơ mộng, trữ tình và đẹp: “như một áng tóc trữ tình”… đây được coi là đoạn thơ hay nhất trong bài văn “sông đà”. đọc xong “Người lái đò sông đà”, lật trang sách đã lâu, nhưng những câu văn hay như những vần thơ ấy vẫn đọng lại, đọng mãi trong tâm hồn mỗi người yêu văn học.

Nhà văn đã để dòng cảm xúc dạt dào đối thoại thầm lặng với thiên nhiên, bên bờ sông, con người như muốn hòa vào cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp say đắm lòng người của dòng sông. Đến bây giờ, ngòi bút của nhà văn mới thực sự phiêu diêu ​​trong niềm đam mê khám phá cội nguồn, kể câu chuyện về dòng sông gắn liền với cuộc sống và con người Tây Bắc, những con người đã chấp nhận những món quà hào phóng của dòng sông ban tặng. .

Cảm xúc từ hiện thực của Nguyễn Tuân cũng khơi nguồn cho những ước mơ dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông đối lập thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tế cuộc sống mới đã giúp Nguyễn Tuân có những linh cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng chế độ mới, đem lại sức sống mới cho dòng sông Đà.

với óc quan sát nhạy bén, trí tưởng tượng phong phú và tư duy so sánh bất ngờ kết hợp với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt có cấu trúc câu trùng lặp, phối hợp linh hoạt, toàn diện. phát minh ra phép tu từ, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh con sông Đà là biểu tượng của sức mạnh dữ dội, hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng của thiên nhiên đất nước. hình ảnh thiên nhiên này cũng là nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong thời kỳ mới.

Bằng cách này, nhà văn cũng bộc lộ tài năng của mình bằng cách liên tục tạo ra những cái nhìn biến hóa khôn lường khiến người đọc phải ngạc nhiên và thán phục. Anh là một tài năng thiên bẩm với nền tảng kiến ​​thức uyên bác về nghệ thuật và cuộc sống, óc quan sát kỹ lưỡng, am hiểu đối tượng cần tiếp cận, khám phá cũng như một tình cảm sâu sắc. , nhiệt huyết và tràn đầy nhựa sống, hết mình vì đất nước.

Bài văn “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. vở kịch không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng và tài hoa của những con người cần cù lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu đất nước, lòng tự hào, nhiệt huyết và tình cảm chân thành gắn bó với sông núi Việt Nam.

phân tích người lái đò sông Đà – văn mẫu 9

Tác phẩm Người lái đò sông Đà là một ngòi bút sáng tạo tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn tuấn sau cách mạng tháng Tám: uyên bác, tài hoa, không cần nhọc công mà có được đường nét. chữ ký, cảm giác chân thực đậm nét và liên tưởng phong phú mang đến cho người đọc, người nghe cảm giác của một tâm hồn đang khao khát được hòa vào nhịp sống phát triển của đất nước.

Tác phẩm là kết quả của chuyến hành trình trở lại Tây Bắc giai đoạn 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Bài ca da diết (1960). con sông đà uốn lượn, uốn lượn theo các sườn núi, nước chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm này đã tạo cho đà giang một vẻ đẹp kỳ thú, hoang sơ và kỳ vĩ. hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng trữ tình đã làm nổi bật vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sĩ và người lái đò trên sông Đà giang.

nguyen tuan là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã có nhiều thành tựu lớn trong cả giai đoạn trước và sau năm 1945. Trước năm 1945, ông đã có tuyển tập “Vang mãi một thời” gồm 11 truyện rất hiếm có giá trị lớn. Hòa chung với không khí của thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, phong cách của Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét độc đáo và sáng tạo. ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới dưới góc độ văn hóa và thẩm mỹ. nguyễn tuấn tả con người ở vẻ đẹp và tài năng của người nghệ sĩ. thiên nhiên xuất hiện trong văn chương của ông cũng trở thành những tác phẩm nghệ thuật tráng lệ và độc đáo. Người lái đò sông Đà là đoạn trích trong bài văn tế sông Đà được ông viết vào năm 1960, trong chuyến hành trình gian khổ nhưng đầy thú vị lên vùng Tây Bắc hiểm trở. chuyến đi đã thỏa lòng ham muốn “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi đó ông không quên đi tìm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, lắm hiểm trở, hiểm trở nhưng cũng mang vẻ đẹp thơ mộng, say đắm lòng người. vẻ đẹp của con người nơi đây được Người ví như “chất vàng mười vạn thử lửa”, họ là những con người lao động bằng trí tuệ, dũng cảm và sức mạnh để chế ngự thiên nhiên.

Hai hình ảnh khái quát xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh con sông Đà và hình ảnh người lái đò trên sông dữ dội thách thức con người suốt năm tháng. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, ông đã tạo nên hình tượng đà giang với hai sắc thái, hai khía cạnh tương phản vừa hùng vĩ, vừa hung bạo nhưng cũng không kém phần trữ tình, thơ mộng.

nguyen tuan dẫn dắt người đọc cảm giác sợ hãi tột độ cũng như đam mê và hưng phấn. Bằng trí tưởng tượng phong phú, lối viết độc đáo, nhạy cảm, con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc niềm say mê, khoái lạc tột độ. sự tàn bạo được nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “những tảng đá bên bờ sông xây thành”, nguyễn so sánh nghệ thuật ẩn dụ những tảng đá bên bờ sông như một tòa thành kiên cố, kiên cố, hiểm trở, bí hiểm chờ đợi và đe dọa. nhà văn miêu tả, lúc đó mặt sông “vừa trưa” có nắng, có những mỏm đá “nát lòng sông như yết hầu”, có những khoảnh khắc như hươu nhảy từ bờ này sang bờ kia. những liên tưởng tưởng như hững hờ, ngẫu nhiên nhưng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. ở dòng sông, phải đến trưa, khi mặt trời lên cao nhất, mặt trời mới tỏa sáng, động từ mạnh “cắt” rất biểu cảm xen lẫn nghệ thuật so sánh “như yết hầu”, hai vế đối. hươu nai có thể nhảy. Tác giả đã khéo léo lồng vào những hình ảnh độc đáo, gợi cho người đọc hình dung về độ cao của vách đá và độ hẹp của lòng sông. ngồi trong khoang thuyền qua sông ấy “mùa hè thấy lạnh”, tác giả miêu tả qua cảm nhận, mùa hè nóng nực, oi bức, nhưng đi qua đây, chính khung cảnh choáng ngợp, tráng lệ và chật hẹp khiến ta cảm thấy sợ hãi, nhỏ bé trong. giữa thiên nhiên.

Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua những ghềnh thác. hàng nghìn km “nước chống băng, đá chắn sóng, sóng ngược gió”. hàng loạt thanh nhọn xuất hiện cho ta cảm giác sóng càng lúc càng cao. nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc sau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần. sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp, rất lạnh là “lưng gù”, hè như một con thú dữ hung dữ, lì lợm, sẵn sàng thách thức con người nơi đây.

những “mỏm đá” khổng lồ ở sông ta mường. các dòng xoáy “giống như hố bê tông” được thả xuống để tạo thành nền móng của những cây cầu, nước ở đây “thở và nghe như một cái cống nghẹt thở”. Nghệ thuật nhân cách hoá và so sánh của Nguyễn Tuân khiến câu văn trở nên sinh động và hấp dẫn hơn bao giờ hết. đoạn sông này hiểm trở nên không tàu nào dám đến gần, nếu không sẽ bị hút vào, dìm xuống đáy sông và biến mất một cách kinh hoàng.

Hình ảnh hung bạo, hung dữ của dòng sông được tác giả thể hiện rõ nét hơn trong cảnh thác nước sông đà. tác giả miêu tả dòng sông bằng những hình ảnh hết sức biểu cảm, với âm thanh dữ dội và mang nhiều sắc thái, còn xa thác nhưng đã nghe tiếng “kêu càng gần”, tiếng nước như “ai oán”, như “van xin”, như “khiêu khích”, nó gầm thét khủng khiếp như tiếng “trâu ngàn mộng” gầm thét, chiến đấu trong lúc rừng cháy, lửa đỏ, hừng hực.

Đá sông Đà nhiều vô số kể, chúng kết hợp với nhau tạo thành một “chân trời đá” kỳ vĩ. mỗi viên đá có một dáng vẻ khác nhau, nhưng mặt của mỗi viên đá trông cũng rất “nổi loạn”, “nhăn nheo”, “méo mó”, ở đây tác giả dùng nhiều tính từ chỉ người để miêu tả con người đó. người đọc cảm nhận được sự hung tợn, bất cẩn, cứng đầu của đá, chúng như những sinh linh và chúng là con của mẹ thiên nhiên. con sông đà dường như đã giao cho từng phiến đá nhiệm vụ bày binh bố trận “bách chiến bách thắng” để tuyên chiến và thử thách lòng dân. ở vòng đầu tiên, “trận thư hùng” có năm cửa trận, “bốn cửa tử”, “một cửa sinh” ở tả ngạn sông. ở vòng 2, thác sông đà tỏ ra gian xảo và hăng hái, lần này có thêm cửa tử để đánh lạc hướng con thuyền đi vào cõi chết, một cửa sinh được bố trí bên hữu ngạn. hiệp 3, trận thắng-thua chung cuộc, thác sông đà ít cửa hơn, nhưng trái phải đều là “suối chết”, duy nhất cửa sông nằm ngay giữa những hậu vệ mà họ đang bảo vệ. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động và giàu trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên thật hung bạo, dữ dội, nó như một con “thuỷ quái khổng lồ”, dã tâm và hiểm độc. kẻ thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.

Tuy nhiên, cũng có lúc dòng sông trở lại vẻ đẹp mềm mại, trữ tình. vẻ đẹp của đà giang được miêu tả dưới nhiều góc nhìn, nhiều góc độ, nhiều không gian và thời gian khác nhau. từ trên cao nhìn xuống, dòng sông Đà uốn lượn, mượt mà như mái tóc của người con gái Tây Bắc đẹp dịu dàng. sông đà được nhà văn viết bằng những hình ảnh rất giàu sức biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc, “chảy dài như một áng tóc trữ tình, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai hoa gạo nở, khói núi cuồn cuộn. và mèo đốt ruộng xuân ”. màu nước sông thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo: mùa xuân sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “chín đỏ”. sông như một cô gái trẻ đẹp mộng mơ thời trẻ, đầy kiêu hãnh nên tính tình có phần bối rối, thay đổi thất thường.

dòng sông hiền hòa “như một cố nhân”, cảnh vật trên bờ thật êm đềm và tươi đẹp. Sau một chặng đường dài, anh nhìn dòng sông da gợi cảm và thơ mộng như “màu nắng tháng ba trên đường thị”, bờ sông đầy chuồn chuồn, bướm lượn. ông lão giờ đây lặng đi một cách lạ thường như lắng nghe âm thanh của thời gian, đang thưởng ngoạn cảnh vật hai bên sông. đôi bờ sông Đà hoang sơ như nhuộm màu cổ tích và căng tràn nhựa sống từ phù sa bồi đắp. những bãi ngô “rải vài trấu non đầu mùa”, những ngọn cỏ “đâm chồi nảy lộc”, xa xa có mấy con nai đang nhai cỏ. con sông Đà lúc này như một bờ sông tiền sử mang trong mình bao cảm xúc của những câu chuyện cổ tích xa xưa và hoài niệm.

con sông đà được tác giả thể hiện rất rõ nét với nhiều ứng dụng nghệ thuật độc đáo: so sánh, ẩn dụ, nhân cách hoá, động từ mạnh …, với khả năng liên tưởng, sáng tạo mới, ông đã viết nên những câu văn giàu nhịp điệu. và được sinh động hóa dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, đà giang không còn là dòng sông vô tri vô giác mà trở thành một con người có hồn, có suy nghĩ.

làm thế nào có thể có hình người trong các tác phẩm của nguyễn tuân theo? thiên nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội càng làm nổi lên vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người lao động. Trong bài, tác giả đã dựng nên hình tượng “ông lái đò” là biểu tượng của người lao động cần cù nhưng không kém phần mạnh mẽ, dũng cảm khi sẵn sàng đối mặt với thiên nhiên ác liệt trong cuộc chiến không cân sức. dòng sông bỗng trở thành kẻ thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. tuy nhiên, họ vẫn thể hiện sự thông minh và tài năng của mình với tư cách là một nghệ sĩ.

Phẩm chất anh hùng, tài năng và trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác sông Đà. ở đây, con sông gian xảo và xảo quyệt bày ra một “trận đồ ngổ ngáo” với ba vòng thử thách như muốn tiêu diệt những con tàu đi qua. các anh hùng vẫn không sợ hãi, vẫn hết sức bình tĩnh bằng trí tuệ của mình, người lái đò đã lần lượt chinh phục từng cửa ải. vòng thứ nhất, với năm cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh ở tả ngạn. tàu vừa đến, “phối với đá, nước động đá làm cốt” đá nổi loạn, trang nghiêm. có hòn đá nhìn vào chẳng khác nào “lật hàm” yêu cầu con tàu “xưng danh trước khi lâm trận”, có hòn đá như thách thức người lái đò “nếu giỏi thì vào đây”. người lái đò không ngần ngại, vẫn “cầm chèo kẻo bị lật”. mặt nước reo hò ầm ĩ, chạy như bẻ gãy trục thuyền, sóng biển như “liều mạng” lao tới “đạp mạnh gối trái vào bụng, mạn thuyền”. mặt nước bám như “đô vật” muốn vật lộn với người chèo thuyền ngược xuôi. sóng nước tung đòn “hiểm nhất”, dòng nước siết chặt phần dưới của người lái đò. người lái đò bị thương “mặt mũi méo xệch” nhưng không đầu hàng địch, “cố nén thương, hai chân vẫn bám chặt vào cabin”, giọng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo. đó là sự hoàn thành của “lỗi microlithic đầu tiên”.

không cần nghỉ tay, mất chút thời gian phá vỡ hàng rào thứ hai, lần này người lái thuyền thay đổi chiến thuật. người lái đò đã nắm chắc “binh pháp của thần sông đà”, “nắm chắc quy luật mai phục của những tảng đá trong đoạn đường nước gian nan này”. sông đà đã lộ rõ ​​sự gian dối, tàn ác khi lần này xuất hiện thêm cửa tử, cửa sinh lệch về phía hữu ngạn sông. tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh cưỡi trên sông đà để “cưỡi ngựa đến cùng như cưỡi cọp”. nắm lấy bờm sóng đi đúng hướng, không hề nao núng, người lái đò “giữ chặt dây cương”, bám vào dòng nước, cố lao về phía cửa nguồn, “đi chéo về phía cửa đó”, bỏ lại những cửa tử và những viên đá vẫn “khiêu khích”.

là trận cuối cùng, lần này ít cửa ải hơn, “phải trái đều là suối chết”, luồng sinh nằm ngay giữa những người bảo vệ thác. con sông Đà dường như vẫn chưa từ bỏ tham vọng, sự hung hãn của mình, nó muốn nuốt chửng cả con tàu trong trận quyết chiến cuối cùng mang tính quyết định này. nhưng người lái đò đã bao lần vượt thác ghềnh, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, cho thuyền phóng thẳng “vừa thủng cửa giữa”, con thuyền như mũi tên tre nhọn, cứ thế lao thẳng ”vừa phải. “. thông qua nó. “Tôi đã quản lý để lập kế hoạch lái tự động.” Cuối cùng, bằng bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm của mình, người lái đò đã vượt thác an toàn, giành chiến thắng trong trận chiến không khoan nhượng với kẻ thù hung bạo.

Nguyễn tuấn đã xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc. tác giả sử dụng các từ ngữ thuộc nhiều lĩnh vực: võ thuật, võ thuật, thể thao, âm nhạc …, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng nhịp điệu câu văn sinh động, hài hoà. khắc họa thành công hình tượng người lái đò trên sông Đà với trí tuệ, tài năng và bản lĩnh, từ đó ca ngợi vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người lao động Tây Bắc.

Đoạn trích Người lái đò sông Đà của nguyễn tuấn là một áng văn chính luận có giá trị lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng, khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp của thiên nhiên với con người Tây Bắc xa xôi. Đồng thời thể hiện tình cảm, sự trân trọng, gắn bó chân thành, sâu nặng của Nguyễn Tuân với quê hương, đất nước và con người Việt Nam.

phân tích người lái đò sông Đà – văn mẫu 10

“Người lái đò sông Đà” là một bài văn tự nhiên được trích từ cuốn “song da” (1960) của Nguyễn tuấn. Đây là một thành quả nghệ thuật tuyệt đẹp mà Nguyễn tuấn đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả có dịp hồi tưởng lại những khoảnh khắc thân thuộc và thú vị nhất của cuộc đời mình. anh cảm nhận được “cái vàng thứ mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình thường ở miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. thật đúng khi nói “bài văn tế là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, và điển hình là dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn tuấn, đó là hình tượng người lái đò trung hậu, anh hùng và một nghệ sĩ tài năng trong nghề nghiệp của mình.

Trong các tác phẩm của ông, được viết trước hoặc sau cách mạng tháng Tám, những nhân vật chính luôn được ông biến thành những con người đặc biệt, những nghệ sĩ tài năng. hình ảnh người lái đò cũng không ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, điều đầu tiên đập vào mắt chúng ta chính là ngoại hình của nó: “Tay bủn rủn như que củi, chân lúc nào cũng khuỵu như tay cầm trên thân cây tưởng tượng. giọng anh sang sảng như tiếng nước trước ghềnh, mắt ngân ngấn nước như luôn mong một bến xa trong sương… ”. vóc dáng của anh ta cường tráng như một thanh niên mười tám đôi mươi: “gần bảy mươi tuổi, cái đầu vuông vức trên một thân hình cao và nhỏ gọn như sừng, mùn… anh ta giơ tay lên, cánh tay trắng nõn của người thanh niên. quá trắng để che chúng. cái đầu trọc lóc không ai lầm tưởng mình đang đứng trước một anh chàng ngồi ngoài bến tàu chính bên sông “. con người ấy. chỉ có lòng yêu nghề, gắn bó sâu nặng với nghề, bao năm một nắng hai sương cùng hành khách trên dòng sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây là lối viết độc đáo của Nguyễn tuấn , anh luôn nén trong câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “nội dung thông tin” không bao giờ đơn độc một tầng biểu hiện, chỉ khi đọc kỹ chúng ta mới phát hiện ra nhiều tầng ngôn ngữ ẩn chứa trong từng câu chữ của tác giả. p>

nhưng chỉ mô tả vật lý là không đủ. ở người lái đò còn có rất nhiều điều kỳ diệu khiến một người từng trải với nghề cũng phải cảm thán. là linh hồn bất diệt của dòng sông này. “trên sông đà anh ngược xuôi, ngược hơn trăm lần, cầm lái con đò sáu chục lần chèo”. kinh nghiệm đó còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của anh. Trí nhớ đó được rèn luyện cao độ bằng cách ghi nhớ cẩn thận 73 thác nước bằng mắt của bạn, giống như đóng đinh tất cả các dòng chảy của một thác nước nguy hiểm. hơn thế nữa, sông Đà đối với người lái đò như một thiên anh hùng ca mà anh ta thuộc nằm lòng những dấu chấm than, dấu câu và những đoạn xuôi dòng. Khi được tác giả tư vấn, ông lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề buôn bán này mười mấy năm liền và đã mấy chục năm ngừng nghề, nhưng sự kiên trung của ông dường như không hề thay đổi. anh vẫn rất chắc nịch rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu, nay có lên xuống thác ghềnh, tôi mới dám so tài với bạn thuyền trên nhiều châu lục mà lãnh thổ đã kéo dài đến tận đôi bờ da. sông, còn dẻo dai trở về phúc. một đoàn công tác của trung ương đã ngược xuôi rà soát toàn bộ sông Đà đến tận biên giới với Trung Quốc. ”

nhưng trên hết, hình ảnh ông lái đò xưa được thể hiện rõ nét nhất qua trận thủy chiến sông Đà. vẻ đẹp của sức mạnh của người lái đò được miêu tả trong mối quan hệ với vẻ đẹp của con sông Đà dữ dội và hùng vĩ. chỉ trải qua thôi là chưa đủ, đối với sông Đà, ai chinh phục được nó cần phải có lòng dũng cảm, bản lĩnh, sự khéo léo, nhanh nhẹn và cả quyết định. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào một tình huống cắt cổ mà tất cả những phẩm chất đó được bộc lộ, nếu không muốn nói là phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. đây là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng người lái đò, những phẩm chất gan dạ, dũng cảm, kiên cường chỉ được thể hiện rõ nét hơn khi chủ thể gặp khó khăn, nguy hiểm. giả sử người lái đò đặt trong khung cảnh nên thơ, trữ tình của sông Đà thì hình tượng sẽ phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sĩ say mê hòa mình với thế giới của những con người hiếu nghĩa trước cách mạng. còn ở đây, người lái đò đã trở thành người nghệ sĩ anh hùng trong sử thi trèo ghềnh, vượt thác. đó là dòng thác hiểm trở, chết chóc, diễn ra nhiều đợt, nhiều đợt như một trận đánh mà kẻ thù đã lộ ngay bộ mặt và dã tâm thâm độc số một của kẻ thù, sức mạnh đá lưng, đá tượng, đá tiền vệ với nhiều hiểm độc. thủ thuật. để tạo thành một lực lượng hùng mạnh, đông đảo, hung tợn và nham hiểm.

song da đã phân công công việc cho mỗi hòn đảo, họ có một bản đồ bát quái với ba vi trùng. một loại virus có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. sóng chiến xô thẳng, nước gào thét làm gãy mái chèo súng của người lái đò, nhưng anh vẫn vững tay chèo bằng hai tay. do đó, những con sóng càng đe dọa, hung hãn và hiếu chiến như thể quân đội đang liều mạng. nước bám vào thuyền như thể có thứ gì đó tóm lấy eo người lái thuyền, và anh ta bị lật úp giữa dòng nước. khi sông đà tung đòn chí mạng vào kẻ thù, người lái đò không run tay, cố nén vết thương, chân vẫn nắm chặt cần lái, mặt tái mét. ông chỉ huy rất cô đọng và tỉnh táo, khôn khéo như một người chỉ huy, chèo lái con thuyền vượt qua bao sóng gió của nghịch cảnh. sau khi tiêu diệt vi khuẩn thứ nhất, anh lái con thuyền chọc thủng hàng rào thứ hai. loại vi rút thứ hai làm dấy lên nhiều cửa tử để lừa con thuyền, cửa sinh được bố trí vượt qua hữu ngạn rất nham hiểm và xảo quyệt, bản chất hung hãn như dã thú.

bốn, năm thủy thủ từ phía bên trái của cửa khẩu của liên bang Xô Viết đi ra để thu hút các tàu của nhóm tử nạn. nhưng người lái đò đã nắm chắc thủ pháp của thần sông, thần đá, không phút giây nghỉ ngơi, người lái đò đã nắm chắc bờm sóng đi đúng hướng, nắm chắc đúng dòng nước, lao tới. cửa sinh chạy chéo về phía cửa đá. nên khéo vòng 3 ít cửa hơn, bên phải và bên trái là kênh chết, sông ngay giữa các hậu vệ. một người chèo thuyền và sáu người leo núi, trông như những con người rất nhỏ bé, gầy gò, kiệt sức giữa thiên nhiên hung dữ. nhưng không, như một vị tướng lão luyện và dày dặn kinh nghiệm xung trận, ông lão phóng thẳng thuyền qua cửa giữa. con thuyền đi qua cánh cổng đá, cánh đóng mở. bay, bay, cửa ngoài, cửa trong, và cửa trong cùng, con tàu như một mũi tên tre nhanh chóng xuyên qua hơi nước, vừa xuyên vừa hướng tự động. đó là kết thúc.

Tác giả đã dày công miêu tả trận thủy chiến của ông lái đò với sông Đà. một loạt các hành động nhanh, mạnh: tăng tốc, trực diện, đánh lái một chiều, thâm nhập nhanh, … kết hợp với văn xuôi dồn dập, nhịp độ nhanh, các câu văn có nhịp độ nhanh gợi lên một trận giáp chiến. để lại một sống, một chết. Hơn nữa, nghệ thuật thư pháp tương phản được sử dụng một cách triệt để và đẹp đẽ trong tác phẩm đã xây dựng nên hai phe đối lập: một bên là bản chất tàn bạo, hung bạo, một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, gan dạ, mưu trí. để chinh phục thiên nhiên kỳ thú. người lái đò trong tay chỉ có mái chèo “như gậy giữa sóng và thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành.

Bằng ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân đội …, Nguyễn tuấn đã biến một câu chuyện đời thường thành một bản anh hùng ca, làm nên một tài xế. một người lái đò bình thường trở thành anh hùng. , một nghệ sĩ chèo thuyền trong nghệ thuật leo núi và vượt thác nhanh chóng. anh vừa là anh hùng vừa là nghệ sĩ: lái xe hào hoa, anh tiêu biểu cho hình ảnh người công nhân trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong truyện ngắn “Mùa thu” của Nguyễn Khải, người xung phong vào Giếng Diễn đi làm ruộng mới, không chỉ có bà. dao, không chỉ lớp thanh niên “tuổi hai mươi đã thấy hướng đời / còn bao xa, trên đường”, với họ, người lái đò sông đà đã góp phần tô đậm, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55-60.

Quả thật, vẻ đẹp “chất vàng thử lửa” trong lòng người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân phát hiện trong ẩn hiện sông Đà giang. nếu sông trời ban tặng trong tác phẩm của nguyễn tuấn là “kẻ thù số một của con người” thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn đã tôn vinh giá trị của con người. Thật là sâu sắc khi nói “bài văn tế là bài ca về vẻ đẹp của nhân dân lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. tác phẩm sẽ mãi là bản anh hùng ca đi cùng năm tháng.

phân tích người lái đò sông Đà – văn mẫu 11

nguyễn tuấn là một nhà văn lớn, một nhà văn có vai trò lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một nghệ sĩ có quan niệm thẩm mỹ khác biệt và suốt đời theo đuổi cái đẹp. Một trong những bài văn xuất sắc của ông là Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. tác phẩm cho chúng ta thấy một con người nguy nga với diện mạo mới, khát vọng hòa nhập vào thế giới tự nhiên, thể hiện tình yêu đất nước và cuộc sống. Nguyễn tuấn muốn thông qua hình ảnh con sông Đà dữ dội, hung bạo nhưng trữ tình và thơ mộng, người lái đò chất phác, giản dị mà tài hoa, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc Tổ quốc. Bài thơ còn chứa đựng phong cách thơ tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.

hai hình tượng chính xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh con sông Đà và hình ảnh người lái đò. một bên là thiên nhiên, một bên là con người tưởng chừng không hợp nhưng lại tạo nên vẻ đẹp bất ngờ. trước hết là hình ảnh con sông đà, không phải là một vật vô tri vô giác mà rất cảm động và rất riêng, con sông này được nguyễn tuân miêu tả như một nhân vật có hai tính cách trái ngược nhau, dữ dội và dữ dội. thơ mộng

nhưng biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc là sự dữ dội, dữ dội. đá vô cùng hiểm trở, đá làm vách, lòng sông dính chặt vào nhau như yết hầu khiến mặt sông trở nên hẹp, tối và rất lạnh chỉ vì nắng ngay giữa trưa. một bầu trời bằng đá, mặt từng hòn trông chênh vênh, nhăn nheo, méo mó, những tảng đá mai phục dưới lòng sông hàng nghìn năm được nhân hóa, khắc hình người oai phong, lẫm liệt, vươn mình, chộp lấy thuyền, … thật choáng ngợp, tráng lệ. và khung cảnh chật hẹp khiến chúng tôi cảm thấy sợ hãi, lạnh lẽo và nhỏ bé giữa thiên nhiên bất chấp mùa hè nóng nực.

sóng, nước cuồng nộ. khoảng cách ghềnh thác, dòng nước chảy xiết, đá xô sóng, sóng vỗ gió… kéo dài hàng dặm lăn tăn… như thể người lái đò phải đi quãng đường đó để đòi nợ. điệp ngữ với cấu trúc tuần tự kết hợp động từ mạnh “xô” được lặp đi lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh rằng sức mạnh của thiên nhiên là rất khủng khiếp và đầy lạnh giá. những hố hút khủng khiếp như một hố bê tông ném xuống sông để chuẩn bị làm nền cầu… nước ở đây thở và nghe như một cái cống nghẹt thở sẵn sàng nhấn chìm và đánh đắm bất kỳ con thuyền nào lọt vào đó. Nghệ thuật nhân hoá và so sánh càng làm cho hình ảnh thêm sinh động, hấp dẫn, miêu tả cảnh những chiếc thuyền bị hút, bị hút vào cây chuối bị ngược, bị tra tấn hành hạ, nhưng mười phút sau thì anh biến mất dưới đáy kênh.

Con thác có vẻ giận dữ nhưng nó gầm lên dữ dội. tác giả miêu tả dòng sông bằng những từ ngữ gợi cảm, tiếng thác nước từ xa vọng lại như tiếng van xin, tiếng than thở, sau đó là giọng khiêu khích, giễu cợt. âm thanh tiếp cận giống như tiếng trâu gầm … rùng rợn và khủng khiếp. Sông Đà đặc biệt hung bạo khi các yếu tố trên kết hợp với nhau tạo nên những gành đá, hệ thống phòng thủ với nhiều cửa tử, nhiều chiến thuật đánh khác nhau, nhiều trận nguy hiểm, nó được ví như một con thủy quái khổng lồ, bề ngoài nham hiểm và dã tâm như kẻ thù số một. . .

sông Đà chỉ thực sự thơ mộng khi chảy qua chợ và để lại những ngọn thác xa xôi. chảy như một làn tóc… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc…, dường như dòng chảy của sông Đà như mái tóc người thiếu nữ, người con gái Tây Bắc dưới đất trời Tây Bắc. màu nước sông thay đổi theo mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp riêng. mùa xuân nước xanh ngọc bích, mỗi độ thu chín đỏ rực như mặt người bầm dập vì cồn… sông mang vẻ đẹp rất gợi cảm, thân thiết như người tình, gặp lại sông như người tình. ông lão lại thấy vui, xa xôi nhưng hoài niệm và dòng sông gợi vẻ đẹp thơ mộng nhẹ từ thời tang tóc bởi màu nắng hành quân … cảnh vật hai bên sông vừa hoang sơ vừa cổ tích. trong những câu chuyện về hoàng tử, công chúa của thiếu nhi nhưng cũng dạt dào sức sống, tự do tự tại của một chế độ mới. Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với thiên nhiên đất nước. đối với anh, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật có một không hai. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện một góc nhìn khác biệt của riêng mình: hài hước, uyên bác và lịch lãm. sông đà là một nền đẹp, nổi bật nhưng không làm lu mờ mà còn làm nổi bật vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.

nguyễn tuấn đã tạo nên một đoạn văn đầy khí thế chiến đấu, hình dung cuộc chiến đấu ác liệt của người lái đò với thuỷ quái sông Đà, từ đó làm nổi bật hình tượng người lái đò, người lao động mới có vẻ đẹp khác thường. ông như một vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm: biết đá mai phục, lập công thành đá … ông nắm chắc chiến thuật của thần sông, thần đá, nắm được quy luật mai phục của chúng nên rất linh hoạt. trong việc thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến của địch. người lái đò là người từng trải, từng trải, am hiểu sâu sắc về giao thông thuỷ sông Đà và cũng dũng cảm đối mặt với trận chiến không cân sức với sông Đà. con sông ban cho bản chất to lớn, hung tợn và hiểm độc với sức mạnh nâng lên tầm thần thánh, có sóng gào thét chống trả, có đá ngàn năm mai phục, dưới sông bày đá thành hình, gầm rú. thác thì reo hò như tiếp viện cho nó, sóng thì như những người lính liều mạng giáng những đòn hiểm độc… người lái đò chỉ là một con người nhỏ bé, không có phép lạ gì, vũ khí chỉ là một chiếc mái chèo thô sơ trên chiếc thuyền đơn lẻ. Trọc độc rút lui nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục mọi cửa ải sinh tử, vượt qua trận hải chiến khốc liệt với những tảng đá nổi đá và những trận phòng thủ hiểm trở để chinh phục thiên nhiên. hình ảnh người lái đò lúc này là hình ảnh của một người lao động dũng cảm.

Người nghệ sĩ tài hoa chính là hình ảnh người lái đò được trình bày dưới đây. Để vượt qua được thác nước, tâm phải thực sự bình tĩnh, chỉ cần một chút thiếu chính trực hoặc sơ suất là phải trả giá bằng mạng sống của mình. tuy nhiên, người lái đò đối mặt với thác ghềnh dữ dội bằng sự tự tin, dễ gần của người nghệ sĩ; anh bình tĩnh vượt thác bằng kỹ năng và trí tuệ. với “tay lái hoa” đã điều khiển con tàu qua ba vi khuẩn sông đà. Dòng sông hình thành vi đá đầu tiên có năm cửa trận, trong đó có bốn cửa tử và chỉ một cửa sinh nằm mơ hồ bên tả ngạn. có người tung tăng, có người hất hàm, có người thách thức, thách thức, thác reo vui như nẹp vào đá, mặt nước xộc vào làm gãy tay nắm chè, sóng nước cuốn đi, đạp vào đầu gối. bụng hướng về mạn thuyền, đánh vào thuyền, những đòn hiểm ác vào người lái thuyền. người lái đò bị thương nhưng vẫn cố gắng chịu đau đớn về thể xác, hai chân vẫn dính vào bánh lái, mặt nhăn nhó, nhưng giọng ra lệnh vẫn ngắn gọn và tỉnh táo để đưa tàu thoát khỏi nguy hiểm. trong tập hợp đồ đá nhỏ thứ hai, cổng tử thần lại tăng lên, nhưng cổng sinh vẫn chỉ có một nhưng nó nằm ở phía hữu ngạn. thác, con hồng hạc tàn sát như con báo nuốt chửng con tàu. Ông lão chủ động thay đổi chiến thuật: bám vào bờm sóng … cưỡi trên thác nước dâng như cưỡi hổ. những tảng đá sà xuống, định kéo con thuyền về phía cổng tử thần, nhưng anh nhớ mặt chúng, nơi anh bơi, nơi anh siết và lao xuống, nơi anh chẻ đôi để mở đường. những viên đá chỉ có thể thất vọng, mặt tái mét khi nhìn ông lão khiêng thuyền đến nơi an toàn. trong hệ tầng microlithic thứ ba, con sông hướng về bên phải và bên trái là một dòng chết, dòng sống duy nhất ở giữa sông, được bảo vệ bởi những người phòng thủ. anh kiên quyết chèo lái không lơ là, kiên quyết giữ vững tinh thần, như hòa cùng con tàu thành một, lao thẳng đến cửa sinh an toàn, vượt qua mọi rào cản. đó là tất cả. Cuối cùng, các vị thần của thiên nhiên đã không ngăn cản bước tiến của con người, và sự hung dữ của dòng sông cũng không cản được chiếc xuồng và con người. sự bền bỉ, lòng quyết tâm và lòng dũng cảm là yếu tố quyết định chiến thắng và hơn hết là kinh nghiệm của người lái đò vùng sông nước.

sau khi chạy đua trí óc, đua sông, vượt qua ba núi đá hiểm trở, hiểm trở, anh bình tĩnh đốt lửa trong hang, rang cơm ống, say sưa nói về các loài cá, không nói một lời về chuyến vượt biển. . Dường như chuyện vượt thác không khơi dậy trong anh bất cứ thứ gì gọi là sợ hãi hay lo lắng, anh tiếp tục mặc kệ mọi người nhưng anh vẫn lạc quan, thoải mái, giản dị và lãng mạn. Nguyễn tuấn đã tìm thấy hình ảnh của một con người mới, một con người đáng ca ngợi và kính trọng, nhưng không phải là một anh hùng chiến đấu mà là một người lao động bình thường: người đàn ông Tây Bắc.

vừa là người lái đò vừa là người vượt thác, nguyễn tuấn viết như một bộ phim hành động điện ảnh cận cảnh. hồi hộp có, kịch tính có, cảm xúc có, bùng nổ có, âm thanh xuất sắc, hành động đẹp mắt. Để có thể viết được như vậy bạn phải có trí tưởng tượng rất phong phú, góc nhìn khác biệt, cảm nhận đa chiều … mới nhìn thấy Nguyễn tuấn có kiến ​​thức rộng lớn, tư duy độc đáo và là một nghệ sĩ, tài hoa. Qua đây, người viết cũng muốn bày tỏ quan điểm của mình rằng, một người anh hùng không chỉ hiện diện trong chiến đấu mà còn trong cuộc sống lao động hàng ngày, giống như người lái đò ấy.

phân tích người lái đò sông Đà – văn mẫu 12

Nguyễn tuấn là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỷ 20. Ông là một nhà văn tài hoa, uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, tình cảm thiết tha với cuộc sống và truyền thống dân tộc. Nguyên vâng mệnh cả đời đi tìm cái đẹp và đem ngòi bút của mình phục vụ cho cái đẹp chân chính trên cuộc đời này. bài của song da thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật đó của Nguyễn tuấn.

hình ảnh con sông Đà với những nét tương phản mạnh mẽ: tác giả nhân cách hoá con sông Đà: như một sinh thể có tâm hồn, hoạt động, trạng thái tâm hồn và hai nét tính cách tương phản. hình ảnh con sông đà hung bạo: điều kinh hãi nhất của sông đà là những thác ghềnh. Thượng nguồn sông nào cũng có thác ghềnh, nhưng thác sông Đà là lạ và đáng sợ nhất. Nguyễn Tuân đã miêu tả tỉ mỉ từng ngọn thác như thể chỉ ra tên của chúng.

trước hết là ghềnh đang hát, dài cả cây số, nước là đá, đá, sóng, sóng. quanh năm cuốn gió, như lúc nào cũng đòi nợ, dễ bị lật bụng thuyền. như vùng vát dưới núi. nó bình thường như những thác nước khác.

Nó không chỉ là nước. Trong đó có cả cửa hút nước là giếng bê tông ném xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. nước ở đây thở nghe như cống nghẹt. ở trên cùng của cốc hút bằng cách xoay đáy; cũng đi xung quanh, đôi cánh của những con quạ đáng sợ. giếng sâu kêu ùng ục như thể dầu sôi đã được đổ vào.

Nguy hiểm đến mức không con tàu nào dám đến gần kẻ ngốc đó. nhiều bè gỗ vô tình lạc lõng khi giếng lật tung chúng. có thuyền bị hút vào, thuyền liền trồng chuối lộn ngược rồi mất tích, chết đuối rồi chui xuống lòng đất đến mười phút sau mới tìm thấy xác phi tang ở hạ lưu.

Tiếng nước chảy róc rách là âm thanh ấn tượng nhất ở vùng núi rừng Tây Bắc hoang sơ. Còn một quãng đường dài để đến thác phía dưới, nhưng người lái đò thấy tiếng nước càng lúc càng mạnh. âm thanh của nước chảy được hình dung như một lời phàn nàn, sau đó là một lời cầu xin, rồi chế nhạo, chế giễu.

rồi gầm lên như tiếng đàn trâu mộng ngàn cân giữa rừng trúc bùng cháy, phá rừng cháy, rừng cháy và gầm theo đàn trâu đang cháy. bọt nước trắng xóa cả dòng sông bên dưới. sau đó anh ta xua quân ra và dàn hàng ngang chỉ để phá vỡ hoặc nuốt chửng những con tàu đi qua lối này.

sự hùng vĩ của sông Đà không chỉ là một thác đá. nhưng đó cũng là cảnh những tảng đá bên bờ sông xây thành, mặt sông nơi chỉ có mặt trời giữa trưa. có những vách đá chắn lòng sông như một cái yết hầu. đứng bờ bên này, nhẹ nhàng ném hòn đá về phía bờ tường bên kia. có lần con nai và con hổ nhảy từ bờ vào bờ. ngồi trên phà qua xa ấy, trời mùa hè mà thấy lạnh, cứ như đang đứng trong ngõ hè nhìn vào ô cửa sổ tầng nào vừa tắt đèn điện.

mô tả hiện thực, hơi cường điệu với những liên tưởng khéo léo gây ấn tượng mạnh về chiều cao hấp dẫn. Với những thác nước và vách đá cheo leo, dòng sông đầy đá nổi, đá chìm và những thác nước hung dữ khiến dòng sông lộ rõ ​​dã tâm của kẻ thù số một. với nghệ thuật miêu tả tài hoa, ngôn ngữ hình ảnh độc đáo, cấu trúc trùng lặp, giọng văn khỏe, vận dụng kiến ​​thức của nhiều ngành khoa học như địa lí, điện ảnh để thực hiện một loạt các so sánh, liên tưởng. Thật lạ, thật bất ngờ, Nguyễn Tuân đã tái hiện hình ảnh con sông Đà dữ dội, dữ dội, hiểm trở dưới nhiều chiêu bài.

Trong cái hung dữ ấy, sông Đà còn nổi bật lên như một biểu tượng của sức mạnh hung dữ và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và đất nước. Nguyễn tuấn là một thiên tài trong việc sử dụng ngôn từ, ông đã tận dụng mọi cơ hội để phát huy hết thế mạnh của mình, buộc sự hung dữ và tráng lệ của sông Đà phải sống và hiện hình và phải hét lên trên những dòng viết. .

Nguyễn tuấn đã làm cho những trang viết của mình tỏa sáng nhờ những mỹ từ mà ông đã vay mượn từ nhiều bộ môn, bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để tạo ra hàng loạt những so sánh, liên tưởng và tưởng tượng rất độc, lạ, không thể đoán trước: người đọc bạn phải ngạc nhiên. để nghe “tiếng nước ở đây thở và rít lên như thể ống cống bên trái đang chết chìm” và “hát như thể dầu sôi vừa được đổ.”

Trí tưởng tượng tuyệt vời của người viết về cái lia máy quay ngược của máy quay “bức tường giếng xây hoàn toàn bằng nước sông xanh ngắt với khuôn kính dày cộp … sắp vỡ và đâm vào máy quay, cả người quay phim cũng như người đang làm việc “. see “. càng ngạc nhiên và kinh ngạc hơn khi anh dám dùng lửa để tả nước, dùng hình ảnh” chiếc xe chuyển bánh và nhấn ga “trong” quãng đường kéo cạp khỏi vách núi “để so sánh với cách của chèo để có những hình ảnh hấp dẫn như vậy, chứng tỏ người viết đã không ngại quan sát, nghiên cứu kỹ lưỡng để nhận ra sự tàn bạo thực sự.

hình ảnh con sông Đà trữ tình, thơ mộng: tuy nhiên bên cạnh dòng sông Đà dữ dội, dữ dội ấy còn có một dòng sông Đà rất đẹp và thơ mộng. Đó là một phát hiện lớn của Nguyễn Tuân về dòng sông quê hương. anh ta biết cách nhìn nó từ mọi góc độ, mọi khía cạnh, mọi thời điểm để tìm ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong đó mà người ta khó nhận thấy hoặc không có cơ hội nhận ra. như anh viết trong tác phẩm của mình: “Tôi đã bay qua sông Đà nhiều lần và đó dường như là một góc nhìn bổ sung, một cách nhìn dòng sông hung bạo và trữ tình của miền Tây Bắc.”

vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà phải ở một độ cao đặc biệt, một điểm nhìn đặc biệt mới có thể nhìn rõ mọi vật. nó phải ở trên cùng và nhìn xuống. bạn phải vượt lên trên sự hung dữ của anh ta để thấy anh ta dịu dàng và duyên dáng như để yêu anh ta và say đắm anh ta. phải nhìn từ trên cao: “dòng sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, chân tơ kẽ tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc nở hoa gạo tháng hai cuồn cuộn khói mèo đốt cháy cánh đồng xuân”. đó chính là vẻ đẹp, vẻ đẹp duyên dáng, mềm mại, thơ mộng mà đất trời đã ban tặng cho non sông kỳ vĩ ấy. và đôi mắt của một người hết lòng yêu thương mới có thể nhìn thấy nó đẹp một cách kỳ diệu.

phải nhìn nhiều lần, nhiều lần và nhìn kỹ, nguyễn tuấn mới phát hiện ra: “vào mùa xuân, dòng suối có màu xanh ngọc bích, nhưng nước sông Đà không phải là màu xanh của sông gam loang. Vào mùa thu, Nước sông đỏ như da mặt người bầm tím vì rượu, đỏ bừng bừng bừng của kẻ bất bình mỗi lúc một giận dữ ”. so sánh màu sắc, khiến dòng sông thể hiện vẻ đẹp riêng theo từng mùa.

nguyen tuan có lẽ phải xem đi xem lại nhiều lần mới kết luận được: “non sông cho gợi cảm” là một câu nói không sai. anh còn nói: “với mỗi người, dòng sông gợi lên một con đường”. anh ấy không bào chữa cho quan điểm của mình. anh ấy chỉ nhìn thẳng về phía trước, nói sự thật về những gì anh ấy đã thấy và cảm thấy.

con sông da dưới ánh mắt của nguyễn tuấn ánh lên một tia phản chiếu bàng bạc. tấm gương sáng bừng lên một tia nắng tháng ba rực rỡ. rồi gặp lại dòng sông cho, lòng ấm áp êm đềm như gặp lại một người bạn cũ, nỗi nhớ khôn nguôi. đó là tất cả những gì con sông mang lại khi nhìn từ trên cao. khi đi trên con thuyền, con sông Đà có vẻ gần gũi, thân thiết. khi thuyền đến quảng ninh thì vắng lặng, “cảnh sông nước ở đây vắng lặng” mà không còn ồn ào nữa.

rồi “một cánh đồng ngô mà từ đó những bắp ngô non nảy mầm đầu mùa” hiện ra trước mắt chúng tôi. thì “cỏ đồi núi đang sinh chồi. đàn hươu cúi đầu ăn búp đẫm sương đêm “êm đềm như nơi đây chưa từng có dấu chân người. Cuối cùng tác giả khẳng định chắc nịch:” bến sông hoang vu như thời tiền sử. bến sông hoang vu như thời tiền sử. hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa. ”

phép đo có sức gợi sâu sắc thể hiện vẻ đẹp hoang sơ và những dấu tích văn hóa xa xưa của tổ tiên. dường như có một dòng truyện cổ tích ngàn năm bất tận cho đến ngày nay. đây là những lời nói của các cụ nguyễn cổ đại, trang nghiêm và hiện đại.

với những so sánh độc đáo giàu sức gợi, gợi, ấn tượng, giọng văn mềm mại, câu dài mềm mại, giọng điệu nhẹ nhàng, hình ảnh dòng sông mang vẻ trữ tình, thơ mộng. Thành công đó là kết quả của quá trình làm việc chăm chỉ, nghiêm túc, chăm chỉ, kiên nhẫn của người viết.

nhà văn ca ngợi vẻ đẹp, sự vĩ đại, hào hùng, trữ tình và chất thơ của thiên nhiên, ngợi ca chất vàng mười của thiên nhiên. qua đó thể hiện tình yêu tha thiết, da diết của nhà văn đối với quê hương nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng. mỗi cụm từ có đường nét, hình dạng và màu sắc, so sánh và cảm nhận, như thể đang hát theo giai điệu.

lúc đầu cao độ, độ dài nhanh dần, về cuối dường như hạ thấp và chậm lại, kéo dài ra, kéo dài ra không gian vô hạn. không phải tác giả văn xuôi nào cũng làm được như nguyễn tuấn, tạo nên một không gian trữ tình đủ để người đọc say mê, ngây ngất, yêu cuộc sống này đến thế. nhà văn đã có sự chuyển mình trong cách viết của mình khi miêu tả hai đặc điểm đối lập của dòng sông này. đó cũng là mục đích của nhà văn để tái hiện hình ảnh một dòng sông hùng vĩ, thơ mộng và trữ tình.

Không chỉ chú trọng tái hiện hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân còn khắc họa rất kỹ hình ảnh người lái đò xưa thường đi qua con sông ấy trong một trận chiến ác liệt với sông nước. người lái đò xuất hiện với vẻ ngoài ấn tượng. cánh tay của anh ta dài như một cây gậy. cả hai chân luôn co lại như thể đang cầm một thứ gì đó vô hình. rõ ràng thói quen hàng ngày của cô ấy đã tạo nên hình dáng của cô ấy đến mức cô ấy không thể bị bỏ rơi hoặc thay đổi. hình ảnh đó cũng là hình ảnh tiêu biểu của những con người như anh ở mảnh đất khốc liệt này.

người lái thuyền cũng có thị lực phi thường. nhìn mặt nước, anh biết ngay có thứ gì đang ẩn nấp bên dưới. không thể lừa bạn. giọng nói của anh ấy cũng mạnh mẽ. đầu anh cau lại như một người đàn ông bước ra từ sử thi. Trên ngực anh ấy có một vết sẹo lớn mà anh ấy rất tự hào. cuộc đời sông nước in sâu vào từng chi tiết cơ thể anh. những khó khăn, gian khổ và nguy hiểm đã in sâu vào tâm trí anh.

Sau hàng chục năm rong ruổi trên sông Đà, người lái đò vẫn “nhớ tỉ mỉ như đóng đinh mọi con lạch, mọi ngọn thác hiểm trở” nên rất tin tưởng. anh cũng là người có tài leo ghềnh, vượt thác. Qua cách miêu tả của Nguyễn Tuân, người lái đò hiện lên như một quý ông của núi rừng. cả tư thế và thái độ đều vượt lên trên hoàn cảnh. Với cách miêu tả đó, người đọc nhận ra rằng người lái đò có sức mạnh và lòng dũng cảm để khuất phục và chế ngự con sông hung dữ và ngoan cố.

Hình ảnh ông lái đò hiện lên trực tiếp qua lời giới thiệu của tác giả về cuộc chiến sinh tử với sông Đà. anh đã trải qua cả trăm lần, không phải lần đầu tiên anh nếm mùi sông nước. anh ấy đã rèn luyện trí nhớ của mình rất nhiều và không cho phép mình mắc sai lầm. lĩnh vực sử thi mà toàn bộ điểm thuộc về. anh ấy cũng không thích chèo thuyền ở vùng nước lặng. những gì khốc liệt và nguy hiểm luôn khiến anh ấy hứng thú.

cuộc đời của người lái đò sông Đà quả là hàng ngày phải chiến đấu với thiên nhiên chỉ có “cứu mạng bó tay” trong trận chiến ấy, ông đã nắm chắc mưu kế của thần sông, thần đá. ông thuộc quy luật xung kích của đá ở đoạn đường nước đầy hiểm trở này và hiểu quy luật tất yếu của nước sông Đà. ngay cả khi dòng sông đó có điều gì đó ẩn giấu, anh ấy có thể hiểu được mọi thứ.

Qua những nét chạm khắc tỉ mỉ, Nguyễn tuấn đã làm nổi bật chân dung người lái đò từng trải, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, một con người có trí nhớ sâu sắc. cách so sánh hấp dẫn thể hiện tài năng quan sát và hiểu biết của người lái đò với sự tự tin, bình tĩnh nhưng không kiêu ngạo.

qua cách miêu tả của nguyễn tuấn ta có thể thấy sự đối lập giữa người lái đò và dòng sông Đà là quá lớn. chạy thuyền với một người đàn ông nhỏ bé, không có phép lạ, không có súng. anh ta chỉ có một tay cầm mái chèo mỏng manh, đứng trên một chiếc thuyền đơn độc và lao qua vùng nước bị mắc kẹt. và thiên nhiên ở tây bắc quá lớn. những dòng điện cuồng nộ và độc hại với sức mạnh thần thánh được gia tăng. có tất cả các loại vũ khí, thủ thuật và chiến thuật cực kỳ mạnh mẽ.

nếu nhìn vào sự chênh lệch đó, trên thực tế, người lái đò đang đối mặt với một sức mạnh thần thánh, không có cơ hội chiến thắng. đó cũng chính là điều mà nguyễn tuấn muốn gợi lên trong tâm trí người đọc để rồi bất chợt thể hiện tấm lòng nhân hậu khác thường của người lái đò xưa kia trong dòng thác nối tiếp.

Khởi đầu thác nước, tác giả có đoạn miêu tả thác nước. đầu tiên là tiếng thác đổ ầm ầm với đủ thứ âm sắc ma quái. Điều đó chắc chắn làm cho những bộ óc tỉnh táo và can đảm nhất cũng phải run lên vì sợ hãi: “Còn một chặng đường dài nữa mới đến thác nước phía dưới. nhưng tôi thấy tiếng nước càng lúc càng lớn. tiếng thác như than thở, rồi van xin, rồi chế nhạo, giễu cợt. rồi anh gầm lên như ngàn con trâu mộng giữa rừng trúc bùng lên ngọn lửa phá rừng cháy, rừng lửa gầm thét đàn trâu hừng hực. ”

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, thác sông Đà như một con thú cổ hung dữ và kỳ lạ. nó chỉ muốn nuốt chửng mọi thứ đến gần nó. anh vô cùng đói và khát và không gì có thể ngăn anh trở nên mãnh liệt như vậy. càng đến gần, bạn càng sợ hãi. dòng sông không chỉ đáng sợ mà còn ẩn chứa những nguy hiểm chết người.

Sâu bên dưới những con sóng “bọt trắng” là “cả một đường chân trời đầy đá”. không chỉ là đá ngầm và đá, mà còn “mai phục tất cả dưới đáy sông.” Mỗi khi một con thuyền nhô ra khúc quanh của sông, một số hòn đảo nhô lên và đâm xuyên qua, làm vỡ nát những chiếc thuyền gỗ mỏng manh.

hình ảnh những viên đá tinh nghịch xuất hiện một cách rất phóng túng và khiêu khích. nhìn vào thì thấy từng hòn đảo nhăn nheo, méo mó hơn cả mặt nước ở đây. họ đứng hoặc nằm dựa trên sở thích tự động của đá lớn và đá nhỏ. Do sự mất trật tự và tùy tiện này, chúng làm cho mặt sông rung chuyển như tuabin thủy điện dưới đáy đập. bề mặt trắng xóa của dòng sông khiến những tảng đá mới ngày càng trở nên rõ ràng hơn.

nhưng đó không phải là tất cả. sông đà đã phân công công việc cho từng đảo theo trình tự nhất định. Tôi chỉ thấy rằng đây là những gì ma trận đá dưới sông thể hiện. đám tang chia thành ba hàng bên kia sông. tiền vệ, có hai cổng đá và một cổng đá. hai người đóng vai trò kéo tàu địch về giữa hơn, vào giữa. rồi đến đường đầu hồi giữa con tàu.

con tàu đến đây và rất khó để quay trở lại. dòng nước cứ xô con thuyền về phía trước, va đập, xô đẩy, né tránh những tảng đá sắc nhọn trên tuyến ba như một pháo đài nổi sẵn sàng tiêu diệt con thuyền ngay dưới chân thác. Với tầm nhìn kỳ lạ của mình, người lái đò đã phân tích hòn đá tảng, thấy rõ cửa sinh tử mà tiến lên. mỗi thác nước là một trận chiến sinh tử thực sự. một cuộc chạy trốn là một mối nguy hiểm ngay lập tức. con ma nhập. trận chiến đã chính thức bắt đầu.

Vòng 1: Ngọn thác hung dữ chào đón con tàu rất uy nghiêm bằng đá và nước. ngay khi dàn trận xong, con thuyền phóng đi. kết hợp với đá, nước thác reo vui như thanh cho đá, đá sừng sững, hùng vĩ. họ ngạo mạn, giễu cợt, thách thức người lái đò. nếu một trong những tảng đá đó trông nghiêng, giống như bạn đang yêu cầu con tàu khai báo tên của nó trước khi chiến đấu.

một hòn đảo khác lùi lại một chút và dám cho con tàu tốt đến gần hơn. nhưng điều đó không làm người lái đò quan tâm. họ chỉ là những người lính để đánh lạc hướng. Người lái đò dùng hai tay giữ mái chèo để không bị văng ra khỏi sóng chiến và bắn thẳng vào mình. mặt nước vang vọng xung quanh anh, lao vào và làm gãy lưỡi kiếm của vũ khí trên cánh tay anh.

Con tàu nghiêng về phía trước. những con sóng như thể một người lính đang liều mạng tỉnh giấc, rung rinh, làm chao đảo con thuyền. đôi khi họ đặt cả con thuyền. không những thế, nước còn bám vào thuyền như muốn chộp lấy thắt lưng người chèo thuyền, đòi lật ngửa giữa dòng nước bão. Chúng không chỉ hung dữ mà còn cực kỳ hiểm độc, không chừa chỗ cho những chiêu trò và những cú đấm. những con sóng đã giáng một đòn hiểm nhất, toàn bộ dòng nước bất lực siết chặt đũng thuyền của người lái đò.

nhưng người lái đò cố nén vết thương lại, giọng nói ngắn gọn và lanh lợi của sĩ quan chỉ huy hét lên rõ ràng, hai chân vẫn kẹp chặt vào bánh lái, mặt méo xệch như sóng đánh vào lưng, va vào máy cắt cỏ, đánh thành tiếng. nơi nguy hiểm .. nên vi khuẩn phân vòng đầu tiên đã bị tiêu diệt. trận đầu tiên chỉ mới mở màn nhưng khốc liệt kinh khủng. Người thường không thể nào vượt qua con tàu đã sớm bị đắm ở đây. tuy nhiên, với tài năng và bản lĩnh của người lái đò, con tàu đã nổi lên bình yên vô sự. người lái đò hiện ra như một vị tướng của lẽ phải và trái, điềm tĩnh, dũng cảm và tự tin, chiến đấu và chiến thắng.

Vòng 2: Vừa kết thúc vòng đầu tiên, sau đó chuyển sang vòng thứ hai. không có giây phút nghỉ ngơi, anh ta phải đột phá vòng vây thứ hai và thay đổi chiến thuật. trong hàng rào này có một tập hợp đá cực kỳ có tổ chức. mỗi viên đá là một mối nguy hiểm lớn. chúng quay tròn thay vì đứng yên và được bao phủ và nâng đỡ bởi mặt nước, khiến chúng càng trở nên nguy hiểm hơn.

Tuy nhiên, người lái xe đã nắm chắc chiến thuật của thần sông, thần đá. ông đã quen thuộc với quy luật mai phục trên đá trên con đường thủy hiểm trở này. nếu như ở vòng 1 hắn mở 5 cửa tử thì có 4 cửa tử, 1 cửa sinh, sinh nằm ở tả ngạn sông thì vòng 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để lừa tàu vào. đến. cửa sinh được sắp xếp lại về phía hữu ngạn. tàu không thể quay trở lại vì bất kỳ lý do gì. tài xế bình luận rằng “đã đến thác sông Đà thì phải đạp đến cùng như cưỡi cọp”.

không thể giành được pot ở vòng đầu tiên, sông rất tức giận. họ có một nền kinh tế mạnh để theo đuổi. đi ngang qua họ. Nắm chặt bờm sóng đi đúng hướng, người lái đò nắm lấy tay lái, nắm chắc dòng nước, lao thẳng vào cửa sinh, đánh lái chéo về phía cửa đá. Cửa sinh tuy mơ hồ, hư ảo nhưng với kinh nghiệm vượt thác nhiều năm, đàn ong cảm nhận được đâu là hướng ấy. bốn năm thủy quân cửa khẩu tả hữu liên xô ra kéo thuyền đoàn tử. người lái đò vẫn nhớ những chàng trai này. chúng đã quá quen thuộc vì tôi nhìn thấy chúng hàng ngày.

tại đây, anh ấy đã lái xe để thể hiện tài năng và sức mạnh chinh phục của mình. những người ở xa, anh ta né tránh và chèo thuyền. ai đến gần thì đè xuống chặt đôi để mở đường. những tảng đá không thể làm bất cứ điều gì

cuối cùng, tất cả các luồng chết đã bị bỏ lại sau con tàu. bạn chỉ có thể nghe thấy âm thanh của sóng của sông và hiện tại của cuộc sống. họ không ngừng trêu chọc, mặc cho cậu bé đá đứng ở ngưỡng cửa tái xanh và thất vọng vì chiếc thuyền đã tông vào cửa. thuyền vượt qua vòng thứ hai mà không gặp sự cố. chỉ là vượt qua khu vực núi đá cạn nhưng lại là khu vực nguy hiểm nhất vì tảng đá ẩn mình trong nước. non kinh nghiệm, thiếu kinh nghiệm, đã từng bị đánh đập nhiều lần, không thể nào nhớ nổi non sông gấm vóc.

Với trí tưởng tượng phong phú và vốn từ vựng phong phú, đặc biệt là kiến ​​thức quân sự: cách bày binh bố trận, Nguyễn Tuân đã tạo nên một đoạn văn đầy sinh động, không khí chiến đấu.

vòng 3: có một vây thứ ba. vòng thứ ba có ít cửa hơn, bên phải và bên trái là suối chết. nhưng người lái xe biết rằng nguồn cấp dữ liệu trực tiếp trong giai đoạn thứ ba này nằm ngay giữa những người bảo vệ của thác nước. vừa hạ thủy thuyền, đi qua cửa giữa. tuy nhiên, nó không phải là đơn giản. họ không cho người lái thuyền vào đó. tạo nhiều cửa hơn, thu hút con tàu vào nhiều nhất có thể.

Để không bị thu hút bởi chúng, anh lái con thuyền qua cánh cổng đá với đôi cánh đóng mở. bay, bay, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong cùng, con tàu như mũi tên tre lao qua làn hơi nước vừa bị bánh lái trượt xuyên thủng. tàu rời bến. mọi người thở phào nhẹ nhõm. vòng thứ ba này chỉ kéo dài một vài giây. nếu bạn đến đây, bạn sẽ thất bại như một con tàu. việc hỏng bất kỳ cổng nào tại ngã ba đó sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. tuy nhiên, thất bại ở cổng số ba là một nỗi ô nhục đối với bất kỳ người chèo thuyền nào.

hệ thống từ tượng hình, từ tượng thanh, nghệ thuật so sánh và nhiều câu ngắt giọng để miêu tả hoạt động của người lái đò trong cùng một khoảng thời gian. Nguyễn Tuân dường như đã vắt hết sức lực của mình để thể hiện thành công bản chất phiêu lưu mạo hiểm và tinh thần dũng cảm, ý chí, bản lĩnh trèo ghềnh, vượt thác của người lái đò. Người lái đò là biểu tượng cho tài năng của người nghệ sĩ theo quan niệm của Nguyễn Tuân: làm nghề gì, ai thể hiện được tài năng, sự khéo léo và điêu luyện trong nghề thì người đó là nghệ sĩ.

Với nghệ thuật tạo hình, kết hợp nhiều yếu tố điện ảnh, cách kể chuyện gay cấn, hồi hộp, dưới góc nhìn của một nhà địa lý chính xác, một nhà quân sự tài ba, nhà văn đã làm nổi bật cuộc chiến khốc liệt nhưng cuối cùng con người đã đánh bại được sức mạnh thần thánh. của thiên nhiên. đó là điều kỳ diệu trong công việc của con người. bí mật chiến thắng của con người không có gì là bí ẩn.

Chính sự bền bỉ, lòng quyết tâm và đặc biệt là kinh nghiệm đi sông đã giúp con người nắm chắc chiến thuật của thần sông, thần đá. Những bí quyết đó chính là yếu tố tạo nên “chất vàng mười” của người dân Tây Bắc và người lao động nói chung. qua đó nhà văn ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi sự lao động vẻ vang đã đưa con người đến chiến thắng vẻ vang.

Trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thực sự xứng danh “vàng mười” của nước ta. “vàng mười” là gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý giá của con người cần cù lao động. những người được ví như cục vàng mười quý chỉ là những người lái đò nghèo, trên thân thể còn in hằn những vết gồ ghề của công việc chèo đò vô cùng vất vả, gian khổ và nguy hiểm.

Tất cả những người lái đò trong tiểu luận này, không có ngoại lệ, làm việc bình tĩnh, đơn giản, theo cách hoàn toàn ẩn danh, vì tác giả từ chối nêu tên họ. nhưng những con người vô danh đó đã trở nên vĩ đại và vĩ đại nhờ công lao của họ và cuộc đấu tranh để chinh phục thiên nhiên.

người lái đò sông Đà là một bài thơ hay được đúc kết từ tình yêu quê hương tha thiết của một con người muốn dùng văn chương ca ngợi vẻ đẹp vừa oai hùng, vừa hào hùng, vừa trữ tình, vừa thơ mộng. ước mơ của thiên nhiên, đặc biệt là những con người lao động bình dị của Tây Bắc. Tác phẩm còn thể hiện sự lao động nghệ thuật miệt mài cùng với tài năng và sự uyên bác của nghệ nhân Nguyễn tuấn trong việc sử dụng ngôn từ để tái hiện những điều kỳ diệu của tạo hóa và những điều kỳ diệu trong lao động của con người. .

phân tích người lái đò sông Đà – văn mẫu 13

nguyễn tuấn là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. mỗi tác phẩm của anh là một bài ca về vẻ đẹp của con người, của cuộc sống với những tâm tư, tình cảm gắn bó với đất nước. Người đọc đặc biệt lưu ý Nguyễn Tuân về phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng ông. “người lái đò sông đà”, là một bài văn, đồng thời là một bài thơ văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu của phong cách đó.

“Người lái đò sông đà” trên hết là tác phẩm viết về con người và dòng sông. nhưng dưới ngòi bút tâm huyết và tài năng của anh, mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành tác phẩm nghệ thuật và con người trở thành nghệ sĩ điêu luyện của riêng mình.

Nhờ khả năng quan sát và miêu tả tỉ mỉ của nguyễn tuấn, cùng với vốn từ ngữ vô cùng phong phú và chính xác, nguyễn tuấn đã tạo nên những hình ảnh rất sinh động, những hình ảnh ngoạn mục, giàu sức hấp dẫn trong bài văn độc đáo này.

Người lái đò sông Đà mà Nguyễn tuấn nhắc đến trong tác phẩm của mình là một người đàn ông 70 tuổi, người đã dành cả cuộc đời mình để lái đò trên sông Đà. ông là một người lái đò dày dặn kinh nghiệm: “trên sông Đà thì xuôi, ngược hơn trăm lần, rồi chỉnh tay lái cầm lái chừng sáu chục lần…” trong hơn mười năm làm công việc nguy hiểm. và khó khăn này.

đây là một người đàn ông dày dặn kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc, có kỹ năng điều hướng cao và đã đạt đến trình độ “lấy tay ghi nhớ tỉ mỉ như đóng đinh mọi dòng chảy, kể cả những thác nước nguy hiểm, vào lòng đất.” Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với con người này: “Con sông Đà, đối với người lái đò, giống như một bản anh hùng ca mà ở đó, ông biết cả dấu chấm than, dấu câu và cả dấu ngắt dòng”. thật là một sự so sánh thú vị “rất văn” và cũng “rất nguyên để tuân theo”.

hình ảnh người lái đò với “mái đầu bạc phơ trên thân hình cao nhỏ gọn như sừng sững” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “đứa trẻ”, “thanh niên trong trắng” quá “, nguyễn tuấn gọi là” mười của vàng “. đã phải đối mặt với những thử thách của dòng sông Đà với sức mạnh của những tảng đá ghê gớm, những vấp ngã kinh hoàng: dòng sông uốn lượn, thấy sóng tung bọt trắng xóa một chân trời đá. Những tảng đá ở đây đã mai phục hàng nghìn năm dưới đáy của sông, dường như mỗi lần thuyền xuất hiện ở quảng trường vắng vẻ nhưng ồn ào này, mỗi lần thuyền lỡ rẽ sóng, đảo một bên để đón thuyền. ”

một mình, anh chiến đấu như một chiến binh: “… với cả hai tay ngăn mái chèo không bị sóng đánh lao thẳng vào anh. mái chèo, vũ khí trong tay ”, và sóng“ đập đầu gối, mạn thuyền, có lúc đưa thuyền. Lộn ngược, giữa giông tố ầm ầm ”. có lúc như thể người lái đò đang chết chìm trên sông… những nét miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh khủng khiếp của dòng thác hung dữ đối với con người. con người, chỉ cần lóa mắt, lạc lối một chút, họ sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình.

nhưng chỉ dũng cảm và can đảm thôi thì chưa đủ, điều quan trọng hơn là khả năng chèo lái con tàu ở một trình độ điêu luyện và nghệ thuật của người lái tàu. tác giả đã so sánh người lái đò sông đà với người lái đò lao xuống dốc, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái đò còn có phanh chân, phanh tay thì tiến, lùi ”mà như con thuyền lao vào dòng thác. , không có phanh, cứ chạy tới, không lùi, không đâm vào tâm dòng nước, thuyền sẽ rẽ ngang, nhưng không lùi … “vẫn sử dụng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả miêu tả dòng sông luôn biến đổi và thay đổi, mỗi nơi có cạm bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có cách ứng phó riêng. có nơi nước sông “gào thét như sôi cả trăm độ, muốn hất tung con thuyền phải đóng trong nồi nước sôi khổng lồ”. “Nếu có một dòng nước chảy sai, bạn sẽ chết ngay lập tức.” có những cái “hút” xoáy sâu như giếng “cái nào hút được thì tàu trồng chuối úp ngược rồi mất hút” …

con sông nào thật nguy hiểm và gian khổ đối với con người. tuy nhiên, “người lái đò cố nén vết thương, chân vẫn nắm chặt bánh lái…”. tuy gương mặt đã “méo mó” vì những cú đánh hiểm hóc, “nhưng trên chiếc xuồng chèo, tôi vẫn nghe rõ câu mệnh lệnh ngắn gọn và tỉnh táo của người lái tàu”.

Rõ ràng từ việc miêu tả cực kỳ hung dữ của dòng sông mà nguyễn tuấn đã hướng đến một mục đích lớn: ca ngợi lòng dũng cảm và tài trí của con người, ca ngợi chiến công vĩ đại của người lính lái xe. con đò sau khi trải qua bao thác ghềnh, sóng to gió lớn đã đưa con đò đến bến êm đềm không chỉ một lần mà hàng trăm lần trong suốt 15 năm làm người lái đò qua sông Đà. cuộc đọ sức giữa những người đàn ông đã được phân thắng bại; trở về cuộc sống thanh bình: “thác là hết. sông ngoằn ngoèo thành bến cát hang lạnh (…). dòng sông êm đềm trở lại. đêm đó nhà phà đốt lửa hang, nướng ống cơm… ”

cảm hứng lãng mạn thấm đẫm trong sáng, thấm sâu vào từng câu văn hiện thực, tạo cho đoạn văn một sức hút khó cưỡng. Đó là một bài hát về công việc, về những người đang làm việc.

sau mười mấy năm làm nghề lái đò, dù đã bỏ nghề mấy chục năm, người lái đò vẫn đeo trên ngực “củ khoai nâu”, với Nguyễn tuấn, đó cũng chính là hình ảnh quý giá của tấm huy chương công lao bậc nhất. . ”

phân tích người lái đò sông Đà – văn mẫu 14

người lái đò trên sông đà là một đoạn trích trong tập sông đà. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của tác giả năm 1958. Ông đã sống cùng các chiến sĩ, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường, đồng bào các dân tộc Tây Bắc từ Lai Châu đến Sơn La. hầu như tái thiết thị trấn sau năm 1954, cảnh vật và con người Tây Bắc đi vào trang sách với một niềm hân hoan bao trùm, xen lẫn những cảm xúc ngỡ ngàng về đất nước, con người cũng như những xúc động trữ tình trước vẻ đẹp lạ lùng, lôi cuốn.

người lái đò trên sông Đà là một ví dụ điển hình. lấy người lái đò làm nhân vật chính của truyện về người dân sông Đà nhưng thực chất là cảm nhận, nghe, quan sát, suy ngẫm, sáng tạo của Nguyễn tuấn. nên cố mượn lời của người lái đò xưa, nhưng chính tác giả đã miêu tả dòng sông ở nhiều góc độ khác nhau, thể hiện tình cảm của mình đối với con sông đại diện này, nghĩa là với lối viết của nguyễn tuấn, dòng sông Đà đã trở thành trong con sông. của nguyen tuan.

sông Đà có cả địa lý và lịch sử. “Nó sinh ra ở huyện canh đông, tỉnh vân nam trung quốc, tên là li tiên, xuyên qua miền núi hiểm trở, nửa chừng thì xin nhập quốc tịch việt nam, lớn lên, đến ngã ba trung hà thì nó trà trộn với sông đỏ. ”

con sông nghe như con người, được sinh ra, xin nhập tịch, lớn lên … các nhà ngôn ngữ học cho rằng đó là nhân hoá, thực ra nó là nghệ thuật, con sông đang sống, rất rắn, rất độc đáo. thời xa xưa, mái nhà lấy sông đà đặt tên cho 1 trong 15 quốc lộ: đà giang lộ. đó là lý do tại sao trong truyền thuyết về người đàn ông có câu chuyện về con đập đà giang trong bối cảnh của kiếp giang hồ cuối kiếp trần gian.

đường đà giang là đất từ ​​hoa nở trở lên. nay ta gọi là vùng tây bắc, từ lai châu đến hòa bình, nối với nhau bằng sợi dây khổng lồ (nguyên tuấn thư) là sông đà, nhìn từ bình diện. sông đà có lịch sử và truyền thống cách mạng. Dù câu chuyện có khác nhau nhưng sông Đà vẫn thuộc quyền sở hữu của người dân Tây Bắc Việt Nam. Nó xấu, nó mềm là một chuyện, nhưng người ta vẫn sống chung với nó.

đừng nói về quá khứ, bọn họ chỉ tụ tập phía tây cướp nước của ta, người nước này liên thủ với yêu nước cần vương nguyễn quang bạch mã, hoàng thất hưng thịnh đó chiến đấu đến cùng. thơ và hành khúc hàng ngày của ông có nhiều tên các nước vùng sông Đà. tiếp theo là thời tây phương cai trị với đủ thứ bọn lang đạo, bọn địa chủ tham lam, độc ác. “Con sông bị chúa đất cắt thành từng mảnh nhỏ, khiến con sông càng thêm hung ác! đế quốc đặt một đồn dọc sông, sự gian ác của dòng sông tăng lên gấp nhiều lần.

Tuy nhiên, người Thái từ chối rời sông. hơn hai mươi năm sau, công trình thủy điện thái bình gần hoàn thành. sông đà bị chặn để phát điện và làm hồ. hồ dài hàng trăm km là cảnh du lịch, nơi nuôi cá, đường đi lại thuận tiện, thuyền bè xuôi ngược.

Mặt khác, ta còn thấy con sông đà hung dữ, con sông đà hùng tráng. tạo ra một môi trường sử thi phải là một cái gì đó dữ dội, nguy hiểm cao, vượt qua phải là một thiên tài, ít nhất là một tài năng hiếm có, nhưng phải kiên trì, có khi cả con cá chép lao vào cái chết để giành lấy sự sống, và tất nhiên, chúng ta phải chiến thắng. vẻ vang ở cuối. sông đà là một môi trường như vậy. nó là về bản chất. tài năng của nhà văn làm cho bản chất đó trở nên sắc nét hơn, dữ dội hơn, nguy hiểm hơn.

Cây cối, cỏ hoa hai bên, ánh trăng, nhà cửa, thôn xóm ven sông đều thấy trong cảnh sông nước, nhưng những thứ này thường mềm mại, chưa kể có đẹp đẽ, ấm áp, tươi vui hay không. mặt sau. trước hết hãy nói những khúc ruột của dòng sông. cát là phổ biến nhất, phải không? Cát dưới sông có hại khi thành ụ khiến tàu mắc cạn? ít ai nghĩ rằng hạt sông đà thô ráp có thể gây lở loét da nếu chỉ đóng khố, càng ít nếu mặc quần, vì nó chui vào bẹn và ăn da, còn ở dưới nước, nếu cởi trần thì “xuyên thủng”. gan. bàn chân đau nhói như những lỗ sâu đục thủng đáy tàu gỗ. “

XEM THÊM:  Soạn Bài: Trao Duyên - Truyện Kiều Trang 103 SGK Ngữ Văn 10 - Ngữ Văn Lớp 10

Đó là cát xấu. bờ không thuần hóa. có nơi “ông xây tường, mặt sông mới trưa nắng, có những mỏm đá xẻ đáy sông như yết hầu, có lần hươu, hổ nhảy bờ. lên bờ. ngồi trên phà qua quãng đường đó, trời vẫn còn lạnh mùa hè, cảm giác như mình đang đứng trong ngõ nhìn ra khung cửa sổ tầng 2 vừa tắt đèn, gió cũng sợ quá.

trong ghềnh đá, sườn núi là một vùng đất của gió kết hợp với nước, với đá và với sóng để tạo thành những dòng xoáy: nước ném đá, đá ném sóng, sóng ném và còi, năm như đòi nợ luôn ”(nợ: không có nợ thì đòi), nhưng không đòi được bằng tiền thì buộc người lái đò phải dừng lại,“ lật thuyền ”. cát, vách đá và gió là thứ đáng sợ, nhưng không gì đáng sợ hơn “nước hút cát”.

Cái tên này có lẽ không phải do tác giả đặt ra mà là của người dân địa phương, ít nhất là của những người lái thuyền trên con sông này. đó là một vùng nước xoáy, nước chảy êm đềm, bỗng nhiên không có một vật gì nổi trên mặt nước, mà nước chảy ở đó cứ xoay tròn rất đẹp rồi lại chìm xuống chỗ trũng như cái lúm đồng tiền xinh xắn. ai có thể nghĩ rằng đó là nơi nguy hiểm nhất cho những con tàu đi trên mặt nước.

Nước ở đó đặc quánh lại như thể họ vừa đổ dầu sôi vào. tiếng ục ục đó, có lẽ là sông đà mới. và “những chiếc bè trong rừng vô tình đi ngang qua là những giếng hút mà nó kéo xuống. vừa đáng sợ vừa buồn cười là chiếc thuyền bị lạc vào đó, chiếc thuyền trồng cây chuối úp ngược rồi mất hút, anh ấy chết đuối và đi trốn đến 10 phút sau thì được phát hiện chết dưới đáy sông ”.

Điều đáng sợ nhất ở sông đà không phải là những thứ đó, mà là những tảng đá và thác nước, thác nước và đá trong các thành tạo đá, hay nói đúng hơn là các thành tạo đá. nguyễn tuân theo ý tưởng bày ra một loại trận theo kiểu cung minh đồ tám trận theo thế võ tấn ngo mà không minh tái hiện. tất nhiên là có một chút hiện đại. không có mảng rồng, nhưng có mảng đá. bộ đá cũng đầy cửa tử và sinh. không đủ tám trận, nhưng có trận trước sau, trận ngược, nhiều tầng nhiều tuyến, có tiên phong, dự bị … không có tướng quân canh giữ cửa thành, nhưng có nguyên soái, ma siêu, quang hùng, trường bào nhưng có tướng đá và nước.

tảng đá “vẫn mai phục hàng nghìn năm dưới lòng sông, khi có tàu xuất hiện, một số hòn đảo nhô lên giành lấy … hòn đá nào cũng có vẻ ngỗ ngược, hòn nào cũng nhãn bị chèn ép và méo mó .ma ”… cứ tưởng họ tùy tiện rải rác nhưng không phải đâu. được chia thành ba hàng để chặn sông.

“Hai cù lao có cửa đá đóng vai trò thu hút tàu địch về tuyến giữa rồi nước sông bồi vào”. con tàu không chịu chìm mà vẫn tiếp tục, một trận chiến khác đã sẵn sàng. các vị tướng ở đây đều trang nghiêm, uy nghiêm. ông giống các vị tướng trong giai đoạn tuồng. sân khấu là rung râu, đạp giáp, múa giáo hay cầm giáo, còn ở đây tướng đá như “hỏi quai hàm yêu cầu tàu khai tên trước khi xung trận”. một nhà vô địch nhạc rock khác “đứng lại và dám cho con tàu tốt đến gần hơn.”

nhưng các đường của bộ đá lần lượt bị đục lỗ. các cửa tử không thể thu hút các con tàu. ở phần cuối, “người đàn ông đá đứng ở ngưỡng cửa với khuôn mặt tái nhợt của sự thất vọng.” hình như sáp bị buộc tội về chiến thuật quân sự: kẻ thua đâm chết tướng. từ đá đến nước, quân đội của nước. đá dưới nước không mịn ở bất cứ đâu. nước lặng. nhưng với đá, với gió, nước trở nên dữ dội. nước sông đà vào loại đó, tính ngược chợ bờ. chỉ cần nghe tiếng nước thôi là đã thấy kinh khủng rồi. “Vẫn còn một chặng đường dài để đến thác nước phía dưới.

nhưng tôi thấy tiếng nước, càng lúc càng to. “ở đâu có tiếng nói.” có khi nghe như than thở, rồi như van xin, rồi lại như chế nhạo, giọng gầm thét và chế giễu. “Chợt không biết làm sao”, cả nghìn con trâu mộng đang chiến đấu đòi cháy da giữa rừng tre trăm đốt. giữa dòng thác, một bên thác bị đá chắn, bên kia nước ngập, chỉ vào thuyền mà “kêu thành viên”.

đôi khi nghe như đang sôi cả trăm độ, muốn lật ngược cái nồi phải là cái nắp, một cái nồi nước sôi khổng lồ. nhưng không ở đâu tiếng nước lạ như trong giác hơi, nơi “nước ùng ục như thể vừa đổ dầu sôi vào”. tiếng nước đã khủng khiếp, sức mạnh của nước còn kinh khủng hơn. đừng nghĩ rằng ổ gà chỉ có trên đường chứ không phải trên đường. sông cũng có ổ gà. “Gặp phải ổ gà trên sông là kéo thuyền xuống và đẩy lên.

nước chảy theo dòng. đối với thác, sông có nhiều kênh. nếu sai luồng thì chết ngay, vẫn có thể chết mà sinh như thường. “lúc khác có thể” nhấc thuyền, nắm lên thuyền như vật nắm lấy thắt lưng của người lái thuyền để yêu cầu anh ta. lộn ngược “anh yêu để bụng khô” giữa cơn giông nước ầm ầm ”. đất nước đã trở thành một võ sĩ thực thụ. Anh ta “giáng cho anh ta một đòn hiểm nhất: anh ta bóp chặt bộ phận sinh dục của người lái thuyền, bộ phận sinh dục muốn chui ra khỏi cổ anh ta”.

Giờ anh ấy là một con ngựa bất kham. là thờ ở sông đà ”. vì vậy anh ta đã lái xe “cầm bờm cũ của con sóng, giữ dây cương, hết tốc lực về phía cửa sinh.” anh ấy đã phải từ bỏ. nhưng khi hút đến, nó chờ sẵn, nếu con thuyền ngủ quên, nó sẽ lùi vào đá, chết không kịp ngáp. nó giống như một lời đồn đại phổ biến rằng đi lên để lấy củi. Da Rio quả không sai với những lời đồn đại. cát xấu rất bẩn, bờ biển xấu, gió xấu, hút nước xấu, nồng độ xấu là hình thành của đá, đá và nước kết hợp với nhau để buộc con người phải chết.

tác giả đã sử dụng ngòi bút trăm màu và đôi mắt đa sắc của mình để có hàng loạt hình ảnh khác nhau luôn độc đáo, cả trí tuệ và thị giác, vượt qua cả thủ công. phương pháp từng được gọi là nhân hóa đi vào bản chất sâu thẳm nhất và độc đáo của sự vật trong những trang văn biến hóa khôn lường ngoài cái xấu xa ta còn cảm nhận được con sông đà đẹp và con sông đà trữ tình. Đi lên thác, bạn phải chiến đấu chống lại tảng băng.

Hút nước thật đáng sợ, nhưng hãy tưởng tượng đi xuống đáy nước và sau đó đưa máy ảnh quay lại “mặt giếng có thành bằng nước sông xanh và gang dày …” sức hút khủng khiếp đó sẽ trở thành biến thành một cảnh đẹp đến không ngờ. Nhìn từ trên máy bay, sông Đà như một sợi dây ngoằn ngoèo, nhưng không ai nghĩ rằng nó đã gắn bó với người dân Tây Bắc từ bao đời nay.

Từ trên không nhìn xuống, có lúc tôi thấy sông đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, hoa nở, tháng hai hoa gạo, mù mịt núi rừng. khói mèo đốt ruộng xuân ”. màu nước sông đà thật đẹp. “Vào mùa xuân, lạch có màu xanh ngọc bích, không phải màu xanh của hến của gấm, của sông lo. vào mùa nước sông đà lạt đỏ như da mặt người cồn cào, màu này màu nọ đúng hoàn toàn không nói lên được điều gì mà sao màu tóc đó. một màu tóc trữ tình?

tất nhiên đó phải là cái nhìn từ trên cao nhìn xuống và nhìn xuống từ chân tóc đến ngọn tóc, được thả ra, uốn xoăn, dài ra, thu lại, không có mùi hương của hoa bưởi ướp và của tuổi trẻ – nó là một dòng sông, tại sao nó lại nói lên nhiều điều cho du khách xem? bập bùng trong khói lửa nương rẫy (hiểm trở núi rừng) và mây trời nở hoa gạo trắng, đỏ, hồng. tạm coi trên đây là một cách nhìn. và đây là cảm giác. tác giả nói ngay: “sông đà gợi cảm”. tất cả chúng ta đều khác nhau.

cùng tác giả từng xem hắn là bạn cũ, là người thân, là người yêu cũ, đã lâu không gặp. ông già đó đột ngột xuất hiện sau một khúc quanh của ngọn núi trở nên rực rỡ rồi đến một màu nắng tháng ba. duong thi “yen ba tam nguyet ha duong chau” (ly bach trong thien than “chia tay dang hao” den quang lang). Ôi, nắng tháng ba trên sông hanh khô soi bóng nước, mùa xuân đang về, nhựa sống trên cành, hãy đến xem, thật đẹp, thật ấm áp làm sao!

người bạn thời thơ ấu của li bach ra đi trong tiết trời sương khói ấy, không rõ có phải men xuân đọng lại trong từng thớ thịt hay không, nhưng ở tác giả đoạn văn này, anh như hòa vào đám đông. của chuồn chuồn, bươm bướm, mặt trời trong vắt trên sông, những rặng san hô xanh nhô lên mặt nước như dát bạc, bầy hươu cúi đầu ăn kén cỏ đẫm sương đêm, dòng sông thơ mộng. theo tâm hồn thôi thúc của “dải nước trôi sông cho – biết bao cảnh, biết bao tình” và của những nương ngô mới nhú vài chiếc lá ngô non đầu mùa…

sông, cầu cảng, trong lành không có bóng người. bờ sông hoang vu như thời tiền sử, gần cùng thời gian. lấy tình cảm cổ trang, tác giả bỗng khao khát tiếng còi tàu yên bái – lai châu để câu chuyện cổ tích xưa trở thành màu sắc hiện đại cho thứ tình cảm bao gồm hai cổ tích theo chiều kim đồng hồ.

ở phần cuối của đoạn văn trữ tình này, lại có một không gian rộng rãi của vùng nước phẳng lặng gợi nhớ bạn đang rung chuyển những thác ghềnh, của những giọng nói nhẹ nhàng rộng rãi của vùng đất thấp, của những cánh buồm đang rộng mở tự do đón gió từ khắp bốn phương. những con thuyền riêng chứ không phải con thuyền đuôi én khiến cảm xúc dâng tràn vô tận. sông đà dữ dội nhưng sông đà cũng rất trữ tình.

đặc biệt, sông cho cũng tạo ra con người cho chính nó. có một người lái đò trên sông Đà. Anh sinh ra bên bờ sông Đà, từ nhỏ đã uống nước sông Đà. chắc anh ta cũng đã lặn dưới đáy sông. nay đã dừng thuyền mấy chục năm sau mười mấy năm ngược xuôi chèo lái sáu mươi phần, trăm phen ngược xuôi từ lai châu về hà nội, bên nào, đá nào, suối nào không thuộc.

từ dáng vẻ bên ngoài: “hai tay buông thõng làm trụ, hai chân lúc nào cũng khuỵu xuống như đang ôm một thân cây hư ảo, giọng nói sang sảng như tiếng nước trước ghềnh, giọng nói. giống như tiếng nước dội vào ghềnh. Dòng đời đã rèn giũa anh thành một “thân hình cao và nhỏ gọn như mun sừng”. cùng một nghề đã làm cho tất cả những người lái đò trên sông vốn chỉ khỏe, tay chân rất yếu và chạy rất kém.

cách cư xử của anh ấy cũng giống như một người lái thuyền: ngắt lời người khác, “anh ấy nhanh như tay lái rẽ qua một con sông và đi theo một thác nước băng qua nó.” từ hình thức đến cách hiểu. người lái đò biết con thuyền. sao chậu tây bắc mỏng và không nở? không phải vì đất nước này thiếu gỗ, ngược lại, cũng không phải vì họ không biết rằng con tàu của mình có thể chở được nhiều hàng hóa. họ phải đóng một chiếc thuyền đuôi én để đi qua những con kênh hẹp đã được ghép lại với nhau. đi thuyền cũng vậy. Để lái thuyền trên sông Đà ở vùng cao, bạn cần có sào, chèo, bơi, dây kéo và hiếm khi dùng buồm.

hướng xuống, gậy buồm “kéo căng hai cây gậy thành cột buồm, kéo căng phần trên để tạo thành một cánh buồm và treo nó xuống. Tuy nhiên, chân trời phía tây bắc và dòng sông thường vướng vào núi, những ngọn nến di chuyển trên sườn núi vốn không phải là hình ảnh quen thuộc của người dân hai bên bờ sông Tây Bắc, khi chạm tới sông coi như đã thuộc trong lòng bàn tay, đối với sông chỉ có một hương vị đậm đà. chợ bờ biển.

Cuộc đời của người lái đò trên sông Đà là cuộc đời đấu tranh thực tế. chỉ cần nghe một chuyến xuống thác là biết. lúc bấy giờ thiên nhiên sông Đà là kẻ thù số một. nhìn vào đó, thấy đó không phải là “thơ văn tang gia” nhàn nhã, mà là cuộc đấu tranh giành giật sự sống từ tay họ. của nước sinh ra có hòn đá che chở để cắn mật, dòng chết có hòn đá để hút, có khi suối ở tay trái, có khi suối ở tay phải, loại đá nào nằm trong mặt của Nói chung, khi nào thì siết đầu suối để tiến về phía trước, khi nào thì bám vào sóng và vượt qua, làm thế nào để giữ tay lái khi tiếng sóng mạnh sẽ khuyến khích bạn lọc sạch nước …

vật lộn với đá và nước cho đến kiệt sức, hết hơi, tưởng đã kiệt sức nhưng vượt thác xong thì “sóng lăn tăn tan vào ký ức, sóng bình yên, không ai nói thêm lời nào. ” chiến công vừa rồi ở cửa ải tướng hùng “. thác hết thì sông bình yên, lòng người lái đò cũng bình yên. Trận chiến tuy gian khổ nhưng vẫn là chuyện thường ngày, không hồi hộp, đáng nhớ, sông đà , đối với người lái đò, thực ra là “một thiên anh hùng ca mà anh ta đã thuộc lòng tất cả các dấu hiệu. dấu câu và ngắt dòng “.

Bản thân anh ấy đã sống một cuộc đời anh hùng, nhưng sự hào hùng đó là chuyện thường ngày nên anh ấy không coi nó là gì đặc biệt. ông liên quan đến ông nội của mình trong đau khổ của sông Đà và sông Đà đã rèn anh theo hình mẫu của ông. cũng như người bán thịt; bởi vì không có gì về dòng sông mà bạn không biết. ngược lại, không có gì trong đó không phải là hình ảnh sông đà.

nói tóm lại, đọc văn nguyễn tuấn mỹ, nhất là bài văn, có người cho rằng giống như soi gương sắc (thủy tinh sắc là đồ chơi của trẻ con), chỉ có một vài màu sắc rung rinh bên này, một thế giới màu sắc, lắc bên kia sang một thế giới màu sắc khác. ngòi của nó không chỉ có bảy màu, mà là hàng trăm màu. mỗi câu, mỗi từ đều thú vị, nếu người đọc chú ý đến từng câu, từng chữ và thấy được giá trị và công sức bỏ ra, thường là những sợi tóc bạc như những người lớn tuổi đã nói, để có được từ đó, câu đó.

đọc Người lái đò trên sông ta thấy rõ chủ trương sáng tác của tác giả. từ ngữ phong phú, được nghiên cứu kỹ lưỡng, câu văn đôi khi quanh co, nhưng vẫn là con người Việt Nam, hình ảnh ví von luôn tuyệt vời, độc đáo và chính xác, không né tránh hiện thực không cầu kỳ nhưng vẫn có vị trí đắc địa.

chi tiết bài văn này hay, toàn bài thể hiện kiến ​​thức khoa học sâu sắc và hơn hết là tấm lòng yêu nhân dân, đất nước, yêu những khó khăn đã qua. một tương lai tươi sáng và hạnh phúc.

phân tích tác phẩm Người lái đò trên sông Đà – văn mẫu 15

nguyen tuân theo người nghệ sĩ cả đời đi tìm cái đẹp và quan tâm đến cái đẹp. nếu trước cách mạng anh trốn tránh thực tại và tìm kiếm cái đẹp trong một thời đại huy hoàng thì sau cách mạng anh vẫn đi theo con đường đó, nhưng lại tìm cái đẹp ở cuộc đời này, ở những người lao động rất đỗi bình thường. Người lái đò sông đà trích trong tập tùy bút sông đà là sự tái hiện chân thực vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp anh hùng của con người nơi lao động.

Bài viết của

song da nhìn chung là kết quả của chuyến đi thực tế vùng đất Tây Bắc những năm 1958-1960 của nhà văn Nguyễn tuấn. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện lời kêu gọi của miền Bắc, một phong trào tình nguyện viên đã được phát động đi đến những vùng sâu, vùng xa của đất nước để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

như chúng ta biết rằng, mỗi mệnh đề xuất hiện, thường tập trung vào các ý tưởng của tác phẩm, là chìa khóa để mở cánh cửa tác phẩm, hé lộ những ý tưởng, chủ đề và cảm hứng chính. Người lái đò sông Đà sử dụng hai giới từ: thứ nhất: “đẹp quá, câu hát trên sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan với cấu trúc cảm thán. câu thơ có thể là lời ca của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động hoặc cũng có thể là lời ngợi ca của chính nhà văn về việc làm chủ thiên nhiên. ở câu thơ thứ hai, nguyễn tuấn mượn câu thơ của nguyễn quang bich: “ta là thúy giai đồng tau / da giang doc bac luu”. câu thơ đã cho người đọc thấy rằng tất cả các con sông đều chảy về phía đông, chỉ có sông đà chảy về phía bắc. đoạn thơ đã khẳng định nét độc đáo của đà giang, đồng thời bộc lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn tuấn, một nhà văn thích cảnh đẹp, tình cảm mãnh liệt.

trước hết, hình ảnh con sông Đà được cụ nguyễn miêu tả theo nhiều phương diện, vừa đẹp dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình. Vẻ đẹp tàn bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện trong cảnh bờ sông dựng tường thành. lúc đó “mặt sông chỉ trưa nắng” mới gợi được độ cao và gợi tả phần mây lạnh của sông. Không chỉ vậy, “vách đá của thành phố chặn sông như một hẻm núi” miêu tả sự hẹp của dòng chảy, gợi ra tốc độ lớn nhất, nhất là vào mùa lũ với nhiều nguy hiểm rình rập. Với một trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn những vách núi lạnh lẽo, tăm tối, giữa dòng sông nhỏ hẹp: “ngồi đò xa xa trời hè mà lạnh cũng thấy mình. Tôi đang đứng trên vỉa hè trong một con hẻm và nhìn lên cửa sổ tầng thứ hai vừa tắt đèn. ”

không chỉ vậy, sự hung bạo còn được thể hiện ở “mặt ghềnh hát loong”, trong đoạn văn này, nguyễn tuấn nhân cách hóa dòng sông làm người, tức là nói một tên đòi nợ thuê, với một sự hung hãn tàn bạo. khuôn mặt. , các cụm từ tàn bạo với nhịp điệu nhanh, ám chỉ và ám chỉ cấu trúc được áp dụng liên tiếp (băng, đá, sóng, sóng) kết hợp với các âm tiết liên tiếp để tạo ra cộng hưởng nhịp điệu mãnh liệt. khẩn trương, dồn dập như xô đẩy, lực tổng hợp của sóng, gió và đá khiến thác ghềnh của cả dòng sông sôi lên, cuộn trào dữ dội, tạo nên mối đe dọa thực sự cho bất kỳ người lái đò nào. “Lúc này, nếu bẻ lái không cẩn thận, rất dễ bị lật bụng thuyền”.

Sự tàn bạo còn được thể hiện ở những con heo hút tàn ác, bị trói ở bên kia sông, như thể chúng có thể kết liễu mạng người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự rùng rợn của những con ghẻ hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy theo nhiều chiều khác nhau, mang đến cho người đọc một cái nhìn bao quát và toàn diện. khi nhìn từ trên cao xuống, nước sông “như một hố bê tông ném xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ lòng sông nhìn lên, “thành giếng được xây hoàn toàn bằng nước sông xanh ngắt với khuôn kính dày cộp, tấm kính xanh dường như sắp vỡ ra…”. và để giúp người đọc cảm nhận rõ ràng hơn, tác giả còn đưa ra những thế cảm nhận khác nhau, đối với người quay phim giống như việc “ngồi trong chiếc thuyền thúng tròn và thả cả chiếc thuyền, anh ta và máy ảnh xuống đáy”. … ”; đối với khán giả xem phim, họ thấy mình “thấy mình đang ngồi ôm ghế dựa đường gân guốc như nắm lấy mép một chiếc lá rừng bị tạt vào một chiếc bình pha lê khổng lồ vừa được múc lên một que phèn. … ”. Bằng những trải nghiệm và góc nhìn phong phú, Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận một cách đầy đủ về sự nguy hiểm tột cùng của sông Đà, mà ở đây là cửa hút nước.

Cuối cùng, sự hung dữ của sông Đà được thể hiện trong các thành tạo vi đá khác nhau. với ma trận microlithic đầu tiên nó là “toàn bộ chân trời đá”, “mọi mặt đá có vẻ chênh vênh, mọi hòn đảo nhăn nheo và méo mó hơn mặt nước ở đây”. đá cũng dàn quân ra trận, như cố tình đánh chìm tàu. ma trận microlithic thứ hai không ngừng gia tăng thử thách, nhiều cái chết hơn để đánh lừa con tàu và chỉ có một cánh cửa để chào đời. cửa sinh ấy cũng không kém phần hiểm trở khi “tướng đá đứng cửa”, kết hợp với tảng đá là thác nước như hổ báo như hổ sắp nhảy ra đẩy thuyền xuống đáy sông. trong hệ tầng microlithic cuối cùng, có rất ít cửa, “bên phải và bên trái đều đã chết”, chỉ có một dòng suối sống lại “ở giữa những người bảo vệ của thác nước”. tất cả vi trùng, măng đá đều cực kỳ nguy hiểm, với mục đích duy nhất là làm cho con tàu mất sức mà chết.

Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, dòng sông hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối lập, đó là vẻ đẹp trữ tình. từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của sông như “sợi dây ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt như mái tóc thiếu nữ. tình, tóc, tóc, rễ, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, nở hoa gạo tháng hai thoang thoảng khói núi, mèo đốt nương mùa xuân ”.“ Con sông như thiếu nữ, với dài mái tóc buông xõa bồng bềnh, thanh thoát, uyển chuyển đến không ngờ vẻ đẹp của dòng sông hòa quyện với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng tô điểm cho vẻ đẹp kiêu sa.Không chỉ vậy, ở các thời đại khác nhau sông đà cũng có vẻ đẹp: vào mùa xuân, nước sông Đà xanh ngắt, “xanh ngọc bích”, sáng trong, lấp lánh; mùa thu, nước sông Đà “từ từ ửng đỏ như da mặt người bầm dập vì uống rượu. , màu đỏ của sự giận hờn trong người bất mãn mỗi khi trở về “. sông đà, bãi sông đà, chuồn chuồn, bướm trong sông cho ”. nhà văn cảm nhận được cái chất “ấm êm” quen thuộc khi thấy mình sau một thời gian “ở rừng, lên núi lâu ngày”.

Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng sông Đà mà để tô điểm và hoàn thiện vẻ đẹp của sông Đà, cần có sự hiện diện của con người, và đẹp như vậy, bức chân dung người lái đò đã thể hiện một cách dí dỏm và trong sáng. . Người lái đò không có tên cụ thể mà chỉ gọi là người lái đò Lai Châu. Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, chân dung của ông luôn được tái hiện trong mối quan hệ với con sông Đà. nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật cuộc chiến không cân sức: một bên là bản chất hung bạo, hung dữ, sức mạnh vô song với sóng biển, nham hiểm, một bên là con người nhỏ bé trên thuyền, một bên là con én và vũ khí trong tay họ. chỉ là mái chèo. nhưng dù con sông đà khôn ngoan, xảo quyệt đến đâu, người lái đò vẫn ngoan cường bám lấy chàng “bằng cả hai tay giữ cho mái chèo không bắn ra khỏi sóng chiến và lao thẳng vào chàng”. nhất là trong lần thứ ba băng qua trận đồ đá, người lái đò đã thể hiện rõ tài năng của mình. tiếp tục “nhảy thẳng thuyền, đi qua cửa giữa … bay qua cửa đá”, “nhảy, bay, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong lại, con thuyền như một mũi tên tre nhanh chóng xuyên qua. bằng hơi nước, vừa xuyên thấu, vừa tự phát, tay lái có thể trượt ”… rồi hân hoan, câu“ thác đổ thế thôi ”như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi người lái xe đã bỏ lại mọi người ở những thác ghềnh. Chiến thắng của họ trước hết là từ ngoan cường, dũng cảm, quyết tâm vượt qua thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây cũng là chiến thắng của sự khéo léo và hiểu biết sâu sắc của con người về những đặc tính của dòng sông ban tặng.

Đặc biệt, giống như các nhân vật khác, ông lái đò cũng do Nguyễn Tuân thủ vai bởi tài năng và vẻ đẹp nghệ thuật của mình. tài năng là khi con người đạt đến trình độ điêu luyện, thành thạo trong công việc, đến mức có thể sáng tạo, có thể đạt được tự do. Chính vì vậy, nguyễn tuấn đã tập trung ngòi bút để tôn lên hình ảnh anh lái xe băng băng trên thác sông Đà một cách ung dung, bình thản, tự tại trong cuộc chiến gian khổ nhưng cũng rất anh dũng. và phong thái nghệ thuật của người lái đò được thể hiện qua cách anh ta nhìn công việc của mình một cách điềm tĩnh đến lạ lùng. khi dòng sông cứ tròn vành vạnh đến hết thác cũng là lúc “sóng và thác tan vào thương nhớ”. các nhà thuyền ngừng chèo, đốt lửa nướng ống tre, nói về cá anh vũ, cá đuối xanh, về cá chốt nơi mùa khô cá nổ những tiếng ầm ĩ như mìn nổ rồi nước tràn bờ. vào các lĩnh vực. .

với ngòi bút vô cùng tài hoa và tinh tế, nguyễn tuấn đã tạo nên những trang văn đẹp cả về hình thức lẫn tư tưởng. tác phẩm ra đời từ tình yêu đất nước sâu sắc và tha thiết. không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của đất mẹ mà còn khẳng định sự vĩ đại, nghị lực phi thường của những con người bình dị trên hành trình chinh phục thiên nhiên.

phân tích tác phẩm Người lái đò trên sông Đà – văn mẫu 16

Nguyễn tuấn, sinh năm 1910, mất năm 1987, là một nghệ sĩ lớn của dân tộc Việt Nam. Là một trí thức yêu nước, am hiểu sâu sắc nền văn hóa dân tộc, ông đã viết nên những tác phẩm rất uyên bác và có giá trị. Nếu như trước cách mạng, văn của Nguyễn tuấn làm xúc động lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những người “nức tiếng một thời” như Huấn Cao thì sau cách mạng, Nguyễn tuấn lại khiến người đọc xúc động vì sự tinh tế và tài hoa trong cách vẽ. vẻ đẹp e ấp mà gần gũi, giản dị. đến thiên nhiên và cuộc sống con người. bài văn “Người lái đò sông đà” là một thành công tiêu biểu của phong cách văn học đó.

Trong bài văn, dòng sông cho hiện lên hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội và đẹp đẽ, hiền hòa, thơ mộng. nguyễn tuấn đã miêu tả dòng sông từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh mà cái nào cũng đẹp, em thích lắm. Không êm đềm soi bóng trong rặng tre mỗi trưa hè, cũng không mang theo vẻ trầm tư trong từng hơi thở khi màn đêm buông xuống, sông Đà dường như vô cùng sống động, dữ dội và dữ dội. anh ta được coi là “kẻ thù số một của con người”. những thác nước khổng lồ và hung dữ, dòng nước từ vạn yên đổ xuống là mênh mông. hai bên bờ sông tích tụ đá ở những vách đá cheo leo vô cùng hiểm trở. nước và sóng trùng điệp như đang tranh nhau phô bày hết sự dữ dội, hùng vĩ của mình: “có mỏm đá dưới lòng sông nó cho ra như một hẻm núi. Đứng bên bờ bên này, nhẹ nhàng ném đá sang một bên. có lần hươu và hổ nhảy từ bờ này sang bờ khác ”. mặt sông nhìn từ trên cao đầy nước hút như cột bê tông, tiếng dầu sôi sùng sục ”. tất cả điều này tạo ra một tình huống nguy hiểm trước mắt chúng ta và đầy thách thức và nguy hiểm mà tất cả mọi người đi qua phải đối mặt. dòng sông với tư thế hùng mạnh và có phần độc tài sẵn sàng nhấn chìm bất cứ ai không vững tay lái khi đối mặt với từng dòng sông, không tự chủ trong cuộc chiến chinh phục dòng sông. thuyền đi qua phải cẩn thận, hoảng sợ, cố gắng tránh những cái bẫy do sông đà giăng ra: “không thuyền nào dám đến gần các cửa hút nước đó, thuyền nào nấy lướt nhanh trên sông”. bao nhiêu bè gỗ đã phải hứng chịu bao nhiêu chiếc bè gỗ trước những hố sâu khổng lồ, bao nhiêu con thuyền sừng sững phải tan xác dưới lòng sông.

Với sự hiểu biết và trải nghiệm sâu sắc, nguyễn tuấn đã sử dụng những từ ngữ mới mẻ, sinh động và độc đáo để miêu tả sông Đà. sông đà còn mang vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của thiếu nữ núi rừng Tây Bắc. dòng sông lúc này thật thơ mộng và thơ mộng, tình yêu như trào dâng những cảm xúc đắm say khó tả: “sông chảy dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình… mùa xuân”. vẻ đẹp của dòng sông thật êm đềm, gợi tình yêu thương, đưa con người đến những rung động trong tâm hồn, một sức hấp dẫn lớn. đôi khi dòng sông cho cũng có những cảm xúc. , nhớ, thương như bao người, vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được hiện lên giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên một nét riêng không trộn lẫn khiến người ta thích thú lúc nào không hay. hấp dẫn: “Em đã từng say đắm nhìn mây xuân bay trên sông đà, em đã qua mây thu nhìn xuống nước sông đà”. không chỉ vậy, sông Đà còn làm xao xuyến lòng người bởi màu nước thay đổi theo mùa: “mùa xuân, suối có màu xanh ngọc bích, nhưng nước sông Đà không phải là màu xanh của sông gam, sông i. nó. vào mùa thu, nước sông Đà đỏ như da mặt người bầm tím vì rượu, và màu đỏ giận dữ trong người bất mãn mỗi lúc một giận dữ. “

đôi bờ sông Đà cũng đẹp, dịu ngọt từ hương hoa, bướm lượn, chuồn chuồn, những nương ngô non đầu mùa hay những cô thiếu nữ giành lộc vàng. đây đó những đàn hươu lặng lẽ gặm cỏ non ướt sương chiều, vạn vật như hòa mình vào nét đẹp tuyệt vời của dòng sông, tô điểm thêm cho một vẻ đẹp quyến rũ khiến người ta phải xót xa: “nai tơ”. nhà thơ ngẩng đầu lên. từ ngọn cỏ mờ sương, anh nhìn tôi trôi thuyền, con nai vểnh tai lên, nhìn tôi không chớp mắt, nhưng hỏi tôi bằng lời của một con vật hay: “Ôi khách sông đà, có nghe tiếng còi không.” ? “của sương?” song da được ví như một “cố nhân”, một “nghệ sĩ tài hoa” qua cách miêu tả độc đáo với tình cảm chân thành, trân trọng, quý trọng những điều bình dị, nhỏ bé, nguyễn tuân như đang vẽ nên một bức tranh màu nước về dòng sông Đà làm say đắm lòng người. một cái nhìn tuyệt vời và thân thương.

Cùng với hình ảnh dòng sông nêu lên cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được hình ảnh người lái đò tài hoa, nghệ thuật và điêu luyện trên sông nước. Người lái đò đó không phải là một thanh niên khôi ngô, thân hình vạm vỡ mà là một ông già đã ngoài bảy mươi tuổi: “ở sông đà người chìm, anh quay lại hơn trăm lần, tự tay cầm lái sáu mươi lần. “. Phải chăng chính trải nghiệm của nhiều chuyến đi trong suốt mười mấy năm công tác đã giúp anh chín chắn, can đảm và bền bỉ đến vậy: “nhớ tỉ mỉ cách lái mọi thứ vào lòng đất.”. người lái đò như một thứ “vàng mười” đã được thử lửa: mái đầu bạc ấy tựa trên một thân hình cao và nhỏ gọn như sừng, mùn. ”, con người anh là một người sông hùng vĩ, trên ngực anh là những“ củ khoai nâu ”in dấu những trận đánh ác liệt với dòng sông ác liệt mà anh ban tặng, với tác giả hiện lên là những tấm huy chương tự cao quý của anh làm chứng cho sức lao động của con người trong công việc .Đối mặt với những con sóng kinh hoàng và những tảng đá hiểm trở, anh không hề sợ hãi, ngược lại, anh càng phấn khích hơn: “rẽ khúc quanh sông, thấy sóng tung bọt trắng xóa cả một chân trời đá … và một mình anh chiến đấu “như một chiến binh tài ba sau ba trận đá với lòng dũng cảm và tài trí, người lái đò đã chiến thắng, trở về với cảnh lao động và cuộc sống bình yên:” hết thác rồi … sông lại thành bình. đêm ấy, nhà phà đốt lửa hàng đá, ống nướng … ”.

Nguyễn tuấn đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng đặc sắc, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác và tài hoa. khép lại những trang văn “sông da barquero”, tôi vẫn không khỏi choáng váng trong tâm hồn, có lẽ đó là những gì đẹp đẽ nhất mà văn học đã mang lại và khơi gợi trong tôi những cảm xúc thẩm mỹ lớn lao. Rất cảm ơn Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ dành cả cuộc đời đi tìm cái đẹp để trân trọng những giá trị bền vững của cuộc sống lao động và của dân tộc.

phân tích tác phẩm Người lái đò trên sông Đà – văn mẫu 17

Nguyễn tuấn được biết đến là một nhà văn uyên bác, tài hoa, suốt đời say mê tìm kiếm cái đẹp của cuộc đời. Anh ấy có một cơ sở cho thể loại tiểu luận. một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là tập tiểu luận “sông đà la hán”. tác phẩm tiêu biểu cho vẻ đẹp đa dạng của dòng sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình, ca ngợi người lái đò sông nước giản dị mà tuyệt vời.

Tiểu luận “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tiểu luận “Sông Đà” (1960) gồm 15 bài văn và một bài thơ ở dạng ký họa. tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của nhà văn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công chức, đồng bào các dân tộc thiểu số. thực tế xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã tạo cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận.

Có thể nói, ngoài khung cảnh Tây Bắc hùng vĩ, hùng vĩ và thơ mộng, nguyễn tuấn còn phát hiện ra những điểm đáng quý trong tâm hồn con người mà ông gọi là “vàng mười thử lửa, vàng mười. chất của tâm hồn Tây Bắc. ”

qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, cụ Trạng Trình với tấm lòng tự hào đã khắc họa nên nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình tượng con sông Đà. bạo lực nhưng đôi khi rất trữ tình. đồng thời nhà văn cũng phát hiện và ngợi ca nghệ thuật, tài năng và trí tuệ của người lao động mới là vàng mười năm đã qua thử thách của đất nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội qua hình tượng người lái đò. trong sông cho từ đó, nhà văn ca ngợi con sông Đà vừa dữ dội vừa trữ tình, núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng, con người Tây Bắc cần cù, dũng cảm, lắm tài nhiều tật. .

Người lái đò dường như lần đầu tiên xuất hiện với tư cách là một công nhân dày dạn kinh nghiệm, có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hướng. thêm vào đó là sự dũng cảm, gan dạ, khéo léo, nhanh nhẹn và quyết đoán. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đặt nhân vật của mình vào tình huống cắt cổ mà tất cả những phẩm chất đó được bộc lộ. và nếu không phải trả giá bằng mạng sống của mình. có lẽ người viết đã gọi đây là cuộc chiến gian khổ của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trong trận thủy chiến ở mặt trận sông Đà. cũng là thác sinh tử, diễn ra nhiều lần, cũng nhiều sóng như một trận đánh mà dường như đối thủ đã lộ rõ ​​bộ mặt và dã tâm của kẻ thù số một.

Dường như “những hòn đá ở đây hàng nghìn năm vẫn mai phục bên sông, dường như mỗi khi có con thuyền xuất hiện ở quảng trường vắng vẻ nhưng ồn ào này”, bạn có thể thấy rằng mỗi khi con thuyền nhìn ra đường. dòng sông quay ngoắt, lập tức có mấy hòn đảo nhảy lên chộp lấy thuyền. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã quá đắt khi sử dụng ngôn ngữ của họ khi miêu tả những phiến đá. anh ta miêu tả mặt của từng viên đá có vẻ như ngỗ ngược, từng viên đá nhăn nheo và méo mó hơn so với mặt nước ở đây… ” dòng sông giao công việc được giao cho mỗi hòn đảo. và khi tôi đến đây, tôi thấy rằng đây là hình thành đá ở sông. đá chẻ thành ba hàng, chắn ngang sông, đòi ăn thịt con thuyền cho đến chết. và thực tế là một con tàu đơn độc không còn biết phải rút lui ở đâu để tránh giao tranh với đội hình chiến đấu phía trước.

Có vẻ như trong trận đá đó, người lái thuyền đã dùng hai tay giữ mái chèo để tránh cho mái chèo văng ra khỏi sóng trận và bắn thẳng vào mình. khi dòng sông tung đòn hiểm nhất đó là dùng sức nước cuốn lên thuyền như võ sĩ túm eo quay lưng giữa cơn bão, ông lão vẫn không hề nao núng, nhưng dường như ông đã vẫn bình tĩnh, đầy gian xảo ngay lúc đó, người lái đò bỗng chốc trở thành người chỉ huy, chèo lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. và ngay cả khi bị thương người lái đò vẫn cố nén vết thương, chân vẫn nắm chặt bánh lái, mặt méo xệch như sóng biển, rồi dùng đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm. . nhưng khi người chèo thuyền “hoàn thành quá trình hình thành microlithic đầu tiên”, mặc dù mệt mỏi, người lái thuyền ngay lập tức “phá rào thứ hai”. ông lái đò già dường như cũng đã nắm chắc thủ pháp của thần sông, thần đá. và cho đến vòng 3, ít cửa hơn, bên phải và bên trái đều là kênh chết, nhưng có vẻ như bây giờ lái xe đã chủ động “tấn công” – chỉ cần ném thẳng thuyền, đấm cửa giữa đó. con thuyền đã đi qua cánh cổng đá mở và đóng. đung đưa cửa ngoài, rồi cửa trong, rồi cửa trong cùng, con thuyền giống như một mũi tên tre nhanh chóng xuyên qua làn hơi nước, tự động xuyên thấu và trực tiếp. và dường như trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ còn vài mái chèo, chiếc thuyền không quay đầu lại, dòng sông như mang trong mình sức mạnh siêu nhiên hung dữ của loài thủy quái. tuy nhiên, có thể nói rằng cuối cùng Người lái đò vẫn thắng, khiến các tướng sĩ tái mặt vì phải thua bằng một chiếc thuyền nhỏ.

Người lái đò xuất hiện trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm việc nhẹ nhàng và giản dị, qua công việc của mình, anh ta đã đánh bại dòng sông ác quỷ, trở nên vĩ đại, hào hùng, người lái đò trở thành đại diện cho con người. những người lao động chân chính đã chinh phục được thiên nhiên nhờ ý chí ngoan cường, bền bỉ và quyết tâm chinh phục sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. đó chính là yếu tố tạo nên phẩm chất thứ mười của con người Tây Bắc.

điểm nổi bật và độc đáo của người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Dường như khái niệm tài năng và nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn tuấn mang một nghĩa rộng, không chỉ nhà thơ, nhà văn mà những người không liên quan nhiều đến nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu tác phẩm của họ dường như đã đạt đến trình độ. của sự tinh tế và cao siêu. Trong Người lái đò sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là Người lái đò tài hoa. nghệ thuật đặc biệt được sử dụng ở đây là hiểu và nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó thì mới có tự do.

luật sông đà là luật khắc nghiệt. nếu thiếu một chút bình tĩnh, thiếu chính xác hoặc sơ suất, quá mức sẽ phải trả giá bằng mạng sống. nhưng ngay cả những đoạn sông Đà không có thác, người ta cũng dễ ngủ quên ngay. tuy nhiên, nó nguy hiểm ở bất cứ đâu. Ông lái đò già như thuộc sông, thuộc quy luật của những tảng đá ở con kênh hiểm trở này, và nắm chắc thủ pháp của thần sông, thần đá. có lẽ vì vậy mà trong trận chiến, ông vẫn thông minh và điềm tĩnh như một nhà chỉ huy quân sự tài ba. dường như tất cả các giác quan của ông già đều hoạt động một cách chính xác và nhịp nhàng. trận chiến qua đi, anh luôn bình tĩnh và thu mình như chưa từng vượt thác: những con sóng lăn tăn tan vào kí ức của anh. dòng sông êm đềm trở lại. và đêm đó, nhà kho đốt lửa trong hang, rang ống cơm, nói chuyện cá anh vũ, cá đuối, hang mùa khô với những tiếng động lớn như mìn nổ tràn ruộng lúa. cũng không thấy ai bàn thêm về chiến công vừa rồi trên đất nước với đầy đủ các tướng lĩnh hung hãn. Cũng như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén một tác phẩm vang bóng một thời, không mấy ai tự khen mình đã nỗ lực, chính nhà văn Nguyễn Tuân cũng nhận xét “cuộc đời của ông là phải chiến đấu với con sông Đà hung dữ từng ngày, đưa cuộc sống ra khỏi thác nước mỗi ngày, khiến nó không có gì là thú vị và đáng nhớ. ” Đó là lý do tại sao họ nghĩ như vậy khi ngừng chèo. Có thể dễ thấy anh hùng lái đò, nhưng nhìn người lái đò tài ba thì chỉ có Nguyễn tuân theo.

Bài văn “Người lái đò sông Đà” cũng là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Công trình độc đáo này không chỉ tôn vinh vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà nó còn tôn vinh vẻ đẹp bình dị, anh hùng và tài hoa của những con người cần cù lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện được tình yêu đất nước, lòng tự hào, nhiệt huyết và tình cảm chân thành gắn bó với làng quê Việt Nam.

phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà – văn mẫu 18

nguyen tuan là một biên tập viên tuyệt vời. Sự nghiệp sáng tạo của ông rất phong phú và ông đã tạo được sự cân bằng giữa hai giai đoạn lịch sử trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Qua dấu mốc đó, tư duy và phong cách của ông đương nhiên có những thay đổi nhất định. nhưng dù có thay đổi như thế nào thì nó vẫn trên một nền tảng thống nhất của một cái tôi rất ngoan ngoãn: tài hoa, uyên bác, ham học hỏi, cả đời say mê tìm kiếm và miêu tả cái đẹp. Người lái đò sông Đà trong bài tùy bút trên sông Đà – một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn tuấn sau cách mạng tháng Tám.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, nhà văn Nguyễn tuấn càng ngày càng giàu chí khí. điều này có nghĩa là các tài liệu rất phong phú và lộn xộn, đặc biệt là các tài liệu về địa lý, lịch sử và dân tộc học. nhưng dưới ngòi bút của cụ Nguyễn họ tuân theo, những văn bản đó trở thành những hình ảnh sống động, những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. do đó, bài văn không có một nhân vật duy nhất mà có hai nhân vật: người lái đò và sông đà.

nguyễn tuấn đã tạo ra con sông đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác mà là một con người năng động, tính cách, tâm trạng, khá phức tạp. anh ta có hai đặc điểm tính cách đối lập về cơ bản, như tác giả nói, “bạo lực và trữ tình.” khi anh ta trở nên bạo lực, anh ta dường như là “kẻ thù số một” của con người. nhưng khi trữ tình thì đầy chất thơ, rất đỗi ngọt ngào, gần gũi, như một người tình, một “cố nhân” vui gặp lại, lòng mong nhớ nhung nhớ.

Hai nét tính cách ấy đã trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật cho Nguyễn Tuân, một nhà văn luôn khao khát những tâm tư, tình cảm mới mẻ, say mê, nồng nàn. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân viết rất hay về đèo cao, dốc đứng, về gió, về bão, về thác dữ dội, nếu không muốn nói là về vẻ đẹp kỳ diệu của cảnh vật, của con người, của hòn ngọc trong nền. bầu trời trong vắt trên đỉnh núi mèo, hoa thủy tiên nở vào đêm giao thừa, vẻ đẹp tỏa ra trên ngôi nhà dài, sườn dốc của đồng quê, … vượt qua tính cách hung bạo của dòng sông Đà. Từ xa xưa, ông cha ta đã miêu tả bằng biểu tượng kính – tranh kính: “núi cao sông dài – muôn năm thù hận thù hận”.

Nguyễn tuấn không thể sử dụng hình thức huyền thoại như vậy, ông phải tạo ra những hình ảnh chân thực về cảnh sông Đà hùng vĩ, dữ dội khiến người đọc rùng mình như đang đối diện với cảnh thật. nó đã đưa ra nhiều ngôn từ đắt giá, nhiều phương pháp diễn đạt mạnh mẽ để quyết định một cuộc thi với thiên nhiên.

chẳng hạn, ông đã dùng biện pháp liên tưởng, so sánh để miêu tả đoạn sông bị cắt giữa hai vách núi cao “ngồi trong khoang thuyền đằng xa ấy, dù mùa hè cũng thấy lạnh mà lòng thấy ấm. . “bản thân tôi.” giống như đứng trên vỉa hè một con hẻm và nhìn ra cửa sổ của một căn hộ vừa tắt đèn điện “và ở đây, anh ta cũng mô tả sức hút khủng khiếp” như một cái hố bê tông ném xuống sông để chuẩn bị. nền móng cầu. nước ở đây thở và nghe như thể một cửa xả lũ đang chết đuối. bề nổi thì hút xoáy dưới đáy, chúng cũng đi lượn quanh đàn quạ […] chúng đi qua nhiều bè gỗ vô tình bị hất tung giếng rồi đột ngột biến mất, chết chìm và chui xuống lòng sông cho đến mười. phút sau xác tan ở hạ lưu sông ”. sử dụng các kỹ thuật văn học như vậy, anh vẫn không nghĩ là đủ. Nguyễn Tuân cũng tiếp tục sử dụng những kỹ xảo đặc trưng của điện ảnh. hãy tưởng tượng một người quay phim điên rồ, ngồi trên một chiếc thuyền thúng và để anh ta hút đáy ra khỏi cái khe hút kinh khủng đó, cho cả người và máy quay: “con thuyền đang quay, những thước phim màu cũng đang quay. Những bức tường được xây hoàn toàn bằng màu xanh lá cây nước sông và một khối thủy tinh dày, tấm kính xanh dường như sắp vỡ ra, va chạm vào máy quay, cả người quay phim và người xem Chà, thôi thúc người xem biên niên sử thấy sởn cả gai ốc. đứng lên và vịn vào một chiếc ghế như thể họ đang nắm lấy mép lá rừng thả vào một cốc nước khổng lồ.

Trí tưởng tượng của nguyenobedece đã thực sự được nâng lên một cấp độ kỳ lạ và kỳ lạ do động lực ngoan cố của anh ấy: không chịu lùi bước trước sự sáng tạo.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà thực sự trở thành một con thủy quái khổng lồ. tiếng gầm của anh ta qua những thác nước dữ dội, từ xa, nghe thật đáng sợ: “tiếng nước càng lúc càng lớn. Giọng khiêu khích và giễu cợt.” đến gần, giọng ông bỗng “gầm lên như ngàn con trâu mộng làm tổ giữa rừng trúc bùng cháy, phá rừng cháy, rừng cháy, gầm theo đàn trâu đang cháy.

Loài thủy quái không chỉ hung dữ. anh ấy cũng rất tinh ranh. trong cuộc chiến với người lái đò, hắn đã bày ra đủ những chiêu trò quỷ quyệt để đánh lừa mọi người vào cuộc chiến đã chuẩn bị sẵn và dẫn họ đến cửa tử. ở khúc quanh sông tiến công mai phục. nếu bạn bị dụ vào vực sâu, bạn sẽ đánh bại sự trở lại của tên vu côn. khi giáp công, anh sử dụng đủ loại đòn hiểm: âm dương, đá trái, vung gối, túm eo, xoay nửa người, bóp háng,… vừa đấm vừa thét trời đất để áp đảo đối phương. tinh thần, …

nhưng sau khi vượt qua con thác dữ, dòng sông trở nên rất êm đềm và hiền hòa. Nguyễn tuấn gọi đây là nhân vật trữ tình sông Đà. lúc này sông đà như nàng tiên giáng trần. “chảy như một áng tóc trữ tình, tóc và chân tóc như ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, muôn hoa khoe sắc”. thật đẹp biết bao khi thấy mây xuân bay trên sông đà. nước sông đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân xanh như ngọc, mùa thu đỏ như da mặt người say… cảm hứng dạt dào, người biên tập cũng muốn trở thành nhà thơ. ông thấy rằng “càng ngày lòng càng muốn làm thơ sang sông”. từ nét chạm khắc mạnh mẽ, táo bạo, đến màu sắc gây ấn tượng dữ dội, nguyễn tuân theo những đường nét uyển chuyển, uyển chuyển và thơ mộng. quả thật, khi đạt đến sức gợi của ngôn ngữ thơ, tức là anh đã nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: đó là cái mà anh gọi là “màu nắng tháng ba” – anh hiện ra thấp thoáng trên sóng. của dòng sông da; đó là cảm giác hoang mang trôi nước như mong mỏi những thác nước xa xôi còn sót lại nơi thượng nguồn Tây Bắc. Nỗi nhớ mơ hồ của thi sĩ tan da gửi “một người tình không quen biết” – “khúc sông bồng bềnh của sông nước da diết”. – rất nhiều cảnh, rất nhiều tình yêu. “

Nhìn chung, qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, thơ cảnh sông Đà thường giàu màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông nơi đây êm đềm. Dường như lẽ sống của lý trí và lẽ sống ở thế gian.” khúc sông này êm đềm thuyền tôi đi ngang qua bãi ngô mọc vài lá ngô non đầu mùa nhưng không một bóng người, cỏ đồi đang sinh kén đàn hươu cúi đầu ăn chồi cỏ ướt đẫm. sương đêm, bờ sông hoang vu như tiền sử, bến sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa, chuyến tàu đầu tiên trên tuyến đường sắt phú thọ – yên bái – lai châu chú nai non ngẩng cao đầu mượt mà khỏi đám cỏ sương mù và nhìn chằm chằm vào tôi đang trôi theo một vòng cung, con nai dỏng tai lên và nhìn chằm chằm vào tôi không chớp mắt nhưng như đang hỏi tôi bằng giọng của một con vật ngoan: “là ripped mr. sông đà, em vừa nghe thấy tiếng còi sương? “có thể gọi là dòng văn xuôi của người biên tập.

Trên nền sông vừa “hung bạo” vừa “lãng mạn” hiện lên hình ảnh người lái đò trên sông Đà. thực ra, người lái xe này xuất hiện chủ yếu trong cuộc chiến với một con thác dữ, tức là bên dòng sông Đà hung bạo. nếu tác giả đặt nó vào một khung cảnh khác, một khung cảnh nên thơ, trữ tình thì chắc chắn nó sẽ chuyển thành một loại truyện cổ tích lãng mạn. nhưng ở đây, đối mặt với dòng sông hung dữ, với một loại thủy quái, người lái đò nhất thiết phải trở thành một anh hùng kháng chiến, một nhân vật sử thi trong sử thi trèo ghềnh vượt thác.

phân tích tác phẩm Người lái đò trên sông Đà – văn mẫu 19

Tây Bắc là vùng đất có nhiều nhân duyên với nhiều nhà văn, nhà thơ. mỗi nhà văn, nhà thơ đều tái hiện và thể hiện hình ảnh Tây Bắc dưới nhiều góc độ khác nhau. trong đó, Nguyễn tuấn đã khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, ông nhận ra “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. bài văn “Người lái đò sông nước” là món quà ý nghĩa mà ông trời ban tặng cho mảnh đất Tây Bắc.

Nhờ tài năng của nguyễn tuấn, con sông Đà không còn như một con sông vô tri vô giác mà trở thành một sinh thể động, một nhân vật có tính cách, tâm trạng và vẻ đẹp của tạo vật. hóa học.

trước hết, sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo và đáng sợ. những tảng đá bên bờ sông “xây thành”, “có nơi mỏm đá khép lại lòng sông cho như hẻm núi”, “ngồi đò cho xa ấy, trời hè mà rét”. đôi bờ sông Đà hùng vĩ, hiểm trở, lòng sông hẹp dẫn nước chảy xiết. những thác ghềnh và những con sóng hiện lên với sự dữ dội, hung hãn “nước chống băng, đá chống sóng, sóng chống gió”. tác giả sử dụng những câu văn có nhịp điệu trùng lặp ngắn gọn để miêu tả sự dữ dội của thác ghềnh. nàng như một mụ phù thủy độc ác “đói khát quanh năm luôn đòi nợ của bất kỳ người lái đò nào trong thời kỳ đó”. kinh hoàng hơn là những cửa hút nước của sông Đà. các cửa hút nước này có xoáy rất sâu và lớn như một hố bê tông được thả xuống sông để làm chân cầu “đáy xoay”. nó là một nơi nguy hiểm và một nơi chết chóc. một số thuyền bị bắn rơi, “thuyền chui xuống đất đến mười phút sau mới thấy xác dưới đáy sông”. tác giả đã sử dụng truyền thuyết trong phim để giúp người đọc hiểu rõ hơn về điều gì thu hút nước.

sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua thác nước và những di tích về trận chiến Đà giang. thác ở đây thật khủng khiếp “gầm thét như tiếng trâu ngàn làm tổ giữa rừng trúc, rừng tre đang cháy…. da diết ”. những câu văn của nguyễn tuấn đã tác động mạnh đến thị giác và thính giác của người đọc, miêu tả sự dữ dội, ghê rợn của thác nước sông đà. như một con thủy quái hung dữ và khát máu, dùng mọi thủ đoạn, dùng mọi đòn đánh để hạ gục người lái đò qua chân dung của Nguyễn tuấn, độc giả có cơ hội chứng kiến ​​sự hung bạo và nổi loạn của mẹ thiên nhiên.

trái với vẻ hung bạo, dữ dội, có những lúc dòng sông như thật trữ tình. con quái vật biển đó đã tán tỉnh cô và từ bỏ sự ghê tởm của cô để trở thành một thiếu nữ công bằng. đặc điểm trữ tình của sông đà được thể hiện qua hình thức của dòng sông. dòng sông hiền hòa cho “từng nét vẽ trải dài trên đại dương đá và mây.” con sông đà được so sánh với nguyễn tuân với mái tóc thướt tha của người con gái đang tuổi thanh xuân. “sông đà chảy dài, chảy dài … ruộng xuân rực lửa.” Đó là vẻ đẹp tràn đầy sức sống và nét thơ mộng, hòa quyện giữa mây trời, núi rừng. Màu sắc của sông thay đổi theo mùa và mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.

Vẻ đẹp của sông đà còn được tô điểm bởi cảnh sông nước, cảnh sông nước. phong cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật thơ mộng. “cảnh sông nước nơi đây êm đềm”, “bãi ngô đồng …”, thật là một bức tranh đầy sức sống, làm say đắm lòng người. bến bờ hoang vu… câu chuyện cổ tích xưa. ” Hình ảnh so sánh độc đáo và tài hoa của Nguyễn Tuân đã đưa người đọc trở về thời kỳ êm đềm của sông Đà cách đây hàng nghìn năm.

Tóm lại, nguyễn tuấn đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà với hai tính cách: hung bạo đáng sợ và đẹp trữ tình. Nhà văn đã cho chúng ta thấy tài năng trong trí tưởng tượng phong phú, trong những liên tưởng táo bạo và bất ngờ, những so sánh mang đậm dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tuân trên những trang văn.

phân tích tác phẩm Người lái đò trên sông Đà – văn mẫu 20

khi tiếp cận các tác phẩm của nguyễn tuân mỗi người sẽ tìm thấy cho mình những cảm xúc riêng, đó là sự ngưỡng mộ, khám phá và mong đợi. Dường như dưới bàn tay tài hoa của một người nghệ sĩ, anh đã khiến người đọc cảm thấy đắm chìm, như được sống những giây phút thực sự với cảnh sắc thiên nhiên nơi đó. đây là tài năng sử dụng ngôn ngữ của anh ấy. đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông đà” tài năng ấy càng được bộc lộ rõ ​​nét hơn.

Cả cuộc đời của nguyễn tuấn có thể tóm gọn trong từ “độc nhất vô nhị”. bản thân anh ta là một người độc đáo và khác thường, vì vậy các đối tượng nghệ thuật của anh ta cũng phải độc đáo. Dưới ngòi bút sung mãn của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy được hình ảnh con sông Đà dữ dội nhưng cũng rất trữ tình. hơn hết là vẻ đẹp nổi bật của những con người lao động chinh phục và chế ngự thiên nhiên.

trước hết, nét độc đáo của sông Đà được nguyễn tuân khai thác ở hai phương diện: hung bạo và trữ tình. tính chất hung bạo là cao trào đầu tiên nguyễn tuấn nói đến. vẻ đẹp dữ dội và tàn bạo của dòng sông nơi thác dốc như một thế lực vô hình đã lôi kéo anh. đây cũng là lãnh địa giúp bạn có cơ hội thỏa sức thể hiện trí tưởng tượng của mình. anh vô cùng phấn khích khi sắp đến con thác cuối cùng, khi sắp được tận mắt chứng kiến ​​sự hung bạo của dòng sông Đà: “… còn một quãng đường dài nữa mới xuống được ngọn thác phía dưới. nhưng tôi thấy tiếng nước đến gần rồi lại rơi xuống. tiếng thác như than thở, rồi van xin, rồi chế nhạo, giễu cợt. rồi gầm lên như ngàn con trâu mộng giữa rừng trúc, rừng trúc bùng cháy phá rừng mưa, lửa rừng gầm thét với đàn trâu đen hừng hực lửa. đến thác nước “. Qua đoạn văn, có thể thấy giọng điệu hưng phấn, sảng khoái và giác quan vô cùng nhạy bén của Nguyễn tuấn. Ông đã nắm bắt mọi chuyển động của thiên nhiên để từ xa cảm nhận vẻ đẹp hung bạo của nó. Đặc biệt, hình ảnh so sánh thác nước như con trâu. quằn quại và gầm thét cũng vô cùng độc đáo và miêu tả âm thanh của thác nước chảy ào ào, vừa thú vị, vừa phấn khích nhưng cũng đầy lo lắng và sợ hãi.

và trong thác nước, lông của anh ấy đã thực sự lộ ra. nhiều cảm xúc dồn vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của dòng sông Đà. những hàng đá xếp nối tiếp nhau, lôi kéo con thuyền đến nuốt chửng: “Hàng đá vừa xếp xong thì con thuyền bị lật. kết hợp với đá, nước thác reo vui như thanh cho đá, đá sừng sững, hùng vĩ. từng hòn đảo đó như nghiêng nghiêng, y như rằng anh đang yêu cầu con tàu nói tên mình trước khi chiến đấu. đảo khác lùi lại một chút và thách tàu tốt tiến lên ”. Với sự hợp pháp hóa nhân cách hóa và trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn, những viên đá vô tri vô giác đều có những khuôn mặt, tâm trạng và bản sắc riêng. nhưng nhìn chung, bạn có thể thấy ở họ sự kiêu ngạo, tự phụ và tự cao tự đại, đàn áp người khác, đặc biệt là dựa vào sự nguy hiểm của tướng quân.

Nhưng sự giả định của họ không tồn tại được lâu, và dưới sự uy nghiêm, kinh nghiệm của người lái đò trên sông đã nhanh chóng vượt qua họ. trong đoạn văn này bút pháp lãng mạn của ông càng được phát huy. dòng sông trơ ​​trọi, hiện ra một mảng đá ba vòng, với những thủ đoạn khác nhau cũng không thể ngăn cản được người lái đò già. anh cưỡi trên từng con sóng, từng con sóng nước, băng qua: “Dòng thác hùm beo đang tàn sát dữ dội ở sông Đà. Nắm chặt bờm sóng đi đúng hướng, người lái đò lấy dây cương, nắm chắc đúng dòng nước, lao thẳng vào cửa sinh, lái chéo về phía cửa đá. 4 năm sau, các thủy thủ ở cửa khẩu phía tả ngạn của liên bang Xô Viết đã đến bắt chiếc thuyền và kéo nó về phía nhóm người tử nạn. Người lái đò vẫn nhớ mặt những người này, một số né được họ chèo lên, một số khác thì siết chặt họ và chia đôi để mở đường. Những con sóng chết chóc đã bỏ lại con sâu con thuyền. “Những câu còn lại miêu tả sự sảng khoái, sung sướng của người lái đò mới khi con người đã vươn lên thống trị thiên nhiên. Đồng thời, những nét tả thực, sinh động ấy cũng cho thấy người lái đò tài hoa. , kinh nghiệm dày dặn và bản lĩnh là những yếu tố giúp người lái đò vượt qua mọi tử thần để đến đích: một cửa ải sinh thành.

Không chỉ có niềm đam mê, yêu thích đặc biệt đối với những nơi hiểm trở mà đôi mắt tinh tường của Nguyễn tuấn còn chứa chan tình yêu, khám phá vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà. vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà đối lập với sự dữ dội của nó. Nếu như dòng sông bên trên dữ dội, hung hãn thì đến đây thơ mộng, yên bình. đoạn văn mang đậm màu sắc văn học nghệ thuật.

dưới ngòi bút của nguyễn tuấn hay qua cảnh tả thực của sông Đà không ai có thể biết được, nhưng đều toát lên vẻ đẹp trữ tình thơ mộng. sông đà không còn hoang dại mà như một cô gái miền núi Tây Bắc vô cùng thanh tú, nữ tính, phảng phất vài nét mờ ảo: “sông đà chảy dài như một áng tóc trữ tình, những ngọn tóc bồng bềnh ẩn hiện trong mây trời tây bắc, hoa nở tháng hai và khói mèo đốt cánh đồng xuân Đọc câu văn ta có cảm giác như đang đọc một bài thơ của Nguyễn tuấn chất trữ tình trong cảnh, đầy đủ từng chữ trong một đoạn văn, không quá dài. , nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông, nguyễn tuấn đã phải thốt lên “ồ” hai lần, vì được chiêm ngưỡng cảnh đẹp, vì được gặp lại một người bạn đã xa nhiều ngày, thật là vui mừng, hồi hộp. , và hạnh phúc Sông Đà là cố nhân của Nguyễn Tuân Chính tâm trạng vui sướng ấy đã khiến ông có một đoạn văn đầy xúc động: “Đôi bờ sông Đà, bờ sông Đà, chuồn chuồn, bướm lượn trên sông Đà . wow, nhìn dòng sông, vui như nhìn nắng tan sau cơn mưa lớn, vui như nhặt được giấc mơ tan vỡ. đi rừng lâu rồi bắt gặp ở sông đà, đúng vậy, êm đềm ấm áp như gặp lại bạn cũ. ”không chỉ anh cảm thấy sông đà là bạn, là bạn cũ gặp lại. lại sau bao ngày xa cách mà còn cảm nhận được cái không khí cổ kính như thuở hoang sơ bên bờ sông Đà, thật ra có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của sông Đà trong tất cả những chiều không gian ấy. và thời gian.

với sáng tác sông Đà nói chung và người lái đò sông Đà nói riêng, chúng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa với ngòi bút dồi dào. nhưng bên cạnh đó, bạn cũng thấy được tấm lòng của một con người yêu nước, dành cả cuộc đời mình để khám phá và tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của những con người cần cù lao động trong cuộc sống mới.

Phân tích tác phẩm Người lái đò trên sông Đà – văn mẫu 21

Nguyễn tuấn, được mệnh danh là “người luôn tìm kiếm cái đẹp và chân lý ở đời”, không chỉ là một trí thức yêu nước, mà còn là một nhà văn tài hoa, uyên bác. ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn, trong đó nổi bật nhất là tập tiểu luận “Người lái đò sông đà” (1960). tác phẩm là kết quả của chuyến đi lên Tây Bắc tìm vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám.

bài văn “Người lái đò sông đà” lấy người lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng thực chất là mượn hình ảnh người lái đò để gợi tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ dội và thơ mộng của dòng sông. mọi thứ hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn tuấn vừa chân thực vừa sống động.

trước hết, nguyễn tuấn tiêu biểu cho vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hoá làm người, nó có một tâm hồn độc đáo, có nguồn gốc, xuất thân rõ ràng, vừa hung bạo vừa trữ tình. sông giới thiệu:

“ta đông sông, đà giang độc bắc”

có nghĩa là tất cả các sông đều chảy theo hướng đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc. đây là một lời giới thiệu ấn tượng, gây ấn tượng trực tiếp trong mắt người đọc, những người đi qua với tư cách là một cá nhân rất xúc động. Sông Đà sinh ra ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam. anh ấy có hai nhân cách. thứ nhất là tính cách hung bạo, trữ tình được thể hiện ở ngoại hình: nguyễn tuấn tả cảnh bãi đá bên bờ sông “đá xây thành đáy sông hẹp, có khi con nai còn nhảy hết bên này sang bên kia. “. mặt khác, nhìn từ dưới lên giống như nhìn một tòa nhà cao tầng vừa mới tắt đèn. nhất là ở đoạn ghềnh dài hàng nghìn cây số, “nước đập đá, đá đánh sóng, sóng đánh, gió thổi quanh năm như đòi nợ hầu bao ai qua cho. khoảng cách đó. . nó nguy hiểm, đáng sợ. không chỉ vậy, cửa hút nước giống như một hố bê tông, nước thở nghe như cống bị tắc, hãy tưởng tượng một người quay phim táo bạo ngồi trên chiếc thuyền thúng và cầm máy quay chìm vào dòng nước xoáy đó. hoặc xuống thác với những âm thanh dữ dội như xoáy, càng lúc càng nguy hiểm rình rập chờ con mồi ”tiếng nước“ gào thét ”,“ tiếng thác như ai oán… van xin… khiêu khích. .. “, giọng chế nhạo. và nó chế nhạo … nó rống lên như tiếng trâu ngàn … nước như một đội quân dũng mãnh và dữ dội. khiếp hơn tất cả những hình ảnh đá trong tim như bày ra trận địa 3 mầm. mảng microlithic đầu tiên: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh nằm lười biếng bên tả ngạn” cho đến mảng microlithic thứ hai, có thêm nhiều cửa tử để lừa tàu. , và cổng sinh được bố trí ở hữu ngạn và vi thứ ba ở cả bên trái và bên phải đều là dòng chết. Dòng chảy của sự sống trong giai đoạn thứ ba này nằm ngay giữa các hậu vệ s … cách bố trí của quân đội chỉ tuân theo một quy luật nhất định để giữ cho các ứng cử viên mạnh không thể chèo về đích. họ giống như những tuyển thủ chuyên nghiệp trên sân lao vào bảo vệ khung thành, không cho đối phương hay kẻ ngoại đạo này lẻn vào khung thành. Với lối viết tài hoa, uyên bác sâu rộng, Nguyễn Tuân đã viết câu văn theo lối móc xích, cấu trúc câu giống nhau, sử dụng xen kẽ các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh rõ ràng để hoàn thành công việc. nếu muốn trở thành vua của toàn thế giới. con sông hung dữ, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.

Đối lập với vẻ dữ dội ấy, sông Đà còn thể hiện chất trữ tình đằm thắm dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn tuấn. đi từ thượng nguồn đến hạ nguồn, chúng ta đều bắt gặp một hình thể rất thơ mộng của dòng sông như một thiếu nữ tuổi đôi mươi duyên dáng, trẻ trung, duyên dáng: “chảy dài như một áng tóc trữ tình”, “dòng sông”. da diết như mun tóc dài ngàn hàng vạn bước. Màu nước sông đà cũng thay đổi theo mùa, rất đẹp và hấp dẫn, mùa xuân thì suối xanh ngọc bích, mùa thu nước sông đà đỏ như da mặt người bầm vì rượu. Sự chuyển màu tạo cho sông Đà một vẻ đẹp huyền bí và quý phái. nhà văn cũng miêu tả hai bờ sông Đà cũng mát mẻ không kém. “bờ sông hoang vu như bờ tiền sử”. con sông đà, con sông đã chứng kiến ​​bao thăng trầm của lịch sử, là chứng nhân lớn cho lịch sử cũng như một dòng sông đẹp và thơ mộng. dòng sông ấy gợi nhiều cảm xúc trong lòng người viết, như một “cố nhân”.

Bằng tài năng của mình, Nguyễn tuấn dẫn người đọc khám phá một dòng sông nhiều cung bậc, có lúc dữ dội, có lúc trữ tình. Con sông ấy dưới ngòi bút tài hoa của ông được coi là một khám phá vĩ đại, một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng cho Tây Bắc.

Song song với hình ảnh con sông Đà là hình ảnh người lái đò trên sông Đà, một người lái đò tài hoa với lòng dũng cảm vẹn toàn. Nguyễn Tuân đã miêu tả rất hay về ngoại hình của mình: “tay bủn rủn như que củi, chân co quắp”. Anh là người vượt sông, là người từng trải, anh lái đò mười mấy năm liền. Anh và sông đà gắn bó mật thiết, như tri kỷ. Với kinh nghiệm chinh chiến trên dòng sông bao năm ấy, anh nắm chắc từng con suối, từng con thác và đặc biệt là nắm chắc quy luật “thần sông, thần đá” trên sông Đà. vì đã biết tường tận và tường tận về con sông đó, nên anh thích đi qua thác và đối mặt với dòng sông đó. Chỉ với một vài nét vẽ đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một người lái đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên.

Vẻ đẹp của người lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần vượt thác. tờ rơi hoa mỹ ấy khiến người đọc thêm chút băn khoăn về tài năng và lòng dũng cảm đối mặt với thử thách. Trên dòng sông hùng vĩ hiểm trở ấy, người lái đò hiện lên với tư thế kiêu hãnh của một dũng tướng chỉ huy trận mạc. ông ra lệnh cho con thuyền của mình lướt về đích, vượt qua các chướng ngại vật với phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. ở lần bao vây đầu tiên, cô ấy cầm mái chèo bằng cả hai tay để chúng không bị văng ra khỏi làn sóng chiến đấu và bắn thẳng vào anh ta. chân anh vẫn nắm chặt lấy thân cây. trong vòng vây thứ hai, không kịp nghỉ ngơi, anh phải phá vòng vây thứ hai và thay đổi chiến thuật. Anh cưỡi ngựa đến thác sông đà, nắm lấy bờm sóng, lấy dây cương giữ đúng dòng nước rồi nhanh chóng vào cửa sinh. và ở hiệp cuối cùng, anh đã phóng thẳng con thuyền, phá vỡ cổng giữa. con thuyền giống như một mũi tên tre lướt nhanh qua làn hơi nước và có thể tự động bẻ lái và lướt đi. vượt cạn thành công. Dù có lúc gặp khó khăn, tổn thương nhưng anh vẫn bình tĩnh, can đảm để cuối cùng nếm trái ngọt: “Thắp lửa trong hang, chuyện cá anh vũ”. trận chiến khốc liệt đã kết thúc trong thắng lợi vẻ vang.

Qua đây ta thấy ông lái đò rất am hiểu thủ pháp của thần sông, thần đá, đó là một hình tượng nhân vật mới mà nguyễn tuấn đang tìm kiếm: chân dung người thợ vừa mới xuất hiện. . ngang tàng, nhu mì, lanh lợi rất đơn giản.

Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút sâu sắc và vốn kiến ​​thức tổng hợp phong phú của mình, ông đã rất thành công khi xây dựng tính cách anh hùng, hào hoa của người lái đò và hình tượng con sông Đà với hai tính cách tương phản nhưng rất khác nhau. bài văn “Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi trong lòng người đọc và trường tồn theo thời gian.

người lái đò sông được phân tích – mẫu 22

nguyen tuan là một bậc thầy về ngôn ngữ trong văn học Việt Nam hiện đại. các tác phẩm của anh ấy được viết bằng ‘sự điên rồ’ và bằng tình yêu nhiệt thành. “Người lái đò sông đà” là một bài văn lấy cảm hứng từ một chuyến đi thực tế. hình ảnh dòng sông ban tặng được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau, gây ấn tượng riêng cho người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ giàu cảm xúc.

Trong con mắt của Nguyễn Tuân, sông Đà “có nhiều bệnh tật, có lúc thì mềm yếu, có lúc ngang nhiên, ủ rũ”. có thể nói anh ấy phải tinh tế và khéo léo mới thực hiện được sự chuyển mình của dòng sông như vậy.

sông đà dường như là một dòng sông hung bạo, nhiều thác ghềnh, chênh vênh, chảy không theo khuôn khổ. vẻ đẹp hiểm trở, hiểm trở của dòng sông đà được tác giả ví von là “đắp bờ sông, đắp thành, mặt sông nơi đó chỉ buổi trưa nắng mới ló dạng”. có những vách đá chắn lòng sông như một cái yết hầu. đứng bờ bên này, nhẹ nhàng ném hòn đá về phía bờ tường bên kia. có lần hươu và hổ nhảy từ bờ này sang bờ khác ”. với ít chi tiết, dòng sông hiện ra với nhiều phức tạp, khó khăn và nguy hiểm. tác giả đã miêu tả cảm xúc của mình khi qua khúc sông này “ngồi trên phà qua xa ấy, trời mùa hè nhưng lạnh quá, tôi như đang đứng trong ngõ hè nhìn lên khung cửa sổ trời”. tầng hai vừa mất điện. “một so sánh độc đáo, đầy táo bạo và không kém phần tinh vi. Sông đẹp mà đẹp, hùng vĩ, hoang sơ và hiểm trở.

Không dừng lại ở đó, nguyễn tuấn còn khiến người đọc kinh ngạc hơn nữa khi miêu tả sự uy nghi, dữ dội “mặt ghềnh thì hót véo von, dặm dài thì nước là đá, đá là sóng, sóng là sóng. gió, thổi với gió mạnh quanh năm, bởi vì nó luôn luôn trả một món nợ cho bất kỳ người lái thuyền nào xoay sở để trang trải quãng đường đó. ” Da River xuất hiện như một người bất chấp tất cả, anh ta có thể cướp đi sinh mạng của bất cứ ai vô tình lướt qua, táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.

khi nguyễn tuấn tả tiếng thác, người đọc có cảm giác như đang đứng trước cảnh sông nước hùng vĩ và trầm trồ trước vẻ đẹp khó cưỡng “như than thở, rồi van xin, rồi lại bằng giọng trêu chọc, khiêu khích”. tiếng thác gầm rú như tiếng đàn trâu mộng ngàn làm tổ giữa rừng trúc lao vào đốt phá rừng cháy, lửa rừng gầm thét đàn trâu hừng hực lửa. ” giọng điệu mãnh liệt, xúc động. Cảnh hùng vĩ, hiểm trở vô cùng. lối so sánh, tuyệt diệu hiếm thấy trong văn học. Nguyễn tuấn đích thực là bậc thầy ngôn ngữ, ông mang lời nói vào cuộc sống, khiến lời nói như biết nói mà rung động.

đặc biệt hơn, dòng sông tạo thành ba trận đánh, người lái thuyền muốn vượt qua dòng chảy này phải vượt qua ba trận chiến nguy hiểm và táo bạo này. với giọng kể dồn dập, tác giả lôi kéo người đọc vượt thác cùng người lái đò. trong trận chiến đầu tiên, “nước ầm ầm xung quanh họ, tràn vào và làm gãy mái chèo của họ. sóng nước như thể đoàn quân liều mạng sát nách. . . . sang ván thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng khốc liệt và gay cấn hơn. sông đà hiện ra như một con thủy quái đòi nuốt chửng người lái đò và con thuyền bất cứ lúc nào có thể. động vật sống là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả những đặc điểm nham hiểm và độc hại hơn của nó.

Tuy nhiên, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, hiểm trở mà dòng sông ban tặng còn mang vẻ đẹp nên thơ, trữ tình. qua ngòi bút tinh tế của nguyễn tuấn, “dòng sông chảy như một áng tóc trữ tình, tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai nở hoa và cuồn cuộn trong khói mèo đốt cánh đồng xuân. tài hoa mà lại kiệm lời, một hình ảnh đẹp hiện lên giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở. nhất là khi tác giả miêu tả nước sông mới thật tuyệt vời và thơ mộng “mùa xuân nước sông xanh ngọc bích nhưng nước sông đà không phải là màu xanh của sông gam lo. Mùa thu, nước sông Như đỏ như da mặt người bầm dập vì rượu, màu đỏ của kẻ bất bình mỗi lúc một giận ”. những lời lẽ êm ái và đẹp đẽ đã tạo nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng như chỉ có giận dữ và hung dữ.

con sông có những lúc mênh mang buồn bã và man mác lạ lùng “bờ sông hoang sơ như bãi sông thời tiền sử. bờ sông như một câu chuyện cổ tích xưa. Thật là một vẻ đẹp mềm mại, chân thực và tươi mát.

người lái đò sông được phân tích – mẫu 23

Người lái đò sông Đà là kết quả của nhiều chuyến đi Tây Bắc của nhà văn, nổi bật nhất là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân được in trong Tuyển tập sông Đà. bản đầu tiên xuất bản năm 1960. bài này có tên là song da, đến năm 1982 tái bản ở tập 2 của tuyển tập nguyễn tuấn thì tác giả đổi tên bài thành người lái đò trên sông đà.

viết về sông đà, nguyễn tuấn có nhiều khám phá. hai đặc điểm tiêu biểu nhất của sông Đà là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ tình của dòng sông, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều kỹ thuật nghệ thuật.

Trước hết, cần nói đến nghệ thuật nhân hóa. những tảng đá ở thác sông Đà mai phục, quyết liệt bày ra những mảng đá để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám vượt thác. nước cũng vậy, chúng thở và gầm rú. nước cũng hòa với đá để tung ra những cú đánh “độc nhất vô nhị”. Nguyễn Tuân còn sử dụng phương pháp so sánh, tưởng tượng, huy động vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, địa lý, quân sự, điện ảnh, v.v. để miêu tả sông Đà.

hình tượng người lái đò sông đà là một con cờ nhưng là một nghệ sĩ trong tác phẩm của mình, đồng thời là một vị tướng dũng cảm trong trận thủy chiến thường xuyên với thác nước sông Đà. ông là một người đàn ông bình thường, tử tế phác họa: “đầu ông đã bạc… cái đầu vuông ấy đặt trên một thân hình cao ráo, rắn chắc như mun sừng”, “tay ông mềm nhũn như thân đàn ông”. sào, chân luôn khuỵu xuống… ”. anh là người dũng cảm, yêu nước, đam mê cảm giác mạnh. anh luôn bình tĩnh, hào hiệp đối mặt với khó khăn nguy hiểm. anh đã khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an toàn. khi điều hành con tàu, ông là một nghệ sĩ và một vị tướng tài ba. khi kết thúc công việc, anh ta chỉ là một người bình thường, làm một công việc bình thường là đưa đò xuôi dòng.

Đặc điểm nổi bật trong văn chính luận của Nguyễn Tuân là sự uyên bác và tài hoa. Để bàn về sông Đà, Nguyễn Tuân đã trích dẫn thơ cổ, thơ Lý Bạch, thơ Bronie-Pski (Ba Lan). ông đã sử dụng kiến ​​thức về lịch sử, địa lý, hội họa, điện ảnh, quân sự và thể thao để viết về dòng sông dữ dội và thơ mộng. ông luôn có cảm hứng đặc biệt với những hiện tượng phi thường và giật gân. Anh luôn đam mê khám phá và thưởng thức cái đẹp. vẻ đẹp dữ dội và thơ mộng của dòng sông Đà, vẻ đẹp của người lái đò bình dị mà vượt thác như một vị tướng tài ba, tài hoa đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho nguyễn tuấn. đúng là một nhà văn nhìn phong cảnh và con người bằng nghệ thuật và tài năng.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích tác phẩm người lái đò sông đà. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *