Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
504 lượt xem

Lịch sử một câu nói

Bạn đang quan tâm đến Lịch sử một câu nói phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Lịch sử một câu nói

Câu này có trong bài văn tế đọc tại lễ giỗ cụ Nguyễn Du nhân ngày mất của nhà thơ (ngày 10 tháng 8 âm lịch) do ban văn nghệ thuộc hội minh văn thành phố Hà Nội tổ chức vào ngày 8 tháng 9. .1924. khách mời lên đến 2.000 người.

Tác giả của bài phát biểu là nhà bác học Phạm Quynh (1892-1945), lúc đó là Tổng thư ký Hiệp hội Chiếu sáng Quốc tế và cũng là Tổng biên tập tờ báo Nam phong. Ông đã đọc bài phát biểu của mình bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp để đông đảo người Pháp tham dự buổi lễ có thể hiểu được điều đó đồng thời với người Việt Nam.

bài phát biểu đó và cụm từ đó đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt và gay gắt, nội dung chính là mượn ngoại truyện để chỉ trích pham quy. cuộc chiến tranh tư tưởng văn học này nổ ra vào năm 1924, bùng phát trở lại vào đầu những năm 1960 và vẫn còn hoành hành cho đến ngày nay.

Hãy cùng ngược dòng lịch sử để xem tại sao khi ca ngợi Kiều và đề cao tiếng Việt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều mà Phạm Quỳnh lại bị “giáng đòn” nặng nề và dai dẳng đến vậy.

ngữ cảnh của câu

mở đầu bài phát biểu của phò mã, ông cho biết lý do tổ chức buổi lễ là ngày giỗ của vị tiên tổ, ban văn học của hội minh một người đàn ông ”. công nghiệp. “đã tạo dựng nên quốc âm của ta trên văn đàn, để lại cho chúng ta một” tiếng thơm “vô cùng cao quý, muôn đời vẻ vang cho muôn đời. dòng họ, nhưng là vị tổ chung của cả nước, ngày giỗ này không còn là của riêng một dòng họ nữa mà là ngày kỷ niệm chung của cả nước, nam nhi đều đọc ở nước ngoài, để mọi người cùng thưởng thức công nghiệp của Nguyễn Du, vì điều gì mà mọi người nên ghi nhớ. ân tình của tác giả đối với ngôn ngữ của đất nước.

Điều đó thật vui nhộn như thế nào? Phạm Quỳnh khẳng định địa vị, vai trò của Truyện Kiều đối với vận mệnh đất nước: “Truyện Kiều là ‘văn học’ của nòi giống Việt Nam ta đã ‘ghi tạc’ vào núi sông đất nước.” Phạm Quỳnh ca ngợi Truyện Kiều là “kinh, sử, thánh sử cho cả một dân tộc”, là “thiên văn kỳ diệu”, là quốc hoa, quốc túy, quốc hồn quốc túy của nước ta. rằng chúng ta có thể “ngạo nghễ với sông núi và tự phụ với thiên hạ rằng: chuyện ở nước ngoài còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, chuyện gì đâu. việc gì phải lo, không có gì phải sợ, còn gì bằng? ” nghi ngờ! … “(chữ in nghiêng của pham quynh).

Lịch sử một câu nói

đại thi hào nguyễn du.

Theo ông, việc Tiên Điền bỏ thiên hạ, Tiên Điền viết ở nước ngoài, những câu chuyện ở nước ngoài được lưu truyền đến nay là một “phúc lành” cho đất nước ta. nhưng so với thế giới, nhất là văn học Trung Quốc và văn học Pháp, truyện hải ngoại không có ai sánh bằng. Truyện kiều hay hơn truyện trung quốc ở chỗ “kết cấu” trong một bức tranh hoàn chỉnh không thêm bớt gì cả.

truyện kiều phổ thông hơn truyện pháp ở độ “bình dân”, cả người ngu lẫn người khôn đều thích. Nghĩ lại thì “truyện kiều cũng là một kỳ tích có một không hai trong văn học thế giới” nhưng kỳ tích đó chỉ do một người thực hiện, không dựa trên kinh nghiệm dày dặn của nhiều người như ở các nền văn hóa nghiên cứu khác, điều đó lại càng “cực đoan” (lời của pham quynh).

Kết thúc bài phát biểu, Phạm Quỳnh một lần nữa nhấn mạnh việc giỗ Tổ Nguyễn Du là để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của dân tộc đối với vị khai quốc công thần. mà hơn thế, đây còn là dịp triệu tập vong hồn quốc tổ để chứng minh lời thề của đồng bào.

“Nhà thơ nguyễn du của chúng ta đã làm được công việc khôi phục ngôn ngữ miền Nam và nâng nó lên vị thế của một thứ ngôn ngữ văn học đích thực.”

Do Phạm Quỳnh phát biểu tại Hội Hữu nghị Đông phương (5 tháng 7 năm 1922).

Tôi xin thề rằng: “lịch sử còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, non sông đất nước còn dài, chúng ta là đời sau, nên chí nguyện chí công. trau dồi quốc âm tại gia, để quốc hoa ngày càng sáng, quốc hồn quốc túy, quốc quân ngày một lớn mạnh, quốc tài ngày càng vẻ vang, để không phụ lòng hoài bão của mr lây! (1) (chữ in nghiêng của pham quynh).

do đó, câu nói “Kiều còn …” đã được Phạm Quynh nhắc đến hai lần trong bài phát biểu kỷ niệm của mình.

Bài phát biểu này nằm trong chương trình kỷ niệm Nguyễn Du nhân Ngày Đại văn hào (10 tháng 8 năm 1924). Lễ được tổ chức kết hợp giữa cũ và mới, với trầm hương, hương án, diễn văn ngâm thơ và nhạc. khách mời là nam giới và người Pháp. pham quynh bắt đầu thuyết trình bằng hai thứ tiếng để người Pháp biết ai là nguyễn du và đâu là kiều. Sau đó, Trần trong kim đã có một bài phát biểu kéo dài một giờ (bài phát biểu này sau đó được dùng làm lời tựa cho cuốn sách kieu de bui ky và tran trong kim soạn).

tiếp theo là nhị vượng và chức sắc không phân biệt kiều. cuối cùng, một phụ nữ trẻ đứng lên và hát một bài hát kỷ niệm cho nguyen du de nguyen don phuc. Không khí của buổi lễ được kể lại trong điều 86 của Nam phong: “Đại chúng tham dự hai vạn, trong phút chốc cả sân bên dưới chật kín người bên trên. các thành viên và quý bà phương tây ước có ba mươi bốn mươi người. có một số giáo viên mới ở phương tây. ông cầu xin xem người An Nam tôn trọng một người nổi tiếng trong nước như thế nào. ở thành phố ta, từ xưa đến nay, chỉ có tiệc trà chiêu đãi quan tổng đốc sarraut đến nói chuyện ở văn miếu năm 1919 là đã hội tụ được biết bao nhiêu người ”(2)

nguồn gốc của bài phát biểu

Việc tôn vinh nguyễn du và ca tụng truyện này không phải ngẫu nhiên. Đó là đỉnh cao của cả một phong trào viết về những kiệt tác văn học của dân tộc trên tờ Nam phong nhật báo của chủ bút Phạm Quynh và nhiều tác giả (3). Phong trào này nằm trong chính sách của pham quynh muốn thực hiện chủ nghĩa dân tộc trong văn hóa và giáo dục để chống lại sự xâm lăng văn hóa từ vùng đất của pháp luật.

ngay tại Paris, trong một bài phát biểu yêu cầu một nền giáo dục cho nam giới trước các trí thức Pháp trong khoa khoa học, đạo đức và chính trị của học viện Pháp (ngày 22 tháng 7 năm 1922), pham quynh đã thẳng thắn tuyên bố: “Người dân miền nam thậm chí không phải là một tờ giấy trắng; nó là một cuốn sách cổ chứa đầy những từ được viết bằng mực không thể xóa nhòa từ các thời đại quá khứ; không thuốc thử nào có thể xóa hoàn toàn chúng, và người ta không được tự do viết bất cứ thứ gì mình muốn trên đó ”. (4).

Anh ấy là học trò của pháp luật, anh ấy làm việc vì giáo pháp, nên anh ấy biết rằng khuynh hướng không thể cưỡng lại là du nhập văn hóa phương tây, tiến hóa theo châu âu. Anh chấp nhận nó như một lẽ tất yếu, một vấn đề sinh tử. nhưng ông cũng thấy rằng “tiến hóa không phải là đi từ con số không mà là đi lên. phải có một cái gì đó trong gốc. một cái gì đó bao gồm cả quá khứ của dân tộc. hiện tại và tương lai của dân tộc phụ thuộc vào nó ”(5). muốn khơi gợi và lan tỏa vốn văn hóa dân tộc này. đó là lựa chọn của ông để làm chính trị trong bối cảnh đất nước ông bị ngoại bang đô hộ. tuyên bố của anh ấy “để văn hóa không làm chính trị” chỉ là một cách nói anh ấy làm chính trị vì lợi ích của văn hóa.

Lịch sử một câu nói

Tượng đài Đại thi hào Nguyễn Du được đặt tại Tượng đài Đại thi hào Nguyễn Du ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. ảnh: tl

Truyện Kiều là kiệt tác của văn hoá dân tộc, là đỉnh cao của văn học và là tiếng nói dân tộc, nên đương nhiên, theo chủ trương của mình, ông đã bằng mọi cách phát huy nó và lấy nó làm vũ khí cho cuộc vận động các phong trào văn hoá của dân tộc mình. Trong buổi nói chuyện tại hội hữu nghị miền đông (ngày 5 tháng 7 năm 1922) trước cử tọa Pháp về thơ ca miền Nam, Phạm Quynh đã dành nửa bài để bàn về giá trị của tiếng Việt ở nước ngoài và ảnh hưởng của nó đối với chữ quốc ngữ Việt Nam. Ông nói: “Nhà thơ nguyễn du của chúng tôi đã làm những gì cần thiết để khôi phục lại ngôn ngữ miền Nam và nâng nó lên vị thế của một ngôn ngữ văn học thực thụ. (6)

Trong tất cả bài nói chuyện này, ông có mục đích quảng bá tiếng nói dân tộc, đòi quyền sống của ông trước âm mưu của các thế lực thực dân muốn tiêu diệt ngôn ngữ miền Nam để mở đường cho Pháp ngữ. Ông nói: “Nếu một quốc gia sống bằng ngôn ngữ của mình, chúng ta quyết tâm sống, nghĩa là bảo vệ sự toàn vẹn của mình, và làm giàu cho bản thân nhiều nhất có thể bằng ngôn ngữ dân tộc của mình”. Chính từ chính sách này, chúng tôi hiểu câu nói nổi tiếng mà ông đã phát âm trong bài diễn văn kỷ niệm của mình “Kiến quốc còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Bạn cần đưa câu nói đó và bài diễn văn năm 1924 vào hệ thống với một bài khác mà Phạm Quỳnh viết trên Kiều Đăng Nam Phong lịch sử số 30 năm 1919 để hiểu đầy đủ và chính xác. Trong bài viết này, ở mục Hai – Tác giả, Phạm Quỳnh đánh giá cao công lao cứu Quốc Văn của Nguyễn Du khỏi vở kịch bất hủ; từ đó, ông khuyên nên quay về với lý tưởng cũ và đặt điều tiếng trước công lao, công đức.

XEM THÊM:  Tác giả, Tác phẩm Ngữ văn lớp 8 - Nội dung tác phẩm, Dàn ý phân tích, Bố cục, Tóm tắt, Giá trị, Tác giả

pham quynh có một tình yêu đối với người Việt Nam và do đó yêu thích và trân trọng lịch sử của kiều bào. Theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa của mình, Phạm Quỳnh đã vận động để dạy tiếng Việt và văn học Hán Việt trong các trường học Pháp-Việt.

Anh ấy viết: “Để tuyên bố không phải là ném sự tồn tại hữu hạn của một đời người vào sự tồn tại vô hạn của một chủng tộc, để trở nên bất tử thông qua chủng tộc, và chủng tộc cũng vậy. Nhờ có tôi, tôi có thể sống trong phong phú? “? chừng nào có người nam sống ở bán đảo indochina này và người nam còn nói được tiếng nam thì vẫn sẽ có người đọc truyện kiều, truyện kiều sẽ tiếp tục được đọc khi hồn cốt còn sống mãi. Dòng máu Việt Nam không bao giờ mất đi trong không khí. Chà, linh hồn bất tử nghĩa là gì? & lt; … & gt ;.

tư tưởng cho các nhà thơ và nhà văn trong thời đại bất tử, đó là tác phẩm của ông; nếu đáng thời gian, linh hồn của hắn sẽ cùng sông núi, cùng với dòng dõi lưu truyền muôn đời, tưởng cũng có thể gọi là trường sinh bất lão, bởi vì đều là kết quả của cùng một giống nòi, giống như ngươi và ta. . , chủng tộc của ta và ta là một, còn gì tuyệt hơn? … “. Bạn có thể nghĩ rằng có một ý đồ chính trị nào đó ở đây, nhưng nội dung của những điều trên không phải là xấu.

Cuối bài, Phạm Quỳnh viết: “Những nhà văn tài năng luôn tự mình dựng nên một câu chuyện, nhưng sự tin tưởng đó rất nghiêm túc và sâu sắc, nó có thể diễn ra. Nó chiến thắng trái tim đa sầu đa cảm của tất cả những ai biết. . ”. cách yêu và cách nghĩ về cuộc sống. do đó, con người vẫn còn tình cảm và suy nghĩ. đọc truyện kiều còn xúc động, còn người nói tiếng nam, học thời mà lời kiều nữ vẫn văng vẳng bên tai người việt. mãi mãi ”(8).

Trong bài viết đó, trong khi phê bình nghiên cứu văn học phương Tây, tác giả Quynh đã nghiên cứu và phát hiện ra một số điểm đáng chú ý cả về nội dung và nghệ thuật của truyện kiều, chứ không phải “thực tế”. nó thiên về nói về nó hơn là đi sâu vào phân tích cụ thể. như nhà nghiên cứu nguyễn văn trung đã từng nói (“trường hợp phạm quy”, xuất bản bởi Nam Sơn, Sài Gòn 1975, trước khi chế độ Việt Nam kết thúc. Cộng hòa). pham quynh cũng đưa ra những suy nghĩ của mình về mrs kieu.

cho rằng “Thủy kiều có phẩm cách của một người phụ nữ, nhưng lại có phong thái của một vị khách giàu có, đủ đức độ để mệnh lệnh kính trọng, đủ trí tuệ để làm tình, đủ dũng khí để làm bạn quý, đủ thân khiến cho tình yêu, do đến hoàn cảnh khó khăn mà nặng đời, biết yêu thương kính trọng nhưng còn khiêm tốn; ở chỗ xấu hổ nhưng vẫn giữ được thanh cao, gặp khó mà không mê đắm, kiều phu nhân thật sự bao dung nên ai cũng phải kính phục, quý mến, quý mến, kính trọng ”. / p>Bài viết về truyện ở nước ngoài năm 1919 của pham quynh là một bài nghiên cứu trong đó “phải dùng phương pháp phê bình và nghiên cứu văn học Thái Lan để nói lên cái độc đáo và giá trị của một kiệt tác trong nền văn học dân tộc ta”. và trên thực tế, đã nghiên cứu và phát hiện ra một số điểm đáng chú ý về nội dung và nghệ thuật của truyện Kiều chứ không phải “thực chất mang tính chất cổ tích hơn là phân tích cụ thể” như một nhà nghiên cứu đã nói (9). Điều thú vị là chúng ta thấy có nhiều điểm tương đồng về ý tưởng giữa bài hát này của Phạm Quỳnh (1919) và bài “Nguyễn Du tấm lòng bao dung” của Hoài Thanh (1965). trích dẫn như một ví dụ.

pham quynh : “xét trong truyện của kiều thì văn xuôi rất hay nhưng ý nghĩa lại rất sâu sắc, ngôn từ có văn hóa đến mức không ai nghĩ ra được nữa, và trong một câu không thể dịch một chữ, đổi một chữ, giọng văn hồn nhiên như trong ống tự nhiên “(10). hoai thanh :” từ trước đến nay, độc giả luôn xem truyện Kiều như một viên ngọc quý. điều đó không thể thay đổi, bằng cách thêm hoặc bớt bất cứ điều gì, giống như một cây đàn kỳ lạ hầu như không bao giờ trượt một cú đánh ngang. cúi chào “(11).

pham quynh : ”hàm ý trong câu chuyện của kiều đó là tiếng đàn của anh, tiếng lòng đầy đau thương, xuyên suốt câu chuyện không có gì giống như dư âm bên tai. .. ” (sđd, tr. 130) hoai thanh : “xây dựng một con người như vậy, một cuộc đời như vậy là cách để nguyễn du bày tỏ chính kiến ​​của mình trước những vấn đề của thời đại. trên hết là tiếng kêu đau đớn. tiếng kêu đau đớn thống khổ, xuyên suốt cuốn sách, không ngừng văng vẳng bên tai ”(sđd, tr. 149).

pham quynh cũng nhận xét: “vẽ người như vậy khéo lắm, nhưng đó là cách vẽ chính thống, còn cách vẽ là gãy bút, chỉ vài câu thôi, a ít chữ nhưng có thể hình dung ra toàn bộ nhân cách của một người, như đánh dấu thiên cổ không bao giờ có thể sai … mã học sinh tỏ rõ kẻ buôn người giả văn chọn vợ, tu ba thật là một mẹ giàu. đối với ác, sở là đầu sỏ hào kiệt “; (sđt, tr.136). hoai thanh :” đối với nhà thổ, nguyễn du bút không tò mò, nguyễn du ngại tìm ra cái gì mà quá bẩn, nguyễn du chỉ viết vài nét thôi, nhưng vài nét thôi cũng đủ cho cả cái xã hội bẩn thỉu sống dưới ngòi bút của nguyễn du … hơn nữa nguyễn du đã thâm nhập vào tận cốt tủy của họ rồi, nếu không thì không thể bắt giữ như thế này linh hồn ma quỷ của hắn ”(sđd, tr. 160-161).

Lịch sử một câu nói

Bức tranh thủy mặc của họa sĩ Lê Văn Đệ (1906 – 1966), thủ khoa đầu vào trường cao đẳng mỹ thuật tỉnh Đông Dương (1930). ảnh: tl

Chuyện <3 kiều đã trở thành câu cách ngôn xa xưa, dù người bình thường cũng biết dùng trong khi nói như dùng tục ngữ, phương ngữ. (sđt, tr.129). hoai thanh : “cuộc sống muôn màu muôn vẻ … nhưng dưới ngòi bút của nguyễn du, mọi người đều được xây dựng như thật, điều đó khiến nhiều người đọc truyện kiều, nghe truyện kiều, mỗi người mỗi vẻ. hoàn cảnh hiếm khi tìm được một vài câu nói đúng ý của chúng ”(sđd, tr.163).

pham quynh : “tóm lại, lịch sử kiều có đủ loại phong cách văn chương, mỗi loại đều đạt đến cực điểm, mỗi loại hình thức đều có phương diện riêng, mỗi hình thức thời đại” mười phân vẹn mười “(sđd, tr. 141) hoai thanh :” chúng ta có thể nói nhiều đến các thể loại văn trong truyện ở nước ngoài, văn tự sự, văn gợi, người- xây dựng, câu chuyện tình yêu, thậm chí là kịch tính và lời thoại “(số điện thoại, trang 164).

và cuối cùng là ngôn tình dã sử, điểm bị công kích nhiều nhất, trước sau gì người ta vẫn gặp.

<3 kiệt tác trong các nền văn học khác mà không phải xấu hổ. đủ biết rằng ngôn ngữ của chúng ta cũng đủ phong phú, nếu luyện tập nhuần nhuyễn thì cũng có thể làm nên văn chương hay, không thua gì các ngôn ngữ khác, chứ không phải như nhiều người lầm tưởng đó là ngôn ngữ bán nguyên thủy nên phải đi mang theo. đến thế giới để nghiên cứu văn học của các nước khác. cũng lạ là trước kiều không có tiếng việt hay kiều, mà sau có kiều thì không có chữ viết hay, đủ biết dân ta xưa nay luôn coi thường quốc âm, không chịu tu hành, uổng phí. thiên thời địa lợi nhân hòa đã ban tặng cho nó cái ác để mở ra nòi giống tiến hóa ”(Sđd, tr. 142). hoai thanh : “nhưng nói vắn tắt, về ngôn từ, về ngôn từ, không có nhà văn, nhà thơ nào sánh được với Nguyễn Du trong lịch sử văn học Việt Nam. Không nơi nào tiếng Việt phong phú mà chính xác, tinh vi, trong sáng, truyền tải được đúng tinh thần của sự vật và sự kiện như ở nơi đây ”(Sđd, tr.164).

Rõ ràng, Phạm Quỳnh yêu người Việt, vì thế cũng yêu và quý trọng lịch sử của Kiều. Theo chủ nghĩa dân tộc văn hóa của mình, Phạm Quỳnh đã vận động để dạy chữ Quốc ngữ và Hán-Việt trong các trường học Pháp-Việt. Trước những đòi hỏi dai dẳng của ông và thời thế thay đổi, tháng 7 năm 1924, chính phủ Pháp chuyển Trường Luật và Hành chính Đông Dương thành Trường Cao đẳng Đông Dương, nơi đặt Khoa Ngữ văn và Văn học Hán ngữ, do đó Quỳnh được mời giảng dạy. Tại bài diễn văn mở đầu cho việc thành lập khoa này (ngày 25-10-1924, tức hơn một tháng sau ngày giỗ cụ Nguyễn Du), Phạm Quỳnh một lần nữa khẳng định: “Tôi có một lòng hướng thiện đặc biệt đối với sinh viên Hán học và có một tình yêu sâu sắc. cho tiếng mẹ đẻ của chúng tôi. ” (12)

chỉ trích và biện minh

Như đã đề cập, bài phát biểu của pham quynh tại quốc vang về truyện kiều, trong đó pham quynh cho rằng “truyện còn, tiếng ta, tiếng ta, nước ta còn” đã gây ra một cuộc tranh cãi gay gắt và dữ dội vang dội vào năm 1924. chiến tranh bắt đầu từ the confucian confucian post ngo duc thành công thì phan, huynh đệ phản đối. Ông. ngo và mr. huynh tưởng mình phạm tội mượn nước ngoài làm chính trị hại dân, hại nước nên vu khống chuyện kiều nữ một cách dã man, vô tình. xúc phạm nguyễn du quá. Ông. phan trung làm quan trong văn sử, phê bình phò tá có thái độ “bác học”, nhưng cũng không đồng ý với mr. ngo, giết chết kiệt tác văn học của dân tộc. sau nhiều lần đăng bài qua lại, cuộc chiến đã dừng lại không ngừng.

XEM THÊM:  Tóm tắt ngắn gọn truyện kiều của nguyễn du

vào đầu những năm 1960, trên tạp chí nghiên cứu văn học của viện văn học, một số nhà nghiên cứu đã tìm lại thực chất của cuộc tranh luận về loại hình này, đó là quay lại việc giám định tiền án trong lịch sử văn học. lịch sử. câu hỏi nảy sinh từ một nhận xét của các tác giả của nhóm le quy don trong cuốn sách ngắn về lịch sử văn học Việt Nam, tập iii, xuất bản năm 1957, với nội dung như sau: “Cuộc tranh luận xung quanh lịch sử del kieu là một vấn đề sự kiện siêu việt trong lịch sử phê bình ở nước ta. phe chống đối bao gồm ngoại tộc yêu nước, huynh đệ kháng chiến, và một số thân tín bảo thủ. họ xem câu chuyện như một bài phê bình về một cuốn sách đạo đức. tuy nhiên, họ đã hiểu rõ sự thật khi vạch trần ác ý của những kẻ cầm đầu phong trào sùng bái ở nước ngoài và tác hại của phong trào đó đối với giới trẻ.

phái ca tụng hải ngoại đông hơn, do pham quynh đứng đầu, nặng về phạm vi đoạn trích. do thái độ sống mới hơn, nghĩa là bao dung rộng rãi hơn đối với cá nhân, do đồng cảm với những đòi hỏi tình cảm của con người nên họ đồng ý với nội dung truyện kiều từ đầu đến cuối nhưng họ không đồng ý theo cảm nhận của mình. lý luận. và tập trung sức lực của họ vào việc học kỹ thuật. theo nghĩa này, họ đã khám phá ra nhiều điều đáng chú ý ”(trang 199, phần nhấn mạnh của tôi – pxn).

Câu nói này ở phần đầu vẫn gắn với khái niệm chính trị của một thời đại, nhưng ở phần cuối thì nó “thoáng” hơn một chút khi nói về cách nhìn những câu chuyện ở nước ngoài của my pham quynh. tuy nhiên, dù “hở” một chút cũng không thể chấp nhận được. Theo quan điểm của nhóm Lê Quý Đôn, một cuộc tranh luận về lịch sử Truyện Kiều giữa Phạm Quỳnh và các nhà Nho lại diễn ra với giọng điệu chung chung là bác bỏ lời tuyên bố của nhóm Lê Quý Đôn và buộc tội Phạm Quỳnh. các nhà nghiên cứu nguyễn đình chu, vũ ngọc khánh, nguyễn văn hoan và một số người khác đã tham gia cuộc thi này.

Năm 1975, trước khi chế độ cộng hòa Việt Nam sụp đổ, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã xuất bản một cuốn sách tại Sài Gòn về trường hợp của phạm quy. Trước đó, anh có một cuốn Nam Phong. Cả hai cuốn sách đều được tác giả viết trên tinh thần phi thực dân hóa, sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (1.1973). Quan điểm của Nguyễn Văn Trung về quan điểm của Phạm Quỳnh đối với người Việt Nam ở nước ngoài thể hiện trong hai chuyên khảo cũng gần với quan điểm của các học giả trao đổi trên các tạp chí nghiên cứu văn học.

viết: “pham quynh nhằm vào các mục đích chính trị thâm độc do các học giả thuộc địa đưa ra bằng cách giới thiệu ngôn ngữ và văn học Việt Nam. Như chúng tôi đã trình bày trong Chương Hai, Nam Phong, Phạm Quỳnh chủ trương một loại ‘chủ nghĩa dân tộc ngôn ngữ’. đó là tầm nhìn coi việc bảo vệ và duy trì tiếng nói của dân tộc qua các kiệt tác văn học là hình thức yêu nước và cứu nước đầy đủ nhất. chủ trương lừa bịp là chỉ có thể coi văn chương là phương tiện khơi dậy ý thức dân tộc dẫn đến cuộc đấu tranh cứu nước thực sự, nhưng phải coi như yêu văn chương và ngôn ngữ là đủ, không cần phải diễn. , vì những câu chuyện ở nước ngoài, tiếng ta còn, nhưng tiếng ta còn, đất nước ta còn ”(13).

cuối cùng, cả cuộc tranh luận về miền Bắc vào đầu những năm 1960 và hai cuốn sách vào giữa những năm 1970 đã đưa tác giả trở lại lịch sử truyện kiều.

trong khi những người theo chủ nghĩa đồng tình, những nhà nghiên cứu về marxist chỉ trích gay gắt Phạm Quynh về một bài phát biểu, một câu nói về những câu chuyện của kiều thì vẫn có những tiếng nói đồng tình, khẳng định quan điểm của học giả.

trong suốt gần 100 năm kể từ khi pham quynh thốt ra câu nói nổi tiếng “Kiến quốc còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, bên cạnh những lời chỉ trích, phê phán gay gắt, vẫn và những tiếng nói đồng tình. với. và khẳng định giá trị của lời nói của mình.

nhà nghiên cứu pham thứ năm, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng những tranh cãi năm 1924, đã kết luận: “công bằng mà nói, ông quynh, ông vinh lúc bấy giờ đang dịch, chú thích, và ca tụng truyện ở nước ngoài. của pháp), không phải là tay sai của pháp, truyền bá văn học dâm ô. Đơn giản là họ lấy một thứ vũ khí văn hóa thật thà và trung thực để có thể nói chuyện với pháp, hoặc chí ít lấy dũng khí để tự an ủi mình. “( 14)

chú vuong hong sen, một học giả miền Nam, đã hiểu được ý nghĩa của pham quynh. khi được hỏi về câu hỏi: “lịch sử của kiều còn ở tiếng ta …”, anh trả lời: “câu này chỉ có nghĩa là nếu giọng hát của bạn được chăm sóc tốt hoặc được yêu mến như kiều thì bạn đã đạt đến mức tương đối và của bạn. tiếng nói đã đạt đến mức tương đối, nếu ta thua, để tiếng nước ngoài xâm nhập đồng nghĩa với việc đất nước sẽ mất. ngày nay, khi chúng ta nói về tiếng Việt trong các câu chuyện nước ngoài trong bối cảnh ngôn ngữ của chúng ta đang bị tiếng nước ngoài xâm nhập dữ dội.

nhà phê bình văn học Hoài Thanh ở cuối tiểu luận “một thời đại trong thơ” ở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” (1942) nói về bi kịch thất vọng của một thế hệ văn học giữa cuộc biến động Á-Âu, tìm thấy trong cụm từ của pham quynh là một điểm hỗ trợ để bình tĩnh lại. Anh ấy viết:

“bi kịch mà họ đã gửi đến cho người Việt Nam. họ yêu thích ngôn ngữ đến nỗi trong suốt nhiều thế kỷ, họ đã chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với cha mẹ của họ. họ gửi gắm tình yêu quê hương đất nước vào tình yêu đối với người Việt Nam. Người Việt Nam, họ nghĩ, là tấm lụa đã khơi nguồn tâm hồn của bao thế hệ qua. đến lượt mình, họ cũng muốn mượn tâm hồn trong trắng chung để gửi gắm nỗi niềm riêng.

nhưng trong tuyệt vọng sẽ có hy vọng.

Chưa bao giờ họ hiểu được câu nói dũng cảm của ông chủ tờ báo Nam Phong (Phạm Quỳnh): “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. >

chưa bao giờ họ cảm thấy rằng tinh thần của chủng tộc, cũng như các thể thơ cổ xưa, chỉ có thể thay đổi và không bao giờ bị tiêu diệt.

chưa bao giờ họ cảm thấy cần phải nhìn về quá khứ để tin vào những gì đủ vĩnh cửu để đảm bảo cho ngày mai ”(16) (chữ nghiêng của tôi – pxn).

Những lời tâm huyết này, được viết mười bảy năm sau lời tuyên bố của pham quynh, đủ để chứng thực giá trị của lời tuyên bố đó và tấm lòng của người nói ra điều đó. Câu nói được khắc trên lăng Phạm Quỳnh ở Huế: “Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

pham xuan nguyen: nhà nghiên cứu văn học, hội du học Việt Nam.

hà nội 7.2020

________________

(1) pham quynh, “nghị luận trong văn học quốc ngữ”, nam phong, số 86 (8.1924). Trích dẫn: Tuyển tập Phê bình văn học Việt Nam, tập 1, Nguyễn Ngọc Thiện (Chủ biên), Nxb Văn học, 1997, tr. 270-277.

(2) leader: pham the thứ năm. lịch sử văn học việt nam, giản ước, mỹ lệ, tập iii, văn học cận đại (1862 – 1945), quốc học tập sự xuất bản, sài gòn, tr. 153.

(3) Bài báo đầu tiên của Phạm Quỳnh Đăng Nam Phong vào cuối năm 1919. Trong bài báo đó, ông đã áp dụng phương pháp phê bình văn học của người Thái Tây để phân tích Truyện Kiều về cốt truyện, nhân vật, tâm lý và nghệ thuật. Kể từ đó, Nam Phong liên tục đăng các bài viết về các học giả Việt Nam ở nước ngoài, như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Triệu Luật, v.v. trong số 75 (1923), nam phong có mục “đã bàn”. đóng góp vào những câu chuyện ở nước ngoài. ”

(4) pham quynh. tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932, nhà xuất bản tri thức & amp; trung tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây, h. 2007, tr. 406.

(5) tiếp theo: pham the thứ năm, số điện thoại, tr. 144.

(6) pham quynh. các tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong giai đoạn 1922 – 1932, sđd, tr. 57.

(7) pham quynh. các tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong giai đoạn 1922 – 1932, sđd, tr. 61.

(8) tôi nhấn mạnh – p.x.n.

(9) nguyen van hoan. “trao đổi sơ bộ ý kiến ​​về chủ đề gây tranh cãi” truyện kiều “năm 1924”, tạp chí “điều tra văn học”, số 6/1962.

(10) pham quynh. Thương chi văn tập, tập iii, éditions alexandre de rhodes hanoi, tr. 128.

(11) hoai thanh, “nguyễn du có tâm hồn rộng lớn, nghệ sĩ tuyệt vời.” kèm theo: nhị thập niên sinh nguyễn du, sđt, tr. 141-168. tất cả các trích dẫn của hoai thanh đều được lấy từ nguồn này.

(12) pham quynh. các tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong giai đoạn 1922 – 1932, sđd, tr. 490.

(13) nguyen van trung. vụ án. kho sách về dân tộc thiểu số, nam sơn xuất bản, sài gòn 1975, tr. 125.

(14) vi phạm vị trí thứ năm. lịch sử văn học việt nam, giản ước, mỹ lệ, tập iii, văn học cận đại (1862 – 1945), sđd, tr. 159.

(15) trích: nguyễn văn trung. vụ án. nam sơn xuất bản, sài gòn 1975, tr. 70.

(16) nỗi nhớ – nỗi nhớ. Thi nhân Việt Nam, nhà xuất bản văn học, 1992, tr. 52.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Lịch sử một câu nói. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *