Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
467 lượt xem

Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ đất nước

Bạn đang quan tâm đến Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ đất nước phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ đất nước

phân tích suy nghĩ của con người về đất nước trong bài thơ Đất nước được chọn lọc dàn ý, sơ đồ tư duy và 14 bài văn mẫu hay đạt điểm cao của các bạn học sinh khá giỏi. Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa thành công hình ảnh đất nước con người với những tâm tư, tình cảm sâu sắc. Không chỉ vậy, hình ảnh những con người được nâng lên, trở thành biểu tượng thiêng liêng của đất nước, những người đã tạo dựng, gìn giữ và phát triển đất nước giàu đẹp như ngày nay.

Để làm một bài văn phân tích suy nghĩ của nhân dân về đất nước , cần phân tích ba luận điểm sau: đất nước của nhân dân được thể hiện trong thời gian lịch sử; đất nước của nhân dân được thể hiện ở bề rộng của không gian địa lý; đất nước của nhân dân thể hiện ở bề dày văn hóa. vì vậy đây là 14 bài viết về những ý tưởng hay nhất của quốc gia, mời các bạn học sinh lớp 12 theo dõi tại đây.

bản đồ tinh thần của người dân đất nước

Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân siêu hay (14 Mẫu)

dàn ý phân tích suy nghĩ của mọi người về đất nước

i. mở đầu

– giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyên khoa học và công việc đất nước.

– giới thiệu vấn đề cần phân tích: tư tưởng đất nước của con người

ii. nội dung bài đăng

1. viễn cảnh đất nước qua từng thời đại:

– thời trung cổ: đất nước thuộc về nhà vua, lãnh thổ gắn liền với quyền cai trị của nhà vua.

– ở thời cận đại: “dân là dân, nước là nước của dân” (Phan Bội Châu) nhưng vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến ​​phương Đông và tư tưởng tư sản. >

– thời hiện đại: đất nước của đại đa số mọi người.

2. kiểm tra tư tưởng dân tộc của người dân:

* đất nước của người dân được thể hiện qua chiều rộng của lãnh thổ.

– không gian thân mật gắn với những kỷ niệm tình yêu đôi lứa:

“Đất là nơi bạn đến trường, nước là nơi bạn tắm, nông thôn là nơi chúng ta hẹn hò”

– đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo dựng từ thuở ban sơ với truyền thuyết:

“đất là nơi chim quay về, và nước là nơi rồng sống…”

* đất nước của người dân được thể hiện trong chiều dài câu chuyện:

– đất nước được tạo nên bởi những con người giản dị và vô danh, nhưng nó vô cùng tuyệt vời.

– những con người vô danh đó đã làm nên những giá trị vật chất và tinh thần để trao truyền cho con cháu:

  • “hạt gạo”: là biểu tượng của giá trị vật chất và là biểu tượng của nền văn minh lúa nước.
  • “truyền lửa”: ngọn lửa của nền văn minh, của sức nóng, tình yêu cách mạng và lòng yêu nước, thủy chung.
  • “Tiếng nói”: là tiếng nói của một dân tộc, là linh hồn, là sự tồn tại của một dân tộc, là những giá trị tinh thần quý giá. .

* Đất nước của con người được thể hiện trong chiều sâu của nền văn hóa:

– truyền thống cũ:

  • Tục ăn trầu của bà.
  • Tục chải đầu của bà.
  • Nhân ái, thủy chung.
  • biết bao đánh giá cao tình bạn.
  • mạnh mẽ chống lại kẻ thù.

3. nghệ thuật

– giọng nói thì thầm với trái tim.

– những hình ảnh quen thuộc và gần gũi.

– sử dụng chất liệu dân gian: ca dao, tục ngữ, hình ảnh…

iii. kết luận: tư tưởng dân tộc của nhân dân thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.

..

gợi ý về quốc gia của thị trấn

– giới tính

loại chứng minh văn học, tức là bằng chứng về một ý tưởng (thông qua việc phân tích một bài thơ trữ tình).

– nội dung

Tư tưởng đất nước của nhân dân (Bài ca dài khát vọng mặt đường – Nguyễn khoa điểm).

Trong bài thơ, đất nước được coi là một đơn vị lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục tập quán và phụ thuộc lẫn nhau giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc, giữa thế giới với thế hệ này qua thế hệ khác qua trung ương. tư tưởng về đất nước của nhân dân.

Phần nội dung có thể được dàn trải qua hai đoạn văn chính như sau:

a. thông qua thiên nhiên

1. tác giả có một cái nhìn mới và sâu sắc về địa lý, những địa điểm đẹp như tranh vẽ trên khắp đất nước. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, núi Bút không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy mà được cảm nhận qua cảnh ngộ, số phận của con người và được ghi nhận là sự đóng góp của nhân dân, là hiện thân của những con người không tên tuổi:

những người vợ yêu cầu chồng mình cũng góp cho quê hương những ngọn núi hy vọng, đôi lứa yêu nhau góp thêm cho mái nhà biển đảo, sinh viên nghèo góp cho quê hương, núi non, lông núi, con cóc. và những chú gà của quê hương cũng góp mặt tại TP Hạ Long. những nơi đẹp như tranh vẽ

2 . Thiên nhiên đất nước, qua con mắt của nhà văn khoa bảng, hiện lên như một phần hồn và máu của con người. chính những người của chúng tôi đã tạo ra đất nước này. Người đã đặt tên, Người đã in dấu cuộc đời mình trên từng ngọn núi, con sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “gợi mở” một sức khái quát sâu sắc.

và khắp nơi trên đồng, trên gò, không thấy bóng dáng, ước vọng, lối sống của tổ tiên>

b. ở người

1. những suy nghĩ về đất nước của nhân dân đã chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước. nhà thơ không ca ngợi các triều đại, cũng không nhắc đến tên tuổi của những anh hùng được ghi trong sử sách mà chỉ tập trung vào những con người vô danh, bình dân và chất phác. Quê hương trên hết thuộc về nhân dân, của những người bình thường và vô danh:

họ sống và chết một cách giản dị và thanh bình, không ai nhớ tên, nhưng họ đã làm nên đất nước.

2. đã làm việc và chiến đấu chống giặc ngoại xâm, gìn giữ và trao truyền cho thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của đất nước từ hạt gạo, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên thị trấn đến huyền thoại, bình dân. ca dao, tục ngữ. dòng cảm xúc và tư tưởng của bài thơ bồi đắp dần dần để cuối cùng dẫn đến cao trào, làm nổi bật tư tưởng trọng tâm của bài thơ là sự bất ngờ, giản dị và độc đáo:

Đất nước này là đất nước của mọi người. đất nước của nhân dân. vùng đất của những bài hát nổi tiếng và thần thoại.

Tư tưởng đất nước của học sinh giỏi – mô hình 1

nếu trước đây, hình ảnh đất nước luôn gắn liền với bầu trời, với sự hưng thịnh của một triều đại thì sang thời kỳ văn học hiện đại, hình ảnh đất nước đa chiều và cụ thể hơn rất nhiều. Với tác giả Nguyễn Khoa Điềm, đất nước luôn gắn liền với nhân dân, có sức mạnh đoàn kết là niềm tự hào. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. không chỉ vậy, ông còn có nhiều đóng góp to lớn trên mặt trận chính trị tư tưởng của đất nước. Các tác phẩm của anh luôn mang âm hưởng dân gian, giản dị, dễ hiểu. nhưng ẩn chứa những suy nghĩ, quan niệm sâu sắc về đất nước, cách mạng và con người.

Bài thơ “Đất nước” là một đoạn trích trong sử thi “Phố khát vọng”, ra đời năm 1971. Đây là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. uu. và đất nước đang phát triển vô cùng khắc nghiệt và khốc liệt. ở chương v của sử thi, đoạn trích thể hiện những ý kiến, cảm nhận đa chiều của tác giả về đất nước. trong đó nổi bật tư tưởng về quê hương đất nước của nhân dân với giọng văn trữ tình, nghiêm trang của tác giả.

Ngay từ đầu, tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện trong suốt thời gian lịch sử. khoảng thời gian đó không tính bằng số liệu cụ thể mà tính bằng bao thế hệ đã sống, cống hiến và hy sinh vì hòa bình, hạnh phúc của đất nước:

“Có biết bao cô gái và chàng trai trong bốn nghìn hạng người như tôi, họ sống chết bình dị và thanh bình, không ai nhớ tên, nhưng họ đã làm nên đất nước”

nguyen khoa diem không ca ngợi các triều đại có vĩ nhân, nhưng yêu thương và yêu thương dân thường. họ đã cùng nhau đoàn kết chiến đấu để giữ gìn nền độc lập của dân tộc trước hàng trăm cuộc xâm lăng. Ngoài ra, họ còn tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần được trao truyền cho thế hệ sau thông qua những điều bình thường nhất. đó là “hạt gạo”, tượng trưng cho nền văn minh lúa nước ngàn đời, mang trong mình văn hóa, lịch sử của dân tộc. đó là “ngọn lửa” thắp lên không chỉ cuộc sống đời thường mà còn là ngọn lửa của truyền thống yêu nước, đoàn kết, nghĩa tình của dân tộc Việt Nam. đó là “tiếng nói” mà dù bị giặc ngoại xâm hàng nghìn năm tham vọng đồng hóa, cha ông ta vẫn giữ được cho đến ngày nay. Với giọng điệu đầy tự hào, hình ảnh đất nước hiện lên thật thiêng liêng nhưng cũng rất được nhân dân yêu mến.

Quan trọng hơn, tác giả còn khắc họa hình ảnh đất nước con người qua việc mở mang bờ cõi, viết tiếp những trang sử hào hùng của cha ông ta. Đó là một trang sử dài, rộng, thiêng liêng được viết nên bằng mồ hôi và xương máu của biết bao người vô danh:

“Ôi đất nước ơi, sau bốn nghìn năm, đi đến đâu chúng ta cũng thấy những kiếp người đã đảo lộn núi sông”

đất nước từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức của người dân qua các lịch sử, phong tục tập quán của tổ tiên. Đất nước cũng được xây dựng từ tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta, vì vậy nó càng trở nên thiêng liêng hơn tất cả.

quay trở lại “ngày xửa ngày xưa”, tác giả đã nhận ra hai yếu tố cơ bản hình thành nên đất nước, đó là “đất” và “nước”:

“Đất là nơi bạn đến trường, nước là nơi bạn tắm, nông thôn là nơi chúng ta hẹn hò”

Đó là không gian gần gũi và thân thương đối với mỗi người, gắn liền với tuổi thơ tươi đẹp nhất. đất nước không ở đâu xa, nhưng vạn vật và con người vây quanh, nuôi dưỡng chúng ta không lớn và trưởng thành cả về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là một không gian rất mộng mơ, ngọt ngào, chứa đựng biết bao kỉ niệm và tình yêu của phố thị, gia đình, lứa đôi.

đặc biệt, tác giả còn khắc họa đất nước là không gian sống và làm việc của cộng đồng người Việt từ hàng nghìn năm nay. được tạo ra từ đầu với những truyền thuyết sử thi:

“Những người vợ nhớ chồng cũng góp cho đất nước những ngọn núi hy vọng. Những người bạn trai yêu nhau góp tiếng trống thánh thót. Người qua trăm ao đầm, để lại chín mươi chín con voi để góp phần xây dựng vùng đất của các bậc đế vương hùng mạnh, con rồng nằm yên góp phần cho non xanh nước biếc, chàng thư sinh nghèo giúp nước có núi lông, con cóc, con gà quê hương, góp phần làm nên danh lam thắng cảnh của thành phố ha long quan họ. đã đóng góp tên ong doc, ong trang, mrs den, mrs diem ”

Đất nước của con người không chỉ tạo ra những giá trị vật chất, văn hóa, tinh thần, nhân dân còn là người tạo nên vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. vẻ đẹp ấy không chỉ là gấm vóc của non sông mà còn là kết tinh của vẻ đẹp tâm hồn và của truyền thống dân tộc ngàn đời. từ đó, tác giả đã khái quát được nhận thức sâu sắc về đất nước của nhân dân:

“ouch! đất nước sau bốn nghìn năm, đi đến đâu cũng thấy những kiếp người đã hóa núi sông ”

Cuối cùng, tác giả nguyen khoa diem đã khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân qua chiều sâu văn hóa. tác giả đã sử dụng tài tình những chất liệu dân gian để nói lên suy nghĩ của mình. những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền thuyết, phong tục tập quán được nhà thơ sử dụng rất tài tình:

“Khi chúng tôi lớn lên, đất nước có nó. Đất nước có nó trong” Ngày xưa … “, mẹ thường kể rằng đất nước bắt đầu từ miếng trầu mà bây giờ bà ăn, đất nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre để chống chọi khi tóc mẹ tàn anh đào sau lưng mẹ gừng cay muối mặn, cái giáp, cái sào đã làm nên tên tuổi của hạt gạo đã được xay, nghiền, nghiền, sàng, nước đã có từ ngày đó… ”

Thời gian tồn tại của một quốc gia được tính bằng thời gian của lịch sử và văn hóa của quốc gia đó. ở đây, tác giả gợi lại những phong tục cổ xưa của người Việt: ăn trầu, đeo nơ, đặt tên con theo những đồ vật quen thuộc, v.v. những anh hùng, truyền thuyết về các vị thánh cũng xuất hiện rất tài tình. những con người giản dị, vô danh cũng góp phần làm cho đất nước những phong tục đáng trân trọng. Cùng với đó, văn hóa lúa nước cũng được nhấn mạnh với giọng điệu rất đỗi tự hào.

Với giọng điệu trữ tình, sử dụng nhiều chất liệu dân gian và thể thơ tự do, Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa thành công hình ảnh con người đất nước với những tâm tư, tình cảm sâu sắc. không chỉ vậy, hình ảnh con người được nâng lên, trở thành biểu tượng thiêng liêng của quê hương, những người tạo dựng, giữ gìn và phát triển đất nước giàu đẹp như ngày nay. Đó là những con người bình dị, giản dị nhưng rất anh dũng hy sinh vì Tổ quốc, Tổ quốc như lời ca ngợi của thanh thao:

“vân vân, người thường lặng lẽ như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời, nên người cao hơn sao cô đơn trên bầu trời”

(những người đi biển)

tư tưởng dân tộc của nhân dân – mô hình 2

Nguyễn Khoa Điểm sinh ra trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thừa hưởng truyền thống gia đình và vốn kiến ​​thức văn hóa sâu rộng, thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự tổng hòa của những cảm xúc nồng nàn và những suy tư sâu sắc của trí tuệ về đất nước, con người. “Đất nước với những thi nhân khác thuộc về huyền thoại anh hùng, nhưng với tôi thuộc về người vô danh, thuộc về nhân dân” (nguyen khoa diem) của chiến trường hòa bình, khói lửa, bản hùng ca “mặt đường” (nguyễn khoa diem) “Khát vọng” của nguyen khoa diem là một bài hát lạc quan và nhiệt huyết dành cho những người trẻ ở trái tim. mảnh “đất nước” được xây dựng theo bút pháp chính luận, thể hiện qua chất liệu văn học dân gian quen thuộc. chính điều đó đã tạo nên hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt cho bài thơ, đồng thời thể hiện sinh động tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

tư tưởng “đất khách quê người” như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt và chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. nhân dân là người sáng tạo ra đất mẹ, chiến đấu bảo vệ đất mẹ và tô điểm cho quê hương. từ góc độ lịch sử, nhà thơ ý thức sâu sắc: chính những con người đã lao động tạo dựng cuộc sống, chiến đấu bảo vệ đất nước và họ cũng chính là những người đã gìn giữ và trao truyền những truyền thống của dân tộc. . nhà thơ kêu gọi người đọc nhìn lại lịch sử tồn tại của đất nước qua tiếng lòng của mình với nhân vật “em”:

Em yêu, hãy nhìn xa về đất nước bốn nghìn năm tuổi

Con số “bốn nghìn năm” đã gợi cho người đọc nhìn lại lịch sử dân tộc với niềm tự hào sâu sắc. Nhìn vào nội địa đất nước 4000 năm trước, chúng ta nhận thấy vai trò quan trọng của người dân thường trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. cách nói thời gian “năm tháng, tháng năm” và điệp ngữ “lớp người” khẳng định, ghi nhận, tri ân sâu sắc công lao của hàng triệu con người trong suốt quá trình lao động xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

mỗi năm đều là con gái, chàng trai tuổi chúng tôi siêng năng làm việc khi có chiến tranh, người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi con cùng con trai, khi giặc về, đàn bà cũng đánh.

nghệ thuật liệt kê và phép điệp ngữ “trai tài gái sắc” đã khẳng định chính những con người bình dị đã làm nên đất nước với những phẩm chất cao quý: cần cù lao động, anh dũng trong chiến đấu, lòng yêu nước tha thiết. lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc ghi dấu những hy sinh thầm lặng của những con người trong “bốn nghìn loại người”:

nhiều người đã trở thành anh hùng, nhiều anh hùng cả bạn và tôi đều nhớ nhưng tôi không biết có bao nhiêu cô gái và chàng trai trong bốn ngàn hạng người như tôi, họ sống và chết một cách đơn giản và bình lặng, không ai nhớ tên họ, nhưng họ đã làm đất nước

nghệ thuật tương phản các câu thơ “nhiều anh hùng cả bạn và tôi đều nhớ” & gt; & lt; Ông nói: “Không ai nhớ tên, bày tỏ lòng kính trọng đối với những con người vô danh đã âm thầm hy sinh vì đất nước. câu thơ ngắn gọn, nhịp điệu nhanh và câu hỏi tu từ “mà biết sao?”, câu thơ ngụ ngôn “nhiều, anh hùng” thể hiện niềm tự hào của nhà thơ và lòng biết ơn sâu sắc đối với người anh hùng vô danh đã cống hiến, hy sinh cho quê hương đất nước. cặp tính từ được lựa chọn “bình dị, bình lặng” và sự tương phản “sống chết” đã tổng kết hình tượng người anh hùng nhân dân. họ sống giản dị, họ chiến đấu và hy sinh cho đất nước một cách thoải mái. họ đã hy sinh không để lại tên tuổi cho lịch sử, họ chiến đấu vì một lẽ sống giản dị nhưng cao cả: bảo vệ tổ quốc. Bài thơ ngắn gọn, xúc động chứa đựng tấm lòng cảm ơn chân thành của Nguyễn Khoa Điềm về những cống hiến thầm lặng nhưng to lớn của con người.

Tư tưởng đất nước của nhân dân đã mang lại cho nhà khoa học Nguyễn Khoa một cái nhìn mới về dòng chảy lịch sử dân tộc, từ đó thấy được vai trò quan trọng của những người dân bình thường trong quá trình đấu tranh, giữ nước. nhân dân đã gìn giữ và nâng niu những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc. Những con người chất phác của đất nước đã gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau tất cả những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần để tạo nên sức sống cho đất nước trong quá trình lao động cần cù:

Họ cất giữ và truyền lại cây lúa mà chúng tôi trồng, họ truyền lửa cho tất cả các ngôi nhà, từ lò than đến cây cung họ truyền chữ cho con cái để chúng tập nói mang tên xã và tên tên thị trấn trong mỗi lần di cư họ đắp đập bên bờ để sau khi trồng cây người ta hái quả

đại từ “họ” được lặp lại nhiều lần ở đầu mỗi câu thơ đã nêu bật vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình lao động xây dựng đời sống của đất nước. lửa và lúa là hai yếu tố quan trọng nhất, “giữ lửa và giống lúa là giữ gìn sự sinh tồn của cộng đồng”. (nguyen khoa diem). Từ góc nhìn này, nhà thơ đã liệt kê để khẳng định rằng chính con người đã sáng tạo ra, gìn giữ và trao truyền mọi giá trị văn hóa vật chất, từ những cái nhỏ bé, giản dị nhưng vô cùng quan trọng. hình ảnh “truyền tiếng cho con để con tập nói”, “mang tên xã, thị trấn trong mỗi chuyến di cư” thể hiện vai trò của những người dân bình thường trong quá trình bảo tồn các giá trị văn hóa tinh thần của đất nước. đất nước cũng là khát vọng giữ gìn bản sắc dân tộc của cha ông ta. các động từ “duy trì, truyền lại, truyền, mang” tạo nên hình ảnh những thế hệ người nối tiếp nhau duy trì cuộc sống và trao truyền những giá trị truyền thống của dân tộc. họ không quản ngại khó khăn, bỏ nhiều công sức “đắp đập, nuôi ong lấy người trồng cây hái quả”. câu thơ nhắc nhở em về lòng biết ơn chân thành của thế hệ hiện tại trong việc kế thừa những thành quả mà các thế hệ đi trước đã tạo ra.

những người dân chất phác, hiền hòa đã chiến đấu để bảo vệ đất nước, giữ gìn và phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc:

có giặc ngoại xâm thì đánh giặc ngoại xâm; có giặc nội thì vùng lên, chiến thắng

câu điều kiện “có… thì…” được lặp lại hai lần cùng với thành ngữ “giặc ngoại xâm”, “giặc nội” và liệt kê các động từ “chống lại, vùng lên, đánh bại” đã khẳng định tinh thần của sự sẵn sàng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của nhân dân. đoạn thơ là niềm tự hào của tác giả về truyền thống yêu nước. qua những việc làm giản dị, những việc làm bình thường trong cuộc sống, những hành động dũng cảm khi đất nước lâm nguy, từng thế hệ con người đã gìn giữ, vun đắp và làm nên tiến trình lịch sử của dân tộc. bài thơ thể hiện rõ nét, sinh động tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Ở góc độ văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp chúng ta hiểu sâu sắc tư tưởng đất nước của nhân dân qua lối sống, tâm hồn và tính cách của con người Việt Nam. nhà thơ tiếp tục khái quát và khẳng định tư tưởng trung tâm: nhân dân là người làm nên truyền thống văn hiến của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm viết hoa, chép lại từ “nhân dân” để ca ngợi và tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân.

có thể đất nước này là đất nước của những con người, đất nước của những con người, xứ sở của những câu ca dao thần thoại

Tác giả trở về với cội nguồn văn hóa, văn hóa dân gian phong phú, tiêu biểu là ca dao để khẳng định truyền thống văn hóa của đất nước được hình thành từ nét đẹp tinh thần của nhân dân:

dạy con “yêu mẹ từ khi còn nằm trong nôi” để biết quý nhân có vàng lặn lội ngày tháng, biết trồng tre chờ ngày trở thành cây gậy báo thù không sợ dài lâu. thời gian

bốn câu thơ được trích từ ý của ba bài ca dao, khái quát ba khía cạnh quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là tình cảm, công việc và sự phấn đấu. tình yêu tha thiết, thủy chung, coi trọng tình nghĩa trên vật chất và tinh thần bất khuất, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cuộc sống bình yên cho Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo các làn điệu dân ca, Nguyễn Khoa Điềm cho chúng ta thấy có sự đồng điệu trong tâm hồn của ông cha ta cách đây hàng nghìn năm và thế hệ trẻ ngày nay.

thán từ “ơi”, câu hỏi tu từ và hình ảnh “hãy bắt đầu hát về đất nước mình” đã nhấn mạnh những đặc điểm địa lý và văn hóa độc đáo của nước ta:

ồ, các con sông lấy nước từ đâu, nhưng khi về nước, chúng bắt đầu hót

Đất nước ta mang dấu ấn sâu đậm của nền văn minh phù hoa, đất nước của những bài hát, nhịp điệu và lời ca. câu hát trên sông gắn với những công việc “chèo thuyền, kéo thuyền, vượt thác” gợi lên tinh thần lạc quan, hăng say lao động của những con người bình thường.

những người đến hát khi chèo thuyền, lái thuyền, vượt thác gợi ra hàng trăm màu sắc trong hàng trăm dạng sông

và chính họ, với những bài ca lao động của mình đã “gợi trăm sắc trăm sông đổ đèo”, tạo nên vẻ đẹp trù phú, huyền ảo cho những dòng sông của đất nước, góp phần tô thắm vẻ đẹp cho những dòng sông của đất nước. quốc gia. từ đất nước. Từ góc độ văn hóa, với vốn kiến ​​thức sâu rộng, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng tỏ nhân dân là người sáng tạo nên bản sắc văn hóa của đất nước. bài thơ nêu bật tư tưởng dân tộc của nhân dân, một chân lý được đúc kết từ kiến ​​thức sách vở và kinh nghiệm sống của tác giả.

thể thơ tự do được sử dụng sáng tạo, nhịp điệu thay đổi linh hoạt, phép điệp ngữ được sử dụng hiệu quả, tạo nên giá trị thẩm mĩ cho đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, giản dị, tinh tế, giúp người đọc hiểu rõ chính nhân dân đã tạo ra đất nước, tạo dựng cuộc sống và gìn giữ truyền thống, văn hóa dân tộc.

Bài thơ là niềm yêu thích và tự hào của Nguyễn Khoa Điểm về vai trò của con người trong công cuộc xây dựng, tô thắm vẻ đẹp của đất nước. đó là sự kết tinh của những tình cảm mãnh liệt và những chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò của nhân dân, là tiếng nói chân thành của thế hệ trẻ đối với cội nguồn dân tộc, truyền thống lịch sử văn hóa chưa thành hình. tạo ra nó, bảo tồn nó và truyền nó cho con cháu mai sau. đóng góp riêng của đoạn trích là ở chỗ nhấn mạnh tư tưởng đất nước của nhân dân “bằng một cách diễn đạt đầy tư tưởng, qua giọng văn trữ tình chính trị sâu lắng, thiết tha.

tư tưởng dân tộc của nhân dân – mô hình 3

nguyen khoa diem thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ học của đất nước. thơ của ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc thiết tha và những suy nghĩ sâu sắc của người trí thức đối với đất nước và con người Việt Nam. “Đất nước” trích trong chương 5 của sử thi “Khát vọng con đường” của tác giả Nguyên khoa học đã góp phần làm phong phú và làm mới tư tưởng ấy bằng giọng văn riêng và cách diễn đạt độc đáo. tư tưởng chủ đạo của “đất nước” là: đất nước của nhân dân, đất nước của những câu ca dao thần thoại.

Đất nước – một chủ đề lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi thời kỳ văn học, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi tác giả, mỗi tác phẩm, hình tượng ấy lại hiện lên một cách sống động, ý tứ, tỏa sáng thẩm mỹ riêng. . màu sắc. trong thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của bậc đế vương và các triều đại:

“hoàng đế nam quốc sơn hà nam”

(li thường kiệt sức)

hay

“của triệu, dinh, ly, tran qua nhiều thế hệ xây dựng căn cứ địa độc lập với han, tang, tông, mỗi bên xưng đế một phương”

(nguyen trai)

Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỷ 20, tư tưởng này đã có một bước tiến mới qua tiếng nói của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân, nước là dân”. nhưng dẫu sao nó vẫn mang một thông điệp: dấu ấn của tư tưởng tư sản.

Trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1945-1975, tư tưởng về đất nước và nhân dân được thế hệ nhà thơ chiến sĩ nhìn nhận một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong mối quan hệ riêng – chung, meta-ta. và tỏa sáng của tình yêu đất nước, tình yêu đôi lứa. đất nước của nhân dân đã được các nhà thơ thể hiện một cách độc đáo và thành công như:

“đất nước chấp nhận rằng những người áo vải đã trở thành anh hùng”

(country – nguyen dinh thi)

hay

“vân vân, con người ta thường lặng lẽ như mẹ ta lặng lẽ giữa cuộc đời, và vì thế con người ta cao hơn những vì sao lẻ loi trên bầu trời”

(bản nháp)

và tư tưởng này đã được nguyen khoa diem thể hiện một cách sâu sắc trong “đất nước”, trích từ sử thi “phố khát vọng”.

Đất nước được nhà thơ nhận biết và thể hiện qua bề rộng của không gian địa lí. (lấy kiến ​​thức từ đoạn văn “đất là nơi đi học … cúi đầu nhớ giỗ tổ tiên” và “vợ nhớ chồng … mrs. den, mrs. diem”)

nhà thơ cho rằng “quê hương” qua bề rộng của không gian địa lí để khẳng định quê hương của con người. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” là một không gian vô cùng gần gũi, thân thương, một cõi thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm tình yêu của chúng ta:

“Đất là nơi bạn đi học… nước là nơi ‘cá mọc lên của biển’

Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo dựng từ thuở ban sơ với truyền thuyết:

<3

nguyen khoa diem tiếp tục phản ánh về đất nước qua bề rộng lãnh thổ:

“Những người vợ nhớ chồng cũng mang theo cả núi hy vọng cho đất nước … những người đã góp phần mang tên ong doc, ong trang, bà. cho, mrs. diem ”

Quê hương trở thành lẽ sống rất thiêng liêng máu thịt của mỗi người, dù chỉ là một bộ phận nhưng chính linh hồn là lẽ sống của quê hương. vì vậy, xây dựng, bảo vệ và hy sinh quên mình cho quê hương là trách nhiệm cao cả của chúng ta vì quê hương này là quê hương của nhân dân. tác giả đã có một cái nhìn mới về vẻ đẹp của đất nước, quê hương gắn liền với những con người chất phác và vô danh.

đất nước được thể hiện và cảm nhận trong lịch sử lâu dài (được ghi lại từ ”và ở khắp mọi nơi trên các cánh đồng… cho những người trồng cây để hái quả)

đoạn trích có cái nhìn rất sâu và rất dài về bốn nghìn năm của đất nước, nhưng không phải là một thời điểm lịch sử xác định mà được tác giả mơ hồ huyền ảo “một thời vang bóng” gắn liền với sự trường tồn của đất nước, sự sức sống mãnh liệt từ thị trấn. nhà thơ khẳng định lại các triều đại như nguyễn trai đã từng viết “của triệu, định, ly, bao đời dựng nền độc lập …” và không nhắc đến những tên tuổi nổi tiếng trong sử sách như chế lan viên:

“Khi nguyễn trai làm thơ đánh giặc, nguyễn du viết kiều, nước thành văn, khi nguyễn ngự cưỡi voi đến cửa bắc hung đạo tiêu diệt quân nguyễn ở sông bạch đăng…”

cúi chào để bày tỏ niềm tự hào và lòng biết ơn đối với lớp những anh hùng thầm lặng:

“Không ai nhớ tên nhưng họ đã tạo ra đất nước”

Những con người vô danh này đã làm nên những giá trị vật chất và tinh thần để trao truyền cho con cháu mai sau:

“Họ cất giữ và truyền lại ngũ cốc của chồng tôi… họ xây đập trên bờ để sau này trồng cây và hái quả”

Từ “họ” ở đầu dòng thơ được lặp đi lặp lại, ca ngợi vai trò to lớn của “họ” trong việc “canh giữ và trao truyền” những giá trị vật chất cho con cháu muôn đời. và luân lý “họ” mang tên chung là “người”. các từ “duy trì”, “truyền” xuất hiện với mật độ dày đặc, cho thấy quá trình tiến hóa của lịch sử như một công việc vĩ đại, một cuộc chạy đua tiếp sức của các dân tộc, nhờ họ mà “trì” và “truyền”. “Hạt gạo” tượng trưng cho những giá trị vật chất. Đối với nền văn minh lúa nước, “ngọn lửa” không chỉ tượng trưng cho những giá trị vật chất, mà còn là ngọn lửa của truyền thống cách mạng, ngọn lửa của văn minh, ngọn lửa của sự ấm áp, tin cậy. “Tiếng nói” là tiếng nói của giống nòi, của dân tộc, là biểu tượng của những giá trị tinh thần ngàn đời. Quan trọng hơn, con người còn là người mở mang bờ cõi, tiếp viết nên trang sử hào hùng của dân tộc và đạt được những kỳ tích cho con cháu mai sau. Lịch sử đất nước được viết nên bằng máu của những con người không tên tuổi:

“Ôi đất nước ơi, sau bốn nghìn năm, đi đến đâu chúng ta cũng thấy những kiếp người đã đảo lộn núi sông”

Nói đến lịch sử hàng nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những tư liệu lịch sử như các nhà thơ khác, cũng không xây dựng những hình ảnh tráng lệ để ca ngợi, ngưỡng mộ mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, tự nhiên, mang đậm màu sắc bình dân. . đất nước nổi lên từ “ngày xửa ngày xưa …”, trong những câu chuyện cổ tích mẹ tôi kể, có một cô gái, một cô tiên, một bà lang, một câu chuyện ăn trầu, ăn trầu, san giong, v.v. ở đó đất nước gần như bình dị mà linh thiêng với tục ăn trầu, tục vén tóc sau đầu, tình cha con, những vật dụng thường ngày, những chiếc áo giáp, cây sào,… làm nên lịch sử của đất nước. được dựng lại trong từng câu chuyện cổ, gắn liền với cuộc đời và số phận của người dân.

Những khám phá mới sâu sắc về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã được thể hiện qua nguồn văn hóa dân tộc và văn học dân gian phong phú. tác giả đã sử dụng và sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc. đất nước đã có từ xa xưa nhưng không xa lạ mà nó vô cùng gần gũi, thân thiết như câu chuyện mẹ kể, miếng cau ông ăn… cái tài hoa và tinh tế của cụ Nguyễn Khoa Điếm mới có được. lấy ý tưởng, hình ảnh từ những câu chuyện cổ tích, câu ca cổ để tạo nên những biểu tượng phong phú, mới lạ, nâng cao nhận thức về tình yêu, vẻ đẹp đất nước, con người trong những giá trị văn hóa tinh thần vĩnh hằng, vô tận của nhân dân.

với nhà khoa học, đất nước của nhân dân là sự hội tụ, kết tinh của những nỗ lực và khát vọng của nhân dân. Đồng thời, nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, nên viết về đất nước, nhà thơ đưa ta trở về cội nguồn những giá trị văn hóa dân tộc, tìm ra những nét nổi bật trong tâm hồn và tính cách Việt Nam. tiêu biểu nhất là tinh thần, truyền thống thủy chung, thắm thiết trong hạnh phúc của tình yêu.

“Dạy con yêu mẹ từ khi bố mẹ yêu nhau bằng gừng cay và muối”

từ đó biết quý trọng lòng biết ơn, tôn trọng đạo đức con người

“biết cách một quý ông giữ vàng trong những ngày đi du lịch của mình”

nhưng cũng quyết liệt với đối phương để có được hạnh phúc bền lâu:

“biết trồng tre đợi ngày thành que. Báo thù chẳng sợ lâu dài”

Đoạn trích khép lại những tư tưởng về đất nước, con người nhưng tỏa sáng muôn hình, vạn sắc từ dòng sông văn hóa, thấm đượm hương vị bình dân và hồn Việt.

“ôi sông lấy nước từ đâu mà về quê tôi vẫn bắt gặp câu hát người đến hát chèo kéo thuyền qua thác gợi trăm sắc trăm ngả. về các dạng sông xanh ”

tư tưởng đất nước trong chương thơ được thể hiện qua hình thức thơ trữ tình chính trị độc đáo. ở đó, thể thơ tự do phóng khoáng, thoải mái tạo nên lối tư duy hiện đại và tính triết lí của tác phẩm để trả lời cho các câu hỏi “nước ta có từ bao giờ?”, “nước là gì?”, “nước của ai?” đất nước? ”… kết hợp giữa cảm xúc và tư tưởng, yếu tố chính luận và màu sắc trữ tình. giọng thơ thì thầm vào lòng như cuộc trò chuyện của “anh” với “em” tạo nên một âm vang trầm bổng, trầm bổng, trang trọng đối với đất nước và nhân dân. Tác giả còn vận dụng phong phú, sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc: phong tục, tập quán, thần thoại, truyền thuyết, lấy ý tưởng từ những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ … để tạo nên những liên tưởng mới, rất đẹp về đất nước. “đất nước” là một tác phẩm nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điểm, trong đó tìm thấy một thế giới nghệ thuật đặc sắc: đất nước bình dị, gần gũi nhưng cũng vô cùng sâu lắng, thiêng liêng, bay bổng, lãng mạn và đong đầy. tránh mang màu sắc ca dao, cổ tích. .

nguyen khoa diem đã góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn tư tưởng đất nước của nhân dân trong thơ ca chống Mỹ, mang đến cho người đọc những nhận thức sâu sắc về đất nước của nhân dân. “đất nước” – một giai điệu nhỏ trong điệp khúc về đất nước những năm 1945-1975, nhưng tác phẩm vẫn ngân vang một nhịp điệu không lẫn vào đâu được nhờ tư duy tiến bộ của nhà văn khoa bảng: “Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại. … ”Đất nước sẽ tiếp tục được nhắc đến như một bài hát không bao giờ quên.

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 4

Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân siêu hay (14 Mẫu)

Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có một cách hiểu, cách quan niệm riêng về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công lao của các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng đất nước của nhân dân.

Thành công đầu tiên trong việc thể hiện tư tưởng dân tộc của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình một chất liệu văn hóa rất phù hợp là chất liệu dân gian. Tôi vẫn biết chất liệu thuộc loại hình nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ và trái tim là người nghệ sĩ. tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn học dân gian trong bài thơ là tục ngữ ca dao, ca dao, sông nước, truyện cổ tích, phong tục tập quán mà nhà khoa học Nguyễn Khoa đã đúc kết trong câu thơ: Đất nước nhân dân, ca dao thần thoại. ”

nguyen khoa diem đi tìm đất nước ngày xưa trong truyện cổ tích. nên nhà thơ mở đầu bài ca nông dân bằng những dòng sau:

“Khi chúng ta lớn lên, đất nước có nó. Đất nước có nó trong” ngày xưa … “Mẹ tôi thường nói với tôi rằng đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ khi đất nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre, đánh giặc khi tóc mẹ đã tàn, đào sau lưng mẹ gừng cay muối mặn, con giáp, cây sào nhân danh hạt gạo phải mài. , giã, nát, rây, nước có từ ngày đó … “

quay lại chuyện “ngày xửa ngày xưa” ấy, nhà thơ đã khám phá ra hai yếu tố nguyên thủy, yếu tố cơ bản làm nên đất nước đó là “đất” và “nước”. trong quá trình hình thành thực thể dân tộc, cũng như trong quá trình phát triển đất nước, “đất” và “nước” là hai tế bào đầu tiên. nguyen khoa diem biến đổi, nhân bản, sinh sôi nảy nở thành một chỉnh thể quốc gia. tất cả đều toát lên vẻ đẹp của nền văn minh lúa nước lâu đời. Cái hay của Nguyên khoa học ở đây là ông không đưa những câu tục ngữ, những câu nói bình dân vào thơ, mà dường như những chất liệu dân gian ấy đã thấm sâu vào tâm hồn ông từ thuở nhỏ qua những làn điệu hát then từ bà nội của ông để rồi bây giờ. viết về đất nước, anh đã chắt lọc và xử lý qua lăng kính tâm hồn của mình. Vì vậy, mỗi câu thơ dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm đều phảng phất làn điệu dân ca, ví von ca dao, ví von trong truyện cổ tích.

“Đất là nơi bạn đi học, nước là nơi bạn tắm”

Sử dụng thuyết âm dương, nhà thơ đã hợp nhất đất và nước để tìm ra khái niệm đầu tiên:

“Đất nước là nơi ta hẹn hò Đất nước là nơi ta khăn gói trong nỗi nhớ về không gian bao la của thời gian Đất nước là nơi sum họp của dân tộc ta”

với cách suy nghĩ và tìm tòi để lý giải, tác giả khẳng định việc làm nên đất nước này là hành động tán tỉnh của chúng ta. hai chúng ta ở đây là “bạn và tôi”, hóa thân của con người. Nói cách khác, nhân dân là những người làm nên đất nước.

Văn học dân gian là sản phẩm tinh thần của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã mượn sản phẩm tinh thần của nhân dân để viết lên những tâm tư về đất nước của nhân dân nên bài thơ “Đất nước” từ nội dung đến hình thức nghệ thuật đều thấm nhuần tư tưởng dân tộc của nhân dân. và cứ thế, không hề gượng ép, tác giả thủ thỉ để người đọc khẳng định đất nước này suốt bốn nghìn năm qua không ai khác chính là con người với những câu thơ:

“Khi hai chúng ta nắm tay nhau, đất nước trong chúng ta hòa hợp, khi chúng ta nắm tay mọi người, đất nước tuyệt vời và đầy đủ”

Đất nước này phát triển, có được sự viên mãn to lớn là nhờ chúng ta chung tay với nhân dân, nhờ nhân dân đoàn kết. sự đoàn kết đó tạo nên sức mạnh cho đất nước, giúp đất nước phát triển vượt bậc.

“Những người vợ nhớ chồng cũng mang đến cho đất nước những núi hy vọng… cuộc đời đã trở thành sông núi của chúng ta.”

Tôi vẫn biết rằng một đất nước là sự kết hợp của nhiều núi, sông, ruộng, gò … ở đâu cũng có tên đất, tên phố, tên núi, tên sông … mảnh đất trong lúc mất tích. xét theo cái tên thì nó thiếu đi sự linh thiêng của con người. nhưng việc đặt tên không thể tùy tiện vì đằng sau cái tên có truyền thuyết, đằng sau huyền thoại có một cuộc đời. chính cuộc đời ấy, con người ấy đã ngã xuống để bảo vệ đất nước này, làm nên bờ cõi của Tổ quốc.

hòn đảo xưa vẫn còn đó như minh chứng cho lòng trung thành, nét đẹp xưa của người phụ nữ Việt Nam bởi hai chữ “vong phụ” đợi chồng. đất nước ta đã phải trải qua ba mươi lăm năm của hai cuộc chiến tranh trường kỳ và gian khổ, biết bao “người con ra trận, người con gái về nuôi con khôn lớn”. đây là tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. nội dung cũng là hình ảnh chàng sinh viên nghèo đã “có công với núi sông quê hương”. Họ cũng là những người yêu quê hương, thổi hồn vào con cóc, con gà “giúp Hạ Long trở thành thắng cảnh”. Đó là những người còn nhớ những cái tên: “ông. doc, ông. trang, bà. den, bà. điểm”, nhưng thử hỏi có bao nhiêu người dân đất nước này đã yêu ngày mai độc lập, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước. Tôi không nhớ tên:

“Không ai nhớ tên nhưng họ đã tạo ra đất nước”

Không hổ danh là người lính làm thơ, gót chân của nhà văn khoa bảng đã in sâu vào mọi nẻo đường của Tổ quốc thân yêu. Dù đi đâu, nhìn bất cứ lĩnh vực nào, khía cạnh nào, khía cạnh nào, anh đều chia sẻ rằng mọi thứ đều do con người làm nên.

Từ một tiền đề vững chắc, tác giả đã khai mở đất nước trong chặng đường lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước:

“con yêu… con gái quay về nuôi con cùng con trai”

Trong suốt bốn nghìn năm ấy, dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục truyền ngọn lửa yêu nước từ lớp này sang lớp khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người Việt Nam ra trận viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. trang sử ấy đã được viết nên bằng máu, mồ hôi, nước mắt và sinh mạng của biết bao con người. Bình luận về chủ đề này, Ph.Ăngghen cho rằng: “Không có máu và nước mắt của nhân dân thì dân tộc đó không thể có lịch sử”.

đặt bài thơ “đất nước” trong bối cảnh hiện nay, khi văn học Việt Nam đang hội nhập với văn học thế giới. mỗi người Việt Nam yêu nước cần bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Và như vậy, “đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định thành công vốn có của bài thơ này, xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của mỗi chúng ta.

Tôi vẫn biết rằng sử thi là một bài thơ dài và khó nhớ, và các tác giả sử thi rất dễ rơi vào lối kể và kể lại. đoạn trích “đất nước” nói riêng, sử thi “Mặt đường khát vọng” nói chung, tuy không tránh khỏi những khó khăn, nhưng với tất cả những gì mà nguyên khoa đã góp phần làm nên bài thơ “đất nước” với ý tưởng về đất nước của nhân dân, của “ đất nước ”của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng là những vần thơ khó quên.

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 5

Trong điệp khúc của thơ ca chống Mỹ là những âm vang da diết, sâu lắng, thiết tha về đất nước. đất nước hiện ra qua “hàng tre Việt Nam” xanh tươi của nguyễn duy, trong dòng người trên “đường về thành phố hữu nghị”, “những người đi biển” của thanh thao. đất nước ấy cũng rung động mạnh mẽ khi tuổi trẻ không ngơi tay áo trắng xuống đường trong tác phẩm “Phố khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điểm. trong bản anh hùng ca chín chương sục sôi nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh dân tộc, anh đã dành trọn một chương (v) cho quê hương đất nước:

XEM THÊM:  Soạn văn 10 bài phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

“Cầu mong đất nước này là đất nước của những con người, đất nước của những con người, đất nước của những bài hát nổi tiếng thần thoại”

Tư tưởng “Tổ quốc của nhân dân” đã thấm nhuần toàn bộ chương thơ về “Tổ quốc”. điều mà chúng ta có thể dễ dàng nhận ra là tác giả đã sử dụng rất nhiều chất liệu dân gian. nó mang ý nghĩa văn hóa của dân tộc, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến đời sống dân gian: miếng trầu, hạt gạo, cục than, giàn, sào. Những chất liệu này đã tạo nên một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc, gần gũi và sâu sắc của văn học dân gian Việt Nam mang tính bền vững và đặc sắc. không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn học dân gian mà còn thấm nhuần quan niệm “Đất nước của nhân dân”, là sự thể hiện sâu sắc tư tưởng trọng tâm đó bằng cách truyền cảm, sáng tạo hình tượng. những hình ảnh thơ của tác giả:

“khi ta lớn lên, đất nước có nó. Đất nước có nó ngày xưa … mẹ ta kể”

Với giọng kể truyền cảm như một câu chuyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã bày tỏ tình cảm và suy nghĩ của mình về đất nước. cảm hứng tưởng như phóng khoáng, tự do như một áng văn chính luận nhưng thực chất nó vẫn có hệ thống cốt truyện rõ ràng, mạch lạc. tác giả đã tập trung thể hiện đất nước ở những khía cạnh chính là đất nước trong sự kéo dài của thời gian lịch sử (từ quá khứ xa xưa đến tương lai hiện tại); theo chiều rộng của lãnh thổ và không gian địa lý. và cuối cùng là ở chiều sâu văn hóa, tâm hồn và tính cách. ba khía cạnh này được thể hiện trong sự thống nhất. đôi khi một chi tiết duy nhất được đưa ra về tất cả các khía cạnh này của đất nước. nhưng ở khía cạnh nào, quan niệm “đất nước của nhân dân” cũng là tư tưởng trung tâm, là sợi chỉ đỏ gắn kết mọi tình cảm, suy nghĩ cụ thể và nhờ đó, tác giả đã phát triển những hình ảnh tư liệu mới mẻ, sâu lắng đôi khi thân thương.

Nói đến lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng tư liệu lịch sử như nhiều nhà thơ khác. đã sử dụng câu chuyện phổ biến phong phú:

“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả đó. Đất nước lớn mạnh khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc”

Phải chăng, hình ảnh thơ đã gợi cho chúng ta sự tích về sự tích trầu cau từ thời vua chúa anh hùng dựng nước năm xưa và sự tích vị thánh nhổ tre chống giặc ngoại xâm. trước đây? điều gì đã xảy ra với lịch sử? nghĩa là lịch sử đất nước được lưu giữ trong từng câu chuyện, hiện lên trong lá trầu ông ăn, ở lũy tre để chống giặc. nói cách khác, đất nước đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tinh thần của nhân dân từ bao đời nay. nó cũng là đất nước của con người.

thì nghĩ đến lịch sử hàng nghìn năm của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại triệu, định, lý, lịch đã tạo nên nền độc lập (nguyễn trai) và không đề cập đến tên tuổi. những anh hùng nổi tiếng trong sử sách như mrs. trung, mrs. trieu, tran hung dao, le loi, quang trung … mà nguyen khoa hoc nhấn mạnh trong hàng nghìn người giản dị và vô danh:

“Có biết bao cô gái và chàng trai trong bốn nghìn hạng người như tôi, họ sống chết bình dị và thanh bình, không ai nhớ tên, nhưng họ đã làm nên đất nước”

nhưng con người vô danh đó là vô số người có công dựng nước và giữ nước qua bao thế kỷ. họ không chỉ chống giặc ngoại xâm mà còn sáng tạo và trao truyền mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ sau:

“Họ giữ và truyền cho tôi những cây lúa mà chúng tôi trồng, họ truyền lửa qua từng ngôi nhà từ lò than hồng đến cánh cung, họ truyền giọng nói của họ để bạn có thể tập nói, họ mang tên thị trấn và xã trong suốt mỗi cuộc hành trình di cư ”

Cùng với thời gian, cả một không gian rộng lớn được tạo dựng từ thuở ban sơ với truyền thuyết về Lạc long quan – au co: “đất là nơi chim về, nước là nơi rồng ở”. thật là một đất nước xinh đẹp và thiêng liêng!

mà đất nước còn là không gian rất gần gũi với cuộc sống thường ngày của mỗi người dân: “đất đi học về – nước là nơi tắm” và đất nước ấy đã chứng kiến ​​bao mối tình đầu của biết bao đôi trai gái:

“Đất nước là nơi ta hẹn hò, Đất nước là nơi chiếc khăn quàng của nỗi nhớ rơi xuống”

Xuất phát từ quan niệm “đất nước của nhân dân”, tác giả đã có những khám phá sâu sắc và mới mẻ về cảnh đẹp thiên nhiên đất nước gắn với con người, trước hết là với những con người bình dị. và chính những con người bình dị ấy đã tạo nên vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu gấm vóc của sông núi mà còn là kết tinh của vẻ đẹp tâm hồn và truyền thống dân tộc:

“Những người vợ nhớ chồng cũng góp non sông gấm vóc, đôi trai gái yêu nhau góp cho hòn non bộ thiêng theo gót ngựa mà trăm ao hồ còn sót lại”

rồi chàng sinh viên nghèo đã đóng góp cho những cây bút miền núi của nước mình, đến những nơi rất đỗi bình dị. người đã đóng góp tên của mr. Tiến sĩ, Mr. trang, mrs. den, mrs. công tác phí từ đó tác giả đi đến một cách khái quát sâu sắc:

“ouch! đất nước sau bốn nghìn năm, đi đến đâu cũng thấy những kiếp người đã hóa núi sông ”

đất nước đó cũng có một nền văn hóa và tâm hồn Việt Nam phong phú. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hóa không được nói đến qua các danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì mà được thể hiện ở cội nguồn văn hóa dân gian phong phú làm nổi bật truyền thống tâm linh và nét đẹp của tâm hồn nhân dân, thấm nhuần tư tưởng “đất nước nhân dân, đất ca thần thoại”. Trong kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những nét đẹp nổi bật của tâm hồn và nhân cách Việt Nam. chàng say đắm, thuỷ chung trong tình yêu: yêu nhau từ thuở lọt lòng; cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn; biết quý trọng ân tình: biết quý nhân cất vàng những ngày rong ruổi. nhưng cũng rất quyết liệt với kẻ thù: biết trồng tre chờ ngày hóa gậy – đi trả thù không sợ lâu dài. ba khía cạnh quan trọng nhất của truyền thống dân tộc, của dân tộc đã được Người thể hiện sâu sắc và sâu sắc từ những làn điệu dân ca hay – tiếng nói của lòng dân trong suốt từng thời kỳ lịch sử.

đất nước của nguyên khoa cử là đất nước của những con người của ca dao thần thoại. chất thơ dân gian giàu chất thơ, kết hợp với tư tưởng giàu trí tuệ tạo nên nét riêng cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm trong việc làm sâu sắc thêm ý tưởng về đất nước trong thơ ca chống Mỹ.

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 6

Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân siêu hay (14 Mẫu)

Chủ đề về đất nước đã như một dòng suối thấm nhuần vào biết bao trang văn, đặc biệt là khi nước ta còn trong những ngày chiến đấu… Đất Nước – một đề tài không mới nhưng chưa bao giờ cũ. Từ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, chúng ta đã thấy ý thức về lòng tự tôn dân tộc, về độc lập nước nhà được khẳng định. Cho tới bản cáo trạng tội ác giặc Minh của Nguyễn Trãi, rồi đến lời tuyên bố bất hủ trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh năm 1945, tất cả đều khẳng định Đất Nước của chúng ta đã trải qua biết bao gian khó để giữ vững nền tự do, đánh đuổi quân xâm lược. Nguyễn Khoa Điềm đã có một sáng tạo vô cùng mới mẻ với bản trường ca Mặt Đường Khát Vọng của mình. Đặc biệt trong chương V mang tên “Đất Nước”, nhà thơ không chỉ cho chúng ta thấy một Việt Nam đi từ bom đạn đến ngày tháng hòa bình, mà Nguyễn Khoa Điềm còn làm người đọc thổn thức trước vẻ đẹp của đất nước trên mọi phương diện qua một phong cách nghệ thuật tài hoa và độc đáo… Nhưng điều cốt yếu cần nhận thấy ở đây, nếu không nhắc tới sẽ là một sự thiếu sót, đó chính là đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm về mặt tư tưởng cho nền văn học nước nhà: tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Tư tưởng ấy “như một sợi chỉ đỏ” xuyên suốt văn bản đã thực sự làm tăng thêm giá trị cao đẹp cho tác phẩm…

“Khi lớn lên đất nước có đất nước có đất nước ngày xưa mẹ tôi bảo đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ đất nước lớn lên dân tộc ta biết trồng tre, đánh giặc. kẻ thù. đào sau mái đầu cha mẹ thương nhau muối cay gừng, cái giàn, cái sào mang tên quê ngày ấy … ”

đoạn thơ mở đầu như một câu chuyện … tác giả như đang khắc họa hình bóng đất nước từ xa xưa. mỗi con người khi sinh ra đều có một cột mốc lịch sử xác định. còn đất nước thì sao? đất nước có tự bao giờ? Nguyễn Khoa Công đã khéo léo bày tỏ rằng “khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”… điều này không thú vị sao? Lâu nay ít ai nghĩ đến câu hỏi “đất nước bắt đầu từ khi nào?” Như vậy, ở Trạng nguyên không chỉ có lòng yêu nước mà còn có tấm lòng say mê nghiên cứu, khám phá … và chính từ việc phát hiện ra Nguyên khoa mà chúng ta thấy đất nước như được đặt trong một mạch thời gian vận động. cả đất nước và con người phát triển theo năm tháng. đặc biệt là trong những ngày đất nước đó, có bóng người. “Ngày xưa mẹ tôi hay kể chuyện cho tôi nghe” hay “miếng trầu tôi ăn” là những điều bình dị. nó gắn liền với tuổi thơ ngọt ngào của trẻ thơ. nó như một cái nôi để chúng ta tìm về những giây phút tĩnh lặng cho tâm hồn … nguyễn khoa điểm đã nhắc đến những điều thân quen ấy để trả lời cho câu hỏi lạ quê hương từ đâu ra … với cách giải thích này, với những hình ảnh thật gần gũi và bình dị, chúng ta thấy đất nước thật gần, sao lại bình dị …

Không chỉ viết về “đất nước bắt đầu”, mà ông Nguyễn Khoa Điểm còn viết về thời khắc “đất nước lớn mạnh”. ở đây chúng ta tìm thấy những câu chuyện dân gian quen thuộc được truyền miệng đến nỗi đôi khi họ thuộc lòng. lịch sử thiêng liêng của dân tộc ta trong những ngày đầu dựng nước được nhắc đến một cách tài tình trong bài thơ. Từ những dòng đầu tiên này, chúng ta đã thấy bóng dáng của mọi người. dân tộc “biết trồng tre, biết đánh giặc”. Có thể phủ nhận rằng, biết bao chiến công, kỳ tích trong lịch sử dân tộc không phải là nhờ sức người? Nguyễn Khoa Điềm đã gợi mở những suy nghĩ ban đầu như vậy về tư tưởng đất nước: nhân dân. Với những hình ảnh hết sức giản dị và gần gũi, những câu chuyện đã đi vào lòng người từ thuở ấu thơ …

Điểm độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điểm là ông sử dụng rất nhiều thơ ca dân gian. Với khổ thơ đầu chương V, những nét đậm chất dân gian được thể hiện qua những hình ảnh được sử dụng, trong những câu chuyện mà tác giả nhắc đến, những phong tục như cờ hiệu, đặt tên … nhưng ngoài ra nó còn thể hiện rõ ở việc tác giả lấy ý tưởng của các bài hát dân gian:

“Chén muối đỡ một đĩa gừng muối xin đừng quên”

với những câu mở đầu của phần đầu, nguyen khoa diem đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh sinh động về đất nước đầy thân thương và bình dị, như thể hiện toàn bộ quá trình “lớn mạnh” của đất nước, thì ở đoạn tiếp theo, đất nước xuất hiện rõ ràng hơn với các định nghĩa cụ thể …

“đất là nơi bạn đi học, nước là nơi bạn tắm, quê là nơi chúng ta hẹn hò, đất là nơi bạn ném vào khăn với nỗi nhớ, đất là nơi phượng bay đến núi bạc, non nước là nơi tiếng còi cào, biển cả, thời gian và không gian bao la, đất nước là nơi gặp lại của nhân dân ta ”

nguyen khoa diem đã tách bạch hai khái niệm đất và nước để chúng ta có cái nhìn rõ nét nhất về đất nước. tư tưởng về quê hương đất nước của con người trong bài thơ này được thể hiện khi. đất nước gắn liền với sinh hoạt hàng ngày của người dân. mỗi bài thơ về đất nước song hành với hình ảnh con người. Cũng như đoạn thơ trước, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa vận dụng sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc vào những trang thơ. người đọc lại một lần nữa đến với hình ảnh đất nước qua con người đất nước, đất nước là nét đặc sắc truyền thống của dân tộc… đọc đoạn thơ trên chắc hẳn ai cũng liên tưởng đến câu ca dao êm dịu.

“khăn tay nhớ ai, khăn rơi xuống đất, khăn nhớ ai, khăn khoác vai, khăn tay nhớ ai, khăn lau khô nước mắt…”

hay nhớ về khúc ca mênh mang của miền thanh bình – tri âm “chim phượng hoàng bay về núi bạc – cá vuốt ve nước biển…”

và quê hương dù có diễn ra qua hình ảnh nào thì cuối cùng cũng trở về với nhân dân, thuộc về nhân dân… câu thơ “quê hương là nơi gặp gỡ của nhân dân ta” như một lời giải thích và khẳng định chân lý đó, khẳng định tư tưởng của đất nước – người trong thơ nguyễn khoa điểm …

từ những giải thích về đất nước từ đó, từ định nghĩa về đất nước, nguyên khoa cử nhìn lịch sử, rồi trở lại thế hệ muôn đời. nhà thơ hết lòng với đất nước và muốn gửi gắm những lời căn dặn của mình cho thế hệ con cháu đương thời hay cả những thế hệ mai sau … kể từ thời “Lạc long quân phục – đẻ đồng bào ta trong bọc trứng” , kể từ khi những người đã mất hay những người còn, họ đều có một mảnh đất của Tổ quốc … chúng ta đã sống cho đất nước từ những ngày thơ dại, từ những ngày đầu dựng nước. truyền thuyết về con rồng cháu tiên vẫn tiếp tục lưu truyền như niềm tự hào của con cháu hồng nhan đã mất. Bây giờ, chúng ta vẫn phải sống vì lý tưởng, vì đất nước như thế này.

“những người đã qua đời, những người bây giờ yêu nhau, sinh con đẻ cái, mang gánh nặng của những người đi trước, để dặn dò con cháu mai sau, mỗi năm dù đi đâu, làm gì, họ cũng Họ biết cúi đầu tưởng nhớ ngày giỗ tổ… ”

theo tôi, đây là một bài thơ rất hay từ chương “đất nước” này. tổng kết một thời kỳ lịch sử lâu dài của Việt Nam, nhấn mạnh truyền thống yêu nước, dựng nước và giữ nước … của nhân dân ta và câu ca dao như một lời răn dạy … hành động “cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” là một nét văn hóa đẹp của người Việt Nam. Mọi người. những người đã xả thân vì nước biết tôn thờ truyền thống, tôn thờ lịch sử hay cũng là tôn thờ đất nước… vì nước thuộc về nhân dân, vận mệnh đất nước nằm trong tay mỗi chúng ta. giữ gìn, tôn trọng và ý thức được trách nhiệm của mình

“Trong bạn và tôi hôm nay có một phần đất nước khi ta nắm tay đất nước trong ta chan hòa, ấm áp khi ta nắm tay đồng bào đất nước lớn tròn, sớm mai con khôn lớn, ta. sẽ đưa họ đến đất nước xa xôi đầy mơ mộng… ”

đất nước không chỉ có trong truyện cổ tích, nó không chỉ được lịch sử tái hiện … nếu vậy, e rằng nhiều người sẽ nghĩ rằng bài thơ “quê hương” còn nhiều chính luận, hấp dẫn, với màu sắc chính luận nhưng thiếu chất trữ tình … nhưng không, nguyên khoa học đã kết hợp một cách nghệ thuật trong đoạn trích Đất nước những gì đặc sắc nhất của văn học chính luận và chính luận. và chất thơ trữ tình khiến bài thơ lột tả được trọn vẹn vẻ đẹp của nghệ thuật cũng như khắc họa độc đáo những gì mà tác giả Nguyễn Khoa điểm muốn gửi gắm. Về nội dung, trong bài thơ này ta còn thấy quê hương tồn tại trong tình yêu đôi lứa … nếu so sánh tình yêu đôi lứa trong những trang thơ trước cách mạng tháng Tám ta sẽ thấy tình yêu riêng là đề cập. màu sắc, mang đậm dấu ấn của cái “tôi”, về khát vọng được hưởng thụ và cống hiến hết mình trong tình yêu … nhưng ở thời kỳ này, khi các nhà khoa bảng viết nước nhà để kêu gọi người dân phương nam, đặc biệt là lớp trẻ nhận thức được ý nghĩa của trách nhiệm, đặt tình yêu lứa đôi vào tình yêu quê hương đất nước. nó không phải là sự ép buộc mà ngược lại, nó hoàn thiện và hoàn thiện hệ tư tưởng bình dân của đất nước. tình yêu của “bạn và tôi hôm nay” được đặt trong một tập thể… vì vậy, không chỉ tôi và bạn nắm tay nhau, làm nên tình đất nước có sự “hòa thuận thân ái”, mà ở đây còn có sự “nắm tay” của mọi người. “. nguyen khoa diem đã đưa chất trữ tình vào một bài thơ mang đậm màu sắc chính trị, một bản hùng ca về ngợi ca đất nước, lời kêu gọi đồng bào … không nhà thơ nào làm được hơn thế ở thơ. Niềm khát khao, trăn trở đối với trách nhiệm của con người đối với tha nhân còn được thể hiện ở sự tin tưởng đối với các thế hệ sau … “Ta sẽ đưa quê hương đi xa – đến những ngày mơ” tư tưởng của con người được thể hiện trong bài thơ này đặc biệt như thế nào? và niềm tin rằng tương lai tốt đẹp của đất nước không ở đâu xa mà nằm ngay trong tay những con người chất phác, cần cù lao động …

một kháng nghị nghiêm túc được thực hiện:

“Em ơi, đất nước là máu xương của chúng ta, chúng ta phải biết đoàn kết, chia sẻ, phải biết hiện thân vào hình hài của đất nước để làm nên đất nước mãi mãi”

Vâng, đất nước là máu và xương của tôi. đất nước thân thuộc và gắn bó với chúng ta. câu thơ được đặt dưới dạng câu mệnh lệnh nhưng vẫn uyển chuyển, thiết tha bởi tiếng gọi “anh ơi” và giọng điệu thân thương… cũng từ những hình ảnh máu lửa, ta chợt nhớ về một tập thể. . của những con người anh hùng, nhóm này đã tạo ra một đất nước anh hùng

“Nước Việt máu lửa đắp bùn soi bóng”

(country – nguyen dinh thi)

Trong phần cuối của đoạn trích, tư tưởng về “đất nước của nhân dân” được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng và độc đáo. mở đầu là những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất mẹ. nhưng nguyen khoa diem đã nhận ra những danh lam thắng cảnh này với đôi mắt đặc biệt hướng về người dân của họ …

“những người vợ nhớ chồng góp cho đất nước núi vọng. Những người bạn trai yêu nhau góp tiếng trống, đèo thánh, trăm ao đầm, chín mươi chín con voi góp xây dựng đất tổ của bậc đế vương hùng cường. thủy chung nằm yên góp cho non xanh sông sâu, học sinh nghèo góp nước, núi lông, núi con cóc, gà quê hương, góp phần làm nên danh lam thắng cảnh của nó từ lâu đã góp phần của tên của ong doc, ong trang, mrs den, mrs diem ”

Người ta thấy trong bài thơ này, sự xuất hiện dày đặc của các địa danh quê hương là một điều gì đó rất đặc biệt. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ muốn trình bày vẻ đẹp của quê hương đất nước mà còn muốn nói một điều rằng, chính những con người chất phác đã tạo nên bao vẻ đẹp. từ người vợ nhớ chồng đến đôi trai gái yêu nhau, đây đều là những ví dụ được trích dẫn giải thích tạo nên cảnh đẹp ngày nay. Nguyễn Khoa Điềm luôn coi đất nước và nhân dân là một. dân, chính là dân làm nên đất nước. Những hình ảnh trong thơ Nguyễn Khoa Điềm tuy được liệt kê nhưng không liệt kê một cách chung chung mà rất chọn lọc. “Chín mươi chín con voi góp phần xây dựng đất tổ của các vị vua hùng mạnh” nhắc nhở chúng ta về truyền thuyết rằng trên đất tổ của các vị vua hùng mạnh, chín mươi chín con voi được quy tụ để phục tùng họ. đó là truyền thống yêu nước và là cội nguồn quý báu mà nhân dân ta đã gìn giữ bao đời nay. cội nguồn, quê hương vẫn là cội nguồn mà người Việt Nam không bao giờ quên trong mỗi cuộc đời. rồi núi lông, núi do “học trò nghèo” tạo nên. bài thơ khiến người ta liên tưởng đến sự hiểu biết, cần cù lao động, cống hiến hết mình của người dân Việt Nam. tổ tiên của chúng ta đã vượt qua cái nghèo và cái khổ từ bao đời nay, nhưng vẫn chuyên tâm rèn luyện bản thân. người tài cũng phải trưởng thành, thành đạt và đóng góp cho đất nước từ sự cần cù đó. và chỉ là những người bình thường, họ cũng đã góp phần tạo nên những cảnh quan của ong doc, ong trang, mrs den và mrs. diem trong nam điều đặc biệt là nhà thơ đã liên tưởng rất tốt những cái tên của địa danh này và sau đó là những công lao đóng góp của nhân dân. Trải dài khắp khổ thơ, từ “góp” liên tục xuất hiện. không phải là một từ khác mà là “đóng góp”. đôi khi chỉ cần một từ, một từ làm điểm nhấn, bạn có thể tạo ra những tác phẩm đáng giá cho bản thân và thành công một cách đáng kinh ngạc. từ “đóng góp” không chỉ đại diện cho một người, mà là nhiều người cùng nhau tạo nên một đất nước Việt Nam với bao cảnh đẹp. động từ “đóng góp” thể hiện sự thân thiết, như một cách nói dân gian rất quen thuộc, nó thể hiện thái độ, sự giản dị, cần cù của mỗi người dân khi chơi, đóng góp cho đất nước… nguyễn khoa điểm không lược bỏ một chi tiết nào, nhưng phải chọn lọc kỹ càng, từ hình ảnh đến câu chữ, sao cho bài thơ có vẻ đẹp và góp nhặt được những điều cốt yếu nhất. Tư tưởng về quê hương đất nước của những con người trong đoạn văn này không chỉ dừng lại ở lời kêu gọi mà được nâng lên một tầm cao hơn, bởi nó nhắc nhở chúng ta rằng quê hương chỉ là của những người bình dân …

bơi qua hàng loạt danh lam thắng cảnh của đất nước đã hiện ra đầy đủ về mặt địa lý, nguyen khoa diem

“và khắp nơi trên những cánh đồng đông đúc không một bóng dáng, một khát vọng, một lối sống của người cha ôi! đất nước sau bốn nghìn năm, đi đến đâu cũng thấy những kiếp người đã thành núi sông… ”

Thực sự, câu nói này đã mang tư tưởng về quê hương đất nước của người đọc trong lòng người đọc. Cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm luôn mang đến sự mới lạ cho người đọc. “Qua những cánh đồng và những gò đất” là một khái quát không thể phủ nhận. nó không còn chỉ ở những nơi kể trên, nó không chỉ tồn tại ở một nơi nào đó mà nó ở khắp đất nước ta, ven sông núi… câu ca “ôi đất nước ta sau bốn ngàn năm cũng vậy. , đâu đâu ta cũng thấy: cuộc đời đã thành sông núi … ”. dòng thứ nhất nêu lên sự khái quát của không gian, dòng thứ hai nêu lên sự khái quát của thời gian. được đan xen, tổng hợp để làm nổi bật tư tưởng đất nước – con người xuyên suốt bài thơ …

một lần nữa, nguyen khoa diem tha thiết kêu gọi

“Anh ơi, hãy nhìn xa trong bốn nghìn năm đất nước đầy người, năm nào trai gái tuổi chúng tôi cũng cần cù lao động khi có chiến tranh, con trai ra trận, con gái về nuôi. trẻ em với đứa trẻ khi kẻ thù đến. ở nhà, phụ nữ cũng đánh nhiều người trở thành anh hùng, nhiều anh hùng, cả tôi và bạn đều nhớ ”

Một lần nữa, nguyên khoa học đã đánh thức trong chúng ta ý thức trách nhiệm đối với đất nước. Để người đọc nhận ra lời muốn dạy, Nguyễn Khoa Điềm không đào sâu quá vào những giáo điều triết học. ông dùng chính dân chúng để đánh thức và mời dân chúng. như một quy luật, một tất yếu không thể tránh khỏi, bốn nghìn năm lịch sử của chúng ta đã đi qua để lại dấu ấn bằng những cuộc đàn áp của quân xâm lược. nhưng những chiến thắng đó đến từ đâu? ai đã viết những trang lịch sử đó? ai đã cầm súng để chiến đấu? ai xông vào phía trước? Ai là người kiên quyết ngăn chặn đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm hung ác? đó là con người! Nguyễn Khoa Điềm không nói đến những danh tướng, anh hùng thường được ca tụng trong văn học cổ, ông viết về

“Có biết bao cô gái và chàng trai trong bốn nghìn hạng người như tôi, họ sống chết bình dị và thanh bình, không ai nhớ tên, nhưng họ đã làm nên đất nước”

một điểm đặc sắc trong đoạn trích Đất nước thuộc con đường khát vọng của sử thi là ở đó. Nguyễn Khoa Điềm không xa rời tư tưởng đất nước: nhân dân. Mỗi câu thơ về đất nước, dù là miêu tả cảnh đẹp, khắc ghi lòng tự hào dân tộc, kể lại truyền thống lịch sử, thì cuối cùng, tất cả đều nhằm làm rõ tư tưởng trọng tâm đó. nhà thơ đã phát hiện ra một nét mới, độc đáo và biết cách khái quát hóa nó, để nó trở thành một đóng góp tư tưởng quý báu cho nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Những người xuất hiện trong khoa thơ Trạng nguyên đều là những nhà khái quát. Họ không có tên riêng, không phải là những anh hùng với những chiến công lừng lẫy như sử sách. đó chỉ là những con người “sống chết mặc bay” một cuộc đời “bình dị và lặng lẽ”. Tại sao “đơn giản” và “bình tĩnh”? vì cuộc đời anh sinh ra là để hy sinh quên mình cho đất nước. một cuộc đời biết sống vì đất nước, biết nghe tiếng gọi của Tổ quốc khi đau thương thì lớn lao nhưng bình dị, có hy sinh, khổ đau nhưng vẫn bình lặng… mọi việc làm được đều ghi lại. của đất nước và các thế hệ. sự đóng góp đó đã hình thành nên dải đất hình chữ s bao năm vẫn hoang sơ, đè bẹp không biết bao nhiêu là giặc ngoài và ách thống trị man rợ từng áp bức dân tộc ta …

và để bản anh hùng ca thực sự có chiều sâu, Nguyễn Khoa Điểm cũng đã làm rõ tư tưởng đất nước: nhân dân bằng cách khắc họa đất nước trong chiều sâu văn hóa. văn hóa đó cũng bắt nguồn từ nhân dân, văn hóa đó được nhân dân gìn giữ và trao truyền cho ngàn đời sau. truyền thống ấy được kết tinh trong nhân dân … chính vì vậy chính việc nói về bề dày văn hóa dân tộc đã giúp cho các nhà khoa học Nguyễn Khoa trở nên hoàn thiện hơn về tư tưởng đất nước – dân tộc.

“Họ cất giữ và chuyền cho tôi số lúa mà chúng tôi đã trồng, họ truyền lửa qua từng nhà, từ lò than đến cánh cung, họ mang tên xã, tên thị trấn trong mỗi lần di cư họ xây đập trên ngân hàng cho người dân rồi trồng cây lấy trái ngoại. giặc ngoại xâm thì chống giặc ngoại xâm, hễ có giặc nội thì vùng lên, đánh dẹp được ”

phong tục trồng lúa nước được nhà thơ tái hiện qua các cụm từ. Từ những thứ tưởng chừng như tầm thường, nhỏ như hòn than, những mái vòm cũng thể hiện một phần bản sắc riêng của dân tộc. dân tộc việt nam là vậy đó, qua bao đời vẫn giữ được những phẩm chất riêng không lẫn vào đâu được, lòng căm thù giặc … mỗi người đã tạo nên một bản sắc riêng cho dân tộc việt nam … và nguyễn khoa học đã sử dụng những bản sắc đó, dùng cái gì những phong tục và thói quen đó, để thể hiện một điều

“Cầu mong đất nước này là đất nước của những con người, đất nước của những con người, đất nước của những bài hát nổi tiếng thần thoại”

Đất nước – con người mà tư tưởng xuyên suốt bài thơ trong mạch ngầm của văn bản nay đã được khẳng định rõ ràng. đất nước – con người không thể tách rời. người đã làm nên quê hương, người đã giữ gìn và bảo vệ tổ quốc … già hay trẻ, dù trai hay gái đều là một trong hàng triệu người đang góp phần vào sự nghiệp giữ nước, xây dựng Tổ quốc. quê hương. .. hai câu thơ trên có sức lay động mạnh mẽ trong lòng người. nó như một nguồn sáng đánh thức tâm hồn ta, đánh thức trong ta một niềm tự hào dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã tóm gọn mọi tâm tư của mình chỉ trong hai câu thơ. người ta sẽ nhìn lại những năm tháng đã qua, mở rộng tầm mắt theo hướng không gian địa lý, rồi lắng đọng lại với những nét văn hóa của quê hương mình … mọi người, đều hiểu một điều rằng: “đất nước này là đất nước của nhân dân”. ..

còn “vùng đất của những bài hát nổi tiếng thần thoại” thì sao … hãy thử đọc và cảm nhận nhé

“dạy con“ yêu mẹ từ khi còn nằm trong nôi ”để biết con người biết giữ vàng ngày lặn, biết trồng tre đợi ngày nên người. sợ lâu ”

có bao nhiêu bài thơ phổ nhạc được trích từ những bài hát phổ thơ mà nguyễn khoa điểm gửi ở đây. Sự uyên bác về trí tuệ và tài năng nghệ thuật đã làm cho bài thơ của Trạng nguyên khoa bảng tuy sử dụng mật độ khá dày đặc các câu chuyện dân gian, ca dao nhưng vẫn uyển chuyển, không hề khô khan …

Người Việt Nam thể hiện mình qua trái tim yêu thương, qua một câu ca dao rất hay và đáng suy ngẫm

“Tôi yêu bạn từ khi tôi còn trong nôi, tôi đã khóc khi tôi ngồi xuống và bạn đã ru tôi ngủ”

Người Việt Nam được thể hiện bằng sự đánh giá cao đối với công việc

“Lội vàng lội sông, vàng rơi không tiếc, tiếc vàng cầm”

Chưa hết, quyết tâm đánh giặc bảo vệ Tổ quốc bất chấp thời gian, gian khổ

lại được nhắc đến.

“giặc này chắc tre trồng gậy lâu lắm rồi, đánh đâu trúng đó”

ngày xưa, phan Bội phấn nói “dân là dân của nước, nước là của dân”… tư tưởng về đất nước – dân tộc đã được hình thành từ ngày đó. hay một câu nói nổi tiếng của bậc danh nhân xưa cũng khuyên rằng “lấy dân làm gốc”… nhưng, riêng với nhà khoa bảng, tư tưởng đất nước: dân mới thực sự mang tính khái quát, tính hiện thực, được nâng lên một tầm cao mới. về mặt tư tưởng, nó đã thực sự khơi dậy những cảm xúc trong lòng người đọc và trở thành một đóng góp quý giá nhất cho nền văn học Việt Nam.

Đoạn “quê hương” từ chương V của sử thi “con đường khát vọng” đã kết thúc, nhưng dư âm vẫn gợi nhiều suy nghĩ trong mỗi chúng ta. Nguyên khoa học từ tình hình đất nước của mình, đã viết một bài thơ để nâng cao nhận thức của thanh niên miền Nam. đưa vào sử thi, đặc biệt là trong đoạn trích Đất nước những giá trị nghệ thuật, nội dung và tư tưởng đẹp đẽ và tinh túy nhất. đó thực sự là công việc khó khăn và đáng trân trọng. Văn học Việt Nam sẽ vẫn mang tên Nguyễn Khoa Điềm, với tư cách là người đầu tiên đưa tư tưởng Đất nước – Nhân dân đến với mọi thế hệ độc giả và có sức ảnh hưởng sâu rộng. Một nhà thơ hết lòng vì đất nước, một nhà văn tài hoa, những phát hiện mới sâu sắc về tư tưởng đất nước: nhân dân đã làm cho văn của Nguyễn Khoa Điềm trở thành kiệt tác nghệ thuật bất hủ.

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 7

Là một trí thức tham gia kháng chiến, trưởng thành trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, Nguyễn Khoa Điềm còn là nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thiên về chính luận kết hợp với trữ tình. tất cả các bài thơ của tác giả đều thể hiện khát vọng chiến đấu, một niềm tin thiết tha vào đất nước, con người. tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã chi phối cách nhìn và cách nghĩ của tác giả. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Đất nước” trong “Bài ca dài khát vọng mặt đường” của Nguyễn Khoa Điểm.

Ngay từ đầu, tư tưởng dân tộc của nhân dân được thể hiện trong quan niệm về đất nước của họ. đất nước theo nguyên văn khoa học là những gì gần gũi và gắn bó với mỗi người, đất nước là những gì đã từng “mẹ tôi từng nói”, mẹ đẻ ấp ủ bọc trăm con, “đất nước bắt đầu bằng miếng trầu nay ông ăn ”,“ nơi ta hẹn hò ”,“ đất nước nơi anh khăn gói trong nỗi nhớ ”… những phẩm chất chiêm nghiệm mang màu sắc bình dân của nhà thơ đã xua đuổi chúng ta. về nguồn gốc: Ta là con rồng cháu tiên, quá khứ thần thoại và tương lai dường như hòa quyện làm tăng cảm xúc trữ tình:

“khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có”

đất nước ở vào thời kỳ “ngày xưa… mẹ từng đếm”. đất nước trường tồn trong lịch sử và thể hiện trong mỗi người:

“Trong bạn và tôi hôm nay có một phần đất nước khi chúng ta nắm tay nhau Đất nước trong chúng ta chan hòa, ấm áp khi chúng ta cùng nắm tay mọi người đất nước ngày càng no ấm”

thật là một suy nghĩ đúng đắn và sáng tạo. Trước đây, nhiều khi chúng ta cho rằng đất nước là lợi ích chung, những việc xoay quanh mình, ít ai cho rằng đất nước là ở mỗi người. hơn nữa nếu “hai người nắm tay nhau, thì non sông gấm vóc”. quan niệm về đất nước thật gần gũi và thân thiết. Cách nhìn mới mẻ này của nhà thơ giúp chúng ta thấy mình là một thân phận, dù rất nhỏ, trong thân phận của Tổ quốc, lo cho mình trước đã, mình cống hiến cho Tổ quốc, mình lo cho các con, cháu của chúng ta. trong tương lai.

đất nước của nhân dân nên nhân dân cố gắng giữ gìn như thể máu thịt của mình. lịch sử đã ghi lại điều đó, nên “cuộc đời đã đảo lộn núi sông”. chủ nhân của đất nước, lịch sử vẻ vang của đất nước này chính là công lao đóng góp của nhân dân. thế hệ trước, thế hệ sau, những người ngã xuống, những người đi lên đã tạo nên vẻ đẹp của đất nước, và như vậy, sự tồn tại của núi sông này, sự vươn mình của đất nước này phải là công lao của nhân dân.

Điều giản dị mà nguyên khoa học phát hiện và đưa vào thơ là sự sáng tạo của nhà thơ. Có như vậy chúng ta mới biết rằng thơ không chỉ phản ánh hiện thực, tô thắm hiện thực mà còn chắp cánh cho con người vươn cao, bay vào tương lai.

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 8

Nguyễn Khoa Điểm là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. thơ anh giản dị và ý tứ. Nguyễn Khoa Điềm đã dành những trang đẹp nhất để ca ngợi và động viên tinh thần sẵn sàng ra trận của dân tộc. mỗi công việc là một hồi còi xung trận. sử thi “phố khát vọng” là một tác phẩm xuất sắc, với những khám phá độc đáo về hình ảnh đất nước và tầm nhìn thời đại. Điều độc đáo và mới mẻ nhất trong bản hùng ca Khát vọng mặt đường chính là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Bài dài Đường khát vọng được viết tại Trị Thiên – Huế Sáng tác tháng 10 năm 1971. Đất nước đã trở thành bài thơ có sức sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng của phong cách Nguyễn Khoa. cùng với “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, bài thơ của Nguyễn Khoa Điểm trở thành hai bài thơ hay nhất viết về quê hương trong văn học Việt Nam hiện đại.

Trong thơ Nguyễn Khoa, lòng yêu nước của Điềm không chỉ đơn giản là lòng hăng hái chiến đấu và lòng căm thù giặc cao độ. với nguyên khoa cử tình yêu đất nước sống lại trong trang sử hào hùng bốn nghìn năm của dân tộc với những chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điểm là sự chung sống của những gì gần gũi và thân thương nhất đối với mỗi người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong thời gian và không gian, trong lịch sử và văn hóa …

Ở Nguyễn Khoa Điềm, lòng yêu nước là hồn Việt thấm nhuần trong tâm hồn mà từ đó rút ra một chân lý vững vàng: Đất nước của nhân dân. Tư tưởng “đất nước của nhân dân” đã chi phối hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Vì vậy, thơ của Nguyễn Khoa Điểm không chỉ thể hiện những suy nghĩ, tình cảm của tuổi trẻ trong chiến tranh, về sự lạc quan hay cái nhìn nghiêm túc, chân thực, thậm chí trần trụi trước mất mát, mà còn bộc lộ suy nghĩ thực tế sâu sắc hơn nhiều.

Có thể nói, cảm hứng về Tổ quốc đã chi phối hoàn toàn nền văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong chiến tranh, cảm hứng về đất nước gắn liền với khát vọng giữ gìn chủ quyền quốc gia và đánh thắng quân xâm lược. Chủ đề này được Nguyễn Khoa Điềm phát triển trong thơ ông với không khí sử thi hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Để tái hiện tinh thần thời đại, thơ Nguyễn Khoa Điềm bộc lộ những cảm xúc thiết tha bay bổng trước vận mệnh chung của cả dân tộc. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, cảm hứng sử thi anh hùng luôn song hành với cảm hứng lãng mạn, lí tưởng hóa để tạo nên những hình tượng thơ hùng tráng. cảm hứng sử thi luôn song hành với chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. cảm hứng sử thi là cảm xúc đỉnh cao trào dâng lòng yêu nước, niềm tự hào về sự đi lên của đất nước.

Trong tâm trí Nguyễn Khoa Điềm luôn nghĩ rằng chính những con người vô danh đã làm nên đất nước. Có lẽ vì thế mà chủ nghĩa anh hùng trong thơ Nguyễn Khoa Đệ không xuất hiện với những tên tuổi vang dội, mà nhà thơ thường chú ý khai thác chủ nghĩa anh hùng trong những biểu hiện đời thường của cuộc chiến ác liệt với người bình thường.

Trên phương diện làm chủ hiện thực chiến trường, thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hòa vào bản trường ca hào hùng của thơ thanh niên thời chống Mỹ. Nếu trong sự cộng hưởng chung có thể nhận ra các giọng khác nhau: hoàng nhuan cẩm tú thơ ngây, mơ màng; sự dí dỏm bạo lực, sự dí dỏm tinh quái pha chút ngổ ngáo; huệ dương khỏe nghiêng khen ngợi; với tiếng Việt sâu lắng, trong sáng … thì thơ của cụ Nguyễn Khoa Điếm là một bài thơ sâu lắng và âm vang. Chiều sâu của thơ Nguyễn Khoa Điểm có phần nổi trội so với nhiều tác giả trẻ khác ở cách thể hiện phong phú, xúc động của một chủ đề và một ý tưởng: “Đất nước của nhân dân” được phản ánh dưới góc độ lịch sử – văn hóa của con người và trải nghiệm của chính nhà thơ.

Nguyên khoa học có một sự tích lũy phong phú về văn hóa dân tộc. Bước vào chiến tranh, sự tàn khốc dường như càng thôi thúc nhà thơ suy nghĩ sâu sắc hơn về đất nước để có những khám phá tinh tế có khả năng làm sống lại những hình ảnh đẹp đẽ của nền văn hóa dân tộc. Khi được hỏi về những sáng tác của mình trong chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm tâm sự: “Chúng tôi là những trí thức trưởng thành trong chiến tranh. chúng ta phải huy động tất cả các bộ phận của nền văn hóa của chúng ta để chứng tỏ sức mạnh của chúng ta, khả năng tồn tại của chúng ta, chứng tỏ mình là một con người, một lớp người có học thức. Đó là lý do tại sao trong bầu không khí nồng nặc mùi thuốc súng ấy, giữa ranh giới của sự sống và cái chết, tôi muốn gửi gắm vào thơ những hình ảnh văn hóa nhất của đất nước mình. ”

Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là một bản anh hùng ca hào hùng. Để phản ánh trọn vẹn không khí hào hùng ấy, người viết phải lựa chọn cho mình một hình thức thể hiện sao cho phù hợp nhất nhưng mang thương hiệu phong cách riêng. Trước yêu cầu đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm ra con đường riêng cho mình.

những đề tài khái quát về con người, đất nước và cách mạng, nhà thơ đã kết hợp những chất liệu truyền thống và hiện đại, trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về địa lý, phong tục tập quán của con người, đất nước. Để phản ánh đầy đủ sự hào hùng của thời đại, nhiều nhà thơ thời kỳ này đã sử dụng thể loại sử thi, một thể loại thể hiện những diễn biến, sự kiện trọng đại của dân tộc. Nếu sử thi của Lê anh xuân nguyễn văn chương là một bản tình ca được thể hiện qua những vần thơ, dịu dàng và đằm thắm; trong khi “tiếng chim hót” của thu bon chen lãng mạn, phóng khoáng, bay bổng thì “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điểm lại là khúc ca sôi động, nhiệt huyết của trái tim những người trẻ xuống đường chiến đấu. trong đó những trang thơ khắc ghi hình ảnh “quê hương” là những nốt nhạc nhịp đập con tim, tỏa sáng dưới cái nhìn mới mẻ và đầy xúc cảm.

Xuyên suốt chương “quê hương” là tư tưởng “quê hương của nhân dân” thấm nhuần trong hình thức “đất ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên dòng chảy sâu lắng, thiết tha trong cảm xúc của nhà thơ. nó giống như một bản nhạc với đầy đủ các cao độ xen kẽ, kết hợp với nhau để tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn người đọc.

thơ của Nguyễn Khoa Điếm viết về đề tài đất nước, con người với giọng văn đầy cảm xúc và trang trọng, trọng tâm của chất sử thi nằm ở chương “đất nước”, tập trung và làm thăng hoa những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ qua năm sau chiến tranh. đất nước được tái hiện qua những hình ảnh gần gũi với mỗi người, đất nước còn được đặt dưới góc nhìn lịch sử, văn hóa trong “không gian bao la, lâu đời” để mỗi người cảm nhận trọn vẹn sự thiêng liêng của hai chữ Tổ quốc. >

Ý thức lịch sử – văn hóa sâu sắc đã tạo nên chiều sâu riêng, đặc biệt là sức gợi của chương “đất nước”. Chương này là điểm hội tụ và tỏa sáng của toàn bộ thiên anh hùng ca, tạo nên vẻ đẹp độc đáo riêng biệt so với các sử thi khác cùng thời đại. Để tái hiện lại quá trình ra đời và lớn mạnh của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống lại một không gian văn hóa cổ kính của dân tộc, trong lịch sử bốn nghìn năm.

Lịch sử lâu đời ấy chứa đựng bề dày của một nền văn hóa giàu bản sắc, cổ kính, nhân hậu với truyền thống quý báu của dân tộc: Cần cù, chịu khó học tập, làm kinh tế, dũng cảm trong chiến đấu, thủy chung, son sắt. Ở chương “đồng quê”, độc giả được tìm hiểu thế giới truyện cổ tích, kho tàng ca dao… câu chuyện về người mẹ mở ra thế giới thần tiên kỳ diệu; miếng trầu của ông gợi lên câu chuyện “miếng trầu”, với tình người nồng hậu, thủy chung, là biểu tượng cho đạo lý cao đẹp trong sáng của dân tộc; lũy tre xanh gợi lên truyền thuyết về “thánh gióng”, như một bản anh hùng ca hào hùng về sức mạnh thần kỳ của dân tộc Việt Nam từ thuở sơ khai dựng nước và giữ nước, và hình ảnh “gừng cay muối vừng” nghĩa tình nồng thắm trong Mọi người. bài hát.

XEM THÊM:  Nhung bai tho noi ve tam trang buon

Đất nước được ghi nhớ từ trong lịch sử, được hồi sinh qua những phong tục tập quán trong đời sống tinh thần của người dân: ăn trầu, trồng tre, nhổ tóc sau đầu, đặt tên cho con người, thậm chí là cả tình yêu của con người … … tất cả làm nên bộ mặt của dân tộc – một đất nước giàu lòng nhân ái. Chất dân gian, hồn dân tộc như ngấm vào từng câu, từng chữ.

Đất nước bắt nguồn từ những điều gần gũi hàng ngày, cũng sâu sắc bền chặt đã có từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc, từ những phong tục tập quán thiêng liêng, bao đời nay. đó chính là bề dày văn hóa – lịch sử của đất nước, giúp khẳng định đất nước đã có từ xa xưa, từ thuở lập quốc khi những cư dân đầu tiên khai phá đất lập nước.

Theo nguyen khoa diem, đất nước được hình thành từ sự hội tụ của hai yếu tố đất và nước. hai yếu tố này kết hợp với nhau tạo thành cơ thể của đất, nước và nước. Trong những năm tháng chiến tranh, khi đến suối Hương Giang, Nguyễn Khoa Điềm đã từng suy tư về cội nguồn đất nước:

“điều gì đó thì thầm dưới đàn kền kền giống như đất và nước là bài hát ru đầu tiên”

(bạn của tôi, bạn có nhớ không)

Trong chương “đất nước” của sử thi “bề mặt khát vọng”, Nguyễn khoa điểm cũng đã phản ánh về lãnh thổ dựa trên hai yếu tố này:

“đất là nơi tôi đi học, nước là nơi tôi tắm, đất là nơi phượng hoàng bay đến núi bạc, nước là nơi nàng tiên cá lặn xuống nước đại dương, đất là nơi chim quay trở lại, và nước là nơi rồng sống ”

Bài thơ thể hiện một lối suy nghĩ vừa trữ tình, vừa thơ mộng, huyền thoại và thấm đẫm hương vị triết lí. hai yếu tố đất và nước được nhà thơ phản ánh trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian, lịch sử và hiện tại. đất nước là mảnh đất thân thuộc gắn bó với mỗi con người, đất nước thân thương như mái trường ta, như dòng sông anh tắm, như góc phố, đình làng, đầm sen, lũy tre, cây đa. gốc cây, bến tàu nơi lũ trẻ ở, một đôi lứa hò hẹn, một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai con người tốt đẹp, rất riêng tư nhưng cũng đầy hồn quê.

Đất nước còn núi dài, sông dài, rừng rậm, biển cả bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt Nam. theo thời gian, đất nước trở thành giá trị trường tồn, vĩnh cửu và được bồi đắp qua nhiều thế hệ, truyền từ đời này sang đời khác:

“Mai sau con tôi lớn khôn, bạn sẽ đưa đất nước đi đến những ngày mơ ước”

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như một cảm nhận lịch sử chủ đạo của nhà thơ Nguyễn Văn Khoa, chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử đất nước, được gìn giữ và xây dựng bằng mồ hôi xương máu của những con người bình dị không tên tuổi. câu chuyện ấy được tạo nên từ nhiều thế hệ, nhiều số phận: những người vợ nhớ chồng nơi trận mạc, từ cô sinh viên nghèo, gà con, ếch nhái, đến theo gót thánh ngựa, 99 con voi thờ tổ tiên vua anh hùng…

mỗi người, mỗi việc xảy ra trong lịch sử, trong không gian và thời gian đều để lại cho đất nước một điều gì đó. Chính những con người bằng cuộc sống thầm lặng, vô danh đã tạo nên những giá trị to lớn và trường tồn, đó là quê hương đất nước:

“Có biết bao cô gái và chàng trai trong bốn nghìn hạng người như tôi, họ sống chết bình dị và thanh bình, không ai nhớ tên, nhưng họ đã làm nên đất nước”

Với cái nhìn xuyên suốt lịch sử, tác giả nhấn mạnh vai trò của con người. những con người bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ đất nước. đất nước – là hiện thân của lịch sử, của bao thế hệ xương máu:

“ôi đất nước bốn nghìn năm, đi đâu cũng thấy những kiếp người đã hóa núi non sông”

(con đường khát vọng)

Vượt thời gian, nhìn lại bốn nghìn năm dựng nước, lịch sử hào hùng của đất nước như sống lại. Nhìn lại lịch sử lâu đời của đất nước, chúng ta thường khắc ghi những triều đại nổi tiếng và ca ngợi những anh hùng nổi tiếng trong trang sử vàng của dân tộc. nhưng ý thức “đất nước của nhân dân” đã chi phối tầm nhìn lịch sử của nhà thơ: nhân dân là người kiến ​​tạo đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước:

“Con trai con gái bằng tuổi chúng tôi, khi có chiến tranh thì siêng năng làm việc, con trai ra trận, con gái về nuôi con với đàn con, giặc về thì đàn bà cũng vậy. chiến đấu ”

Những cụm từ được trích từ các bài hát và tục ngữ phổ biến: “lấy con chung sống”, “kẻ thù đánh giặc cũng đến nhà đàn bà” tạo cho ca từ một sự pha trộn rất gợi cảm. cũng trong dòng cảm xúc mãnh liệt về đồng bào đất nước, nhà thơ nam hà đã viết:

“xứ thơ bốn mùa hoa nở. đọc trang kí ức câu ca dao nghe trong gió mây. Đất nước của những dòng sông gọi tên em nghe ngọt ngào tiếng nói của đất nước trong như trời xanh, êm như lụa, đất nước của những người mẹ thay áo đổi vai, hạt gạo, củ khoai, bền bỉ nuôi con, nuôi chồng chinh chiến cho ngày tháng ”.

điểm nổi bật của bài hát ca ngợi con người là điểm sáng trong phẩm chất của con người:

“Họ đã sống và chết với sự giản dị và thanh bình, không ai nhớ tên, nhưng họ đã làm nên đất nước”

con người trong quan niệm của nguyen khoa diem, là một tập thể của những anh hùng vô danh. họ sống giản dị, chết thanh thản và họ chiến đấu không phải để ghi tên lịch sử mà vì một sự nghiệp thiêng liêng, giản dị và cao cả: bảo vệ quê hương đất nước. Bài thơ ngắn gọn, cô đọng, nhưng chính những cảm xúc dồn nén đã xúc tác biết bao cảm xúc chân thành trước những hy sinh thầm lặng và những cống hiến to lớn của những con người vô danh, nhân hậu, chất phác.Theo nguyen khoa diem, đất nước còn là sợi dây kết nối giữa các thế hệ người Việt Nam, họ đã lao động, sáng tạo, gìn giữ và trao truyền cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần: từ hạt gạo đến nền văn minh lúa nước, bếp lửa. được sự tiến bộ của loài người tạo nên những tài sản tinh thần quý giá như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên phố, tiếng nói của ông cha … họ là những anh hùng văn hoá, họ đã gìn giữ. từ thế hệ này sang thế hệ khác về phong tục và cách sống của người dân nơi đây:

“Họ ở lại truyền cho tôi những cây lúa mà chúng tôi đã trồng, họ truyền lửa cho từng nhà, từ than hồng họ truyền tiếng nói cho con cháu để chúng tập nói mang tên xã, tên người. thị trấn trong mỗi hành trình di cư ”

đất nước còn là phần tinh thần trong máu thịt của mỗi người:

“Trong bạn và tôi hôm nay có một phần đất nước”

giọng thơ giàu cảm xúc đặc biệt của những người cùng thế hệ, qua giọng kể trìu mến của tình yêu, của anh và của em, Nguyễn Khoa Điểm thể hiện sự thống nhất, gắn bó giữa cái riêng và cái độc nhất, giữa cá nhân với dân tộc. trách nhiệm và nghĩa vụ với đất nước là trách nhiệm với bản thân.

“Em ơi, đất nước là máu xương của chúng ta, chúng ta phải biết đoàn kết, chia sẻ, phải biết hiện thân vào hình hài của đất nước để làm nên đất nước mãi mãi”

câu thơ ở dạng mệnh lệnh: phải biết, phải biết … nhưng với giọng điệu nghiêm trang, với cảm xúc mãnh liệt bừng dậy từ trái tim, từ tri thức sâu sắc về đất nước, bài thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ. thu hút sự thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí óc của người đọc. mỗi con người đều gắn bó mật thiết với quê hương nên phải biết bảo vệ, giữ gìn quê hương, ngoài ra phải biết hy sinh quên mình vì quê hương khi vận mệnh dân tộc lâm nguy.

trong hoàn cảnh đất nước đang phải gồng mình dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, những vần thơ của cụ Trạng nguyên có sức lay động lòng người sâu sắc, đánh thức trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, đấu tranh, hy sinh. vì trách nhiệm với đất nước là trách nhiệm với chính mình. những câu thơ chính luận mà không khô khan chính là bởi “từ tâm” của nhà thơ, thấm đẫm cảm xúc và nói với chúng ta biết bao điều thiêng liêng về quê hương, về trách nhiệm của cá nhân đối với quê hương.

Cùng dòng cảm xúc, che lan vien viết:

“Ôi đất nước ơi, tôi yêu như ruột thịt, như cha với mẹ, như vợ chồng

câu thơ chương v giàu chất trữ tình chính trị, được viết với chiều sâu trí tuệ và tầm cao văn hóa, được viết bằng cảm xúc mãnh liệt nên dễ đi vào lòng người. . lời ca thấm đượm chất liệu văn hóa dân gian, lấy cảm hứng từ ca dao, dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết nên thấm đượm sắc thái dân tộc, mở ra một đất nước thơ mộng, trữ tình từ xa xưa về sự gần gũi, thân thương. đặc biệt chương thơ rất ít vần, có chất thơ nhờ xây dựng hình ảnh, giọng thơ sâu lắng, thiết tha, chịu ảnh hưởng của các bài ca dao, ca dao phổ nhạc. Tất cả đều toát lên vẻ đẹp của đất nước con người, xứ sở của những bài ca dao, những huyền thoại mà Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm trong từng câu thơ.

Bảo vệ vai trò của nhân dân lao động với đất nước, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa làm sáng tỏ tư tưởng “đất nước của nhân dân”, khẳng định vai trò và sức mạnh của nhân dân trong lịch sử và đất nước. Đó là một truyền thống lâu đời trong lịch sử văn học dân tộc. tác phẩm đã tạo được những rung động cộng hưởng trong lòng người đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành trải qua của bản thân thể hiện tư tưởng chung của cả thế hệ đối với đất nước. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến một cú hit nữa cho dòng thơ về đất nước, đi sâu cảm nhận về đất nước và con người bằng một giọng văn nghệ thuật thấm đẫm chất văn học dân gian.

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mô hình 9

Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân siêu hay (14 Mẫu)

“Đất ngoại ô” (1972), “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm cho thấy một hồn thơ giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện những tâm tư của người thanh niên trí thức trước những vấn đề trọng đại của dân tộc ta thời chống Mĩ.

câu thơ “quê hương” là chương v của sử thi “khát vọng vỉa hè”. trước nguyên khoa cử, chủ đề quê hương đất nước đã được nói đến rất hay và đầy tình cảm trong những bài thơ nổi tiếng như “bên kia sông” (hoang cẩm), “quê” (nguyễn đình thi), “quê” (giang nam ) … “Đất nước” của nguyen khoa diem là một bài ca: ý thức về cội nguồn sâu xa của đất nước, trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân do nhân dân tạo nên một “đất nước của nhân dân, đất nước của nhân dân ca dao, huyền thoại ”- có thể nói tư tưởng“ quê hương của con người ”đã được thể hiện một cách sâu sắc và độc đáo trong bài thơ“ quê hương ”này.

đoạn thơ có 110 câu thơ tự do, giàu chất liệu dân gian. chúng ta có cảm tưởng: những bài hát nổi tiếng, những bài hát nổi tiếng, những truyền thuyết, những câu chuyện cổ tích… đã được hiện thân vào những bài thơ “quê hương”. từ con người đến cảnh vật, từ những chi tiết lấy từ nhịp sống dân dã, vất vả như “gừng cay, muối mặn”, như “giàn có tên”, “hạt cau”, “hạt gạo. “, .. chuyện“ yêu nhau mà có con ”, chuyện“ chèo đò, kéo đò vượt thác ”… chỉ đơn giản vậy thôi nhưng lại mở ra một không gian nghệ thuật vô cùng thân thuộc, khiến ta thấy lạ trong lòng tự hào về một đất nước “xưng hùng xưng bá” (nguyễn trai). chất liệu dân gian ấy đã được nhà thơ sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật để tạo nên sự độc đáo và vẻ đẹp thẩm mỹ, đồng thời qua hệ thống hình tượng và cảm hứng trữ tình đã thể hiện một cách nhiệt tình, phóng khoáng tư tưởng chủ đạo “đất nước của nhân dân” khiến người đọc tự hào. và cảm xúc.

Nếu bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi mang giọng điệu xúc động, hào hùng, “Bên kia sông” của Hoàng Cầm là giọng thơ trầm bổng, vang xa thì qua đoạn văn này, Nguyễn Đình Thi đã bày tỏ suy nghĩ, cảm nhận của mình về đất nước dưới hình thức một cuộc trò chuyện từ trái tim đến trái tim.

Trong phần đầu của bài hát, tác giả nói về lịch sử của đất nước – một đất nước được hình thành từ “một thuở” đã trải qua bốn nghìn năm “dài đằng đẵng”. không kể những chiến công lịch sử hào hùng, những chiến công hiển hách, những anh hùng nổi tiếng mà “bạn và tôi ghi nhớ”. Nguyễn Khoa Điềm đã lấy cảm hứng từ đất nước với những điều bình dị, đời thường mà rất đỗi gần gũi, thân thương đối với mọi gia đình Việt Nam. có tiếng nói của mẹ, của trầu, có câu chuyện “đất nước lớn lên dân tộc biết trồng tre đánh giặc”. có thuần phong mỹ tục, có tình phụ tử, có mồ hôi công sức mới làm ra hạt gạo, có tiếng nói của nhân dân, tiếng nói do nhân dân sáng tạo ra để gọi tên những sự vật xung quanh mình …

“Đất nước khởi đầu từ miếng trầu nay ông ăn, đất nước lớn mạnh khi dân tộc mình biết trồng tre đánh giặc, tóc mẹ bới sau mái đầu cha mẹ yêu thương gừng cay muối mặn, một cái giàn, một cái sào, và một hạt lúa. Phải một nắng hai sương để xay, nghiền, xay, rây đất nước có từ ngày đó… ”

câu ca dao trên gợi lại sự tích “san giồng”, chuyện cổ tích “trầu cau”, tục cài tóc của người dân châu âu, trong đó nhắc lại những câu ca dao về tình nghĩa vợ chồng, về công việc nông nghiệp. . . bài thơ tuy chỉ gợi, chỉ vẽ vài ánh đèn, mơ hồ nhưng đầy hương vị.

đất nước bình dị và đầy mê hoặc, cụ thể và gần gũi với “em” và “em” đối với từng chàng trai cô gái. “đất là nơi bạn đi học – nước là nơi bạn tắm”; đó là cây sung, giếng nước, sân đình, bến tàu “nơi ta hẹn”, nơi “anh em buông khăn trong nỗi nhớ thầm”; là một làn điệu dân ca tuyệt vời đã thấm vào máu thịt mỗi người Việt Nam từ khi còn nằm trong nôi:

“Trái đất là nơi phượng hoàng bay về núi bạc, nơi cá làm tổ trong nước biển”

đất nước thiêng liêng và đáng tự hào. cha rồng mẹ tiên đã tạo ra đất nước này. những vần thơ thì thầm về tình yêu sâu nặng. đưa tâm hồn chúng ta trở về cội nguồn qua truyền thuyết huyền diệu:

“… đất là nơi chim về, nước là nơi rồng sống.

Tư tưởng “quê hương của nhân dân” được nói lên một cách vô cùng sâu sắc khi nhà thơ chắt chiu mồ hôi, xương máu của nhân dân. đất nước kéo dài “trường kỳ” và trải dài trên một “không gian rộng lớn”. chính những con người đã đổ mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. một dân tộc chăm chỉ và dũng cảm. hạng người biết làm ăn kinh tế, sống hào hoa phong nhã. câu chuyện của cặp đôi không phải về tình yêu mà là về tình yêu trẻ:

“… em ơi, nhìn xa trong bốn nghìn năm. Đất nước năm nào cũng vẹn toàn, trai gái tuổi chúng ta, lao tâm khổ tứ khi có chiến tranh, trai tráng ra trận, con gái về nuôi con ngày nào, giặc đến nhà, đàn bà đánh bao nhiêu người trở thành anh hùng… ”

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, chính những con người đã tạo nên đất nước này: “không ai nhớ tên mà lập nước”. hạt gạo do chính tay nhân dân ta gieo trồng; Lấy than, cúi gập người để giữ lửa; truyền giọng nói của cha cho con cái của mình; đắp đê đôi bờ ”… và trồng cây ăn quả. họ “làm” và “đã giữ”, “truyền lệnh”, “xây đập” … và “bốn nghìn loại người” đã làm tất cả:

“… họ cất và chuyền lúa chúng tôi gieo, họ truyền lửa qua từng nhà, từ than đến cung, họ truyền giọng nói của họ cho con cái của họ để chúng tập nói, chúng mang tên xã, thị trấn di dân đắp đập cho dân trồng cây lấy trái… ”

ngôn ngữ thơ (lưu và truyền, gánh, đắp đập, đắp ong) được nhấn đi nhấn lại truyền thống cần cù lao động của nhân dân – chủ nhân đất nước.

“Nhân dân ta yêu nước nồng nàn. đó là một truyền thống quý báu của tôi ”(Hồ Chí Minh). “Nước ta, đất nước của những người chưa bao giờ chết” (nguyễn đình thi); “gươm đeo gươm trên lưng, tay mềm cầm bút hoa” (chồng); “rút gươm, không chịu sống quỳ” (bên phải). nguyen khoa diem cũng có một cách nói độc đáo như thế:

“Có giặc ngoại xâm, đánh giặc ngoại xâm, giặc nội nổi lên, đánh thắng”

tư tưởng “đất nước và con người” là sự ngợi ca mồ hôi và xương máu của nhân dân. “Không có mồ hôi và máu, các dân tộc không thể có lịch sử” (engels). nên nhà thơ trẻ đã viết:

“Cầu mong đất nước này là đất nước của những con người, đất nước của những con người, đất nước của những bài hát nổi tiếng thần thoại”

hai câu thơ lặp lại từ “quê” bốn lần và lặp lại từ “thị trấn” hai lần, cho thấy tình yêu biết bao!

Đất nước ta vô cùng kỳ vĩ với núi cao, sông dài, biển rộng, với những cánh đồng thẳng cánh cò bay. tên núi, sông đã được phản ánh trong thơ ca dân tộc. “bach dang giang phu” do truong han sieu, “duc thuy son”, “con trai ca” do uc trai, “qua đèo” của mrs. huyện thanh quan, “đêm trăng trên sông chè”, v.v… giang sơn tự hào biết bao! “Vô cùng xinh đẹp, đất nước của tôi!” (chủ nhân). Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về sông núi đất nước, nhưng không nói đến “người tài hoa bạc mệnh”, “ông quan bội bạc”, “một buổi chiều tà”… mà ông có một cách nói riêng. . mỗi nơi, mỗi cảnh vật như một khắc, tạc vào trời đất vẻ đẹp tâm hồn với những phẩm chất đáng quý của dân tộc ta như tình yêu đồi núi thủy chung, sức mạnh quật khởi, ý chí tự cường, tự cường, bàn tay hiếu học. , cần cù, khéo léo, có tấm lòng nhân hậu, bao dung …:

“Những người vợ nhớ chồng cũng góp cho đất nước những núi vọng, những người bạn trai yêu nhau góp tiếng trống, vó ngựa thánh đèo, trăm ao đầm bỏ chín mươi- chín con voi góp cho đất tổ hùng vỹ, rồng nằm yên góp non xanh sông sâu, học trò nghèo góp non sông đất nước.

có những tên đất, tên làng với hàng ngàn sự trùng lặp gợi lên trong lòng người đọc hôm nay nỗi nhớ về ông cha ta một thời “giương gươm mở đất”, xâm lược biển, cướp đất, chặt phá. kính, đặt con hổ, và bắt con cá sấu. , đào kênh. bài thơ như một lời tưởng nhớ công ơn của nhân dân: những anh hùng vô danh đã đóng góp bằng máu và mồ hôi để dựng nước:

“những người đã giúp cung cấp tên của mr doc, mr trang, mrs den, mrs diem”

Cảnh sông núi như soi bóng qua những vần thơ hay, truyền cho ta nhiều rung cảm. tiếp theo, nhà thơ đi đến một nhận thức chung: hồn sông núi cũng là âm điệu tâm hồn con người:

“và khắp nơi trên đồng ruộng, gò đồi, không có một lối đi, một khát vọng, một lối sống. ôi đất nước sau bốn nghìn năm, đi đâu cũng thấy những kiếp người đã hóa núi sông. “

p>

cấu trúc câu thơ thay đổi như đa âm, đa thanh, khiến cảm xúc thơ dồn nén, giọng thơ háo hức bồi hồi.

“Quê hương của nhân dân” không chỉ trường tồn trong chiều kích “bao quát” của lịch sử, trải dài trên chiều rộng “không thể đo lường được” của không gian địa lý, mà còn ở chiều sâu của tâm hồn, ở tầm cao của ý chí cuộc đua. một thị trấn yêu ca hát, cuộc sống hòa vào những làn điệu dân ca. một con người thân thiện trong lối sống “biết quý biết bao vàng trong những ngày đi du lịch”; biết sống thủy chung trong tình nghĩa “cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”, biết thủy chung son sắt:

“Mỗi năm dù đi đâu, làm gì, bạn cũng luôn biết cúi đầu để nhớ về ngày giỗ tổ”

“Ngày mồng mười tháng ba”, ngày giỗ các vua Hùng, con cháu tứ phương tề tựu về phong châu, hương khói nghi ngút, động tác “lạy tạ. người đứng đầu ”thành kính và biết ơn các bậc tiền nhân. về với cội nguồn là một nét đẹp rất riêng trong tâm hồn người Việt.

Trong mỗi chặng đường lịch sử hàng nghìn năm, những “lớp người” dân tộc ta luôn ngẩng cao đầu, anh dũng và kiêu hãnh, kiên cường, bất khuất để bảo vệ Tổ quốc, giữ vững nền dân tộc Việt Nam. nam:

“Chàng biết trồng tre đợi ngày thành que, trả thù không lâu”

Kết thúc bài thơ là khúc ca vang vọng trên những dòng sông quê hương. những dòng sông “trăm sắc”, “trăm hình” vẫy vùng xuôi… là những hình ảnh về Tổ quốc thân yêu. câu hò của nhân dân “chèo đò, kéo đò vượt thác” là nhịp sống cần cù, lạc quan, yêu đời của nhân dân ta trên con đường đi tới ngày mai …

giọng thơ ngọt ngào, ngân vang cho ta niềm tin và niềm tự hào về sự trường tồn của đất nước thân yêu:

“ôi, sông lấy nước ở đâu mà về nước, câu hát người ta đến hát khi chèo đò, kéo đò qua thác gợi trăm sắc trăm ngả. của những dòng sông chảy xuống? “.

bài thơ “đất nước” của nguyễn khoa điểm cũng là “lời tự hát”. hát về tình yêu của chúng ta, hát về con người, về đất nước. hát về quá khứ “thời gian dài, không gian rộng lớn”. hát về một ngày mai với bao “ước mơ”. Chính những người làm nên đất nước đã trao cho nó niềm tin thiêng liêng đó:

“Mai sau con tôi lớn lên, bạn sẽ đưa quê hương đi xa, đến những ngày mơ mộng”

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” qua bài thơ này đã chi phối cái nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điểm trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt. Tư tưởng này đã được thể hiện bằng một hồn thơ thấm đẫm màu sắc bình dân, nó đã làm phong phú thêm ý niệm về đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

Cảnh sông núi gắn liền với hồn cốt dân tộc, khí phách giống nòi. cái bình dị hiện hữu xung quanh ta hòa quyện với cái thiêng liêng cao cả, thể hiện vẻ đẹp vĩnh hằng của đất nước Việt Nam văn hiến và sự trường tồn của dân tộc.

bài thơ còn tản mạn, nhưng ý tứ đẹp đẽ, truyền cảm và ngôn ngữ thơ độc đáo. đã đánh thức trong mỗi chúng ta lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm và khát vọng của công dân đối với đất nước:

“Em ơi, đất nước là máu xương của chúng ta, chúng ta phải biết đoàn kết, chia sẻ, phải biết hiện thân vào hình hài của đất nước để làm nên đất nước mãi mãi”

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 10

Thơ ca Việt Nam ba mươi năm chiến tranh là một khúc ca, giai điệu ngọt ngào về đất nước. ta không bao giờ có thể quên được một “đất nước hình tia chớp” trong thơ thơ mạnh mẽ hay một đất nước như “người mẹ chiều con gánh gồng nhẫn nại nuôi con cho đời êm đềm” trong bài thơ. Đề cập đến đề tài quê hương trong văn học cách mạng sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến quê hương được trích dẫn trong bài Khát vọng đường cùng với tư tưởng nhân văn tiến bộ: “Tổ quốc của nhân dân”.

Trong những thời điểm khác nhau, có những quan điểm khác nhau về đất nước. nếu ở thời trung đại, quan niệm đất nước nên thuộc về vua, lãnh thổ do vua cai trị: “nam quốc sơn hà nam cư”. Ở thời cận đại, khi nói đến nước, Phan Bội Châu đã nói: “Dân là dân, nước là của dân”. Mặc dù tư duy ra đời trước đó đã thể hiện tư duy tiến bộ hơn so với thời hiện đại nhưng nó vẫn mang nặng tư tưởng nhà nước phong kiến ​​phương đông và hệ tư tưởng tư sản. chỉ ở thời đại Hồ Chí Minh, các nhà thơ mới có ý thức sâu sắc và thấm thía nhất tư tưởng đất nước thuộc về nhân dân, của đại đa số quần chúng:

“chấp nhận đất nước của những người mặc quần áo đã trở thành anh hùng”

(nguyen dinh thi)

Ngay từ đầu, tư duy đất nước theo chiều rộng của lãnh thổ đó không phải là điều mới mẻ, nhưng đặc điểm độc đáo nhất của nguyên khoa là không gắn lãnh thổ với đế quốc, với thiên đàng, mà là với vĩ đại. những người tuyệt vời:

“đất là nơi bạn đi học, nước là nơi bạn tắm, quê là nơi chúng ta hẹn hò, quê là nơi bạn quàng khăn với nỗi nhớ, đất là nơi phượng bay về núi bạc “nước là nơi” tiếng còi ngoài biển khơi “”

Theo cảm nhận của nhà thơ, “quê hương” là một không gian vô cùng gần gũi và thân thương, một vương quốc đầy ngọt ngào và thơ mộng gắn với bao kỉ niệm tình yêu của mỗi người.

và:

“Những người vợ nhớ chồng cũng góp cho đất nước những ngọn núi hy vọng. Những người bạn trai yêu nhau góp tiếng trống thánh thót. Người qua trăm ao đầm, để lại chín mươi chín con voi để góp phần xây dựng vùng đất của các bậc đế vương hùng mạnh, con rồng nằm yên góp phần cho non xanh nước biếc, chàng thư sinh nghèo giúp nước có núi lông, con cóc, con gà quê hương, góp phần làm nên danh lam thắng cảnh của thành phố ha long quan họ. đã đóng góp tên ong doc, ong trang, mrs den, mrs diem ”

Đất nước đã trở thành một phần thiêng liêng trong cuộc sống của mọi người. mỗi người chỉ góp một phần nhỏ bé để làm nên đất nước. vì vậy, xây dựng, bảo vệ và hy sinh quên mình cho quê hương là trách nhiệm cao cả của chúng ta vì “quê hương này là quê hương của nhân dân”

Khi bạn nghĩ về “quốc gia” về mặt lịch sử, nó không phải là mới. nhưng điểm mới lạ của nhà thơ là khi nói về lịch sử hàng nghìn năm của đất nước, ông không sử dụng các tư liệu lịch sử như các nhà thơ khác:

“từ triệu, dinh, ly, tran bao đời nay lập nền độc lập với tang và tông, mỗi bên anh hùng một phương riêng”

(nguyen trai)

chưa kể đến những anh hùng nổi tiếng trong lịch sử:

“Khi nguyễn trai làm thơ đánh giặc, nguyễn du viết kiều, nước thành văn, khi nguyễn ngự cưỡi voi ra cửa bắc. Hùng đạo diệt quân nguyễn trong sóng bấc đăng …”

(nguyen dinh thi)

mà nguyen khoa diem nhấn mạnh ở vô số những người đơn giản và vô danh nhưng cực kỳ ngầu:

“Con gái thời chúng tôi siêng năng khi có chiến tranh, con trai ra trận, con gái về nuôi con với đàn con, khi giặc về, đàn bà cũng đánh nhiều người trở thành anh hùng. , biết bao anh hùng cả anh và em đều nhớ nhưng tôi biết có biết bao trai gái trong bốn ngàn hạng người như tôi, họ sống chết bình dị, thanh bình, chẳng ai nhớ tên, nhưng đã làm nên đất nước ”

cũng tạo ra nó và truyền nó cho thế hệ tiếp theo:

“Họ giữ và chuyền cho tôi lúa mà chúng tôi gieo, họ truyền lửa cho từng ngôi nhà bằng than qua vòm, họ truyền tiếng nói của họ cho con cái của họ, họ học nói họ mang tên xã, tên của thị trấn trong mỗi chuyến di cư họ đắp đập cho con cái, con sau chăm cây, hái quả ”

họ là ai? Họ có phải là những anh hùng nổi tiếng trong sử sách? không, đó chỉ là một phần nhỏ của họ. họ ở đây già hơn nhiều, những người là tổ tiên của bạn trong quá khứ. từ “họ” được đặt ở đầu dòng thơ và được lặp lại thể hiện vai trò to lớn, to lớn của nhân dân đối với đất nước.

Các động từ “lưu giữ – truyền lại – mang theo” cho ta cảm giác quá trình tiến hóa của lịch sử Việt Nam giống như một công trình vĩ đại, trong đó có sự ủng hộ không ngừng của các thế hệ nhân dân. họ tạo ra từ hạt gạo với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi sự tiến bộ của nhân loại hướng tới những tài sản tinh thần quý giá như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, tiếng nói của ông cha. ông … thì nhân dân là người tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho đất nước.

nói về chiều sâu văn hóa đất nước, nguyên khoa học không nhắc đến những danh nhân như nguyễn trai. nguyễn du, hồ xuân hương, nơi lưu giữ truyền thống tâm linh của người dân:

“Đất nước có trong” Ngày xửa ngày xưa … “Mẹ thường nói đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ đất nước lớn lên dân ta biết trồng tre, đánh giặc. kẻ thù. tình mẹ với nhau gừng cay muối mặn, cái giàn, cái sào nhân danh hạt gạo phải mài, giã, nát, sàng nước đã có từ ngày ấy ”

những truyền thống văn hóa xưa cũ nhưng giản dị được nhà thơ nhắc lại với niềm tự hào sâu sắc.

Thành công đầu tiên trong việc thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình chất liệu dân gian phù hợp, dẫu biết chất liệu dưới hình thức nghệ thuật nào cũng cấu thành nên câu thơ trái tim của người nghệ sĩ. văn hóa dân gian được thể hiện trong việc sử dụng các câu tục ngữ, ca dao, truyền thuyết …

Hơn nữa, sự kết hợp với giọng thì thầm đã chạm đến tâm hồn độc giả một cách mạnh mẽ. Đất nước là một đề tài lớn nhưng khi đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề khô khan mà đi vào lòng người như một lời ru. thể thơ tự do, phóng khoáng với những câu thơ nhịp nhàng, ngắt quãng đã góp phần thể hiện thành công Đất nước.

như vậy, qua mảnh “quê hương”, tư tưởng “quê hương đất nước” chính là tư tưởng chủ đạo mà nhà thơ muốn gửi gắm.

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 11

Trong mảnh “đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, có hai câu thơ nói lên tư tưởng trọng tâm của toàn bộ tác phẩm:

“Cầu mong đất nước này là đất nước của những con người, đất nước của những con người, đất nước của những bài hát nổi tiếng thần thoại”

Nói đến lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng tư liệu lịch sử như nhiều nhà thơ khác. đã sử dụng câu chuyện phổ biến phong phú:

“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu, bây giờ ăn quả đó. Đất nước lớn mạnh khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc”

Phải chăng, hình ảnh thơ đã gợi cho chúng ta sự tích về sự tích trầu cau từ thời vua chúa anh hùng dựng nước năm xưa và sự tích vị thánh nhổ tre chống giặc ngoại xâm. trước đây? điều gì đã xảy ra với lịch sử? nghĩa là trong mỗi câu chuyện lịch sử của đất nước được lưu giữ, xuất hiện trong “miếng trầu ông ăn”, trong “lũy tre đánh giặc”. nói cách khác, đất nước đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tinh thần của nhân dân từ bao đời nay. nó cũng là “đất nước của con người”.

do đó, khi nghĩ đến hàng nghìn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại những triều đại “triệu, định, lý, bao đời để giành độc lập” (nguyễn trai). không thể không kể đến tên tuổi của những anh hùng nổi tiếng trong sử sách như bà. trung, mrs. trieu, tran hung dao, le loi, quang trung:

“Khi nguyễn trai làm thơ đánh giặc, nguyễn du viết kiều, quốc văn thành văn, khi nguyễn huệ cưỡi voi đến cửa bắc hung đạo tiêu diệt quân nguyễn ở sóng song đăng…”

mà nguyen khoa diem đã nhấn mạnh với hàng nghìn người đơn giản và ẩn danh:

“Có biết bao cô gái và chàng trai trong bốn ngàn hạng người như tôi, họ sống chết đơn giản và thanh bình, không ai nhớ tên, nhưng họ đã làm nên đất nước”

Những người vô danh này là vô cùng của những người có công dựng nước và giữ nước qua các thời đại. họ không chỉ chống giặc ngoại xâm, mà còn sáng tạo và trao truyền mọi giá trị vật chất và tinh thần cho muôn thế hệ, cùng với “thời gian” là “không gian rộng lớn” được tạo dựng từ thuở sơ khai với truyền thuyết về Lạc long quan. . – au co “đất là nơi chim về, nước là nơi rồng ở” – một đất nước đẹp và thiêng liêng như thế:

“Họ giữ và chuyền cho tôi lúa mà chúng tôi gieo, họ truyền lửa cho từng ngôi nhà bằng than qua vòm, họ truyền tiếng nói của họ cho con cái của họ, họ học nói họ mang tên xã, tên của thị trấn trong mỗi chuyến di cư họ đắp đập cho con cái, con sau chăm cây, hái quả ”

Nhưng đất nước còn là không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân “Đất là nơi bạn đến trường. Nước là nơi ta tắm ”và chính vùng nước ấy đã chứng kiến ​​mối tình đầu của biết bao cặp đôi:

“Đất nước là nơi ta hẹn hò, Đất nước là nơi chiếc khăn quàng của nỗi nhớ rơi xuống”

Xuất phát từ quan niệm “đất nước của nhân dân”, tác giả đã có những khám phá sâu sắc và mới mẻ về cảnh đẹp thiên nhiên đất nước gắn với con người mà trên hết là với những con người bình dị. và chính những con người bình dị ấy đã tạo nên vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu gấm vóc của sông núi mà còn là kết tinh của vẻ đẹp tâm hồn và truyền thống dân tộc:

“những người vợ nhớ chồng cũng mang núi non vọng nước. Bạn trai yêu nhau góp tiếng trống thánh thót mà trăm ao hồ còn”

rồi “chàng sinh viên nghèo góp núi rừng quê hương”, đến những nơi rất đỗi bình dị. “Những người góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. từ đó tác giả đi đến một cách khái quát sâu sắc:

“Ôi đất nước ơi, sau bốn nghìn năm, đi đến đâu chúng ta cũng thấy những kiếp người đã đảo lộn núi sông”

Đất nước ấy còn có bề dày văn hóa, là tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Cũng giống như hai khía cạnh trước, bề dày văn hóa không được nhắc đến qua các danh nhân văn hóa như: Trạng nguyên, Trạng nguyên, Trạng nguyên, Trạng nguyên … mà được thể hiện bằng nguồn văn hóa dân gian phong phú để gửi gắm tinh thần và vẻ đẹp của tâm hồn của nhân dân, thấm nhuần tư tưởng “Đất nước của nhân dân, của những bài ca bình dân thần thoại”. Trong kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những nét đẹp nổi bật của tâm hồn và nhân cách Việt Nam. anh say đắm và chung thủy trong tình yêu: “yêu từ khi còn trong nôi”; “Cha mẹ thương nhau muối gừng cay cay”; biết quý trọng tình nghĩa: “mới biết quý nhân như vàng trong những ngày rong ruổi”. nhưng cũng quyết liệt với kẻ thù: “biết trồng tre chờ ngày hóa que. trả thù không sợ dài ”ba khía cạnh quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc đã được Người thể hiện sâu sắc và sâu sắc từ những câu ca dao hay – tiếng nói của lòng dân trong suốt từng thời kỳ lịch sử.

Tóm lại, qua mảnh “đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một chân lý: đất nước này là đất nước của nhân dân, của những bài ca bình dân thần thoại. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm trong việc đi sâu vào quan niệm đất nước trong thơ ca chống Mỹ. tư tưởng của nhà thơ về nhân dân như bài thơ sau:

“vân vân, người thường lặng lẽ như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời, nên người cao hơn sao cô đơn trên bầu trời”

(những người đi biển, thanh thản)

phân tích suy nghĩ của người dân về đất nước – mẫu 12

nguyen khoa diem thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. bản anh hùng ca “mặt đường khát vọng” là một tác phẩm xuất sắc, có vẻ đẹp độc đáo, được sáng tác năm 1971 tại vùng rừng núi chiến khu tri âm. bài hát “đất nước” là chương v của sử thi này. tác giả đã vận dụng sáng tạo chất liệu – chất liệu thơ ca từ tục ngữ, ca dao, từ truyện cổ tích đến phong tục, ngôn ngữ … từ văn hóa dân tộc để truyền cảm hứng về đất nước. , một đất nước có nguồn gốc lâu đời, một đất nước của những con người vĩnh cửu.

đoạn thơ 12 câu này thuộc phần ii của bài hát “đất nước” ca ngợi đất nước hùng vĩ, tự hào khẳng định phẩm chất cao quý của dân tộc ta, dân tộc ta. câu thơ mở rộng thành 13, 14, 15 chữ nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu nhạc điệu và gợi cảm:

Tám câu thơ đầu nói lên hình ảnh quê hương, quê hương hùng vĩ, gấm vóc. trên đất nước ta đâu đâu cũng có cảnh đẹp như tranh vẽ. Núi Vọng Phu, trống mái đã đi vào cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một tầm nhìn khám phá và nhân văn. núi ấy, cù lao ấy là do “vợ nhớ chồng”, hay những đôi trai gái yêu nhau đã “góp công”, “góp công”, tôn tạo, tô điểm đất nước:

“Những người vợ nhớ chồng cũng góp nước, núi mong, nghĩa tình góp chung mái nhà”.

Trống mái ở núi sơn lâm, thanh hóa, bình định,… trống mái ở sơn hà không chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. nếu vợ “nhớ chồng”, vợ chồng “thương nhau” thì “góp cho nước”, lại “góp” cho những ngọn núi hy vọng, nóc nhà của hải đảo. nếu tình yêu đôi lứa thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng thủy chung thì đất nước có hình ảnh thú vị ấy. tác giả đã vượt ra khỏi danh sách tầm thường để có một cách nhìn, cách thể hiện mới của con người.

Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp của đất nước về lịch sử và truyền thống. “gót ngựa của thánh nhân” đã để lại cho đất nước ta bao ao hồ, vùng hà bắc hôm nay, 99 ngọn núi voi ở phong châu đã cùng chung sức, chung lòng “góp sức dựng nước hùng cường”. các từ: “vừa đi qua mà… ra đi”, “góp sức xây dựng” vừa thể hiện giản dị, vừa tự hào về sự thiêng liêng của quê hương, khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của quê hương, nhân dân ta trong công cuộc xây dựng. và bảo vệ đất nước:

“Vó ngựa của san giong đã đi qua, nhưng một trăm ao đầm để lại chín mươi chín con voi để giúp xây dựng đất đai của các vị vua hùng mạnh.”

Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. có dòng sông đỏ nặng phù sa. có sông mã “bạch mã”. và còn có cửu long giang mang dáng hình thơ mộng ôm trọn vẻ đẹp huyền thoại:

“những con rồng nằm bất động dưới dòng sông xanh thẳm.”

rồng “đứng yên” từ bao đời nay mà miền nam yêu thương có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều phù sa ngọt lành, nhiều cá tôm, biển lúa bốn mùa bao la. . Phải chăng nhà thơ trẻ đã qua vẻ đẹp của sông chín rồng để ngợi ca gấm vóc, người Việt Nam tài hoa?

Quảng Nam, Quảng Ngãi là quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Bác Kháng, v.v., có núi Ẩn, sông Đà, núi Bút. nhìn núi bút, nguyễn khoa mục không nói đến “hiền tài” mà nghĩ đến người học trò nghèo, truyền thống hiếu học, lòng kính thầy của nhân dân:

“chàng sinh viên nghèo đóng góp cho núi rừng nước nhà”

nghèo nhưng vẫn “đóng góp” cho non sông đất nước ta, văn hóa đại việt tỏa sáng. nghèo về vật chất nhưng giàu trí tuệ và tài năng. từ lâu đã trở thành một kỳ quan, một thắng cảnh nhờ “gà đồng quê mẹ có nhau”. và tên của các thị trấn, núi, sông như mr. doc, mr. trang, mrs. cho, mrs. điểm … ở nơi cực Nam Tổ quốc, “những con người đã góp tên tuổi” đã đem mồ hôi, xương máu lên rừng, xâm thực biển, đào kênh, bẫy cá sấu, săn cọp … để làm gì? Nhà thơ đã có một cách viết giản dị mà cảm động ca ngợi sự cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của thị trấn ta, khẳng định rằng thị trấn vĩ đại, chủ nhân đã “làm nên”. vùng đất vĩnh hằng ”:

“Con cóc và con gà quê hương góp phần tạo nên danh lam thắng cảnh của Hạ Long, là người đã góp phần làm nên tên tuổi của ông. Tiến sĩ, Mr. trang, mrs. den, mrs. diem “.

tám câu thơ với nhiều dấu mốc huyền thoại và câu chuyện cổ tích được nhà thơ nhắc đến thể hiện niềm tự hào và lòng biết ơn đối với đất nước và con người nơi đây. Văn bản thơ – những hình ảnh: người vợ, người bạn đời, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con ếch và con gà, con người … dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điểm mang ý nghĩa tượng trưng, ​​tượng trưng cho tâm hồn trung nghĩa, trí tuệ và tài năng, công nghiệp. và lòng dũng cảm, v.v. của dân tộc ta qua một thời kỳ lịch sử lâu dài. Chính những con người vĩ đại đã “góp công”, “góp công”, “làm trái”,… làm giàu và tôn tạo đất nước. nhà thơ đã góp vào những động từ – vị ngữ ấy (góp sức, góp sức …) nhiều nghĩa mới, nhiều sắc thái biểu cảm với nhiều liên tưởng nhân văn.

bốn dòng cuối của bài thơ, giọng thơ ngân lên những thiết tha, ngọt ngào. từ cụ thể, chất thơ nâng lên tầm khái quát, tính chính luận được kết hợp hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:

“và khắp nơi trên những cánh đồng, những gò đất không có hình hài, ước vọng, lối sống của tổ tiên chúng ta.

Cánh đồng và gò đất… là hình ảnh của quê hương. Tên núi, sông, thị trấn, làng mạc, đồng ruộng, gò đất,… ở bất cứ miền nào trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang “dáng dấp, ước nguyện, lối sống của tổ tiên”. hình ảnh đất nước còn là tâm hồn, là cốt cách, là ước mơ, hoài bão của ông cha ta, của tổ tiên bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. “đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất hay, ca ngợi tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. từ “ơ” được lặp lại 3 lần, từ “ta” được lặp lại 2 lần, kết hợp từ “ơi” với câu cảm thán tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, thiết tha, đắm say, tự hào đến xúc động. vừa đĩnh đạc, vừa anh hùng, vừa háo hức lập nghiệp. vẻ đẹp của con người thấm đẫm trong những dòng thơ hào hùng.

tầm vóc của đất nước, dân tộc hiện diện sâu sắc, rộng khắp không chỉ ở địa bàn “bao la” mà còn trong dòng chảy của thời gian và bề dày lịch sử bốn nghìn năm. Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài “Đất nước”. câu thơ mở rộng đặc trưng của văn xuôi. yếu tố lý luận chính trị và chất lượng của chữ tình, cảm xúc hòa quyện vào nhau làm cho ý thơ phong phú, ý tứ sâu sắc, mới mẻ. đất nước hùng vĩ, con người anh hùng, đức tính cần cù, hiếu học, trung hậu, đảm đang… được nhà thơ cảm nhận bằng tất cả tình yêu thương và niềm tự hào. chất liệu văn học dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo.

Qua hình ảnh đất nước mà nhà thơ đề cao tâm hồn con người khẳng định lòng dũng cảm của nòi giống và vị thế Việt Nam. thiên nhiên đất nước do con người tạo ra. nhân dân là chủ đất nước. thơ chân chính khơi gợi tâm hồn trở nên trong sáng, giàu sang và cao thượng. bài thơ như một tiếng nói tình cảm “ngọt ngào”, nhà thơ như đang trò chuyện với ta về đất nước, con người. đọc lại bài thơ, mỗi chúng ta đều bùi ngùi, bồi hồi khi nghĩ đến hai tiếng Việt Nam thân yêu, thấy tự hào và lớn lên cùng đất nước.

.

tải xuống tệp để xem thêm 2 bài luận mẫu khác

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ đất nước. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *