Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
936 lượt xem

TOP 22 bài thuyết minh về tác phẩm văn học hay nhất – Văn 10

Bạn đang quan tâm đến TOP 22 bài thuyết minh về tác phẩm văn học hay nhất – Văn 10 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ TOP 22 bài thuyết minh về tác phẩm văn học hay nhất – Văn 10

Bài văn thuyết minh về tác phẩm văn học gồm có 6 dàn ý chi tiết và 22 bài văn mẫu hay. qua 22 bài văn thuyết minh giúp các em học sinh lớp 10 có thật nhiều ý để tham khảo, biết cách chọn lọc ý chính, nắm vững những kiến ​​thức cơ bản từ đó biết cách viết một bài văn hay, thuyết phục để đạt kết quả cao trong các kì thi sắp tới và Kỳ thi học kỳ 2.

tường thuật về tác phẩm văn học nhằm cung cấp kiến ​​thức: vài nét về tác giả, giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, thể loại tác phẩm, giá trị của tác phẩm. vậy đây là dàn ý và 22 lời giới thiệu về tác phẩm văn học, mời các bạn theo dõi tại đây.

giải thích bài thơ vào một ngày hè

nguyễn trai là nhà thơ hàng đầu của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu “Bình ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết và niềm tự hào dân tộc thì bài thơ “Cảnh ngày hè” là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.

đầu bài thơ “cảnh ngày hè” là sáu dòng tả cảnh ngày hè:

“rồi tận hưởng không khí trong lành ngày xưa đùn đẩy tán thạch lựu vẫn phun hồng hồng, không ngừng tỏa ra mùi hương chợ cá, làng chài, nắm ve sầu trên mặt đất của. nghĩa trang “

tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế thoải mái nhất khi ở ẩn, khi vua không còn hứng thú. hình ảnh cảnh ngày hè được tô vẽ rực rỡ, đẹp đẽ với nhiều màu sắc. đó là màu xanh của hoa huệ, màu đỏ của thạch lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng tươi của nắng chiều. tất cả chúng đều trộn lẫn. tạo nên khung cảnh đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác, khứu giác và tâm hồn của một nghệ sĩ. anh nhìn thấy hương thơm của đầm sen, tiếng “ríu rít” của làng chài, tiếng ve “én”. hình ảnh ngày hè trở nên sống động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. mặc dù cảnh được tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng vạn vật vẫn tràn đầy sức sống với các từ “đùn”, “căng”, “phun”, “thoát”, “phấp phới”, “nghiêm trọng”. những từ ngữ đó cũng giúp nói lên những điều trong lòng tác giả: khát vọng được cống hiến hết mình cho nhân dân, cho đất nước. nhiệt huyết ấy như muốn đâm chồi, nảy lộc và lan tỏa khắp nơi. trong sáu câu thơ này, tác giả đã không còn tuân theo tính chất quy phạm của văn học phong kiến. tả cảnh ngày hè với những điều rất đỗi thân quen gần gũi với đời thường.

nguyen trai đã truyền tải trọn vẹn hai câu cuối của bài thơ:

“Kẻ ngu dễ cầm đàn cả tiếng đồng hồ, người giàu khắp nơi đòi địa chỉ”

Tuy tác giả chấp nhận cảnh ngày hè với tư thế thảnh thơi ngày nhàn rỗi nhưng trong lòng luôn trăn trở, trăn trở về nhân dân, đất nước. cảm nhận được cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm đến cuộc sống của con người. nên anh đã lắng nghe âm thanh nhộn nhịp của làng chài. ông quan tâm đến nhân dân, ông quan tâm đến dân vì nước. do đó, anh ta mong muốn có được cây đàn của vị vua khờ khạo. Với cây đàn ấy, Nguyễn Trãi có thể đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hai câu thơ lục bát. tuy nhiên, nhà thơ không thực hiện theo sơ đồ: chủ đề – chân lý – luận điểm – kết luận của thể thơ lục bát. như vậy bài thơ mang những nét đặc sắc của một nhà thơ Việt Nam kiệt xuất. Không chỉ vậy, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ của Nguyễn Du:

“đỉnh tường hoa lựu đang nở”

Những câu thơ của nguyễn du đầy hình thức, nhưng những câu thơ của nguyễn trai thể hiện tính cách đa tình của ông. điều đó càng thể hiện rõ hơn tài năng thơ phú của nguyễn trai.

đoạn thơ “cảnh ngày hè” đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. qua đó ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của nguyễn trai. anh là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. nhưng trên hết, ông là người có tài, có lương vì luôn lo cho dân, cho nước. ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để làm cho nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước và khát vọng cống hiến cho đất nước.

giải thích về sự phân tán của thẩm phán

phác thảo lời giải thích vấn đề từ văn phòng thẩm phán

i. giới thiệu:

– trình bày tác phẩm.

ii. nội dung:

a. tác giả:

– Tác giả nguyễn du, có người gọi là nguyễn du hay nguyễn tử, không rõ năm sinh và mất, sống vào đầu thế kỷ 16, tại tỉnh hải dương.

– Ông được coi là người đưa ra khái niệm “huyền thoại” trong văn học nước ta.

– chỉ để lại tác phẩm huyền thoại của con người, được tạo thành từ 20 huyền thoại khác nhau.

b. khái niệm huyền thoại:

– tác phẩm thuộc thể loại văn xuôi trung đại có yếu tố kì ảo, kì ảo. có sự tương tác giữa nhân gian và âm phủ, vương quốc cổ tích với sự xuất hiện của thần linh và yêu quái, điều này làm tăng sức hấp dẫn của tác phẩm và góp phần phản ánh những nội dung trọng tâm trong quan niệm của tác giả.

c. huyền thoại man luc:

– the legend of man luc là tập truyện bao gồm 20 câu chuyện khác nhau được viết bằng chữ Hán chứa đựng nhiều yếu tố kỳ ảo, kỳ ảo, ra đời vào khoảng nửa đầu thế kỷ 16.

– nội dung chính của những câu chuyện trong truyền thuyết về người đàn ông là nhằm vạch trần hiện thực xã hội phong kiến ​​thối nát bấy giờ, đồng cảm với số phận bi thảm của những con người nhỏ bé trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ. đồng thời đề cao vẻ đẹp, nhân phẩm, đạo đức và trí tuệ của con người, thể hiện sự ủng hộ quan điểm “trượt trong, trượt dài” của các nghệ sĩ nổi tiếng đương thời, đồng thời cũng phản ánh ước mơ và niềm tin của con người về thế giới. Đúng là cái thiện luôn chiến thắng cái ác.

d. tóm tắt lịch sử của văn phòng thẩm phán (tự động tóm tắt).

e. nội dung trọng tâm của tác phẩm:

* sự kiên định chính trực của nhân vật ngo tu van:

– thể hiện qua thái độ và hành động của anh ta khi thiêu rụi miếu thờ quỷ, trên mặt là sự đe dọa của ác thần.

– thái độ bình tĩnh của anh khi bị bắt vào thế giới ngầm, với sự xuất hiện của nanh ác, không gian rùng rợn và đáng sợ.

– chính trực, ngay thẳng, dũng cảm thể hiện trong chiến đấu, minh oan cho mình trước chúa tể địa ngục.

– kết quả: ông giành được chiến thắng, đem lại thái bình cho nhân dân, minh oan cho mình, khai hoang lập đền thờ thần đất và được phong làm quan cai quản đền thờ, trở thành thần tiên.

= & gt; khẳng định niềm tin chính nhất định sẽ đánh bại cái ác. Mặt khác, nhân vật Ngô Tử Văn còn đại diện cho người anh hùng Việt Nam đã chiến thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ tinh thần dân tộc, khí phách anh hùng và sức mạnh của dân tộc ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm và chống giặc ngoại xâm. xấu xa.

* ngụ ý chỉ trích:

– hồn ma tướng giặc khi sống thì hành động như giặc, khi chết thì hành động như yêu quái, quấy nhiễu dân lành. từ đầu đến cuối, hắn mang trong mình ác tâm hiếu chiến, đáng bị trừng phạt và hủy diệt.

– phản ánh sự bất công tràn lan trong xã hội phong kiến ​​thối nát, qua câu chuyện tướng giặc mua chuộc quần thần, trong khi lực lượng thực thi công lý là vua địa ngục bị bịt mắt.

f. nghệ thuật:

– nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, bắt đầu bằng một câu chuyện khác, xây dựng cao trào câu chuyện đầy logic, với những khúc mắc và cách giải quyết hợp lý, thỏa mãn người đọc.

– Các yếu tố giả tưởng được lồng vào một cách khéo léo để làm nổi bật chủ đề và nội dung của câu chuyện đồng thời thể hiện rõ tính cách của nhân vật.

iii. kết luận:

– tóm tắt.

câu chuyện về việc phân tán thẩm phán – mẫu 1

Trong kho tàng văn học Việt Nam, có rất nhiều tên tuổi nổi tiếng. Một trong những tác giả trở thành niềm tự hào của cả một thời kỳ văn học là Nguyễn Du. tên tuổi của ông gắn liền với danh tiếng của “thiên cổ kỳ bút” “truyền kỳ nam tử”, trong đó “chuyện quan án, miếu mạo” là một tác phẩm đặc sắc, ca ngợi sự dũng cảm, bền bỉ, liêm khiết, dám nghĩ dám làm của ông. đấu tranh chống cái ác đến cùng, trừ gian diệt dân, một trí thức Việt Nam.

“Chuyện người phán xử và ngôi đền” là một tác phẩm văn xuôi truyền thống, được viết bằng chữ Hán. văn xuôi truyền thống là thể loại văn học sử dụng yếu tố kì ảo, hoang đường để phản ánh hiện thực đời sống. Các nhân vật trong truyện rất đa dạng, bao gồm người, quỷ, thần, … có mối quan hệ mật thiết với nhau, có khả năng xâm chiếm thế giới của nhau.

Bộ truyện “truyen ky man luc” ra đời vào khoảng thế kỷ 16, thời kỳ mà xã hội phong kiến ​​Việt Nam đang ở trong tình trạng suy thoái và khủng hoảng, nhân dân bất mãn với giai cấp thống trị, nhiều nhà Nho rơi vào trạng thái thất vọng và tiếc nuối. cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thanh Tông. Trong thời gian quan ở ẩn, Nguyễn Ngữ viết bộ truyện này vừa để phản ánh địa vị xã hội, vừa bộc lộ nhân sinh quan và tấm lòng của mình đối với cuộc đời.

nội dung truyện kể về nhân vật chính ngo tu van. ngo tu van vốn là một người có học và ngay thẳng. trong thị trấn nơi ông sống có một ngôi đền rất linh thiêng. nhưng là một tướng giặc của triều đại ming chết trong một trận chiến gần ngôi đền, linh hồn của ông bắt đầu hoạt động như một con quái vật trong nhân dân, làm hại nhân dân. Tức giận, bất chấp sự phản đối của dân làng, chiếc xe van của bạn đã phóng hỏa đốt đền để trừ họa cho người dân.

sau khi đốt chùa, văn tế bắt đầu lên cơn sốt. trong lúc đang lên cơn sốt, anh thấy tà thần đến đòi trả lại ngôi đền cho anh và dọa sẽ đưa xuống âm phủ để vua địa ngục trừng trị.

Nhưng vào ban đêm, thần đất đã đến bày tỏ sự ngưỡng mộ trước hành động nghĩa hiệp anh dũng của mình. thần đất nói với anh ta về nơi ở và tội ác của ác thần, đồng thời hướng dẫn anh ta cách đối phó với nó.

Vào ban đêm, khi bệnh tình của anh trở nên tồi tệ hơn, anh nhìn thấy hai con quỷ đến đưa anh xuống âm phủ. trước mặt vua địa ngục, người chết đã tố cáo tội ác của tên ác thần với đầy đủ bằng chứng. Cuối cùng, công lý được lập lại, vua địa ngục trừng phạt ác thần (tống giam vào ngục chín năm), cho phục thần thổ địa, sai binh lính đem văn vật chết trở về dương gian (tức là ông. văn học sống lại từ cõi chết). một tháng sau, người chết thấy thần đất đến tạ ơn. để trả ơn, thổ thần đã tiến cử văn tử điền vào vị trí phán quan của đền thờ.

Thông qua cuộc chiến không khoan nhượng chống lại cái ác trong Người phán xử và Kẻ gian trá, nguyễn ngữ đã vạch trần bộ mặt xấu xa của những kẻ quen “bắt chước nói dối, thích làm bậy”. bản án của bọn quan lại đương thời, tố cáo mạnh mẽ hiện thực “xấu xa gốc rễ, khó lay chuyển” nhưng bênh vực kẻ ác và hiện thực xã hội phong kiến ​​bấy giờ còn quá nhiều kẻ vô danh. câu chuyện kết thúc có hậu, thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, cái ác không đánh được lẽ phải. , cái thiện chắc chắn sẽ chiến thắng cái ác.

Về nghệ thuật, nguyễn du đã khéo léo kết hợp yếu tố ảo và thực trong truyện để chuyển tải nội dung. thế giới âm phủ với những hồn ma, yêu ma và những kẻ chết đi sống lại từ dương sang âm phủ, từ âm sang dương tạo nên yếu tố huyền ảo cho câu chuyện. nhưng đồng thời tác giả nêu tên tuổi, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra một cách cụ thể, mang yếu tố thực xen lẫn yếu tố kỳ ảo. tưởng tượng và thực tế kết hợp để làm cho câu chuyện trở nên thú vị, hấp dẫn và mang tính xã hội sâu sắc.

Hơn nữa, với cốt truyện kịch tính, tạo hình nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ trần thuật trau chuốt, súc tích, truyện đã ca ngợi nhân vật Ngô tu văn, một trí thức Việt Nam có nhân cách cao thượng, cứng cỏi, nghĩa hiệp, từ đó bộc lộ niềm tin vào công lý, trong chiến thắng của cái thiện trước cái ác.

Với những giá trị đó, Chuyện quan thầy và người vãi đá đã trở thành một tác phẩm xuất sắc trong văn học trung đại Việt Nam, góp phần làm nên danh tiếng của Trạng nguyên. thì nhiều năm sau, tác phẩm đó vẫn còn nguyên giá trị.

giải thích về sự phân tán vị trí của thẩm phán – mẫu 2

Cùng với các thể loại truyện cổ tích, truyền thuyết, truyền thuyết cũng là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam được nhiều người yêu thích và ưa chuộng. Nội dung của các thể loại này chủ yếu xoay quanh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, tôn vinh vẻ đẹp nhân phẩm, trí tuệ của con người, đồng thời khẳng định và phản ánh niềm tin của nhân dân ta vào chân lý trường tồn: cái thiện luôn chiến thắng cái ác. câu chuyện về cái chết và sự phân tán của vị quan ngự y của tác giả cũng là một trong những truyền thuyết phổ biến với nội dung như vậy.

tác giả nguyễn du, có người gọi là nguyễn du hay nguyễn tử, không rõ năm sinh, năm mất, sống vào đầu thế kỷ 16, tại tỉnh hải dương. ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, thi cử và làm quan một thời gian ngắn rồi lui về ở ẩn, với lý do là để chăm sóc mẹ già. ông được coi là người đã đưa khái niệm “huyền thoại” vào văn học nước ta, mở ra con đường cho thể loại này trong văn học trung đại Việt Nam. về sự nghiệp cầm bút của ông, cho đến nay, người ta chỉ biết rằng ông để lại duy nhất tác phẩm huyền thoại man luc gồm 20 huyền thoại khác nhau.

Thuật ngữ truyền thuyết dùng để chỉ những tác phẩm văn xuôi thời trung đại có yếu tố kỳ ảo, kỳ ảo. có sự tương tác giữa nhân gian và âm phủ, vương quốc cổ tích với sự xuất hiện của thần linh và yêu quái, điều này làm tăng sức hấp dẫn của tác phẩm và góp phần phản ánh những nội dung trọng tâm trong quan niệm của tác giả.

the legend of man luc là tập truyện bao gồm 20 câu chuyện khác nhau được viết bằng chữ Hán có chứa nhiều yếu tố kỳ ảo và kỳ ảo, ra đời vào khoảng nửa đầu thế kỷ 16 và được viết bởi dr. giá là “cổ tích lông hồng” trong văn học dân tộc vì những giá trị nhân đạo sâu sắc, chân quê. tác phẩm được viết trong lời tựa bởi ha hao han và do nguyễn thế nghi dịch trong một phiên bản danh nghĩa. Nội dung chính của các câu chuyện trong truyền thuyết Mạn Lục là nhằm vạch trần hiện thực xã hội phong kiến ​​thối nát bấy giờ, đồng cảm với số phận bi thảm của những con người bé nhỏ trong xã hội, đặc biệt là những người phụ nữ. đồng thời đề cao vẻ đẹp, nhân phẩm, đạo đức và trí tuệ của con người, thể hiện sự ủng hộ quan điểm “trượt trong, trượt dài” của các nghệ sĩ nổi tiếng đương thời, đồng thời cũng phản ánh ước mơ và niềm tin của con người về thế giới. sự thật rằng cái thiện luôn chiến thắng cái ác. có một nhận xét rất hay rằng “qua sách truyền thuyết man luc có thể biết đôi chút về tác giả, vì trong 20 truyện, mỗi truyện đều thể hiện một quan điểm chính trị, một nhân sinh quan và một tư tưởng đạo đức. đó là những mong muốn của họ về một xã hội nơi mọi người được sống trong hòa bình, thượng tôn pháp luật, bình đẳng, nhân ái giữa con người với con người “.

câu chuyện về quan tòa đền là một trong 20 câu chuyện trong tuyển tập về huyền thoại người đàn ông. Truyện kể về trận thua tướng giặc nước Việt, sau khi chết biến thành yêu quái, chiếm miếu thổ thần khiến nhân dân đau xót, thương tiếc. Ngô tu văn, nhân vật chính của truyện, đã phóng hỏa đốt ngôi chùa kia, khiến hồn ma tướng giặc giết chết rồi đưa xuống âm phủ tra khảo. vua địa ngục nghe lời vu cáo của tướng giặc sắp phạm tội chết ngô, may nhờ có thần đất giúp đỡ và dựa vào tinh thần chiến đấu kiên cường, bình tĩnh, mạnh mẽ của chàng. cuối cùng ông đã chiến thắng, vạch trần tội ác của các tướng giặc của mình. ngo tu van được sống lại, trở về dương gian một thời gian, nghe theo lời thổ thần, rời cõi dương để nhận chức giám khảo đền thờ và hưởng thụ cuộc sống của thần tiên.

câu chuyện của văn phòng thẩm phán có hai nội dung chính. Đầu tiên là sự cương nghị chính trực của nhân vật ngo tu van, thể hiện qua thái độ và hành động của anh ta khi đốt miếu quỷ, trước sự đe dọa của tà thần. thái độ bình thản của anh khi bị bắt vào thế giới ngầm, với sự xuất hiện của những chiếc nanh ác, không gian rùng rợn và đáng sợ. tính chính trực, chính trực và dũng cảm của ông còn được thể hiện trong cuộc chiến đấu và minh oan cho vua của các vị vua. cuối cùng, nhờ sự chính trực, dũng cảm và chiến đấu vì chính nghĩa, ông đã chiến thắng. ông đem lại thái bình cho nhân dân, minh oan cho mình, lập lại đền thờ thổ thần, được phong làm quan cai quản đền thờ, phong làm thần tiên. kết quả đó khẳng định niềm tin chính nhất định sẽ đánh bại được cái ác. mặt khác, nhân vật ngo tu van còn tượng trưng cho người anh hùng Việt Nam đã chiến thắng kẻ thù xâm lược (tên giặc vốn là nghĩa quân bại trận). bảo vệ tinh thần dân tộc, chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh của nhân dân ta trong công cuộc đánh giặc ngoại xâm.

Nội dung thứ hai mà tác phẩm muốn thể hiện đó là ngụ ý phê phán sâu sắc cái ác, cái ma của tướng giặc khi sống làm giặc ngoại xâm, khi chết đi làm yêu quái quấy nhiễu dân lành. từ đầu đến cuối, hắn đều mang theo tham vọng xâm lược, đáng bị trừng phạt và tiêu diệt. Ngoài ra, truyện còn phản ánh sự bất công tràn lan trong xã hội phong kiến ​​thối nát, qua câu chuyện tướng giặc mua chuộc quần thần, còn lực lượng thực thi công lý là vua địa ngục thì bị bịt mắt.

Về nghệ thuật, truyện Người phán xử có nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, mở đầu bằng tình tiết khác thường, xây dựng cao trào kịch tính có logic, khúc mắc và cách giải quyết hợp lý, thỏa mãn người đọc. Hơn nữa, các yếu tố kỳ ảo và thần thoại được lồng ghép khéo léo để làm nổi bật chủ đề và nội dung của câu chuyện đồng thời thể hiện rõ tính cách của nhân vật. câu chuyện còn mang đến cảm xúc khách quan bằng cách chia sẻ quan điểm và cảm nhận của người viết thông qua thái độ và hành động của nhân vật.

giải thích về sự phân tán vị trí của thẩm phán – mẫu 3

Câu chuyện về quan thầy chùa là một tác phẩm thành công trong việc xây dựng hình tượng người trí thức Việt Nam cương nghị, chính trực chống lại cái xấu, cái ác. cùng với các tác phẩm khác, truyện đã góp phần làm nên sức sống cho truyền thuyết về ông hoàng, một câu chuyện từ “thiên cổ kỳ bút”.

Tác giả Nguyễn Du quê ở Gia Phúc, Hồng Châu, nay là huyện Thanh Thái, tỉnh Hải Dương, là học trò giỏi của Nguyễn Tính Khiêm, đời cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16. bố anh ấy là bác sĩ. nguyen tuong phieu. Trạng nguyên đỗ Trạng nguyên (tương đương Cử nhân, Cử nhân), làm quan đến chức Thanh tuyền. Cách đây chưa đầy một năm, anh từ chức về phủ chăm sóc mẹ già, kể từ đó anh không đặt chân đến thành phố nữa. Tương truyền, truyền thuyết về người đàn ông họ Lục được viết ra trong thời gian lưu lại khu rừng này.

Truyện được viết theo thể loại truyền kỳ. Đây là loại truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc, truyền vào Việt Nam, cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16. Truyền thuyết Việt Nam giàu tính dân gian, có yếu tố ‘hiện thực’ và nhân văn sâu sắc.

Lịch sử của vị trí quan tòa được rút ra từ bộ sưu tập huyền thoại của người đàn ông luc de nguyen du. Truyền thuyết về người đàn ông được viết bằng chữ Hán, gồm 20 câu chuyện, ra đời vào nửa đầu thế kỷ 16. Tên tác phẩm có nghĩa là: tập hợp rải rác những câu chuyện lạ truyền kỳ, nhưng tác phẩm thực chất là một tác phẩm văn học với sự xử lý, hư cấu, sáng tạo và chắt lọc của Nguyễn Du. hầu hết các câu chuyện đều đặt trong bối cảnh hiện thực của các thời, nóc, hồ, lê. lột bỏ lớp vỏ hoang đường là hiện thực xã hội phong kiến ​​mà tác giả muốn phơi bày, phê phán. Qua tập truyện, người đọc thấy được số phận bất hạnh của người phụ nữ, đồng thời nêu cao tinh thần dân tộc và phẩm chất của người trí thức. Legend of man luc là một tác phẩm hàng đầu thuộc thể loại truyền thuyết tại Việt Nam.

nhân vật chính của câu chuyện là ngo tu van, một người quyết đoán, ngay thẳng, không chịu nhìn thấy cái ác. tức giận với yêu quái là tướng giặc, họ chiếm ngôi đền đất để quấy rối dân lành, họ phóng hỏa đốt đền. chết về nhà và lên cơn sốt. trong một giấc mơ, anh ta nằm mơ thấy người ta đừng đòi xây lại ngôi chùa, nếu không sẽ kiện vua địa ngục. sau đó, người trần gian cũng xuất hiện để giảng chân tướng và chỉ cho anh ta cách đối phó với yêu quái. Ông bệnh nặng qua đời. ác quỷ đã gửi linh hồn của mình xuống để gặp vua của địa ngục. đứng ở quảng trường minh ti, tu van vô pháp đi vạch trần bộ mặt giả dối của mình. tên tướng giặc bại trận. con quỷ hoảng sợ cầu hòa nhưng vua địa ngục đã cử người đến điều tra và trừng phạt nó, bia mộ của nó đã bị nổ tung. Về nước chưa đầy một tháng, Tử Văn đã đến gần xin được nhận chức phán quan ở đền Tản Viên. sau đó không bệnh mà chết. có một người quen cũ nhìn thấy anh ta “vỗ tay hy sinh” trên xe ngựa của quan tòa rồi đột ngột biến mất trong màn sương.

câu chuyện Người phán xử và ngôi đền có nội dung ca ngợi Ngô tuế, hình tượng một người trí thức Việt Nam yêu nước, dũng cảm kiên cường chống lại cái ác, là người bảo vệ các vị thần của đất nước Việt Nam. Hành động đốt đền của ông không phải vì danh, lợi, sự liều lĩnh nhất thời mà thể hiện sự kiên định của ông trong việc mong muốn trừ khử những thiệt hại cho nhân dân. Hơn nữa, hành động đó còn mang tinh thần dân tộc cao cả là bảo vệ đền thờ một vị tướng có công với đất nước. Tính cách ngay thẳng của nhà hiền triết luôn được thể hiện trong nhiều tình huống thử thách. khi đến hoàng cung, dù bị đe dọa, vu oan (“tội nặng không được phạm vào simulacrum”), dù bị sỉ nhục (“tên này ương ngạnh, cứng đầu), rồi bị vua địa ngục mắng mỏ, đe dọa, nhà văn vẫn cương quyết đến cùng để bảo vệ lẽ phải. hay không phải là việc của trời. cuộc nghị luận là cuộc trao đổi về quan điểm của tác giả với quan điểm của người xưa, vì vậy càng khẳng định mạnh mẽ quan điểm của tác giả: người học sĩ phải dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ công lý.

Tác phẩm còn gửi gắm ước mơ về công lý, thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác, chính nghĩa trước cái ác. cuộc chiến khốc liệt và không khoan nhượng giữa xác sống và hồn ma của vị tướng bại trận có một kết thúc có hậu như trong truyện cổ tích: cuối cùng người tốt (kẻ giết người) đã chiến thắng, nhận chức phán quan trong chùa. còn ác ma (hồn ma tướng giặc) thì nhốt vào ngục chín u, hài cốt như lưu lại. chấp nhận làm quan tòa, chết để trở thành người bảo vệ công lý, đó là ước mơ lớn nhất của nhân dân để có một con người công bằng, chính trực, đại diện cho nhân dân, bảo vệ công lý cho nhân dân.

Lấy bối cảnh lịch sử thời Nguyễn Đăng (khoảng cuối thế kỷ 15 – đầu thế kỷ 16), khi chế độ phong kiến ​​bắt đầu suy tàn, nội chiến Lê – Mộ nổ ra, câu chuyện cũng có một giá trị quý giá.deep realism. thế lực ma quỷ và thần thánh trong truyện phần nào phản ánh các thế lực phong kiến ​​cùng nhau hãm hại những người tốt. đồng thời, lịch sử cũng lên án những tên giặc ngoại xâm tàn ác tiếp tục quấy phá nhân dân.

tường thuật tác phẩm văn học – bình hoa đại thụ

dàn ý bài tường thuật về tác phẩm bình hoa đại cao

i. giới thiệu:

– dẫn dắt chủ đề: tổng quan về tác giả, tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật bình luận.

ii. nội dung:

– nêu lên luận điểm chính nghĩa: cốt lõi của nhân nghĩa là dân an, trừ bạo. lòng nhân đạo không giới hạn trong khuôn khổ tư tưởng Nho giáo mà rộng hơn là làm sao đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. hơn nữa, khẳng định rằng đất nước chúng ta là một nước nhỏ nhưng vẫn có thể tự hào:

+ văn hóa cổ đại.

+ đường viền lãnh thổ.

+ phong tục.

+ lịch sử và chế độ riêng tư.

– bản cáo trạng nêu rõ tội ác của kẻ thù: kẻ thù khôn khéo dùng nước đục để câu cá. không những vậy còn tàn sát dã man, tra tấn và tước đoạt mạng sống của con người (ví dụ).

– Tóm tắt quá trình kháng chiến: + xây dựng hình tượng người anh hùng áo quần bình thường nhưng có lòng yêu nước sâu sắc, yêu nhân dân, căm thù giặc, có lí tưởng cao cả (so sánh với Trần quốc tuấn để thấy được lòng căm thù của kẻ thù và niềm tin sắt đá).

+ đại diện cho những việc làm anh hùng (ví dụ).

– tuyên bố hòa bình đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới.

* nghệ thuật:

– sử dụng các từ rõ ràng và cố hữu.

– phương pháp đối lập, lấy vô cực của tre nam là để chỉ sự vô cùng trong tội ác của kẻ thù, lấy vô cùng của biển đông để nói về sự ô uế vô cùng.

– nghệ thuật xây dựng nhân vật.

– liệt kê, so sánh, đối chiếu để tạo thành một bản hùng ca về những việc làm vinh quang.

iii. kết luận:

– tóm tắt nội dung và nghệ thuật tiêu biểu.

tường thuật về hũ ngô cao – mẫu 1

Trong dòng văn học nêu cao truyền thống yêu nước suốt chiều dài lịch sử văn học Việt Nam, tác phẩm “Ngục cao vọng cổ” của Nguyễn Trãi được coi là “văn tế hùng tráng”, bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, luôn được yêu mến. và được nhiều thế hệ người Việt Nam tự hào.

“Pan ngo dai cao” do nguyen trai viết theo lệnh của Lê Lợi vào đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nghĩa quân lam sơn thắng lợi, nghĩa quân buộc phải. ký hiệp ước hòa bình và rút quân của họ. về nước ta giữ vững nền độc lập, tự cường, hoà bình. Nguyễn Trãi -62 là một anh hùng dân tộc, một bậc tài danh hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến ​​Việt Nam. ông đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân đồng minh, đồng thời là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất và là cây đại thụ đầu tiên của nền văn học trung đại Việt Nam.

Tác phẩm “chảo ngo đại cáo” được tác giả Nguyên trai viết theo thể văn tuyên ngôn, một thể loại ngôn tình, viết bằng chữ Hán, thuộc thể loại chính luận, có nội dung thông báo một chủ trương. , một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia, dân tộc, được công bố trước toàn thể nhân dân. nhan đề tác phẩm mang ý nghĩa là một bản đại cáo tuyên bố chấm dứt giặc Ngô, một cái tên hàm ý khinh bỉ lòng căm thù giặc ngoại xâm. báo cáo có thiết kế nhất quán và nhất quán, được viết theo phong cách bản ngữ, sử dụng hình thức bậc bốn, sử dụng hệ thống hình ảnh sinh động và gợi cảm.

báo cáo bao gồm bốn đoạn văn. đoạn đầu nhấn mạnh luận điểm chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là ý tưởng về lòng nhân từ kết hợp với độc lập dân tộc: “Nhân nghĩa bao gồm hòa bình còn lại, dân quân và dân chúng bị trừng phạt khi đối mặt với bạo lực” và “như dai viet. chúng ta đã tuyên bố nền văn minh từ lâu. “

Đoạn thứ hai của phóng sự đã vạch trần và tố cáo tội ác man rợ của quân xâm lược. đoạn văn là một bản cáo trạng đanh thép, tố cáo kẻ thù về những điểm sau: âm mưu cướp nước, chủ trương chống chính quyền nhân đạo, hành động tàn bạo. đồng thời đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, tang thương của nhân dân và dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: “nướng dân đen trên lửa dữ – vùi con đỏ vào hố tai họa”; “đánh sập trời, lừa thiên hạ, tràn ngập muôn ngàn kế mưu tạo thù oán, suốt hai mươi năm.” đoạn văn chứa chan ý chí căm thù giặc, đồng cảm với những người nghèo khổ. đoạn thứ ba là đoạn dài nhất trong phóng sự, tức là như một bản anh hùng ca về tăng lam. đoạn văn tóm tắt quá trình nâng. lúc đầu, cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thực, binh sĩ thiếu thốn, nghĩa quân lâm vào thế yếu “linh sơn hào kiệt mấy tuần, quân huyện không đội”, nó đẹp như thế nào? ” lúc bình minh: hiền tài như lá mùa thu ”,“ kẻ yếu thắng kẻ mạnh, kẻ ít thắng nhiều kẻ thù ”… nhưng nghĩa quân có một người lãnh đạo sáng suốt, kiên trung, yêu nước,“ nghĩ trong thù lớn, anh có một trái tim cho các tầng trời. giặc nước thề không cùng sống chung ”, biết đoàn kết lòng dân“ quân tử thiện, một lòng cha con- hòa non sông gấm vóc ”, sử dụng chiến thuật chính xác, nghĩa quân. Đội quân lam sơn đã lớn mạnh, “khí thế bừng bừng, quân thanh càng thêm mạnh” và chiến công càng thêm giòn giã, khí phách “đánh một trận sạch không ngờ – đánh hai trận diệt chim”, kẻ thù đã thất bại liên tiếp, thất bại mới nhất này còn thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tướng giặc bại trận đều có nỗi nhục riêng: kẻ treo cổ tự tử, kẻ quỳ gối xin lỗi, kẻ bị trùm đầu … đoạn 3 phóng sự cũng ca ngợi lòng nhân đạo và lòng yêu chuộng hòa bình của các dân tộc, ân nhân dân ta đã tha thứ cho quân giặc đã đầu hàng, cung cấp phương tiện, vật dụng để họ trở về Tổ quốc. Đoạn cuối. hoặc của báo cáo long trọng tuyên bố chấm dứt chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình bền vững của đất nước, bày tỏ niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Phóng sự có sự kết hợp hài hoà, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn học truyền cảm, kết hợp giữa lí lẽ chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng sôi nổi và mãnh liệt. giọng điệu phóng sự rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống anh hùng, văn hóa lâu đời của dân tộc, có lúc sôi sục căm phẫn trước tội ác của kẻ thù, có lúc xót xa trước nỗi thống khổ của nhân dân, lúc thì lo lắng. về những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng chiến thắng, khi long trọng tuyên bố độc lập dân tộc, đất nước.

“Đại Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi là khúc tráng ca ca ngợi chiến công lừng lẫy của dân tộc ta ở thế kỷ XV. tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn truyền lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người Việt Nam ngày nay đều tự hào về những câu nói hùng hồn này:

“cũng giống như nước Đại Việt của chúng ta trước đây tự xưng là văn hiến lâu đời, núi sông chia cắt, phong tục nam bắc cũng khác. gây nên nền độc lập, cùng với hán, đường, tông, mỗi bên mạnh yếu, tuy mạnh yếu khác nhau tùy thời, mỗi anh hùng đều có … “

câu chuyện về hũ ngô cao – mẫu 2

Nguyển trai là một tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam. ông đã để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. nhưng dường như văn học của họ dường như cũng chịu chung số phận với con người: trải qua bao thăng trầm. trong đó, cuốn “Cháo lòng cao” – được viết sau chiến thắng vĩ đại năm 1427, là một bản tổng kết xuất sắc về quá trình 10 năm kháng chiến, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm. , nó cũng đặc biệt đề cao “Chí khí, đại nghĩa” như một giá trị văn hóa sáng ngời của dân tộc Đại Việt. bằng ngòi bút hào hùng và lối viết truyền cảm, tác phẩm đã trở thành một “câu chuyện cổ tích anh hùng”.

public statement là văn bản thông báo và được viết dưới dạng văn bản, dưới dạng báo cáo, thường được dùng để thông báo những sự kiện quan trọng của đất nước, dân tộc. Bản gốc được viết bằng chữ Hán và đã được các học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, và Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt. tác phẩm chiếm một vị trí quan trọng cả về lịch sử và văn học. Vào những năm đầu của năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn thắng lợi, quân Minh buộc phải ký hòa ước, rút ​​quân về nước, giữ gìn nền độc lập, hòa bình.

Tiêu đề cho thấy đây là một bản đại cáo tuyên bố đánh tan giặc Ngô – một cái tên hàm ý khinh bỉ lòng căm thù quân xâm lược. phóng sự có thiết kế mạch lạc, thể hiện, lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù, khẳng định chủ quyền quốc gia. do đó, phóng sự xoay quanh những nguồn cảm hứng chính sau: cảm hứng về công lý (nhận thức sâu sắc về nguyên tắc công lý và thái độ khẳng định quyền lực của mình); cảm hứng căm thù quân xâm lược; cảm hứng về cuộc khởi nghĩa lam sơn, về tinh thần quyết chiến quyết thắng của nhân dân Việt Nam; độc lập dân tộc và tương lai của đất nước. Với bốn nguồn cảm hứng đó, báo cáo thường được chia thành bốn phần tương đương. phần 1 là thiết lập một luận điểm công bằng (từ đầu đến “bằng chứng vẫn còn trong hồ sơ”). phần 2 là tố giác tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược đại việt dưới chiêu bài giết giặc giang hồ (tiếp nối từ phần 1 đến “ai bảo dân chúng bó tay”). phần 3 là quá trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa lam sơn (tiếp nối phần 2 đến “cũng vô”). phần còn lại – phần 4 là phần tổng kết bài học lịch sử và khẳng định rằng chính nghĩa sẽ chiến thắng các thế lực bất công và vô nhân đạo.

ở phần đầu của báo cáo, tác giả nguyễn trai đã nêu ra nguyên tắc công lý như một hỗ trợ và nền tảng hợp lệ để hiển thị toàn bộ nội dung của báo cáo. Lấy tinh thần Nho giáo cùng với việc phát triển nội dung nhân văn, Nguyễn Trãi đã đưa ra luận điểm dân tộc:

“hành động nhân từ bao gồm việc giữ hòa bình cho người dân và binh lính trước khi đối phó với bạo lực”

với nguyen trai, việc đầu tiên là “bài trừ bạo tàn” để nhân dân có cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc. ông nói rằng nếu bạn muốn thống trị thế giới, điều đầu tiên bạn nên nghĩ đến là “nhân loại”. Cuộc chiến đấu chống xâm lược của dân tộc ta là nhân nghĩa và phù hợp với nguyên tắc công lý. thì tác giả đã nêu sự thật khách quan về sự tồn tại độc lập của Đại Việt, sự tồn tại sao cho nó có cơ sở vững chắc từ niên đại lịch sử:

“Cũng giống như nước Đại Việt, chúng ta từ lâu đã tự nhận mình có nền văn hiến lâu đời, núi sông chia cắt phong tục nam bắc”

trong phần 2, lấy cảm hứng từ lòng căm thù quân xâm lược, nguyễn trai thể hiện sự tức giận sôi sục, viết lên một lời tố cáo mạnh mẽ với trình tự tư tưởng logic: vạch trần âm mưu xâm lược, cho đến khi phiên tòa chủ trương cai trị tàn ác, tố cáo mạnh mẽ hành vi tội ác . Thông qua việc phân tích luận điểm gây hiểu lầm “phu nhân diệt hồ”, tác giả đi sâu vào những hành vi dã man và diệt chủng:

“nướng người da đen trong ngọn lửa khốc liệt, chôn những đứa trẻ da đỏ xuống hố thảm họa”

tội ác của hắn được ghi lại vô cùng, vô tận:

“thật là độc ác, trúc nam sơn không ghi hết tội bẩn, nước đông hải không khử được mùi”

Trong phần 3, với nguồn cảm hứng dồi dào, nguyễn trai đã miêu tả quá trình nâng lam sơn đầy gian khổ và nghiệt ngã. chính những gian khổ ngày đầu đã dẫn đến chiến thắng vẻ vang sau đó. cảm hứng sử thi bao trùm toàn bộ đoạn văn. Những kỳ công kỳ diệu được mô tả một cách vội vàng. giai điệu của cụm từ sảng khoái và hào hùng như sóng thủy triều:

“gươm mài đá mòn, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông cũng cạn. Đánh một trận thì sạch, chẳng trách đánh hai lần chim cũng chịu. phân tán “

và trong phần 4, đêm chung kết, nguyễn trai không giấu được niềm vui chung của dân tộc mà long trọng tuyên bố độc lập lâu dài:

“Cộng đồng ở đây sẽ bền vững, từ đây mai một sẽ đổi mới, rồi sẽ trở lại với mặt trời, mặt trăng rồi lại trở lại”

Từ đó, ta có thể thấy được quang cảnh huy hoàng, rực rỡ của sông xã. hiện thực hôm nay là nhờ những ngày tháng đau thương của quá khứ “muôn đời bình yên, vững bền”. lời cuối “báo xa, gần / ai cũng khỏe” đã chia sẻ niềm vui, niềm tự hào và niềm tin vào ngày mai, tương lai của đất nước.

báo cáo đã chứng minh thành công các đặc điểm của chi. hơn nữa, giọng văn thay đổi linh hoạt theo từng đoạn, lúc đầy uất hận, lúc dữ dội hào hùng, lúc cuộn trào như sóng triều về chủ đề truyện: áng văn đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc. Sự hiểu biết về lịch sử, sự kiện lịch sử và truyền thuyết của Nguyễn Trãi đã mang lại sức thuyết phục và hấp dẫn hơn cho tác phẩm.

Từ khi ra đời, chiếc “chảo ngo đại cao” được coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của kẻ thù, vừa khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm, giá trị của “bình ngô đại cáo” vẫn còn mãi đến ngày nay và Nguyễn Trãi, một nhà quân sự tài ba, một nhà chính trị lão thành, một nhà thơ, một nhà văn xuất sắc sẽ còn mãi. khắc sâu trong tim mỗi người con đất Việt.

tường thuật về hũ ngô cao – mẫu 3

Nguyên trai là một trong những nhà văn lớn, tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm đặc sắc được viết bằng cả thơ và chữ Hán. Đọc các tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra lòng yêu nước thương dân, chân thành yêu thiên nhiên và đặc biệt là tư tưởng gần gũi nhân dân. và có thể nói “Hột ngô đồng tường” là tác phẩm thể hiện sâu sắc và trọn vẹn tư tưởng đó của nguyễn trai.

tác phẩm “hũ cáo lớn” ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. sau khi đánh tan quân xâm lược, vường thống phải chấp nhận hòa giải, buộc quân đồng minh phải rút quân về nước, nước ta độc lập, không có kẻ thù. Trong hoàn cảnh lịch sử này, nguyễn trai tuân lệnh của Lê Lợi viết tác phẩm “Đại ngoại đại đội” hay “Đại cao bình dị” và chính thức công bố cho toàn thị trấn vào tháng mười hai, năm Đinh Mùi, tức là lúc đầu. . năm 1428. tác phẩm ra đời như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.

“pan ngo dai cao” được tác giả nguyen trai viết dưới dạng một hồ ly, một thể loại văn học lớn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đi sâu hơn vào thể loại văn này, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, cáo là một thể văn viết bằng chữ Hán, có thể là văn xuôi hoặc thơ lục bát, nhưng có lẽ phổ biến nhất là văn biền ngẫu. báo cáo là một kiểu văn bản mà các vị vua, chúa, hoặc các nhà lãnh đạo thường sử dụng để thông báo rộng rãi một sự kiện hoặc một vấn đề quan trọng cho toàn thể nhân dân. Cũng giống như nhiều thể loại văn học cổ khác, Cáo cũng đòi hỏi kết cấu mạch lạc, mạch lạc, lập luận sắc bén, thuyết phục. và có thể nói, với những đặc điểm trên của thể loại cáo thì “Hột ngô” của Nguyễn Trãi là tác phẩm hội tụ khá rõ nét những đặc trưng của thể loại văn học này.

Ngoài ra, báo cáo được chia thành bốn phần với thiết kế nhất quán và rõ ràng. Đoạn mở đầu của báo cáo đã đặt ra một luận điểm công bằng để làm nền tảng vững chắc cho báo cáo. luận điểm chính là sự kết hợp tư tưởng nhân dân với độc lập dân tộc:

<3

Vừa nêu luận điểm vừa nêu làm cơ sở, ở đoạn 2 của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ tội ác man rợ, man rợ của kẻ thù. đó là những hành động giết người, giết người một cách dã man và tàn nhẫn “nướng con đen trong lửa dữ / vùi con đỏ xuống hố tai họa”. chúng còn là những chính sách thuế phi lý, hủy hoại môi trường, cuộc sống, khai thác tài nguyên thiên nhiên và công việc của những người dân vô tội. tất cả những tội ác man rợ đó của kẻ thù đã được tác giả tái hiện một cách chân thực, rõ nét với hàng loạt dẫn chứng sắc bén và lí lẽ thuyết phục. Đồng thời ở đoạn 2 tác giả còn nêu bật ý chí căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta. thì ở đoạn 3 của tác phẩm, tác giả đã tái hiện một cách chân thực, sâu sắc và rõ nét quá trình đấu tranh, chinh phạt với muôn vàn khó khăn, gian khổ và chiến thắng tất yếu của quân và dân ta. bước đầu, cuộc chiến đấu của nghĩa quân lam sơn gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn: thiếu lương thực, thực phẩm, thiếu nhân lực, nghĩa quân ta ở vào thế yếu “khi linh sơn hiệp mấy tuần, quân không đội trời chung”. , “đức như sao trong sáng, tài như lá mùa thu”, “lấy kẻ yếu thắng kẻ mạnh, địch ít mà đông”… nhưng sau đó, với sự lãnh đạo tháo vát của người lãnh đạo và sự quyết tâm, nỗ lực của họ. , nghĩa quân và toàn dân đã chiến đấu hết mình và giành thắng lợi vẻ vang “đánh một trận sạch không ngờ – đánh hai trận“ vãi chim ”buộc quân đồng minh phải đầu hàng từng bước, từng bước, chấp nhận thất bại và rút quân về nước, trên cơ sở lập luận công minh, nêu rõ tội ác của kẻ thù cũng như quá trình đấu tranh của quân và dân ta, đoạn văn khép lại và ông báo cáo là một tuyên bố độc lập, khẳng định chính nghĩa. Có thể nói, đoạn cuối của bản báo cáo đã trang trọng tuyên bố chiến tranh kết thúc, khẳng định nền hòa bình của dân tộc và niềm tin vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp của nhân dân và đất nước. .

Không dừng lại ở đó, phóng sự còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, người nghe bởi sự thành công và hấp dẫn về mặt nghệ thuật. Trước hết, thành công của phóng sự nằm ở sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, hợp lý giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn học với nhiều hình ảnh độc đáo, hấp dẫn khiến phóng sự để lại nhiều ấn tượng trong lòng người nghe. Ngoài ra, phóng sự còn có giọng văn rất linh hoạt, đa dạng, phù hợp với từng nội dung mà phóng sự thể hiện: tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc, lịch sử cổ kính, phẫn nộ khi kể rõ tội ác của kẻ thù, trang nghiêm, trang trọng. . khi tuyên bố độc lập.

Tóm lại, “Cúc ngô trong lọ” của Nguyễn Trãi là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam. tác phẩm xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.

tường thuật về hũ ngô cao – mẫu 4

trong “Đất nước ta đại việt” (trích từ “bình ngô đại cáo”), nguyễn trai viết: “tuy kẻ mạnh kẻ yếu mỗi thời khác nhau, nhưng mỗi thế hệ đều có nhân kiệt.”

Từ xưa đến nay, có hai thứ trong ngũ hành luôn đối nghịch nhau, đó là thủy và hỏa. phun nước dữ dội, lửa bùng cháy dữ dội, giữa chúng luôn có sự tương phản hoàn toàn, do đó có câu nói “khác nhau như lửa và nước”.

Tôi biết nước có thể dập lửa, nhưng khi lửa mạnh và nước hạn chế, làm sao bạn biết cái nào vượt trội hơn cái nào? tất cả đều là những anh hùng hào kiệt của cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, những thủ lĩnh bậc hiền tài. về mặt giáo dục, lịch sử Việt Nam phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo chu văn an. Về y học phải kể đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y nổi tiếng trong cõi phàm trần. hào kiệt là những người nổi bật và có tài năng hơn những người khác. họ thường giỏi hoặc có một kỹ năng đặc biệt trong một lĩnh vực nhất định. và khái niệm “mạnh – yếu” ở đây chỉ sức mạnh và sự thịnh vượng của một quốc gia. Chẳng hạn, dưới thời Lý, nước ta là một cường quốc tầm cỡ Đông Nam Á, được các nước láng giềng nể phục. hay dưới mái nhà, nước ta cũng được coi là một nước mạnh vì đã ba lần đánh bại đội quân Mông Cổ lừng danh, hùng mạnh và tàn bạo. khoa học có nhà toán học luong the vinh với “luật toán đại thanh” hay le quy don, nhà khoa học trẻ. Về mặt học thuật, văn hóa có Nguyễn Hiền là người đêm Noel trẻ nhất Việt Nam. chỉ khi đó, chúng ta mới biết rằng sức mạnh và điểm yếu là không giới hạn, sức mạnh và điểm yếu phụ thuộc vào hoàn cảnh và phụ thuộc vào thời gian. đất nước chúng ta cũng vậy, có lúc mạnh có lúc yếu. Nhưng dù mạnh hay yếu, dân tộc ta luôn không thiếu những anh hùng liệt sĩ. và những anh hùng hào kiệt là những người đã làm nên đất nước. Với quan niệm nhân văn ngay thẳng và tiến bộ đó, trong “Đất nước ta đại việt” (trích “Bình ngô đồng”), nguyễn trai đã khẳng định đất nước ta:

“Mặc dù kẻ mạnh và kẻ yếu ở mỗi thời điểm khác nhau, nhưng trong mỗi cuộc đời đều có những anh hùng vĩ đại”

vậy “thần đồng” là gì? hào kiệt là những người nổi bật và có tài năng hơn những người khác. họ thường giỏi hoặc có một kỹ năng đặc biệt trong một lĩnh vực nhất định. và khái niệm “mạnh – yếu” ở đây chỉ sức mạnh và sự thịnh vượng của một quốc gia. Chẳng hạn, dưới thời Lý, nước ta là một cường quốc tầm cỡ Đông Nam Á, được các nước láng giềng nể phục. hay dưới mái nhà, nước ta cũng được coi là một nước mạnh vì đã ba lần đánh bại đội quân Mông Cổ lừng danh, hùng mạnh và tàn bạo. nhưng cũng không ít lần vì sự hưởng thụ của vua mà nước ta bị suy yếu để kẻ thù phương bắc nhòm ngó. Nhưng như Nguyễn Trãi đã viết trong văn chương anh hùng của mình thì không thể nào đất nước ta không có những anh hùng liệt sĩ. chúng ta có thể thấy điều đó qua việc dân tộc dựng nước giữ nước suốt bốn nghìn năm.

kể từ khi bắt đầu lịch sử trước lễ Christ, chúng ta đã nghe nói về những cô gái không “bình thường” chút nào, đó là cô. trung, mrs. triệu, những anh hùng có công xua đuổi. kẻ thù giành độc lập của đất nước. . Hỡi Ngô Quyền Trí Dũng, người từng đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng lịch sử năm 938. Sau này, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi mãi mãi được nhắc đến vì công lao đánh đuổi nghĩa quân. kẻ thù để bảo vệ độc lập, tự do của non sông đất nước, tô đậm nét hồng trong trang sử vàng của dân tộc. tất cả đều là những anh hùng hào kiệt của cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, những thủ lĩnh bậc hiền tài. về mặt giáo dục, lịch sử Việt Nam phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo chu văn an. Về y học phải kể đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay danh y nổi tiếng trong cõi phàm trần. khoa học có nhà toán học luong the vinh với “luật toán đại thanh” hay le quy don, nhà khoa học trẻ. về học thuật, văn hóa có Nguyễn Hiền là Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất Việt Nam ….

đó là một câu chuyện trong quá khứ, và bây giờ? Người đầu tiên đáng để dân tộc ta ngưỡng mộ phải là Hồ Chủ tịch vĩ đại, người đã lèo lái con tàu Việt Nam vinh quang. Ông không chỉ giỏi quân sự mà còn là một nhà ngoại giao, nhà báo, nhà văn, nhà thơ được nhiều người kính trọng. trợ thủ đắc lực bên cạnh ông phải kể đến tướng Võ Nguyên Giáp, một nhà quân sự tài ba đã chỉ huy thành công hai cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. uu. khiến người dân thế giới ngưỡng mộ và kính trọng anh. Trong lĩnh vực y học, không thể không kể đến bác sĩ Tôn Thất Tùng đã thực hiện thành công ca ghép gan khô và trở thành bác sĩ phẫu thuật gan giỏi nhất thế giới. trong lĩnh vực âm nhạc, gần đây chúng ta có nhạc sĩ trinh thám với hơn 600 ca khúc đủ thể loại, được mệnh danh là mốt của Việt Nam. và sau đó là những người hùng dân tộc, những người nghĩa sĩ, những người nghĩa sĩ mãi mãi được nhắc đến vì đã góp phần đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do của đất nước, tô đậm những nét son trong trang sử vàng son của đất nước. . tất cả đều là những anh hùng hào kiệt của cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, những thủ lĩnh bậc hiền tài. về mặt giáo dục, lịch sử Việt Nam phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo chu văn an. Về y học, phải kể đến hải thương lan ong le huu trac hay danh y bậc nhất thế giới.

Và trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20 này? Chúng ta có quyền tự hào về Giáo sư Ngô Bảo Châu, người châu Á thứ hai nhận được giải thưởng danh giá cho công trình nghiên cứu toán học của mình.

những con người có tài năng, có chí lớn sẽ góp phần làm rạng danh dân tộc vẻ vang của đất nước. Điển hình là việc Trần Hưng Đạo đã lãnh đạo quân ta đánh tan quân Mông Cổ lúc bấy giờ đã chiếm gần hết châu Á và đang bành trướng sang châu Âu, đâu đâu cũng có dấu chân của chúng. nhờ sự kiện đó mà đại việt của chúng ta trở nên nổi tiếng. hay chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng thực dân Pháp, phát xít Nhật như thế nào, làm rạng danh Tổ quốc. nhờ công lao của ông mà chúng ta có quyền tự hào ngày hôm nay. Trong một bài phát biểu trên truyền hình, GS Ngô Bảo Châu cho biết, ông đã đi nước ngoài rất nhiều và cảm thấy tự hào khi cầm trên tay tấm hộ chiếu Việt Nam.

XEM THÊM:  Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều- Kỳ II: Đâu cần phải đến 300 năm

Những người trẻ tuổi muốn giúp ích cho đất nước, chúng ta phải trở thành những người vĩ đại và tài năng. muốn được như vậy thì ngay từ bây giờ bạn phải chăm chỉ học tập, tìm hiểu những điều mới để theo kịp. chỉ có như vậy chúng ta mới có thể nỗ lực phát triển đất nước, bước lên “đài vinh quang” sánh vai cùng các cường quốc. và sau đó là những người hùng dân tộc, những người nghĩa sĩ, những người nghĩa sĩ mãi mãi được nhắc đến vì đã góp phần đánh đuổi quân thù bảo vệ độc lập tự do của đất nước, tô đậm những nét son trong trang sử vàng son của đất nước. . tất cả đều là những anh hùng hào kiệt của cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, những thủ lĩnh bậc hiền tài. về mặt giáo dục, lịch sử Việt Nam phải ghi nhận sự vượt trội về trí tuệ của thầy giáo chu văn an. Về y học, phải kể đến hải thương lan ong le huu trac hay danh y bậc nhất thế giới.

Đã 600 năm trôi qua kể từ khi vụ án chi tử xảy ra, Nguyên trai qua đời trong vụ ám sát vô cớ của nhà vua, nhưng những tác phẩm của ông sẽ sống mãi và tiêu biểu là “Đại cao bình thiên hạ”. câu nói “tuy mạnh yếu mỗi thời khác nhau, nhưng anh hùng nào cũng có” là hoàn toàn đúng và cho đến ngày nay, câu nói đó vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó.

câu chuyện về hũ ngô cao – mẫu 5

Binh ngo dai cao la “thiên tài văn học anh hùng” thể hiện thiên tài nguyễn trai, đỉnh cao tư tưởng và nghệ thuật của nền văn minh Đại Việt thế kỷ XV. cùng với lam sơn thực lục, quan trung tùy mệnh, Ức trai thi tập, quốc âm thi tập … binh ngo dai cao đã làm nên những ngôi sao sáng lấp lánh.

Mùa xuân năm 1428, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược kéo dài 10 năm hoàn toàn thắng lợi. Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi viết bản tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc “vẻ vang ngàn năm”, tuyên bố rằng Đại Việt đã bước vào kỷ nguyên mới độc lập bền vững, “hòa bình vững chắc muôn đời”.

công việc của lòng nhân từ bao gồm giữ hòa bình cho dân chúng, quân đội bị trừng phạt trước bạo lực.

dấy quân khởi nghĩa yêu dân, trừng trị kẻ có tội (trừng trị), tiêu diệt dã man, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân (thái bình), đó là lòng bác ái. nhân văn vẫn là một học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức và lòng nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng Nho giáo của nhân loại theo hướng lấy lợi ích của nhân dân, lợi ích quốc gia làm gốc. con nguyên trai nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, đánh giặc cứu nước, cứu dân; Triết lý nhân sinh của nguyễn trai không gì khác ngoài lòng yêu nước, thương dân: lòng nhân từ lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống giặc ngoại xâm, tiêu diệt dã man, vì độc lập của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân (pham van dong) . Trong nhiều bức thư gửi các tướng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng lên vì nhân dân, vì dân tộc, bảo vệ nhân nghĩa, vạch trần tội ác và thói đạo đức giả của bè lũ chúng: “nhân dịp ngươi rơi lệ. Tôn giả, mượn danh“ tội nhân xử tội ”. , thực sự ra tay tàn bạo, cướp nước, bóc lột tư sản, sưu cao thuế má, cướp bóc vật có giá trị, dân làng không được sống yên ổn, nhân tính mù quáng như vậy sao? ” (một lần nữa trả lời phương thức chính).

trong tư thế của con người, nguyễn trai khẳng định văn hóa Việt Nam, văn hóa đại Việt và dân tộc Việt Nam, một dân tộc văn hiến, anh hùng. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi, người đại diện cho đất nước chiến thắng, bảo vệ giá trị to lớn của truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:

cũng giống như nước ta đại việt trước đây, xưng là văn hiến đã lâu, núi sông chia cắt, phong tục nam bắc cũng khác triệu, định, ly, trần, nhiều đời độc lập, cùng han, duong, tong, nguyen, mỗi bên xưng là một bên. mặc dù sức mạnh và điểm yếu khác nhau ở từng thời điểm

Mỗi thế hệ đều có một nền văn hóa Đại Việt, một nền “văn hóa Thăng Long” được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử “lâu dài”, có “trước” sau mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ “núi non, sông núi, biên cương” mà còn có những phong tục tập quán mang bản sắc riêng, lịch sử riêng, chế độ riêng “chưa từng khiêu khích độc lập, từng“ xưng đế ”. . ” phuong “, có nhiều hiền tài, bậc kỳ tài. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại dinh, Lê, lý, Trần …, phải có những trang sử vàng chói lọi (cung thất, loạn lạc, sự cỗ xe đỏ, hay ma nhi bị giết tươi., bị bắt sống …) phải có những người “trí tuệ, thông minh” mới sáng tác ra “tập thơ” của Đại Việt, từ nền văn minh sông đỏ, thì nguyễn trai mới viết được. tuyên bố hào hùng như vậy. được bổ sung thêm bốn yếu tố, đó là: văn hóa, phong tục, lịch sử và nhân tài cho thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển lên một tầm cao mới ở thế kỷ XV, đồng thời cũng là tinh hoa, là tinh hoa của tư tưởng. nt của nguyen trai.

Năm 1407, vương triều sai cha là Mộ Thanh đem hàng vạn quân sang xâm lược nước ta. Lúc đầu, chúng lấy cớ “phá hồ”, nhưng về sau, chúng chia nước ta thành các quận, huyện, thực hiện chính sách vô cùng tàn ác của chính quyền:

đội quân điên cuồng đã nhân cơ hội để gây ra thiệt hại,

Kẻ ác cũng bán nước vì vinh quang. Nguyễn Trãi căm giận lên án tội ác vô cùng man rợ của “đội quân điên loạn”. Chúng tàn sát đồng bào ta một cách dã man:

nướng người da đen trong ngọn lửa dữ dội,

chôn cậu bé da đỏ trong hố thảm họa. Sử sách còn ghi lại nhiều tội ác mà kẻ thù tích lũy trong thời gian dài hơn hai mươi năm “dối trời lừa dân, đủ ngàn mưu”: rán mỡ người thành dầu, rút ​​ruột nhân dân và treo chúng lên. Trên cây, trên giàn thiêu, chúng lột xác phụ nữ có thai … chúng bắt dân ta xuống biển tìm ngọc, vào rừng sâu tìm cát, tìm vàng, cống ngà, đến con nai đen lại chuyển sang màu xanh … tích tụ, gánh nặng dịch bệnh. chúng đã tàn phá môi sinh, môi sinh, dồn dân tộc chúng ta vào hố diệt vong:

mất công lý và nhân đạo, thiên địa bị hủy diệt, thuế cao, núi sạch (…) gây hại cho cả côn trùng và thực vật,

bé thay cho người đàn bà góa nghèo … đằng sau những việc làm man rợ, thủ đoạn xảo quyệt, là bộ mặt ghê tởm của kẻ ác, quỷ phương bắc hoành hành máu và nước mắt. , về tính mạng và tài sản của nhân dân ta: “kẻ há mồm, con nhe ​​răng, máu thịt đầy mình, chưa đủ tội ác của kẻ thù đối với nhân dân ta, không thể ghi hết tội. , không rửa sạch được tất cả những ô uế, trời đất không dung nạp được nhau, lòng người căm giận. ”Câu cảm thán của Nguyễn Trãi như một lời nguyền, chất chứa bao nỗi căm hận, uất hận, xé nát tâm hồn nhân dân:

thật là độc ác, tre đực không ghi hết tội ác,

nó bẩn, nước donghai không khử được mùi! lấy tre nam sơn, đông hải, vô cực để nói về tội ác, sự bẩn thỉu của quân “cuồng minh”, cực đoan, vô vi, nguyễn trai đã khắc sâu vào lòng người, truyền miệng. năm vẫn chưa biến mất. . Nguyễn trai đã từng “tiễn cha ra bắc…”, từng nếm mật nằm gai, từng chứng kiến ​​lịch sử gọi những vị vua chinh chiến của triều đình là “giao đồng” (bọn trẻ con, thằng nhóc), rất nhiều tướng giặc của mình. là một “nhút nhát”. đó còn là tiếng nói của lòng căm thù, sự khinh bỉ và ý chí sắt đá chống lại quân xâm lược, chống lại bọn bành trướng tham lam, hiếu chiến phương bắc:

con nhóc tuyên bố rằng duc đang di chuyển liên tục, tên khốn nhút nhát, hãy mang theo dầu lửa!

thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa sơn lâm là le loi. ở bia vinh lang, thơ hà tiếp, gươm… đều có nhắc đến pera loi, nhưng chỉ riêng ở bình ngô đồng, pera loi được trình bày một cách đẹp đẽ, đại diện cho tinh hoa và khí phách của đất nước. Ông là một anh hùng nhân dân giàu lòng yêu nước, có chí khí phục thù và khôi phục đất nước, đã bao năm ở ẩn chờ thời cơ:

chúng tôi ở đây

trong sa mạc. con người ấy đã gắn bó với nhân dân, chịu bao nỗi đau của dân tộc, “nếm mật nằm gai”, đã “ghi lòng tạc dạ mấy chục năm”, nhất quyết không theo giặc:

nghĩ về một kẻ thù lớn,

Kẻ thù của tổ quốc đã thề không sống chung. con người đó đại diện cho trí tuệ Việt Nam, có quan điểm lịch sử nhìn xuyên thời gian, nắm chắc vận mệnh dân tộc:

<3

Chỉ băn khoăn về mối hận thù. ngày đầu khởi nghĩa, quân số không quá 2.000 người, có khi “cơm nước hai bữa sớm một chiều, mùa đông chỉ được một bữa, mùa hè… vũ khí thì tay trần” ( quan trung của trò chơi định mệnh). giữa ta và địch có sự chênh lệch rất lớn: “vừa phất cờ khởi nghĩa, vừa lúc giặc mạnh”. khó khăn, thử thách chồng chất khó khăn. cái khó nhất là thiếu nhân tài:

<3

nơi xấu xa thiếu người để thảo luận. người anh hùng vải lanh sơn xanh một mặt là “nghĩa khí, thường tận hiếu tả”, mặt khác vẫn giữ vững quyết tâm “mưu sinh gian khổ”, đồng cam cộng khổ với các tướng sĩ, đoàn kết toàn dân đánh giặc:

dân tứ xứ có nhà, dựng lũy ​​tre, phất cờ,

tướng có tấm lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt. sức mạnh của nghĩa quân đến từ sức mạnh vô bờ bến của nhân dân, từ số lượng đông đảo “quân tứ phương”, từ “tình cha con nghĩa quân”. điều đó cho thấy cuộc khởi nghĩa lam sơn là cuộc chiến tranh nhân dân do người anh hùng áo giẻ lau lãnh đạo. sức mạnh của nhân dân, tài năng kiệt xuất của người lãnh đạo là cội nguồn của thắng lợi. người anh hùng đó là thiên tài quân sự “người anh hùng nghĩ ra mưu lược … người anh hùng ấy đã phát huy những tinh hoa của lực lượng vũ trang Việt Nam, để lãnh đạo chiến tranh, phát huy hết tiềm lực của dân tộc và của tướng sĩ để chiến đấu và chiến thắng :

lập trường chiến đấu mạnh mẽ, sử dụng yếu so với mạnh,

sử dụng quân phục kích, hạ gục ngày càng nhiều kẻ thù. Có thể nói, cảm xúc trữ tình của hũ ngô đồng được thể hiện qua hình tượng người anh hùng nghĩa sĩ lam sơn. le loi vừa bình dị vừa hùng vĩ, vị cứu tinh của đất nước đã xuất hiện và trải qua biết bao cay đắng, khóc thương của nhân dân, của máu đổ xương nát mà “nên vẻ vang ngàn năm”. nguyễn trai đã hóa thân tuyệt vời thể hiện tài năng, khí phách, tầm vóc vĩ đại của Lê Lơ một mặt nêu cao lòng tự tôn dân tộc, lòng tự hào về văn hóa Việt Nam, mặt khác cũng thể hiện nhân cách, chí hướng, tài năng và tâm huyết của con người. Bằng cảm hứng hào hùng và cảm xúc trữ tình, Nguyễn Trãi đã dành những câu, đoạn văn đẹp nhất để khắc họa hình tượng nghĩa quân Lam Sơn.

nguyen trai dành phần lớn báo cáo để nói về diễn biến của cuộc đấu tranh vũ trang và quá trình phản công của nghĩa quân lam sơn. phần thứ tư này như những trang lịch sử chiến trường với giọng điệu hùng tráng, hào hùng. sức mạnh của con người, đó là chính nghĩa vĩ đại, chính nghĩa đã đè bẹp kẻ thù hung hãn, bạo tàn. lời bài hát ồn ào:

khiến kẻ chính nghĩa đánh bại kẻ tàn ác,

thay thế sự dũng cảm bằng lòng trắc ẩn. phải vượt qua thử thách lớn lao “mấy tuần linh sơn lâm vắng, huyện quân không đội”, nghĩa quân mới lớn mạnh bằng máu lửa. Càng chiến đấu, chúng ta càng chiến thắng mạnh mẽ, chúng ta chiến đấu nhiều hơn. hết thắng lợi này đến chiến thắng khác, tư thế chiến đấu như “chẻ tre cho bay”, như “sấm sét” giáng xuống đầu quân xâm lược. cảnh chiến trường vô cùng rùng rợn, máu địch chảy thành sông, xác địch chất thành núi:

Máu ning kiều chảy thành sông, cá trôi vạn dặm,

Tuyến tụy phía đông có đầy đủ các cơ quan nội tạng, bẩn thỉu hàng nghìn năm. trong đà thắng lợi “khí thế hừng hực – khí thế quật cường”, nghĩa quân tiến công trên quy mô lớn, giải phóng những địa bàn chiến lược quan trọng: “quân ta tái chiếm Tây đô… thiên cổ vạn tuế”. kẻ thù bị đánh bại bằng “trí tuệ và sức mạnh”, các tướng sĩ triều đình, một số “nghe mà như mất hồn”, một số “nín thở chạy trốn”, trần truồng “phải chui đầu vào rọ”, ly gián ”phải bỏ mạng. “. .

Trận chiến chi lang – xuân giang – binh hơn vào mùa thu năm 1427 diễn ra vô cùng ác liệt. quân ta làm chủ trận địa đã “dàn quân hiểm, cắt tiên phong”, “sai tướng chặn đường, cắt điện”, đánh chết 150.000 quân tiếp viện của địch. liễu thang cụt, bại lượng minh đại chết, thương ly khanh cùng kế tự tử. hàng chục nghìn kẻ thù bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống:

lang giang, lang sơn đầy đường,

xương, than, máu đỏ nổi trong nước. quân Nam Nam bị quân ta chặn đánh ở le hoa, “đầy khiếp đảm mà vỡ mật”, quân Mã Thanh bị đánh tan cần đồn, “vượt cạn chạy thoát thân”. sông suối mênh mông, một vùng biên giới Tây Bắc đầy máu giặc:

Suối lạnh, máu chảy, nước sông rưng rưng

Dân xa thành, xác chất thành núi, cỏ nội nhuốm máu đen. đây là vị tướng của nghĩa quân lam là: “quân giỏi lấy tay, hổ – đao chém nanh” và đây là hình ảnh các vị tướng trong triều trong tình thế “quân đã yếu thì lực kiệt, quân thì tuyệt, thiên hạ chung sức ”:

đô đốc đã dừng cuộc họp để đền tội,

Hoàng thượng tự trói tay cầu xin. Cuộc chiến của năm là một bản tóm tắt của cuộc chiến trong 10 năm. tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến của cuộc khởi nghĩa lam sơn từ những ngày đầu dựng cờ, qua những chặng đường xương máu, trưởng thành trong thử thách hy sinh, đi đầu về tài thao lược, tiến công và đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. . nghệ thuật miêu tả trận đánh sử dụng lối miêu tả rất đặc sắc, giàu sức biến hoá, có khi ghi lại những hình ảnh bại trận, thảm hoạ của các tướng sĩ trong triều, có khi miêu tả sự rùng rợn của chiến trường. tác giả vận dụng một cách sáng tạo cấu trúc tương phản để làm nổi bật sự khác biệt giữa ta và địch, chính nghĩa và chính nghĩa, chiến thắng vĩ đại và thất bại vĩ đại, cách dùng từ, tạo hình ảnh, phép đo đối xứng, thậm chí cho thấy một phong cách nghệ thuật tươi sáng, tạo nên âm điệu sử thi. binh ngo dai cao là bài ca chiến thắng vô cùng oanh liệt, làm nức lòng chúng ta:

gươm mài đá mòn, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông cũng phải cạn. đánh một trận, sạch sẽ không có gì đáng ngạc nhiên,

đánh nhau hai trận, tán loạn chim muông … qua con cáo khổng lồ, ta thấy rằng, le loi là một nhà mưu lược tài ba, biết phát động chiến tranh khi đúng thời cơ, khi tàn quân hung ác. “trời đất làm sao tha – ai bảo dân chịu được? qua năm tháng! nên suy nghĩ kỹ hơn”, “thao lược và phán đoán đã đúng”, le loi mới phất cờ khởi nghĩa. thủ lĩnh nghĩa quân lam sơn có tài cầm quân đánh giặc:

Các đội cứu hộ của hai đội quân đã tan tành, không thể quay đầu kịp thời,

Quân địch trong các thành phố đang gặp khó khăn, hãy cởi áo giáp của bạn và cười. Chính trong điều kiện chiến trường đó, le loi đã kết thúc chiến tranh, “mở đường sống”, trao trả hàng vạn tù binh cho gia đình:

tham lam cuộc sống, sợ hãi cái chết, nhưng thực sự hòa giải

chúng tôi thích nắm toàn bộ quân đội hơn, để mọi người nghỉ ngơi. khởi nghĩa “diệt bạo”, “yên dân”, chấm dứt chiến tranh để chống đổ máu, bảo vệ “toàn quân”, “yên dân”. Nguyễn Trãi, tự hào về chiến công, đã ca ngợi “đại nghĩa” và “chí khí” của dân tộc ta. Đại Việt là một đất nước văn hiến lâu đời, rất nhân văn và yêu chuộng hòa bình.

cuối bài hát là khúc ca khải hoàn vang lên hướng tới tương lai tươi sáng của đất nước đại việt văn hiến:

xã hội ở đây ổn định, con gigan ở đây đổi mới trí tuệ nhưng thông minh hơn cả cung trăng.

hòa bình vững chắc vĩnh viễn. như một quy luật tất yếu: “bí mà Thái”, “hối mà khôn”, đất nước ta sau 20 năm loạn lạc, quân đội “dối trời, lừa dân… giặc bóng”, “ngàn năm sạch bóng”. . Đất nước Đại Việt bước vào kỷ nguyên mới độc lập, hòa bình, thịnh vượng “bền vững”, hướng tới “đổi mới” và “vững chắc” muôn đời. giọng văn thanh thoát, hào hùng, đầy tự hào, tự tin thể hiện khát vọng hòa bình, độc lập, hạnh phúc của nhân dân ta. Sự nghiệp “ngô đồng hoà bình” thu được thắng lợi to lớn là nhờ vào sức mạnh chính nghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. đó là cội nguồn, là căn nguyên của thắng lợi. nòi giống “ngô thái bình” là trang sử vàng chói lọi, là “áo vải chiến thắng nên công lao ngàn năm…”

trong chiến tranh, nguyễn trai là cố vấn “có tâm”, cánh tay phải đắc lực của le loi, là “họa sĩ biếm họa tài ba nhất một thời” (le quy don). thư từ của ông với các tướng quân giặc “hùng như vạn quân” ​​(chú phan huy). nguyen trai và le loi tạo nhân “ngô hòa bình” người viết dai dai dai dai dai dai dai dai dai dai dai dai dai dai quang on tuyên ngôn độc lập và hòa bình trong thế kỷ mười lăm.

Bản báo cáo tuyệt vời cho chúng ta thấy sức viết và khả năng học tập vô song của chàng trai trẻ. Báo cáo là một cách cổ điển rất trang trọng để thông báo cho cả thị trấn về một sự kiện quan trọng. cuộc đua “nồi ngô” kéo dài 10 năm. quân và dân ta đã trải qua bao gian khổ, thử thách, lập được nhiều chiến công lừng lẫy … từ những năm tháng gian khổ đến ngày giành được “bình yên biển cả bốn phương”, thế mà Nguyễn trai viết có ý nghĩa. thông cáo báo chí tuyệt vời có 1343 từ. Cảm hứng nhân văn, cảm hứng anh hùng, khát vọng độc lập, hòa bình đã tạo nên tầm vóc văn học và màu sắc sử thi của Bình Ngô đại cáo, Đại Việt sử thi. Bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trữ tình và bình luận, vừa sắc sảo, vừa cảm động, vừa đa nghĩa; có lúc đĩnh đạc, anh hùng, trang nghiêm, có lúc sôi nổi nóng giận, có lúc mạnh mẽ, oai hùng … đất nước, con người Đại Việt được nhắc đến trong bài đại cáo là một đất nước, một con người văn hiến, một anh hùng.

tường thuật về tác phẩm văn học – truyện hải ngoại

lược đồ giải thích lịch sử của kieu

i. giới thiệu:

– giới thiệu các tác phẩm văn học truyện nguyễn du – kiều truyện

ii. nội dung:

* hoàn cảnh ra đời của truyện kiều:

  • Có nhiều lời đồn đại rằng Nguyễn Du viết truyện sau khi ông sang Trung Quốc và có thể trước khi ông sang Trung Quốc.
  • ngay sau khi ông ra đời, truyện Kiều đã được giới thiệu. hai bản cổ nhất hiện còn in ở nhiều nơi và lưu hành rộng rãi.
  • hai bản cổ nhất còn tồn tại là tờ văn chương (1871) và duy minh thi (1872) đều có từ thời trị quốc của hoàng đế tu đức.
  • câu chuyện dựa trên bộ truyện thanh tâm tài sắc của Kim Vân kiều, lấy bối cảnh Trung Quốc vào thời nhà vua (1521 đến 1567).
  • nhân vật trong vở: Thủy kiều, thuy van, kim trong, sinh ma, vuong quan, tu ba, chú sinh, thái giám …

* Giá trị tư tưởng của truyện kiều:

  • khát vọng tự do, công lý và ước mơ của con người
  • là tiếng kêu thảm thiết của người phụ nữ thời phong kiến ​​xưa
  • phê phán quá khứ cường quyền áp bức người khác vì tiền
  • đó là tình người của anh ấy

* giá trị nghệ thuật của truyện kiều:

  • nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, nghệ thuật trần thuật
  • ngôn ngữ trong sáng, da diết
  • giọng điệu nhân ái, phù hợp với giá trị tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du

iii. kết luận:

– suy nghĩ của tôi về truyện kieu

– khẳng định tài năng, tấm lòng thương người của Nguyễn Du

– thể hiện sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong thời phong kiến.

tường thuật tác phẩm truyện kiều – mẫu 1

“Khi nguyễn trai làm thơ đánh giặc, nguyễn du làm văn ở nước ngoài, đất nước trở thành văn học…”

Có bao giờ những câu thơ được trích trong bài thơ dân tộc hay đến thế không? từ chủ nhân những câu thơ này là sự khẳng định giá trị trường tồn của truyện Kiều trong nền văn học nước nhà. bởi lịch sử còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn … (pham quynh)

truyện của kiều có tên là đoạn trường tân thanh (đoạn: vỡ, ruộng: ruột, tan: mới, âm: tiếng, khóc). chúng ta có thể hiểu tiêu đề là “một tiếng kêu mới của nỗi đau thất tình”. Tục Tản Thanh Trường được Nguyễn Du lấy từ hai sự tích ở Trung Quốc. một là câu chuyện về một người đàn ông sống ở Phúc Kiến vào rừng bắt vượn con và đánh chúng đến phát khóc vì muốn bắt vượn mẹ. khỉ mẹ không làm gì được, nó đứng trên đó nhìn, hú lên rồi lăn ra chết. ông già đưa nó về nhà để mổ bụng mẹ và thấy ruột bị cắt thành nhiều khúc. câu chuyện đó ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi đau xót xa khi chứng kiến ​​cảnh con mình bị bạo hành, đánh đập. và một là câu chuyện về cung nữ tài năng và quyền lực của vua tang wuzong, trước khi vua băng hà, nàng đã nhảy một điệu cuối cùng rồi đứng yên tại chỗ. khám nghiệm tử thi cho thấy ruột của anh ta bị xé ra thành nhiều mảnh. câu chuyện đề cập đến nỗi đau xé lòng của đôi trai gái khi vợ chồng phải chia lìa. đó là tiếng kêu đau xé ruột từ ngàn xưa được người đời truyền lại. Nguyễn du đặt tên cho tác phẩm của mình là Đoạn trường tân thanh dựa trên hai truyện trước. ngày nay ta gọi là truyện kiều: cách đặt tên truyện theo tên nhân vật chính là thủy kiều

Truyện kiều được viết bằng thể loại chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ lục bát, một thể thơ tiêu biểu của dân tộc, giàu âm điệu và nhạc tính. truyện được viết dựa trên tác phẩm kim văn kiều truyện của thanh tam tài sắc, trung quốc. nguyễn du đã “hóa xương để thai” cho tác phẩm thanh tâm tài hoa thổi luồng sinh khí mới vào tác phẩm, khiến cô gái ngoại nguyễn du mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, đưa những sáng tạo của mình vào lịch sử xứ kiều. và nghệ thuật. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: “Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết sau khi đi sứ sang Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho rằng cụ viết trước khi đi sứ.” sứ mệnh có thể tồn tại vào khoảng thời gian ông làm Tổng đốc Quảng Bình (1804-1809). Thuyết cuối cùng này được chấp nhận nhiều nhất. ”

Nội dung chính của truyện xoay quanh cuộc sống lang bạt sau khi bị bán cho cha của một cô gái tài sắc vẹn toàn. Thuy van, thuy kieu va vuong quan la con trai vua ngoai. văn và kiều đều là những người có nhan sắc, nhưng kiều không chỉ có sắc đẹp mà còn có đủ tài chơi đàn, thi, họa, họa, đặc biệt là tài chơi đàn tính. trong một lần ba chị em du xuân vào tiết thanh minh. Trên đường trở về nhà, họ bắt gặp ngôi mộ không khói của Đạm Tiên. Nàng thắp một nén hương rồi gặp Kim Trọng. Vào ban đêm, Kiều có một giấc mơ, trong đó Đạm báo trước rằng cuộc đời mình cũng sẽ phải trả một món nợ riêng. Kim trong do yêu thích nước ngoài nên đã chuyển đến nhà bên cạnh để sinh sống. trong khi bố mẹ đi vắng, các kiều bào sang bên cạnh cùng kim jong-un uống rượu thề dưới trăng. Cha và em ở hải ngoại bị một tên buôn lụa vu oan, bắt đi làm răng, Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, không biết Việt kiều phải bán mình chuộc cha và các em. . Anh trai. trước khi ra đi, kiều cho van ân, nhờ van trả nghĩa cho kim. Việt kiều bị lừa bán vào tay mã trường: tú bà, buôn người chuyên nghiệp. Bị ép buộc phải mua vui nhưng Kiều không đồng ý và dùng cái chết để giữ gìn trinh tiết. sợ mất nhiều tiền nên giả ngọt, hứa gả cho người tử tế ở nước ngoài sau khi khỏi bệnh nhưng lại ngấm ngầm cấu kết với sở ép khách nước ngoài tiếp đãi. Kiều được người chú cứu lấy làm vợ lẽ nhưng thái giám đánh ghen, nàng chết đuối ở sông Tiền nhưng được sư tôn cứu. tuy nhiên nữ tử đã gửi việt kiều vào tay người phụ bạc, kẻ xui xẻo: buôn người, việt kiều lần thứ hai rơi vào lầu xanh. Tại đây nàng đã gặp Từ Hải, người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất đã cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp nàng báo thù và có cuộc sống hạnh phúc ngắn ngủi. Từ hải do nghe được ở nước ngoài, dâng lên hồ đồ thờ lạy chỉ để chết yên. Việt kiều phải lên đàn hầu rượu cho kẻ thù giết chồng buộc phải lấy một viên quan thấp hèn. quá uất ức, chị dìm xuống sông nhưng được sư cô cứu. kim trong sau đám tang anh lại biết chuyện nên thương van nhưng vẫn ra nước ngoài tìm. cuối cùng nàng cũng tìm được kiều, nhưng nàng kiều xấu hổ, xấu hổ vì không đáng mặt kim. hai người đồng lòng “đổi tình son sắt lấy cờ”

Truyện Kiều của Nguyễn Du trở thành một kiệt tác do những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mà nó mang lại cho nền văn học Trung Đại Việt Nam. Trước hết, Nguyễn Du đã dựng nên một hình ảnh sinh động về một xã hội phong kiến ​​thối nát, nơi mà sức mạnh của đồng tiền có thể mua được tất cả: chính nghĩa, đạo lý, vận mệnh. Xuyên suốt toàn bộ vở kịch, chúng ta có thể thấy một thế lực xấu xa đen tối trong xã hội đương đại không ngừng xoa dịu và nhấn chìm những khát khao rất con người của con người vào hố sâu của sự tuyệt vọng. Truyện Kiều là một bản cáo trạng khắc nghiệt về tội ác của kẻ thống trị và sức mạnh của đồng tiền.

Cũng tại đó, chúng ta gặp gỡ định mệnh của một người con gái tài sắc nhưng lận đận, nông nổi. Nguyễn Du luôn trân trọng và cẩn thận đề cập đến ước nguyện được sống, được yêu, được hạnh phúc và tấm lòng cao đẹp của Thúy Kiều. Trong suốt 15 năm hành hương, người Việt Nam ở nước ngoài chưa bao giờ thôi trăn trở về vàng và mong mỏi được trở về quê hương. nhưng duyên nợ hồng nhan cứ đeo bám nàng, càng vùng vẫy thì nàng càng bị trói chặt hơn. và chỉ khi trả xong nợ thì Việt kiều mới về được. do đó, nguyễn du trăn trở về thân phận con người, nhất là những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn trong xã hội cũ:

“Với tài năng, bạn có thể dựa vào tài năng để ghép từ tai thành một âm tiết”

đọc hết truyện đam mỹ, người đọc càng đồng cảm với đích ngoại, càng truyền tải rõ ràng khát vọng tự do, tình yêu và công lý của nguyen du. Khát vọng tình yêu tự do ấy đã được Nguyễn Du gửi gắm theo bước chân của nàng Kiều trong “Hình xăm qua vườn một mình đêm khuya” trong đêm thề non hẹn biển nặng trĩu. có người nhận xét rằng khi kiều nữ xăm mình ra vườn khuya gặp kim trong cũng là lúc nàng lật đổ những định kiến ​​của xã hội phong kiến, phá bỏ những rào cản, xiềng xích gắn kết những người phụ nữ đến với cuộc sống hạnh phúc. giấc mơ công lý đó đã được Nguyễn Du gửi gắm trong triều đình, trả thù thủy chung với các chú, thái giám, tú bà… .như truyện cổ tích, kiều gặp hải và được chàng yêu. có lẽ khoảng thời gian ngắn ngủi bên cạnh hai bạn là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong 15 năm trôi nổi của kiều. Và chắc chắn Nguyễn Du cũng nhận ra rằng, chính chữ Hai và một mình chữ Hai đã đưa Kiều đến với hạnh phúc trọn vẹn như mong muốn.

Truyện Kiều còn là bức chân dung tự họa của Nguyễn Du, với “đôi mắt nhìn thấu sáu nước, tấm lòng nghĩ cho ngàn đời”. người đó tràn đầy tình yêu thương người đó đau với nỗi đau của nhân vật, khóc với nỗi buồn và sự tủi nhục của nhân vật và cũng hạnh phúc khi tạo vật của mình được yêu thương và tôn trọng.

tường thuật tác phẩm truyện kiều – mẫu 2

gần hai trăm năm nay, truyện Kiều đã giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, trở thành một thứ hàng hóa vô giá, một viên ngọc “càng mài, càng sáng” trong kho tàng văn học Việt Nam.

nguyễn du là một danh nhân văn hóa lớn, một lý tưởng nhân đạo, một nhà thơ lớn tài năng của dân tộc. Trong cuộc đời của mình, Nguyễn Du đã để lại cho Kho bạc Văn học Quốc gia nhiều tác phẩm xuất sắc, một tài sản đồ sộ nhưng vô giá: đồ sộ về số lượng và vô giá về tư tưởng cao cả. thời đại của các nhà thơ lớn. trong đó, “trường thiên thanh” mà ta vẫn gọi là “truyện kiều” là kiệt tác vĩ đại nhất mà ông để lại cho nhân loại.

Truyện kiều được viết theo thể loại truyện thơ, gồm 3254 câu lục bát viết bằng chữ nôm. Truyện dựa theo cốt truyện trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, là sản phẩm của sự tiếp thu sáng tạo và phù hợp với văn hóa dân tộc.

câu chuyện kể về Thủy kiều, con gái của một gia đình trung lưu lương thiện, Thủy kiều sống cùng với cha mẹ và hai cô em gái là thủy văn, một vị vua. câu chuyện được chia thành ba phần. Phần một: đoàn tụ và đính hôn: vào ngày lễ dap thanh, thủy kiều và hai chàng trai đi lăng mộ, nơi họ bắt gặp ngôi mộ của đập tiên. Cũng tại đây, khi mặt trời lặn, nàng và chàng thư sinh Kim Trọng đã gặp gỡ và yêu nhau, sau đó, đôi bên đã đính hôn.

phần thứ hai: làm quen và đi bộ. Khi Kim Trọng về quê lo tang lễ cho chú, thì gia đình hải ngoại bị vu oan, cha và anh bị bắt. Kiều phải hết yêu Thúy Vân để rồi bán mình chuộc cha. nhưng cô lại lần lượt là một tay buôn ma túy, một tú bà, một nam sinh và sở dùng mọi thủ đoạn để lừa gạt khiến cô rơi vào chốn lầu xanh. nàng được hồi sinh, một hiệp khách hào hiệp, được yêu thương và cứu thoát khỏi kiếp sống chốn lầu xanh để tha cho chàng. Người vợ cả của chú ruột là một hoạn quan vì ghen tuông, âm mưu bắt Việt kiều tra tấn và đày ải. Việt kiều về nương tựa quý sư nơi cửa phật. Tiếc thay, mối quan hệ của nhà sư với kẻ tay sai lại bạc bẽo, bạc tình. kiều rơi lại nơi phong hủi. tại đây anh gặp người anh hùng đạp đất ra biển. từ biển để chuộc nàng về làm vợ, giúp những người xa xứ trả ơn và trả thù. vì bị giang hồ lừa nên bị giết, Việt kiều nhục nhã rót rượu chơi đàn trong bữa tiệc mừng quân của triều đình, rồi cưỡng hôn một viên quan nơi xứ người. đau đớn và tủi nhục, trên đường ra nước ngoài, chàng nhảy xuống sông Tiền tự tử nhưng được ân sủng cứu giúp. lần thứ hai kiều bào nương nhờ cửa phật.

phần thứ ba: cuộc họp. Sau khi lo tang lễ cho người chú, anh ta quay lại tìm người yêu. hay tin gia đình ở nước ngoài gặp khó khăn, vô cùng đau xót. Theo lời dặn của Kiều, Thúy Vân đã thông duyên với Kim Trọng. tình cũ không nguôi, kim trong tìm đi tìm lại thấy kiều, cả nhà đoàn tụ. Trong ngày vui sum họp, để bảo vệ “danh phận” và tri ân người yêu, chàng Việt kiều đã quyết định: “Tình bạn nghĩa cũng là duyên bạn bè”.

Về nội dung, truyện kiều mang hai giá trị lớn: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là một hình ảnh hiện thực về một xã hội bất công và tàn bạo, một xã hội tiền đồ, con người bị đánh đập không thương tiếc. ở đó, vô số quan chức tham nhũng, nhà thổ bẩn thỉu, kẻ xấu xa,… xuất hiện. của một xã hội như vậy, con người, đặc biệt là phụ nữ, bị đối xử bất công, nhân phẩm bị chà đạp nhưng vẫn không đánh mất tâm hồn lương thiện tốt đẹp. lịch sử đã thể hiện niềm thương cảm, xót thương cho số phận con người, đồng thời là sự khẳng định và trân trọng tài năng, khát vọng sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng về một tình yêu hạnh phúc, … về nghệ thuật, tác phẩm là kết tinh của những thành tựu văn học nghệ thuật dân tộc về ngôn ngữ và thể loại. Ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát được Nguyễn Du sử dụng đã đạt đến cao trào rực rỡ. ngôn ngữ gần gũi với đời sống nhưng không làm mất đi yếu tố uyên bác và thẩm mĩ của ngôn ngữ đã tạo cho truyện ngôn tình một tầm cao không gì sánh được. là một thể loại truyện thơ, nghệ thuật tự sự của tác phẩm đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật tự sự đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, miêu tả tính cách và miêu tả tâm lí con người.

kể từ khi ra đời, câu chuyện đã được dịch ra hơn hai mươi thứ tiếng, có hàng ngàn nghiên cứu lớn nhỏ về nó và hàng ngàn cuộc tranh cãi nảy lửa xung quanh nó. tác phẩm đã đưa văn học dân tộc vươn ra thế giới, chiếm vị trí quan trọng trên diễn đàn quốc tế.

tường thuật tác phẩm truyện kiều – mẫu 3

Khi nói đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, chúng ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và truyện kiều của ông. Với lòng nhân đạo nồng nàn và tài năng văn chương kiệt xuất, Nguyễn Du đã để lại dấu ấn sâu đậm qua các tác phẩm, đặc biệt là Truyện Kiều.

Nguyễn Du tên tự, thụy hiệu là Thanh Hiên (1765 – 1820), quê ở Thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. ông xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan, ông có truyền thống văn học. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, làm tể tướng dưới triều Lê và cũng là một bậc kỳ tài về văn học. mẹ là Trần thị tân, con gái kinh bắc. anh trai cùng cha khác mẹ của bà (con gái chính) là Nguyễn Khản làm quan đến hầu tòa và thái bảo tại tòa. Nguyễn Du sống trong thời kỳ đầy biến động của xã hội phong kiến ​​Việt Nam, đó là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thống trị thối nát, tham lam và tàn bạo, các tập đoàn phong kiến ​​(le – trinh – nguyen) giết nhau. nông dân náo loạn khắp nơi, đời sống nhân dân khốn khó, nhiều cuộc nổi dậy nổ ra, tiêu biểu là phong trào đấu tranh mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Nguyễn Huệ. Những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến cảm xúc và nhận thức của Nguyễn Du. anh sớm rơi vào cảnh mồ côi (9 tuổi, cha mất, 12 tuổi mẹ mất), anh phải sống phiêu bạt nhiều năm, ở nhiều nơi, có lúc ở thăng long, có lúc ở quê nội, có lúc. anh về quê vợ ở Thái Lan. Những biến động lịch sử và cuộc đời đó đã tác động rất lớn đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du. Vì vậy, ông cũng mang nhiều tâm trạng: Trung thành với nhà Lê, chống lại quân Tây Sơn, sau này ông trở thành một Thượng thư nhà Nguyễn nhưng lại rụt rè, trâm anh thế phiệt. có thể nói cuộc đời của ông thăng trầm, gian khổ, đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều hạng người, từng trải, sống giàu sang, ý thức rộng, được coi là một trong năm người bậc nhất phương nam thời bấy giờ. . giờ. Ông còn là người có tấm lòng nhân ái, đồng cảm sâu sắc với người nghèo, nỗi khổ của nhân dân, hơn hết Nguyễn du nổi tiếng với tấm lòng là người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực nhân dân suốt đời. . những số phận oan trái và bất công, đặc biệt là thân phận của những người phụ nữ.

Nguyễn Du còn là người có tài năng văn chương thiên bẩm, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, một ngôi sao sáng trong nền văn học trung đại Việt Nam. Về sự nghiệp, văn học Nguyễn Du có nhiều sáng tạo lớn cả về chữ Hán và chữ Nôm. kinh trung quốc có thanh dương thi tập (78 bài), bac hanh tap luc (125 bài), nam trung tam ngâm (40 bài) … soạn kịch bản du mục với hồn van hiu, văn chương với hai cô gái từ lâu. đứng , điển hình là tác phẩm truyện kiều hay còn gọi là tân thanh trường thành.

Truyện kiều ra đời đầu thế kỷ 20 (khoảng 1805 – 1809), lúc đầu có tên là “Đoạn trường tân thanh” (tiếng kêu mới vỡ ra), sau đổi thành “Truyện kiều”. Vở kịch dựa trên tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng có sự sáng tạo tài tình và cải biên, thêm thắt nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ. Đó là một câu chuyện du mục được viết bằng thể thơ lục bát, dài 3.254 câu, chia làm 3 phần (gặp gỡ và hứa hôn; gia đình chuyển kiếp và lưu lạc; đoàn tụ). chủ đề của truyện viết về cuộc đời của một người xa xứ nhưng qua đó tố cáo xã hội phong kiến ​​thời bấy giờ chà đạp, đẩy người phụ nữ vào ngõ cụt; đồng thời tôn lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nói chung. tác phẩm còn thể hiện rõ nét hiện thực cuộc sống đương thời với “con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến muôn đời” của nhà thơ.

Kieu’s story kể về cuộc đời truân chuyên của một cô gái tài sắc vẹn toàn. Thuý Kiều là một cô gái sinh ra trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. kiều nữ tài sắc vẹn toàn trên người. cô ấy cũng là một cô gái ngoan ngoãn. tại lễ hội đạp chân, kiều gặp kim trong, họ yêu nhau rồi đính hôn. Khi Kim Jong-un trở về Liêu Dương để lo tang lễ cho chú mình, gia đình ở nước ngoài gặp tai họa và Việt kiều phải bán đứng để chuộc cha. khai sinh mã mua việt kiều lâm tri. tu ba bày mưu biến cô thành gái lầu xanh. chuộc nhà ngoại và cưới nàng làm vợ lẽ. chàng lại trở thành hoạn quan: vợ chàng sai lính bắt nàng làm nô lệ đào hoa và giở trò đánh ghen. anh ta bỏ trốn khỏi viện dưỡng lão. nhưng lại rơi vào tay người phụ bạc, kẻ bất hạnh phải vào lầu xanh lần thứ hai. tại đây, kiều gặp được tử hải, một anh hùng “đội trời, đạp đất”, chuộc kiều bào ra khỏi lầu xanh, giúp ngoại bang trả thù, báo thù. Một lần nữa, Việt kiều rơi vào bẫy thờ cúng, anh Hải gục chết trên bàn chân của mình. Kiều buộc phải viên quan mặt đất nhục nhã, đau đớn, chàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. ông được một nhà sư cứu và đi tu. kim trong trở về sau nửa năm, kết hôn thủy vân theo lời kiều. sau do, kim trong va vua duoc to chuc vuot qua thuy kieu. May mắn thay, họ đã được đoàn tụ với Thúy Kiều, được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc.

giá trị của truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chính: nội dung và nghệ thuật. giá trị nội dung thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. sức mạnh của đồng tiền và số phận của những người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là phụ nữ. gia đình nhà vua đang sống yên ổn, chỉ vì một lời của người buôn lụa “vu oan giá họa” nên cuộc sống yên bình bị phá vỡ, tai họa ập đến với nhà xa xứ. sau đó, lính canh vào nhà ngoại cướp bóc, đánh đập, được một số quan lại dung túng, che chở, lôi kéo. thủ lĩnh bọn lưu manh thẳng thắn yêu cầu: “ba trăm lượng, việc này sẽ làm.” Tên quan toà trong vụ án Kiều được Nguyễn Du miêu tả: “Tra thành mặt sắt đen”. Hồ Tôn, vị quan vĩ đại nhất trong lịch sử Truyện Kiều, đại diện cho triều đình phong kiến ​​là vị quan thần phục trọng thần nhưng thật “lạ lùng mặt sắt cũng phải lòng”. sức mạnh của đồng tiền khi vào tay kẻ xấu thì thật khủng khiếp, đồng tiền đã trở thành sức mạnh vạn năng chi phối mọi hoạt động, làm băng hoại lương tâm, nhân phẩm của con người. nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã viết về tiền trong truyện kiều: “Quan vì tiền mà bất chấp công lý, bọn gian tà vì tiền hành hạ cha con, vua, ông, bà, mã học vì tiền. con chó ung vì tiền, lao vào tội ác, cả xã hội chạy theo đồng tiền ”. cuộc đời đẫm nước mắt của một cô gái tài hoa bạc mệnh ở nước ngoài cũng bắt đầu bằng quyền lực và sự vô nhân đạo của đồng tiền.

Giá trị nhân đạo được thể hiện trên hết là tôn trọng con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng, khát vọng, ước mơ và tình yêu chân chính. Xét về diện mạo ta thấy nàng thùy văn là một cô tiểu thư đoan trang, nhân hậu, nàng thùy kiều thuộc loại “sắc nước hương trời” – hơn người, hơn đời, kim trong có nét đẹp của một văn nhân và thư sinh, thuộc loại anh hùng đẹp đẽ: vai rộng năm tấc, thân cao mười thước. xét về phẩm chất, thùy van là một cô gái tốt. kim trong – một chàng trai trung thành. tài hoa kiều (tay, thi, họa): người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh, chung tình. tình yêu kim kiều: tình yêu trong sáng và ngây thơ, vượt qua những hạn chế khắt khe của lễ giáo phong kiến ​​trong thời kỳ chế độ phong kiến ​​suy tàn.

tường thuật về các tác phẩm văn học – lặng lẽ sa pa

lập dàn ý miêu tả công việc sa pa bình thản

i. giới thiệu:

– giới thiệu tác phẩm được tự sự – lặng lẽ sapa của tác giả nguyễn thanh long

ii. nội dung:

* tác giả:

– Nguyễn Thanh Long là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết và truyện ngắn về cuộc kháng chiến chống Pháp.

– bài viết của cô ấy đầy chất thơ, giàu hương vị nhẹ nhàng và giàu cảm xúc

– Lặng lẽ sapa là kết quả của chuyến đi thực tế đến Lào năm 1970 của tác giả, nó được in thành tập “giữa trời xanh” (1972).

* hoạt động:

– câu chuyện về cuộc gặp gỡ tình cờ của một chàng trai trẻ, một họa sĩ, một kỹ sư và một người lái xe

– ông họa sĩ và cô kỹ sư đến thăm nơi ở và làm việc của anh thanh niên

– được tin tưởng về công việc và cuộc sống của anh ấy.

– người nghệ sĩ đã có thể khắc bản phác thảo chân dung của mình.

– đưa người kỹ sư và họa sĩ vào đời với khát vọng cống hiến.

– vỡ òa trong nỗi nhớ và cảm xúc.

* giá trị nội dung:

– những câu chuyện ngắn khắc họa thành công hình ảnh của những người làm việc lặng lẽ và luôn nỗ lực trong cuộc sống của họ

– ca ngợi vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng nhưng vô cùng quan trọng.

* giá trị nghệ thuật:

– xây dựng một câu chuyện thành công

– miêu tả nhân vật kết hợp với tự sự và biểu cảm

iii. kết luận:

– “lặng lẽ sapa” là một câu chuyện hay và xúc động

– xứng đáng là một tác phẩm mà mỗi chúng ta nên đọc và cảm nhận

sapa lặng lẽ làm việc tường thuật – mẫu 1

Mỗi lĩnh vực trong cuộc sống đều mang đến cho con người những cảm hứng và cảm xúc khác nhau. văn học cũng vậy, nó là một lĩnh vực mà khi tiếp cận, người ta có thể cùng tồn tại, cùng cười, cùng khóc với nhân vật, cảm nhận được những tư tưởng đạo đức mà người nghệ sĩ gửi gắm. đối với tôi, có lẽ trong suốt chặng đường văn chương tôi đã đi qua, tác phẩm “Lặng lẽ sapa” của Nguyễn Thanh Long đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi.

nói đến nhà văn nguyễn thanh long, ông là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết và truyện ngắn từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Từng trang viết của Nguyễn Thành Long đầy chất thơ, giàu hương vị mượt mà, giàu cảm xúc, khiến người đọc như bước vào một thế giới mộng mơ, tao nhã, hơn nữa còn giàu chất triết lí sâu sắc trong từng câu chữ. và câu chuyện “lặng lẽ sa pa” cũng là một trong số đó.

tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế sang Lào năm 1970 của tác giả, nó được in thành tập “giữa đồng xanh” (1972). Với tác phẩm này, nhà văn đã làm nổi bật chủ đề cuộc sống mới trong hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. từ đó, biểu dương những con người sống và làm việc thầm lặng, cống hiến hết mình cho đất nước.

Câu chuyện bắt đầu với hoàn cảnh của chuyến xe khách từ Hà Nội lên Lào Cai với một ông họa sĩ già, một tài xế và một kỹ sư trẻ. Cô họa sĩ và cô kỹ sư được người lái xe giới thiệu với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Dù cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng chàng trai trẻ đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng mọi người. Anh tặng hoa, pha trà cho cô kỹ sư và kể về cuộc sống, công việc của anh, như sở thích nuôi gà, trồng hoa, làm bạn với công việc. Đặc biệt, khi họa sĩ muốn vẽ một bức chân dung của chàng trai trẻ, anh ta đã từ chối và giới thiệu anh ta với những người khác mà anh ta cho là xứng đáng hơn. khi họ chia tay, người họa sĩ hứa sẽ quay lại và người kỹ sư cảm động. chàng trai trẻ đã chạm đến trái tim của những vị khách mới.

Câu chuyện được chia thành ba phần, với ba sự kiện: đoạn đầu là lời dẫn giới thiệu về người thanh niên thông qua câu chuyện của mình, đoạn thứ hai là cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa anh thanh niên và họa sĩ, bác sĩ và kỹ sư, và đoạn 3 là một cuộc chia tay đầy kịch tính. Đồng thời, người đọc có thể cảm nhận được những nét chấm phá rõ ràng về vẻ đẹp thiên nhiên của Sapa và vẻ đẹp của con người Sapa.

thiên nhiên sapa đẹp dịu dàng, giàu chất thơ, ấm áp nắng, con đèo, cây hoa tử đằng, rừng cây ám nắng, tán lá ướt sương rơi ”. con đường chính, ngay cả dưới mặt đất. ô tô. ”

Chỉ với vài nét vẽ cơ bản, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sapa với vẻ đẹp thơ mộng, tao nhã, bằng ngôn ngữ trong sáng, với những đường nét như “bàng bạc”, “nhô đầu”. hoa cà trên rừng xanh ”,“ cuộn thành từng bó, lăn trên vòm lá đẫm sương ”. hình ảnh đó dường như gợi ý điều gì đó về con người ở đây.

vẻ đẹp của những con người nơi núi rừng sapa không phải là những vị thần trong truyền thuyết, cũng không phải là những anh hùng lừng lẫy trong lịch sử, mà họ là những con người ngày ngày lao động trong thầm lặng. Phim kể về chàng thanh niên, qua lời kể của người tài xế, là “người cô độc nhất thế giới”, có nhiều “dục vọng của con người”, làm việc trên đỉnh núi yên bình cao 2600m, kết bạn với mây và cây cối quanh năm. trong điều kiện sống khắc nghiệt. trong ấn tượng của họa sĩ, đó là con người “trong cái tĩnh lặng của sapa, dưới những tòa nhà cổ kính của sapa, sapa mà chỉ cần nghe tên thôi là người ta đã nghĩ đến nghỉ ngơi, có những con người đang làm việc và nghĩ như thế vì đất nước”. người thanh niên đó có lòng yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc và tìm được niềm vui trong công việc; có sự chân thành, cởi mở và mến khách quý trong việc giao củ cho vợ lái xe, vui vẻ khi có khách đến thăm. còn ở anh là sự khiêm tốn và nếp sống ngăn nắp, trật tự do chính anh tạo ra với thói quen đọc sách, trồng hoa, nuôi gà, … anh thanh niên là nhân vật trung tâm của truyện, và chỉ qua những nét vẽ giản dị, nhà văn đã đã khắc họa một con người giàu ý chí, cống hiến, yêu đời, yêu cuộc sống.

Ngoài ra còn có các nhân vật như một họa sĩ, một kỹ sư, một người lái xe, một kỹ sư vườn cây ăn quả, một nhà nghiên cứu bản đồ tia chớp. Họ là những nhân vật đã góp phần tạo nên những mảng màu khác nhau cho câu chuyện.

tường thuật về công việc lặng lẽ của sapa – mô hình 2

Trong sáng tác văn học, đặc biệt là trong văn học hiện đại theo hướng phương Tây mới du nhập vào nước ta vào thế kỷ trước, đề tài con người với những cái đẹp trong đời thường đã trở thành đề tài quen thuộc, yêu thích của nhiều tác giả và được khai thác ở nhiều tác phẩm khác nhau. các cách. Nhưng như Thạch Lam đã viết: “Cái đẹp có mặt khắp vũ trụ, xuyên qua hang cùng ngõ hẻm, tiềm ẩn trong mọi sự vật tầm thường. Công việc của nhà văn là khám phá vẻ đẹp trong sự liên kết chặt chẽ mà không ai ngờ tới, tìm ra vẻ đẹp tiềm ẩn và ẩn chứa trong sự vật. , hãy cho những người khác một bài học để xem và thưởng thức “. Truyện ngắn lặng lẽ sa pa của nguyễn thanh long là một trong những tác phẩm như vậy, đây là một truyện ngắn hay và sâu sắc, khám phá cuộc sống lao động bình thường của những con người không rõ tên tuổi, hi sinh thầm lặng cống hiến cho đất nước.

tác giả nguyễn thanh long sinh năm 1925 mất năm 1991 tại huyện duy tân, tỉnh quảng nam, con một gia đình quan chức nhỏ. Ngoài việc sử dụng tên thật trong các sáng tác của mình, ông còn có các bút danh khác như Lưu Quỳnh, Phan Minh Thảo. Nguyễn Thanh Long là một trong những nhà văn trẻ nổi lên từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp chuyên về truyện ngắn và bút ký, trong đó anh được đánh giá là một người kể chuyện xuất sắc trong giai đoạn 1960-1970. chủ đề chính trong các sáng tác của ông là cuộc sống đời thường, đặc biệt là các sáng tác truyện của ông có khuynh hướng nghĩa tình, luôn toát lên vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng của thiên nhiên và tâm hồn thi nhân. trong số các tác phẩm tiêu biểu có bát cơm manh áo, gió bắc, lịch sử nhà máy, Đập cánh bay, Giữa trời xanh, …

câu chuyện Lặng sa pa ‘là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả vào mùa hè năm 1970 tại lào cai. tác phẩm được trích từ tập giữa màu xanh lục xuất bản năm 1972. nhan đề là “yên lặng sa pa”, phía trước có đảo ngữ tính từ “yên tĩnh”, như vậy đã nhấn mạnh và làm nổi bật chủ đề của tác phẩm đó. dáng vẻ bình lặng, trầm mặc của sapa, thực tế cuộc sống nơi đây trở nên sôi động với những con người say mê lao động, thầm lặng cống hiến cho đất nước, xã hội để thực hiện lý tưởng sống cao đẹp trên địa đầu Tổ quốc thân yêu trong thời kỳ dân tộc. đổi mới.

XEM THÊM:  Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là gì? Nghệ thuật này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du

Tình huống câu chuyện nơi công sở chỉ đơn giản là xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ của vị khách trên chuyến xe đi Sapa với một chàng trai làm công tác khí tượng thủy văn trên đỉnh Yên Sơn. nhờ đó dễ dàng khắc họa chân dung nhân vật chính một cách tự nhiên và thể hiện chủ đề của vở kịch là cuộc sống lao động, sự hy sinh thầm lặng của những người dân nơi đây.

Nội dung đầu tiên mà tác giả Nguyễn Thành Long tập trung khai thác trong truyện Lặng lẽ Sapa chính là vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng, trữ tình của nơi đây. điều đó được thể hiện qua một đoạn văn miêu tả khá dài ở đầu truyện “mặt trời lúc này đã… đổ bộ hạ cánh”. tác giả tập trung vào những đặc điểm riêng của nơi đây với vẻ đẹp quanh co của những con đèo, dáng vẻ tự nhiên của những đàn bò, cổ chuông, nắng, thông, hoa tím, … đặc biệt là vẻ đẹp độc đáo của cây mây qua những phép nhân hoá và so sánh độc đáo từ đó thiên nhiên sapa hiện lên với vẻ trong sáng, tự nhiên và vô cùng thơ mộng, lôi cuốn người đọc.

Nội dung thứ hai mà tác phẩm tập trung là vẻ đẹp của con người, lần lượt được tác giả khắc họa trong truyện qua các nhân vật là một anh thanh niên, một họa sĩ, một kỹ sư, một người lái xe, anh thợ làm vườn, nghiên cứu bản đồ lạnh. kỹ sư, … trước hết là nhân vật anh thanh niên xuất hiện với hoàn cảnh sống và công việc khá đặc biệt: một thanh niên 27 tuổi, làm công việc khí tượng và vật liệu. Về địa vật lý, lúc cao nhất đồng yên ở độ cao 2600 m so với mực nước biển. , nhiệm vụ chính là đo gió, đo mưa, … để dự báo thời tiết. Có thể nói, đây là một hoàn cảnh sống và làm việc cô đơn, vất vả, nhất là đối với một chàng trai trẻ tràn đầy sức sống như anh Thanh trong truyện. ở nhân vật này toát lên những nét đẹp tâm hồn đáng quý, có những suy nghĩ cao đẹp về công việc, gắn bó với công việc, yêu nghề, coi công việc, coi nghề là niềm vui trong cuộc sống. Đồng thời, nhân vật này cũng ý thức rất rõ giá trị của công việc, cũng như nhiệm vụ của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, ở nhân vật anh thanh niên còn có những suy nghĩ cao đẹp về cuộc sống, khi biết tìm câu trả lời cho giá trị của bản thân, về ý nghĩa của cuộc sống. đồng thời bản thân cảm thấy hạnh phúc khi làm được những việc có ích cho xã hội, góp phần xây dựng đất nước. không chỉ vậy, hình ảnh anh thanh niên còn được thể hiện qua những nét đẹp về tính cách như cởi mở, biết quan tâm đến mọi người (tặng hoa cho anh kỹ sư, tặng trứng cho họa sĩ, anh lái xe taxi, bàn ghế, …), khiêm tốn giản dị (không chịu vẽ vời), nếp sống ngăn nắp, tỉ mỉ, …

nhân vật cô kỹ sư, cũng là một nhân vật đáng chú ý trong vở kịch, cô là một kỹ sư mới ra trường đã nhiệt tình xung phong nhận công việc, cô vừa trải qua quãng đời sinh viên tươi đẹp, dám bỏ cuộc sống xô bồ. đô thị nhộn nhịp và tình yêu vô vị. cuộc gặp gỡ tình cờ với chàng trai trẻ đã tiếp thêm sức mạnh, hun đúc cho anh niềm tin và tình cảm lớn lao với lý tưởng cao đẹp là lao động có ích cho đất nước và xã hội.

Nhân vật chú lái xe là người dẫn chuyện có vai trò giúp anh thanh niên xuất hiện, với tính cách vui vẻ, cởi mở làm cho câu chuyện trở nên sinh động và vui nhộn hơn. kỹ sư vườn cây ăn quả, ấn tượng với những hành động thú vị như nhìn thấy ong thụ phấn cho hoa, tự thụ phấn cho hoa rutabaga, … khiến chàng trai cảm thấy cuộc sống thật thú vị, tươi đẹp và nên yêu cuộc sống hơn. anh kỹ sư nghiên cứu bản đồ lạnh giá luôn trong tư thế mong chờ cái rét, thấy sấm thì thấy sét, anh chạy ra ngoài chuẩn bị làm nhiệm vụ, anh sống một mình 11 năm không lấy vợ, trán dần hói với tuổi nghiên cứu bản đồ lạnh. Tất cả những nhân vật này đều thể hiện sự cống hiến hết mình, hy sinh hết mình vì công việc, yêu công việc, coi công việc là vinh quang, là lý tưởng sống cao đẹp và đáng quý.

tường thuật về công việc lặng lẽ sapa – mô hình 3

Tập trung nhiệt tình biểu dương những người lao động mới dám nghĩ, dám làm, không ngại khó khăn, gian khổ, say mê lao động sáng tạo, nhân hậu, yêu đời tha thiết là một trong số những thành tựu đạt được. công lao của văn học Việt Nam viết về công cuộc xây dựng đất nước ở miền bắc xã hội chủ nghĩa. Trong số những bài hit đó có nguyễn thanh long và câu chuyện lặng lẽ sapa.

Nhà văn Nguyễn Thanh Long (1925-1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, viết văn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. sở trường của anh ấy là viết truyện và kí. Anh cho rằng lao động nghệ thuật là một con đường gian nan, đòi hỏi người viết phải có cá tính sáng tạo. Truyện của Nguyễn Thành Long hấp dẫn người đọc ở chất văn trong sáng, thơ mộng, lối viết mượt mà, thoải mái, cốt truyện giản dị nhưng giàu ý nghĩa tổng thể. các tác phẩm đã xuất bản gồm các tập truyện ngắn: Cái bát cơm và ông già (1955); chuyện nhà máy (1962); vỗ cánh (1967); giữa đồng xanh (1972); nửa đêm đến sáng (1978); mùa tỏi ly son (1980); sáng mai, chiều muộn (1984); lặng lẽ sa pa (1990), .. nhận giải thưởng văn nghệ cho tập truyện ngắn về bát cơm và ông già (1953).

truyện lặng lẽ sapa do nhà văn nguyễn thanh long viết năm 1970 sau chuyến đi lao động của tác giả là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác. Câu chuyện kể về một thị trấn nhỏ của tỉnh Lào Cai luôn chìm trong sương mù: Sapa. người đẹp đến với nơi ấy: chàng trai làm công tác khí tượng thủy văn trên đỉnh yên sơn cao 2.600 mét, bác sĩ nông học vừa tốt nghiệp, bác tài xế lớn tuổi đã 30 năm chạy tuyến … trên tuyến đường sapa, a họa sĩ sau một chuyến đi thực tế trong chuyến đi cuối cùng của cuộc đời công chúng của mình, làm việc trước khi nghỉ hưu. bốn gương mặt tiêu biểu, bốn tính cách khác nhau: một thanh niên đầy nhiệt huyết, bộc trực, chân thành; cô kỹ sư trẻ hồn nhiên nhưng kín đáo, tế nhị; họa sĩ điềm đạm, sâu sắc; và anh tài xế hoạt bát, vui tính … họ gặp nhau trên đường đi sapa và bỗng trở nên thân thiết như một gia đình. Tuy tính cách, nghề nghiệp khác nhau nhưng họ đều có chung tâm hồn trong sáng, tinh tế, lối suy nghĩ lành mạnh, sâu sắc và hơn hết là có chung một thái độ sống, làm việc, lao động và cống hiến. một cách vô tư, hồn nhiên, im lặng và điềm đạm (Từ điển tác giả và tác phẩm văn học Việt Nam dành cho học đường).

yên tĩnh sa pa có một cốt truyện đơn giản. chỉ là cuộc hội ngộ giữa bốn con người: ông họa sĩ già, kỹ sư vừa tốt nghiệp, người lái xe và chàng thanh niên phụ trách trạm thời tiết trên núi yên sơn. tác giả không tiết lộ tên các nhân vật. qua cuộc hội ngộ của những người “không tên”, chân dung người lao động thầm lặng hiện lên trên nền sapa lặng lẽ và thơ mộng. Câu chuyện về cuộc hội ngộ trôi qua trong ba mươi phút, người họa sĩ chỉ còn thời gian để phác họa chân dung của mình, nhưng chân dung của người thanh niên đã hiện rõ, của những con người đang ngày đêm cống hiến tuổi thanh xuân trong thầm lặng. Bức chân dung ấy lần đầu tiên xuất hiện qua lời giới thiệu của anh tài xế vui tính, qua sự quan sát và phản ánh chuyên nghiệp của người nghệ sĩ, qua cảm nhận của người thiếu nữ, và qua bức chân dung tự họa của chàng trai. . Thông qua cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa một họa sĩ già, một kỹ sư trẻ và một thanh niên làm việc ở trạm thời tiết trên đỉnh Yên Sơn ở sapa, tác giả khẳng định vẻ đẹp của những con người cần cù lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng. p>

câu chuyện xây dựng tình huống hợp lý, cách kể tự nhiên; đại diện cho nhân vật từ nhiều quan điểm; ngôn ngữ chân thực giàu chất thơ và đồ họa; có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và bình luận.

tường thuật về các tác phẩm văn học – sông phú nhị hải

lập dàn ý thuyết minh về tác phẩm Dòng sông phú nhuận

i. giới thiệu:

– trình bày vở diễn “phú sông bấc đăng” của tác giả truong han super

ii. nội dung:

* mô tả công việc chung:

– hoàn cảnh tạo nên nó: vương triều trần trụi có dấu hiệu suy tàn, có nguy cơ sụp đổ. tác giả là một vị đại thần, tình cờ dạo chơi bên dòng sông bấc đăng và hồi tưởng về lịch sử hào hùng của dân tộc

– khơi nguồn cảm hứng: sông bach đăng giàu cảm hứng lịch sử, cảm hứng đương đại và những triết lý rút ra từ bài học.

– thiết kế: 3 phần

<3

+ phần thứ hai (từ bến sông, cố nhân … đến thương nhớ cố nhân ứa nước mắt) là nội dung đối đáp của nhân vật “khách” và những người già ở hai bên con sông.

+ phần còn lại của đoạn kết là lời khen ngợi nhân vật “khách mời”.

– nhân vật “khách” xuất hiện trong tác phẩm có thể là tác giả, cũng có thể là nhân vật trữ tình vô danh.

* giải thích nội dung của tác phẩm

– thoạt đầu, tác giả tái hiện cảnh chèo thuyền trên sông của nhân vật “khách”

+ khách là những người yêu thích du lịch, mạnh mẽ, phóng khoáng. Anh đang mải mê quay ngược thời gian để tìm hiểu về lịch sử hào hùng của Dân tộc Đại Việt.

+ tâm trạng của “vị khách” chất chứa nhiều tâm tư

+ “khách” là cái “tôi” của tác giả, nhạy cảm, có tình cảm lớn với đất nước và lịch sử dân tộc.

– cuộc gặp gỡ và đối đáp của “vị khách” với người lớn tuổi

+ các “ông già” là nhân chứng của lịch sử, xuất hiện tạo không khí đối thoại tự nhiên, giúp các “thượng khách” hồi tưởng lại những trận hải chiến nổi tiếng từng diễn ra tại đây.

+ những chiến công oai hùng được gợi lên một cách chân thực thông qua những hình ảnh truyền tải cùng một thông điệp

+ Chiến thắng sông Bấc đăng được tái hiện dưới hình thức sử thi tự sự.

+ Chiến thắng vẻ vang của dân tộc không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn nhờ vào những hiền tài của đất nước.

– khen ngợi

+ khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của non sông lịch sử và những chiến công hiển hách nơi đây.

+ đồng thời cũng khẳng định chân lý tồn tại vĩnh hằng: oan gia ắt diệt vong, chỉ có anh hùng mới trường sinh bất lão.

+ “khách” ca ngợi hai vị vua sáng suốt, tài giỏi, thể hiện quan niệm sâu sắc về vai trò của con người trong việc “thực hiện tiếng gọi”, một quan niệm tiến bộ và rất nhân văn.

* nghệ thuật miêu tả tác phẩm

– “Phú sông đăng đàn” được coi là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.

– cấu trúc đơn giản nhưng hấp dẫn, thiết kế chặt chẽ, chi tiết được chọn lọc tốt, súc tích và dòng cảm hứng liên tục.

– sự xuất hiện của nhiều ví dụ lịch sử và lịch sử được chọn lọc

– ngoài ra, tác giả còn sử dụng thành công những câu văn ngắn, dài, đan xen những câu thơ tạo nên giọng điệu hào hùng cho tác phẩm.

iii. kết luận:

– khẳng định lại giá trị của công việc

tường thuật về sự trù phú của sông Bạch – Mẫu 1

văn học của mỗi thời đại đều để lại những tác phẩm có giá trị lịch sử cho dân tộc. nhớ đến nhiều công lao hiển hách trong thiên hạ, người ta không chỉ nhớ đến “nam quốc sơn hà”, mà còn nhớ đến một tác phẩm văn học nổi tiếng khác. là bài phú trên sông bach dang de truong han siêu. Bài phú vừa là một áng văn hay, vừa là một tác phẩm của lòng tự hào dân tộc, gửi gắm những tư tưởng triết lí sâu sắc đáng suy ngẫm.

Cảm hứng giàu có của bach đăng là hào hùng và bi tráng. Trương Hán Siêu viết tác phẩm này trong bối cảnh bản thân ông là một đại thần của triều đại phong trần, lúc bấy giờ đang có dấu hiệu suy tàn, có nguy cơ sụp đổ. trong một lần dạo chơi, tình cờ nhớ lại quá khứ hào hùng của quê hương. vì vậy, sông phú bửu đăng có cảm hứng lịch sử, cảm hứng đương đại và những triết lý rút ra từ bài học.

về hình thức, bach dang sông phú được viết bằng chữ Hán, theo giới phu (cũ), mượn hình thức “chủ – khách” để diễn đạt nội dung. Hệ thống câu của toàn bài được Trương Hàn xây dựng siêu chất theo phong cách tự sự độc đáo. Theo cấu trúc thông thường của phần thân được làm giàu, thẻ được làm giàu có thể được chia thành ba phần. phần mở đầu (từ đầu đến … còn dấu vết của chiếc giường), giới thiệu nhân vật và lí do sáng tác. phần thứ hai (từ câu hò ven sông… đến nhớ người già chờ rơi nước mắt) là nội dung đối đáp của nhân vật “khách” và các bô lão hai bên bờ sông. phần còn lại của đoạn kết là lời khen ngợi dành cho nhân vật “khách mời”.

“khách” xuất hiện trong tác phẩm có thể là tác giả, hoặc có thể là một nhân vật trữ tình vô danh không rõ xuất xứ. nội dung của bài là hành trình của “khách” trên con thuyền rong chơi trên sông nước, đi qua nhiều cảnh đẹp. Đến sông Bạch Đằng, “thượng khách” nghe các bô lão địa phương kể về chiến tích ngày trước. từ cuối đến lời bài hát, “khách” nghe và tiếp tục lời bài hát. từ đó bày tỏ tâm tư, tình cảm và suy nghĩ của mình về sông Bạch Đăng và lịch sử hào hùng, bi tráng của nó.

Về nội dung chi tiết của tác phẩm, chúng ta có thể lần lượt tìm hiểu qua ba phần. ở đầu bài, tác giả tái hiện cảnh nhân vật “khách” dạo chơi trên sông nước mênh mông:

“khách có những người chèo thuyền với gió để chơi, lướt sóng trong hồ bơi và chơi với mặt trăng.”

Trong đoạn thơ, ta thấy hình ảnh một người thích đi du lịch và cũng là một người mạnh mẽ, phóng khoáng. Anh đang mải mê quay ngược thời gian để tìm hiểu về lịch sử hào hùng của dân tộc Đại Việt. do đó tâm trạng của “khách” chất chứa nhiều suy tư, “nằm yên lâu không về”, “tiếc thương anh hùng vắng bóng?”, “tiếc là còn lưu lại dấu ấn của văn mình”. pen zhang han super, nhân vật “khách” bỗng sống dậy. “khách” có thực sự là “tôi” của tác giả? cái tôi của một con người với bản lĩnh anh hùng, tâm hồn thơ nhạy cảm, một nhà nho có tình cảm với đất nước và lịch sử dân tộc.

Trong suốt câu chuyện, “khách” và những người lớn tuổi gặp nhau. nhân vật “ông già” là một hình ảnh tập thể, xuất hiện trên hành trình hỗ trợ cho vị khách phía trên. họ cũng là nhân chứng của lịch sử. sự xuất hiện của nó tạo ra bầu không khí tương hỗ tự nhiên, từ đó giúp “khách” hồi tưởng lại những trận hải chiến nổi tiếng từng diễn ra ở đây.

tất cả những chiến công oai hùng đều được gợi lại một cách chân thực qua những hình ảnh được liệt kê cùng thông điệp:

“đây là chiến trường nhân dịp tái sinh của hai vị thánh để đánh chiếm o ma.cong là vùng đất cổ của các vua ở phủ hoang thao.”

không khí chiến đấu tỏa sáng rực rỡ trong từng câu chữ:

“những con tàu gồm hàng nghìn khẩu súng trường bay phấp phới, hung dữ, sáu con giáp, những thanh kiếm sáng lấp lánh” …

Các hình ảnh và chú thích đặc biệt lần lượt xuất hiện, nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của kẻ thù trong quá khứ (dây cương, hop phi, bo kien …). chiến thắng trên sông bấc đăng được tái hiện dưới hình thức một bản anh hùng ca tự sự. tiếng trống trận, tiếng gươm như hòa vào niềm tự hào, kiêu hãnh để rồi lắng đọng trong chiêm nghiệm. Những trận thủy chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng cũng khẳng định tầm vóc lịch sử của dân tộc ta có thể sánh với của Trung Quốc.

tường thuật về sự trù phú của sông Bạch Đăng – mẫu 2

truong han super là một nhân vật tuyệt vời trên thế giới. tên là lăng, quê quán thôn phúc xá, an khánh, ninh bình. Trương Hán Siêu lúc nhỏ là hiệp khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược lần thứ hai và thứ ba. ông đã làm quan trong suốt 4 triều đại của nhà Trần (anh tông, minh tông, hiền triết và tư tông). Trương Hán Siêu là người uyên bác, am hiểu Nho giáo và Phật giáo, giàu lòng yêu nước, có nhiều công lao với triều đình nên được vua chúa kính trọng, coi như bậc thầy.

những tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử quê hương, thấm đẫm sắc thái trữ tình hoài cổ. ngôn ngữ trong văn học Hán ngữ siêu tinh tế, cô đọng, sử dụng thành công những hình ảnh ngôn từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thơ rất uyển chuyển. Bài phú Trương Hán Siêu của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời kì trữ tình.

Bài hát “sông phụ hồ” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi nhiều chiến công hiển hách của dân tộc như chiến thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Nhiều nhà thơ đã viết về dòng sông lịch sử đáng tự hào này, nhưng bài “Tương tư sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. tác phẩm được viết theo phong cách cổ điển. Đây là một thể loại văn học có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết theo thể văn vần hoặc văn xen lẫn văn xuôi, có nội dung tự sự, miêu tả khách quan các sự kiện, phong tục, cảnh vật, bàn luận cuộc sống.

Mở đầu bài viết, tác giả bày tỏ mong muốn được đi đây đi đó để thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng cảnh đẹp quê hương, đất nước.

<3

Tác giả đã liệt kê hàng loạt danh lam, thắng cảnh được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như: vu trạch, cửu giang, ngũ ho, tam ngo, bửu bối … mang tính biểu tượng thể hiện khát vọng du ngoạn mãnh liệt. đến nhiều nơi để ngắm cảnh, cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước zhang han.

Trong phần tiếp theo, qua lời kể của người khách, chúng ta thấy cảnh sông bấc đăng là một hình ảnh sinh động và giản dị:

“những con sóng rộng lớn dài hàng ngàn dặm, duyên dáng với một màu của bầu trời, một màu của bầu trời và ba phong cảnh mùa thu.”

qua những từ ngữ gợi hình (dồi dào, thong thả), kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với dòng sông bấc dang. tg đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của dòng sông bấc đăng. Đồng thời, tg cũng bày tỏ cảm xúc của mình khi đứng trước một nhân chứng lịch sử mà lòng hoài niệm về quá khứ huy hoàng.

“xin lỗi vì sự vắng mặt của anh hùng, nhưng dấu chân trên giường vẫn còn đó”

Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể thấy được khí phách của đội quân trong trận chiến bach đăng qua những câu chuyện về các vị hào kiệt dũng mãnh qua phần bình luận:

“những con tàu đang thoáng qua, những vì sao rung chuyển, sáu đội quân hung hãn, những thanh gươm sáng chói.”

“khác hẳn ngày xưa: trận gông cùm của nghĩa quân bị tiêu diệt hoàn toàn, trận địa của địch bị tiêu diệt hoàn toàn.”

Những chiến công vĩ đại của quân đội ta được kể bằng giọng kể hấp dẫn và lôi cuốn, tái hiện không khí hào hùng, mang âm hưởng của một bản hùng ca đầy tự hào. những câu chuyện của người xưa đề cao chiến thắng oanh liệt của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.

Tác giả cũng đưa ra một cuộc thảo luận về nguyên nhân của chiến thắng:

“nghiêm túc: trời đất ban cho những nơi nguy hiểm, cũng cảm ơn: những người tài giỏi hãy giữ an toàn cho điện thoại của bạn.”

Các bô lão đánh giá, có được thắng lợi này không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn nhờ số lượng nhân tài đông đảo. một trong những bậc kỳ tài kiệt xuất thời bấy giờ là hùng đạo vạn tuế.

Cuối cùng, tác giả kết thúc bài thơ bằng lời ca của hai nhân vật được mời và những người lớn tuổi hơn. đầu tiên là lời của những người lớn tuổi:

“sông dang dở non sông, sóng to sóng lớn xô vào biển đông. Dân oan diệt vong, ngàn thu chỉ có anh hùng cứu”.

lời bài hát của ông già cũng khẳng định một triết lý vững chắc: kẻ bất nhân sẽ diệt vong và người anh hùng sẽ được ghi nhớ mãi mãi

vị khách cũng theo dõi và khen ngợi:

“Hỡi hai vị thánh nhân, con sông này đã mấy lần rửa sạch áo giáp. Kẻ thù muôn đời bình yên. Vì nơi đất hiểm, đức ta cao”.

tác giả ca ngợi trí tuệ của vị vua thiên hạ, một con người tài đức vẹn toàn, luôn đặt lợi ích của quốc gia lên trên lợi ích của cá nhân. Như vậy có thể thấy, để quân đội ta chiến thắng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể thiếu những nhà lãnh đạo tài ba, đức độ, luôn hết lòng lo cho dân, cho nước.

Lấy cảm hứng và hoài niệm về quá khứ hào hùng của dân tộc, tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc trước kỳ tích trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý, đạo lý ngàn đời của dân tộc Việt Nam. tác phẩm còn chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp thông qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

tường thuật về sự trù phú của sông Bạch – Mẫu 3

bach dang giang phu de truong han sieu mau là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước đương thời – trần thế. truong han super là một nhà văn của cuộc sống trần thế, sinh ra ở ninh bình. Thời trẻ, ông là hiệp khách của Trần Hưng Đạo, người ít nhiều có đóng góp trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ hai và thứ ba. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều, là người uyên thâm, tính tình ngay thẳng, được vua chúa thiên hạ tôn làm thầy, được các nhà Nho đời sau coi như một trí thức Nho học chân chính của thời đại thịnh trị. các tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử quê hương, thấm đẫm sắc thái trữ tình hoài cổ. ngôn ngữ trong văn học Hán học siêu tinh tế, cô đọng, sử dụng thành công hình ảnh từ ngữ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thơ rất uyển chuyển.

Sách trắng của phủ dang giang được viết sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ cách đây khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi nhiều chiến công hiển hách của dân tộc như chiến thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Nhiều nhà thơ đã viết về dòng sông lịch sử đáng tự hào này, nhưng bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. tác phẩm được viết theo phong cách cổ điển. Đây là một thể loại văn học có nguồn gốc từ Trung Quốc, được viết theo thể văn vần hoặc văn xen lẫn văn xuôi, có nội dung tự sự và miêu tả một cách khách quan các sự kiện, phong tục, cảnh vật, nói chuyện đời thường.

Mở đầu bài viết, tác giả bày tỏ mong muốn được đi đây đi đó để thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng cảnh đẹp quê hương, đất nước.

Có những vị khách chèo thuyền để nghịch gió, lướt sóng trong hồ bơi và chơi với mặt trăng.

tác giả đã liệt kê một số danh lam, thắng cảnh được nhiều người ở Trung Quốc biết đến như: vu tra, cửu giang, ngũ ho, tam ngo, bach viet … cách nói tượng hình, tác giả diễn đạt a mãnh liệt mong muốn được đi du lịch nhiều nơi để ngắm cảnh, cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và đất nước mình.

trong phần tiếp theo, chúng ta lại được gặp lại cảnh sông bập bềnh qua sự miêu tả của nhân vật khách, một hình ảnh sinh động và giản dị:

những con sóng khổng lồ, dài hàng nghìn km, thanh lịch với một màu bầu trời, một màu và ba phong cảnh mùa thu.

thông qua một loạt các từ ngữ gợi hình, kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với dòng sông bach dang. Tác giả đã gợi cho người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của sông Bạch Đằng. đồng thời, tác giả cũng có thể bày tỏ cảm xúc của mình khi đứng trước một nhân chứng lịch sử khi nhớ về quá khứ oanh liệt.

xin lỗi vì sự vắng mặt của anh hùng, nhưng rất tiếc dấu vết của chiếc giường vẫn còn

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thấy được khí phách của quân ta trong trận Bạch Đằng qua những câu chuyện về các vị hào kiệt, anh hùng qua phần bình luận:

tàu thuyền đầy đủ trang bị, tinh tú bay phấp phới, sáu đạo quân hung hãn, gươm giáo tỏa sáng …. như trong quá khứ: trận chiến cờ đỏ tàn tro bay tán loạn, các trận chiến của kẻ thù đã hoàn thành, hoàn toàn chết.

có như vậy ta mới thấy những công lao to lớn ấy được kể với giọng kể dồn dập, hấp dẫn, tái hiện khí thế hào hùng, mang âm hưởng của một bản anh hùng ca đầy hào khí. những câu chuyện của các bô lão đã nhấn mạnh chiến thắng oanh liệt của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.

Sau đó, tác giả cũng thảo luận về nguyên nhân của chiến thắng:

quả là: trời đất ban cho nơi hiểm trở, cũng cảm ơn: người tài cứ gọi.

Theo các bô lão, dân tộc ta chiến thắng không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn nhờ nhiều người tài giỏi. một trong những bậc hiền tài kiệt xuất thời bấy giờ là hung thủ văn võ song toàn. cuối cùng, tác giả kết thúc bài hát bằng hai chữ cái. đầu tiên là lời của những người lớn tuổi:

sông dang là một khúc sông dài, dòng chảy lớn và sóng xô ra biển đông. dân oan diệt vong, vạn thu chỉ có anh hùng cứu giúp. “

Lời bài hát của người xưa cũng khẳng định một triết lý sâu sắc: oan gia sẽ diệt vong, anh hùng muôn đời ghi nhớ. không chỉ vậy, đến đây, các vị khách còn không ngớt lời khen ngợi rằng:

Ta tự hào về hai thánh binh, sông này giặt áo giáp mấy lần. kẻ thù đã bị tiêu diệt vĩnh viễn.tác giả ca ngợi trí tuệ của vị vua thiên hạ, một con người tài đức vẹn toàn, luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân. Như vậy, có thể thấy nguyên nhân làm nên chiến thắng của quân đội ta phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cốt yếu vẫn là những nhà lãnh đạo tài ba, đức độ, luôn chăm lo cho dân, cho nước …

Thông qua hoài niệm về quá khứ, phú nhị giáp đã thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc trước kỳ tích trên non sông gấm vóc, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng, đạo lý bất khuất của nhân loại xưa nay của dân tộc Việt Nam. . tác phẩm còn chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc nêu bật vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

tường thuật về tác phẩm văn học – lão hạc

tóm tắt văn tự sự về lão Hạc

i. giới thiệu:

– giới thiệu truyện ngắn Cao và lão Hạc.

ii. nội dung:

– giới thiệu về nguồn gốc của truyện: năm sáng tác, từ đâu?

– tóm tắt câu chuyện

– thuyết minh nội dung (đặc biệt tập trung giới thiệu nhân vật lão Hạc)

– giải thích về các tính năng nghệ thuật

iii. kết luận:

– giá trị của truyện Lão Hạc trong thơ ca văn học Việt Nam, trong sáng tác nam cao và trong suy nghĩ, tình cảm của người đọc

tường thuật về công việc của lão cần trục – mẫu 1

Trong nền văn xuôi hiện đại nước ta, nam cao là một nhà văn có tài năng xuất sắc và một phong cách độc đáo. lông của con đực cao là cảnh giác, sắc sảo, và đầy suy nghĩ và tình yêu. Nhà văn cao nam rất trung thực, coi sự thật là trên hết, không gì có thể ngăn cản được nhà văn vươn tới chân lí, thấm đẫm ý nghĩa triết lí và trữ tình. ông có một khả năng đặc biệt để mô tả và phân tích tâm lý con người. ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông sinh động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Với tài năng và sức sáng tạo tuyệt vời, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại.

Tác phẩm của con người chủ yếu là truyện, trong số những truyện viết về người nông dân, “lão hạc” là một truyện xuất sắc và tiêu biểu.

Truyện ngắn “lão hạc” xuất bản lần đầu năm 1943, truyện kể về nhân vật chính: lão Hạc, một người nông dân nghèo có phẩm chất trong sáng, vợ lão Hạc mất sớm, để lại hai vợ chồng. , trong nhà, tài sản duy nhất của hai cha con là mảnh vườn và “chú vàng”, con chó mà con trai ông mua cho. Không có đủ tiền để cưới, con trai ông chán nản và đòi ra mộ đồn điền cao su, để ông ở nhà một mình với người chú vàng của mình. lão Hạc rất yêu thương con trai, chăm sóc vườn tược và dành dụm tiền bạc để khi trở về sẽ gả con trai cho lão. tuy nhiên, sau một trận ốm nặng, dù dành dụm được bao nhiêu tiền nhưng sức khỏe ngày một yếu đi, ruộng vườn không có gì để bán, đàn hạc ngày càng đói, phải lo từng bữa ăn. anh rất hối hận khi quyết định bán cậu vàng, người bạn tuyệt vời của mình. ông lão gửi tiền và mảnh vườn cho ông giáo và xin cấp bậc, nộp bả chó để chấm dứt cuộc đời khốn khổ của mình. chết một cái chết đau đớn, nhưng cái chết đã làm nổi bật phẩm chất thuần khiết của loài hạc.

Qua số phận và cái chết của lão Hạc, cao nhân đã thể hiện một thái độ trân trọng, một cái nhìn nhân văn đối với lão Hạc nói riêng và những người nông dân nói chung, tuy nghèo nhưng sống trong sạch, thà chết chứ không chịu tủi nhục. . danh tiếng, làm những việc trái với lương tâm cao cả của mình. nam cao cũng đã nêu lên một triết lý sống rằng: con người chỉ xứng với danh phận con người khi biết trân trọng và biết chia sẻ, biết trân trọng những điều đáng quý và đáng thương ở con người.

đồng cảm với những số phận bất hạnh, con người thanh cao đã nói qua tác phẩm như một tiếng nói lên án xã hội đương thời thối nát, bất công, không cho những con người có nhân cách cao cả như ông được sống. .

Tác phẩm “Lão Hạc” còn có giá trị nghệ thuật sâu sắc khi nó thể hiện phong cách độc đáo của nhà văn nam cao. diễn biến câu chuyện do nhân vật của tôi kể, nhờ đó mà câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực với hệ thống ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu và giàu tính triết lý.

Có nhiều âm điệu trong tác phẩm, là sự kết hợp mềm mại giữa hiện thực và ca từ. Đặc biệt, phong cách khắc họa nhân vật tài hoa của nam ca sĩ cũng được bộc lộ rõ ​​nét với ngôn ngữ sinh động, ấn tượng, giàu hình thức và sức gợi cảm.

Có thể nói “lão hạc” là một truyện ngắn rất thành công của con người cao cả. nhà văn đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, đồng thời đánh bật phong cách nghệ thuật độc đáo hiếm có.

tường thuật về công việc của lão cần trục – mẫu 2

man cao – nhà văn, người bạn luôn thấu hiểu và đồng cảm với tâm tư tình cảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhận xét về hình ảnh người nông dân trên trang văn của mình, một số người bình luận: Truyện của Nam Cao thể hiện một suy nghĩ chung là nỗi xót xa trước thực trạng con người bị hủy hoại nhân phẩm mà cuộc sống nghèo khổ mang lại. nhân vật lão Hạc trong vở kịch cùng tên đã thể hiện một nhân cách cao đẹp, dù hoàn cảnh sống éo le nhưng vẫn giữ được phẩm giá đáng quý của mình.

Nam cao sinh ra ở một làng quê nghèo ở đồng bằng Bắc Bộ và cuộc đời đầy gian khổ, khó khăn. do đó, các tư liệu và hình ảnh thực tế đã vào trang của nó là chân thực và sống động. hình ảnh người nông dân nghèo bị đè bẹp và đẩy đến đường cùng đã khắc sâu trong tâm trí nhà văn. cùng với tác phẩm Chí phèo, bữa cơm hoàn … lao cẩu là một truyện ngắn xuất sắc của nam cao viết về đề tài này và được xuất bản lần đầu vào năm 1943. Truyện ngắn được giới thiệu trong chương trình sách ngữ văn 8 tập 1, gần Dài tám trang, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người đọc về một người cha, người nông dân với những phẩm chất cao quý.

lão hạc là câu chuyện về cuộc đời của một người nông dân sống ở một thị trấn nghèo. Ông có một cậu con trai, một khu vườn và một con chó mà ông rất yêu quý, tên là Golden boy. Con trai của ông lão không lấy được vợ do quá nghèo nên đã bỏ đồn điền cao su, để lại cha một mình với người chú vàng. sau một cơn bạo bệnh, lão hạc không còn sức lao động ban ngày nữa, cơn bão đã tàn phá hết hoa màu trong vườn. Cuộc sống ngày càng khó khăn với anh, kiếm gì ăn nấy, không nhận giúp đỡ từ ai. và khi không có gì để ăn, anh cũng không muốn bán mảnh vườn, vì vậy anh phải bán cậu vàng cho người ta để họ giết anh và quyết định đó khiến anh đau khổ, dằn vặt, buồn bã. ông lão đã đem hết tài sản của mình đến gửi cho chủ nhân để bảo quản an toàn. một hôm ông lão xin mồi chó và nói là đập chó làm thịt. ông giáo nghe chuyện đó rất buồn và bất ngờ nghe tin con hạc đã chết. một cái chết đau đớn và dữ dội, anh ta dùng mồi chó để kết liễu cuộc đời mình. Không ai trong làng hiểu tại sao, chỉ có thầy và tư mới hiểu.

Tuy với nội dung khá ngắn gọn và cốt truyện đơn giản nhưng truyện đã khắc họa rất thành công hình tượng người nông dân trước cách mạng. hạc hơn hết là một người cha mẫu mực, hết lòng yêu thương con cái. Vợ mất sớm, một mình gà trống nuôi con khôn lớn, đến khi chàng trai không thể lấy vợ vì không có tiền và uất ức đi làm ăn. một người cha như con hạc trong hoàn cảnh ấy không khỏi đau lòng, day dứt khi không làm tròn trách nhiệm của mình. Đó là lý do tại sao ông ngày đêm chờ đợi sự trở về của con trai mình. ông lão thường dựa vào đứa con vàng như nói về cha đứa trẻ. Đồng nào từ ruộng vườn, ông cố đều dành hết cho con cháu. tấm lòng của người cha nghèo đáng quý biết bao.

Không chỉ vậy, lão hạc còn là người có lòng tự trọng và nhân cách cao đẹp. Mặc dù lâm vào cảnh nghèo khó, không có gì ăn, sức cùng lực kiệt nhưng anh vẫn kiên quyết từ chối sự giúp đỡ của hàng xóm. Với một số tiền dành dụm được, anh gửi thầy để sau này khi chết sẽ lo tang lễ, không làm phiền hàng xóm. cũng chính vì lòng tự trọng gần như độc đoán ấy đã khiến anh nhìn cái chết như một sự giải thoát. Quyết định bán cậu bé vàng có lẽ là quyết định khó khăn và đau đớn nhất mà tôi từng làm. “ông lão cười mà mắt rưng rưng”, “khuôn mặt nhăn lại”, “nếp nhăn gom lại”… những chi tiết miêu tả tâm trạng của lão Hạc sau khi bán con vàng thật xúc động. anh ta coi con chó như người thân, như con cháu, nhưng anh ta đã lừa bán nó. một tính cách lương thiện cả đời, không biết hại người như anh, anh rất đau khổ và dằn vặt vì những gì mình đã làm. anh ta chọn cái chết để kết liễu cuộc đời mình bằng một liều thuốc mồi chó mà anh ta yêu cầu từ những người lính bình dân. cái chết của ông lão trở về khiến người đọc day dứt, đáng thương và cũng đầy suy tư. anh có thể chọn cho mình một cách chết nhẹ nhàng và êm đềm hơn thay vì cái chết dữ dội và đau đớn đó. anh ta có muốn tự trừng phạt mình sau khi lừa bán vàng cho anh ta không? cái chết là cách để anh giữ vẹn nguyên trái tim trong sáng của mình trong bước đường cùng của vận mệnh.

tường thuật về công việc của lão cần trục – mẫu 3

Nam cao (1917-1951) là nhà văn hiện thực vĩ ​​đại người Việt Nam, một trong những nhà nhân đạo tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Những tác phẩm của anh đã chống chọi được với thử thách khắc nghiệt của thời gian. Ngược dòng thời gian, tác phẩm của Cao Nam càng bộc lộ chủ nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật tài hoa, độc đáo của ông.

có nhiều đóng góp quan trọng vào sự hoàn thiện của truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. “Lão Hạc” là một trong những tác phẩm thành công nhất của cao cao. Vở kịch “Lão Hạc” ra mắt độc giả năm 1943. Câu chuyện về số phận bi thảm của người nông dân Việt Nam trước hiểm họa đói nghèo đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Đặc biệt, tác giả đã tập trung vào diễn biến tâm trạng của nhân vật chính là Hạc xung quanh việc bán chó, điều đó đã giúp ta hiểu thêm về tấm lòng của người cha nghèo, một con người có nhân cách cao đẹp, chịu thương chịu khó. sự thật về sự trung thực. cuộc sống.

Xuyên suốt các diễn biến của truyện, số phận khốn khổ của những người nông dân trước cách mạng hiện lên một cách chân thực và đẫm nước mắt nhất. Cuộc đời của người đàn ông sếu là một chuỗi những đau khổ: vợ mất sớm, anh ở vậy nuôi con, đứa con trai đau khổ đi làm thuê trên đồn điền cao su, bỏ lại anh một mình. một căn bệnh đã dùng hết sức lực cuối cùng của anh, số tiền dành dụm bấy lâu nay đã tiêu hết, thiên tai xảy ra, thất nghiệp, lão Hạc lâm vào ngõ cụt.

mỗi ngày trôi qua là một ngày sống trong dằn vặt và đau khổ. anh đau khổ vì bất lực trước cuộc sống, anh bất lực vì không lo được đám cưới cho con trai khiến con anh bỏ đi, giờ anh bất lực vì không thể tự lo cho mình. hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam trong đêm tối. cuộc sống của họ được tạo nên bởi những câu chuyện rất thực của một người đàn ông cao lớn, anh ấy đã viết một bài thơ thật như cuộc sống.

mỗi người nông dân đều thấy bóng dáng của mình xuất hiện trong các tác phẩm của mình: hiền lành nhưng không tốt, nghèo khổ, thiếu thốn, đau khổ nhưng lương thiện. Nam Cao với giọng văn riêng, với phong cách độc đáo của mình đã thể hiện tình yêu thương vô bờ bến, niềm cảm thông sâu sắc và sự ngợi ca, trân trọng chân thành những phẩm chất cao đẹp của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

Dường như những phẩm chất tốt đẹp ấy hội tụ đầy đủ trong tính cách của lão Hạc. hơn hết, ông là một người cha mẫu mực, hết lòng vì con cái, chăm sóc, yêu thương con hết mực. Sau khi không lo được đám cưới cho con trai nên đau khổ bỏ đi, lão Hạc luôn sống trong dằn vặt, đau khổ. ông lão ngày đêm lo lắng cho con trai, ông tính toán lo cho cuộc sống của con khi con trở về, dù không biết khi nào.

tình yêu của lão Hạc dành cho con trai là cung bậc đẹp đẽ và tuyệt vời nhất của tình phụ tử thiêng liêng. tình yêu dành cho trẻ em đã được truyền sang tình yêu đối với con chó vàng do người con trai của ông để lại. Dù chỉ là một chú chó nhưng anh đã coi nó như con người, cùng ăn, cùng ngủ, coi nhau như bạn bè. dường như cao trào của câu chuyện là đoạn người đàn ông cao tay miêu tả nỗi đau khổ tột cùng của con hạc khi phải bán con chó.

Tôi yêu nó rất nhiều, tôi yêu nó, tôi phải bán nó. Còn gì đau khổ hơn khi phải bán đi người bạn của mình? nhưng con sếu đã làm, tất cả vì tương lai xa của con trai nàng. sau khi bán vàng, anh ta đã ăn năn. lòng lương thiện, lòng nhân hậu của một người chưa bao giờ làm điều sai trái trong cuộc đời cay đắng làm khổ con hạc bằng cách lừa cô bán chó. Anh ấy đối xử với anh ấy như một đứa trẻ, như một người bạn, nhưng anh ấy có tâm để bán nó.

Điều đó khiến anh ta bị dày vò đến chết đi sống lại, cuộc sống của một người nông dân nghèo khó có nghĩa là con hạc không có một ngày no. nhưng phẩm chất tốt đẹp, lương thiện của một người đàn ông chân chính nghĩa là dù nghèo khó nhưng không bao giờ trộm cắp của ai, dù túng thiếu cũng chưa bao giờ ngửa tay xin xỏ ai. Chỉ vì thương con, quan tâm đến tương lai của con và bảo vệ bản chất lương thiện đến cùng, con sếu đã đưa ra quyết định đau đớn nhất đời mình: tự sát bằng mồi nhử chuột.

Chắc hẳn ai đã từng đọc “Lão Hạc” đều không khỏi xót xa trước sự đau đớn và cái chết dã man của ông lão. Bạn có muốn chết nhưng đau khổ như vậy không? tuy chết nhưng vẫn lo thu xếp cái chết, anh bình tĩnh lo hậu sự để khỏi làm phiền hàng xóm. Ông chấp nhận chết để bảo toàn tiền bạc cho con cái, chết để duy trì sự lương thiện của mình, chết trong đau đớn nhưng trong sạch.

văn xuôi của mỗi người là sự tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. ông yêu họ, thông cảm với họ và đánh giá cao họ. những người nông dân trước cách mạng phải sống cuộc đời tăm tối, lầm than, nhưng họ vẫn giữ được những gì trong sáng nhất, cao đẹp nhất của những con người lương thiện. Thành công của truyện “con sếu” không chỉ dừng lại ở nội dung phê phán rất tiêu biểu, hiện thực mà còn thành công ở giá trị nghệ thuật đặc sắc.

đọc những tác phẩm của nam cao, chúng ta cảm thấy rằng họ đang kể cho chúng ta những câu chuyện có thật trong cuộc sống do cách kể và cách dẫn truyện tự nhiên. Văn của Nam Cao mộc mạc, chân chất như vốn có, không cần trau chuốt. điều đó khiến người đọc hiểu, đồng cảm và thương hơn những người nông dân Việt Nam nghèo khổ, cực khổ nhưng đẹp đến lạ thường.

có lẽ văn học nam cao là lẽ sống và tiếng nói của mỗi con người. văn học và cuộc sống dường như không có giới hạn hay khoảng cách. Nam Cao là nhà văn có biệt tài miêu tả sâu sắc diễn biến tâm lí nhân vật mà khó nhà văn nào có thể so sánh được. Dưới lớp lông vũ nam tính, mọi chi tiết nhỏ nhất và gần gũi nhất của nhân vật cũng được thể hiện một cách chân thực.

Lão Hạc sau khi bán con vàng đã ăn năn, đau khổ không ngơi nghỉ. anh cố giấu nhưng càng giấu càng lộ rõ, vì anh quá đau. Anh cố làm ra vẻ vui vẻ. nhưng nó giống như một nụ cười và đôi mắt cô ấy đầy nước mắt. khuôn mặt già nua bỗng chốc co lại. những nếp nhăn chụm vào nhau buộc nước mắt chảy ra. đầu anh ấy nghiêng sang một bên và miệng nhỏ như một đứa trẻ. ông lão khóc hu hu … ”trên gương mặt lão hạc hiện lên những cảm xúc đau đớn nhất, ân hận đến tột cùng.

Bút pháp miêu tả của nhà văn đã rất thành công trong đoạn văn này. những chi tiết nhỏ nhất trên gương mặt nhân vật đều được cao thủ “vẽ” bằng những ngôn từ đầy biểu cảm. có lẽ chính tình người nồng nàn đã giúp cho con người thanh cao có được cảm xúc tinh tế và cách miêu tả sắc sảo như vậy.

không chỉ vậy, nam văn hào tài cao còn đọc được những lo lắng, trăn trở của lão Hạc, những lo toan tính toán nuôi dạy con trai khi trở về, thể hiện tấm lòng của một người cha đáng kính. . Dưới ngòi bút miêu tả của nam cao, lão Hạc đã trở thành một mẫu người nông dân Việt Nam điển hình: nghèo mà lương thiện, chịu thương nhưng lại cao đẹp, chăm lo cho gia đình cho đến khi chết.

những dòng cuối cùng của câu chuyện “lão hạc” kết thúc, người đọc vẫn thấy bồi hồi. Không chỉ đồng cảm với số phận của những người nông dân nghèo, chúng ta không chỉ đồng cảm, chia sẻ nỗi đau, khó khăn của họ mà còn trân trọng hơn ở họ những đức tính cao quý, lương thiện.

Đó là thành công lớn nhất của nhà văn khi tìm được sự đồng cảm của độc giả dành cho các nhân vật của mình. Bằng sự quan sát tỉ mỉ hiện thực cuộc sống, cảm nhận tinh tế về số phận con người và đặc biệt là tấm lòng vô cùng trân trọng con người, Nam Cao đã viết mãi những tác phẩm bất hủ.

tường thuật về câu chuyện của sa pa

Mỗi lĩnh vực trong cuộc sống đều mang đến cho con người những cảm hứng và cảm xúc khác nhau. văn học cũng vậy, nó là một lĩnh vực mà khi tiếp cận, người ta có thể cùng tồn tại, cùng cười, cùng khóc với nhân vật, cảm nhận được những tư tưởng đạo đức mà người nghệ sĩ gửi gắm. và tác phẩm “Lặng lẽ sa pa” của nguyễn thanh long đã khiến người đọc cảm nhận rõ điều đó.

nói đến nhà văn nguyễn thanh long, ông là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết và truyện ngắn từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Từng trang viết của Nguyễn Thành Long đầy chất thơ, giàu hương vị mượt mà, giàu cảm xúc, khiến người đọc như bước vào một thế giới mộng mơ, tao nhã, hơn nữa còn giàu chất triết lí sâu sắc trong từng câu chữ. câu chuyện “yên lặng sa pa” cũng là một trong số đó.

Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế sang Lào năm 1970 của tác giả, được in trong tập “Giữa trời xanh” (1972). Với tác phẩm này, nhà văn đã làm nổi bật chủ đề cuộc sống mới trong hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. từ đó, biểu dương những con người sống và làm việc thầm lặng, cống hiến hết mình cho đất nước.

Câu chuyện bắt đầu với hoàn cảnh của chuyến xe khách từ Hà Nội lên Lào Cai với một ông họa sĩ già, một tài xế và một kỹ sư trẻ. Cô họa sĩ và cô kỹ sư được người lái xe giới thiệu với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Dù cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng tính cách của chàng trai trẻ đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng mọi người. Anh tặng hoa, pha trà cho cô kỹ sư và kể về cuộc sống, công việc của anh, như sở thích nuôi gà, trồng hoa, làm bạn với công việc. Đặc biệt, khi họa sĩ muốn vẽ một bức chân dung của chàng trai trẻ, anh ta đã từ chối và giới thiệu anh ta với những người khác mà anh ta cho là xứng đáng hơn. khi họ chia tay, người họa sĩ hứa sẽ quay lại và người kỹ sư cảm động. chàng trai trẻ đã chạm đến trái tim của những vị khách mới.

Câu chuyện được chia thành ba phần, với ba sự kiện: phần đầu là người lái xe giới thiệu anh thanh niên qua câu chuyện của mình, phần đầu là cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa anh thanh niên và cô họa sĩ, bác sĩ và kỹ sư và phần đầu là một cuộc chia tay đầy kịch tính. Đồng thời, người đọc có thể cảm nhận được những nét chấm phá rõ ràng về vẻ đẹp thiên nhiên của Sapa và vẻ đẹp của con người Sapa.

thiên nhiên sapa đẹp dịu dàng, giàu chất thơ, ấm áp nắng, con đèo, cây hoa tử đằng, rừng cây ám nắng, tán lá ướt sương rơi ”. đường chính, ngay cả ngầm. ô tô ”. Bằng một vài nét vẽ cơ bản, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên sapa với vẻ đẹp thơ mộng, tao nhã, bằng ngôn ngữ trong sáng, những đường nét như “bàng bạc”, “đầu hoa cà nhô lên trên màu xanh của rừng”, “cuộn mình trong lác, lăn trên vòm lá ướt sương ”. hình ảnh đó dường như gợi ý điều gì đó về con người ở đây.

vẻ đẹp của những con người nơi núi rừng sapa không phải là những vị thần trong truyền thuyết, cũng không phải là những anh hùng lừng lẫy trong lịch sử, mà họ là những con người ngày ngày lao động trong thầm lặng. Phim kể về chàng thanh niên, qua lời kể của người tài xế, là “người cô độc nhất thế giới”, có nhiều “dục vọng của con người”, làm việc trên đỉnh núi yên bình cao 2600m, kết bạn với mây và cây cối quanh năm. trong điều kiện sống khắc nghiệt. trong ấn tượng của họa sĩ, đó là con người “trong cái tĩnh lặng của sapa, dưới những tòa nhà cổ kính của sapa, sapa mà chỉ cần nghe tên thôi là người ta đã nghĩ đến nghỉ ngơi, có những con người đang làm việc và nghĩ như thế vì đất nước”. người thanh niên đó có lòng yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc và tìm được niềm vui trong công việc; có sự chân thành, thẳng thắn và sự hiếu khách đáng quý khi cho củ tam thất cho vợ người lái xe, vui vẻ khi có khách đến thăm. còn ở anh là sự khiêm tốn và nếp sống ngăn nắp, trật tự do chính anh tạo ra với thói quen đọc sách, trồng hoa, nuôi gà … anh thanh niên là nhân vật trung tâm của truyện, và chỉ với anh với những nét vẽ giản dị, nhà văn đã khắc họa một con người giàu ý chí, cống hiến, yêu đời, yêu cuộc sống. Ngoài ra, còn có các nhân vật như họa sĩ, kỹ sư, lái xe, kỹ sư vườn cây ăn quả, điều tra viên bản đồ tia chớp. Họ là những nhân vật đã góp phần tạo nên những mảng màu khác nhau cho câu chuyện.

Lịch sử đã khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng trong cuộc sống. cốt truyện đơn giản, các nhân vật được xây dựng qua điểm nhìn của các nhân vật khác là yếu tố đặc sắc của tác phẩm. Qua câu chuyện này, nhà văn đã gửi gắm đến người đọc bài học về tinh thần hy sinh, cống hiến cho cuộc đời và cuộc đời.

“Lặng lẽ sa pa” là một truyện ngắn hay và xúc động. Nó xứng đáng là một tác phẩm mà mỗi chúng ta nên đọc và cảm nhận một lần trong đời.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc TOP 22 bài thuyết minh về tác phẩm văn học hay nhất – Văn 10. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *