Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
241 lượt xem

Sỏi thận: Nguyên nhân, dấu hiệu và cách điều trị

Bạn đang quan tâm đến Sỏi thận: Nguyên nhân, dấu hiệu và cách điều trị phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Sỏi thận: Nguyên nhân, dấu hiệu và cách điều trị

Sỏi thận là bệnh lý thường gặp nhất của đường tiết niệu. Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, cơ thể mất nước nhiều, nên từ lâu đã được coi là một vùng dịch tễ sỏi. Khoảng 10-14% người Việt có sỏi trong thận. Tại Mỹ, khảo sát cho thấy có 7-10% người từng bị sỏi thận một lần trong đời mà không hề biết. Tỉ lệ mắc bệnh trên toàn thế giới vào khoảng 3% dân số và khác nhau giữa các quốc gia.soi than la benh ly thuong gap

Sỏi thận là gì?

Sỏi thận là bệnh sỏi đường tiết niệu thường gặp ở nam giới tuổi trung niên. Tuổi khởi phát thường là 30 đến 55 tuổi (1). Đường tiết niệu của nam giới phức tạp hơn nên sỏi thường khó tự đào thải ra ngoài như phụ nữ.

Sỏi niệu là một phân tử rắn được hình thành do sự kết tinh tự nhiên của các tinh thể vô cơ trong nước tiểu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn và nôn, tiểu ra máu và có thể gây sốt và ớn lạnh do nhiễm trùng thứ cấp. Hầu hết chúng bắt đầu hình thành ở thận, đi xuống đường của hệ tiết niệu và đào thải ra ngoài nên nhiều người gọi chúng là sỏi thận.

Khi hệ tiết niệu bắt đầu kết tủa và kết tinh sỏi, các tinh thể và sỏi nhỏ có xu hướng đào thải ra ngoài theo đường tiết niệu. Tại một bộ phận nào đó của đường tiết niệu, các tinh thể hoặc sỏi kết dính với nhau tiếp tục lắng đọng và kết tinh tạo thành những viên sỏi lớn hơn.

Tại đây, các viên sỏi sẽ lớn hơn và chặn dòng chảy của nước tiểu, khiến nước tiểu bị ứ lại và làm tắc phần giãn nở phía trên. Chính tại vị trí này đã xảy ra nhiều biến chứng như nhiễm trùng, kết tinh và hình thành các loại sỏi… phá hủy dần cấu trúc thận.

Đá cũng có thể được đặt tên hoặc phân loại theo vị trí của chúng trong hệ tiết niệu:

  • Sỏi thận là sỏi đường tiết niệu nằm trong thận, bao gồm đài hoa và đài bể thận.
  • Sỏi niệu quản: Gây ra do sỏi di chuyển từ bể thận xuống niệu quản và làm tắc nghẽn đường tiết niệu.
  • Sỏi bàng quang : 80% là do sỏi thận, niệu quản sa xuống hoặc tắc nghẽn cổ bàng quang hoặc niệu đạo
  • Sỏi niệu đạo: Các viên sỏi bị mắc kẹt tại đây khi chúng di chuyển theo đường nước tiểu từ bàng quang đến niệu đạo.
  • Các loại sỏi thận

    Sỏi tiết niệu thường được phân loại theo thành phần hóa học của chúng (2), bao gồm:

    • Sỏi canxi là loại sỏi phổ biến nhất, chiếm 80-90%, bao gồm sỏi canxi oxalat và sỏi canxi photphat. Canxi oxalat hiện diện với tỷ lệ cao ở các nước nhiệt đới như Việt Nam. Đá này rất cứng, không trong suốt, hình dạng thô ráp và có màu vàng hoặc nâu
    • Sỏi photphat là loại sỏi magie ammonium photphat thông thường, còn được gọi là sỏi truyền nhiễm, thường do nhiễm trùng đường tiết niệu lâu ngày, đặc biệt là Proteus. Đá có màu vàng. Một chút mong manh. Những viên đá này thường lớn đến mức có thể lấp đầy các đài hoa, kết quả là tạo thành đá san hô.
    • soi nhiem trung

      • Sỏi axit uric được hình thành do tăng chuyển hóa purin trong cơ thể. Nguyên nhân có thể làm tăng chuyển hóa purin như dùng nhiều thức ăn chứa nhiều chất purin (như ruột lợn, ruột bò, cá khô, nấm …), hoặc bệnh nhân bị bệnh gút, hoặc dùng thuốc hóa trị để phá những viên sỏi hình thành bởi khối u ung thư Thời gian.
      • Sỏi cystine hình thành do sự tái hấp thu cystine không chính xác của ống thận. Loại đá này tương đối hiếm ở Việt Nam. Đá cystine là loại đá nhẵn, không cản quang.
      • Dấu hiệu của bệnh sỏi thận

        Các triệu chứng của sỏi thận hoàn toàn là do biến chứng của sỏi sang hệ tiết niệu chứ không phải do sỏi tự thân. (3)

        cơn đau quặn thận

        Biểu hiện rõ ràng nhất của bệnh sỏi thận là những cơn đau dữ dội mà người ta gọi là “cơn đau quặn thận” hay “cơn đau quặn thận”.

        Đá có thể gây đau ở một vùng thắt lưng lan ra phía trước và phía dưới. Đây là một sự khởi phát rất đột ngột sau khi hoạt động gắng sức. Sau đó cường độ đau mạnh hơn. Người bệnh thường xuyên quằn quại trong cơn đau, cố gắng tìm vị trí để giảm đau nhưng không được.

        Người bệnh khi có triệu chứng này cần đến ngay các cơ sở y tế, bệnh viện để bác sĩ có biện pháp giảm cơn đau do sỏi thận gây ra, không nên tự ý làm tại nhà.

        dau o vung ho that lung

        Có thể phân biệt hai trường hợp đau do sỏi thận

        • Đau thận do tắc nghẽn đài bể thận và đài hoa: Cơn đau xuất hiện ở hố thắt lưng, dưới xương sườn 12 và tỏa ra phía trước rốn và hố chậu.
        • Đau do sỏi niệu quản: bắt nguồn từ hố thắt lưng và lan xuống niệu quản đến hố chậu sinh dục, mặt trong của đùi.
        • Các triệu chứng đi kèm với cơn đau do sỏi thận là buồn nôn, nôn và căng tức bụng do liệt ruột. Nếu bị nhiễm trùng đường tiết niệu, bệnh nhân có thể bị sốt và ớn lạnh. Có thể thấy đau thắt lưng khi bác sĩ khám. Điểm đè lên niệu quản cũng đau và có thể thấy thận to ra.

          Kích thước hoặc số lượng sỏi không liên quan đến sự xuất hiện hoặc cường độ của cơn đau quặn thận. Một số trường hợp như sỏi câm, bệnh nhân không có triệu chứng đau gì cả, hoặc đau không rõ ràng như đau thắt lưng một bên hoặc cả hai bên …

          Đái máu

          Những viên sỏi có bề mặt thô ráp, gai san hô … có thể gây tiểu ra máu khi cọ xát vào đường tiết niệu. Thông thường, sỏi thận không gây ra hiện tượng này. Tuy nhiên, hiện tượng tiểu ra máu có thể xuất hiện do người bệnh hoạt động mạnh hoặc vận động gắng sức.

          Nước tiểu bị khóa, bị tắc

          Đường tiết niệu giống như một ống dẫn nước, nơi sỏi hình thành, gây tắc nghẽn và ứ đọng. Bao gồm bí tiểu, tắc nghẽn thận, thận ứ nước. Vì những triệu chứng này tương tự như nhiều bệnh khác, điều quan trọng là phải đi khám bác sĩ có chuyên môn để phân tích nguyên nhân và chẩn đoán

          Nguyên nhân của sỏi thận

          Có nhiều nguyên nhân gây ra sỏi thận, bắt đầu từ các tinh thể lắng đọng trong hệ thống tiết niệu. Theo các chuyên gia, sỏi tiết niệu được hình thành do nước tiểu chứa quá nhiều chất hóa học, thường là canxi, axit uric, cystine… 85% sỏi được hình thành do canxi lắng đọng.

          Các lý do cụ thể được chỉ ra là:

          • Uống không đủ nước: Cơ thể không đủ nước để thận bài tiết, nước tiểu quá đặc. Nồng độ tinh thể bão hòa trong nước tiểu.
          • Chế độ ăn mặn: Đây là lý do phổ biến của người Việt Nam, những người có sở thích ăn mặn hơn. Muối, mắm là gia vị quen thuộc hàng ngày… Ăn nhiều muối (nacl), cơ thể phải tăng đào thải natri và tăng canxi ở ống thận… nên dễ hình thành sỏi canxi.
          • Chế độ ăn nhiều protein: Protein trong thức ăn làm tăng pH nước tiểu, tăng bài tiết canxi và giảm hấp thu citrat.
          • Bổ sung canxi và vitamin C không đúng cách: Chúng ta bổ sung quá nhiều vi chất dinh dưỡng khiến cơ thể bị dư thừa. Đối với vitamin c, khi chuyển hóa thành gốc tự do oxalat. Còn ion ca ++ sẽ cạnh tranh và ức chế sự hấp thu của các ion khác như ze ++, fe ++,…, khi có quá nhiều ở thận, chất này sẽ bị quá tải, và tất nhiên nguy cơ hình thành sỏi tại đây cũng tăng lên.
          • Hậu quả của các bệnh về đường tiêu hóa như viêm loét dạ dày, tiêu chảy… cũng có thể hình thành sỏi canxi oxalat. Tiêu chảy có thể dẫn đến mất nước, mất ion na + k +, v.v. Lượng nước tiểu giảm, nồng độ oxalat trong nước tiểu tăng,… dễ hình thành sỏi.
          • Yếu tố di truyền: Bệnh cũng có thể di truyền trong gia đình. Các thành viên trong nhóm máu có nguy cơ mắc bệnh cao hơn bình thường.
          • Ở những người bẩm sinh hoặc mắc phải đã có những dị dạng đường tiết niệu dẫn đến tắc nghẽn đường tiết niệu như do phì đại tuyến tiền liệt, túi thừa bàng quang, u xơ tuyến tiền liệt… Một số bệnh nhân do chấn thương lâu ngày không thể sinh hoạt. . Sự tắc nghẽn đường tiết niệu có thể dẫn đến hình thành sỏi thận trong nước tiểu tích tụ lâu ngày.
          • Nhiễm trùng đường tiết niệu. Vi khuẩn xâm nhập, gây viêm đường tiết niệu dai dẳng, sinh mủ, phân lâu ngày lắng đọng cũng là nguyên nhân dẫn đến sỏi thận
          • Béo phì: Theo một số nghiên cứu, nguy cơ béo phì cao hơn bình thường.
          • Bệnh sỏi thận có nguy hiểm không?

            Khi sỏi bị mắc kẹt trong đường tiết niệu, nó sẽ ảnh hưởng đến đường tiết niệu theo 3 giai đoạn:

            Giai đoạn kháng chiến

            Trong giai đoạn này, phần trên của đường tiết niệu có sỏi sẽ co bóp và đẩy sỏi ra ngoài. Cả niệu quản và bể thận trên đều không bị giãn. Áp suất đài hoa tăng đột ngột gây ra cơn đau quặn thận. Về mặt lâm sàng ở giai đoạn này, bệnh nhân thường có biểu hiện đau cơn bão thận điển hình.

            Giai đoạn mở rộng

            Giai đoạn này là kết quả của giai đoạn kháng chiến. Sau khoảng 3 tháng không đẩy được sỏi ra ngoài, niệu quản, đài bể thận và đài hoa phía trên chỗ tắc nghẽn sẽ giãn ra. Giảm nhu động niệu quản

            Giai đoạn phức hợp

            Viên đá không di chuyển trong một thời gian dài vì nó dính chặt vào màng nhầy. Niệu quản dày lên và có thể hẹp lại. Trong giai đoạn này, chức năng thận sẽ suy giảm dần. Thận ứ nước. Nếu bị nhiễm trùng có ứ mủ.

            Sự hiện diện của sỏi niệu là một yếu tố dễ dẫn đến tái nhiễm. Lâu dần có thể gây viêm bể thận mãn tính, dẫn đến suy thận mãn tính.

            Xét nghiệm – Chẩn đoán sỏi thận

            Để chẩn đoán chính xác bệnh sỏi thận và đưa ra phương án điều trị hiệu quả, bệnh nhân phải trải qua nhiều xét nghiệm cận lâm sàng (4). Đó là:

            Siêu âm

            Khi nghi ngờ có sỏi thận, phương pháp chẩn đoán đầu tiên là siêu âm vì nó khá hiệu quả, đơn giản và hiệu quả không cao. Trong quá trình siêu âm, bác sĩ có thể phát hiện sỏi và có thể dự đoán mức độ ứ nước trong thận, niệu quản và độ dày của mô thận.

            Một số trường hợp sỏi không có biến chứng hoặc triệu chứng rõ ràng được phát hiện tình cờ khi siêu âm hoặc khám toàn thân định kỳ vì những lý do khác.

            Xét nghiệm nước tiểu

            Đây là xét nghiệm bắt buộc để chẩn đoán sỏi thận. Vì từ kết quả xét nghiệm này có thể rút ra rất nhiều kết luận về tình trạng bệnh – các giai đoạn và biến chứng, đặc biệt là nhiễm trùng đường tiết niệu.

            Kiểm tra

            Các tinh thể của oxalat, photphat, canxi … đây là những thành phần cấu tạo nên sỏi thận. Có thể suy ra loại sỏi hiện diện và hình thành trong hệ tiết niệu.

            Axit uric

            Vi khuẩn sẽ phân hủy urê thành amoniac, vì vậy khi giá trị pH> 6,5 có thể kết luận đó là nhiễm trùng đường tiết niệu.

            Protein niệu

            Nếu protein niệu cao, các bác sĩ sẽ phải chẩn đoán thêm bệnh lý cầu thận, vì nếu chỉ là nhiễm trùng đường tiết niệu thì lượng protein niệu trong nước tiểu rất ít.

            Tìm kiếm tế bào và vi khuẩn

            Xét nghiệm nước tiểu cho thấy nhiều tế bào máu đỏ và trắng. Nếu nghi ngờ biến chứng nhiễm trùng của sỏi thận, có thể thấy vi khuẩn trong nước tiểu khi quay li tâm, soi kính hiển vi và nhuộm Gram.

            asp – Chụp X-quang bụng không chuẩn bị trước

            Đa số sỏi tiết niệu ở Việt Nam là sỏi cản quang nên chụp X-quang rất có giá trị chẩn đoán. Phép đo này giúp bác sĩ xác định vị trí của sỏi cản quang và xác định kích thước, số lượng và hình dạng của chúng.

            uiv – Chụp niệu đồ tĩnh mạch

            Chụp cắt lớp vi tính cho thấy hình dạng thận h , bể thận, niệu quản; vị trí của sỏi đường tiết niệu; đài hoa, giãn niệu quản. Nó được sử dụng để xác định chức năng tiết chất cản quang của mỗi thận.

            Chụp niệu quản thượng lưu và hạ lưu

            Đây là biện pháp phát hiện sỏi không cản quang và có giá trị đối với thận câm trên phim uiv

            Soi bàng quang

            Phương pháp này hiếm khi được sử dụng để chẩn đoán và chỉ được sử dụng để tán sỏi nội soi

            Điều trị sỏi thận

            Liệu pháp y tế để làm giảm cơn đau quặn thận do sỏi

            • Giảm lượng nước uống vào khi bị đau quặn thận
            • Giảm đau: Các bác sĩ thường sử dụng NSAID trong những trường hợp này, diclofenac IV (ống Voltaren 75mg). Trong một số trường hợp, nếu không có tác dụng, các bác sĩ sẽ cân nhắc sử dụng morphin.
            • Thuốc giãn cơ trơn: buscopan tiêm tĩnh mạch, drotaverin …
            • Thuốc kháng sinh: Nếu có dấu hiệu nhiễm trùng, thuốc kháng sinh có hiệu quả chống lại vi khuẩn Gram âm, chẳng hạn như cephalosporin thế hệ thứ ba, quinolon và aminoglycosid, thường được sử dụng nhất. Nếu bệnh nhân bị suy thận, thay đổi liều lượng tùy theo mức độ suy thận và tránh dùng aminoglycosid
            • Điều trị nguyên nhân gây tắc niệu quản (sỏi, dị dạng đường tiết niệu gây ứ nước). Khi điều trị bằng thuốc không hiệu quả đối với cơn đau quặn thận, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật sớm để giải quyết tắc nghẽn. Tùy theo cơ địa bệnh nhân, số lượng, kích thước sỏi, tình trạng chức năng thận từng bên… Bác sĩ sẽ quyết định mổ dẫn lưu đài bể thận qua da tối thiểu hay mổ cấp cứu.
            • * Chú ý điều trị sỏi

              • Đối với sỏi nhỏ, mịn: có thể dùng thuốc lợi tiểu để tăng lượng nước tiểu, uống nhiều nước, v.v. Sỏi có thể được tống ra ngoài một cách tự nhiên nhờ nhu động của niệu quản. Sử dụng thêm các thuốc chống viêm giảm đau không steroid để niêm mạc niệu quản không bị phù nề, tránh cản trở đường đi của sỏi.
              • Đối với sỏi acid uric – sỏi không cản quang: Thường gặp ở các nước phát triển. Đá này kết tinh trong nước tiểu pH <6 và tan sau khi kiềm hóa. Vì vậy với loại sỏi này có thể điều trị bằng cách:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *