Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
623 lượt xem

Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

Bạn đang quan tâm đến Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

hướng dẫn phân tích nỗi đau của bạn do thpt soc trang tổng hợp và biên soạn, bao gồm các gợi ý chi tiết và một số bài văn mẫu hoặc bài tham khảo để phân tích đoạn trích nỗi đau mà tôi trích dẫn trong bài history of kieu by nguyen du.

hướng dẫn phân tích đoạn trích Nỗi oan của tôi

title: phân tích đoạn trích Nỗi đau của em (trích truyện kiều – nguyễn du)

1. phân tích chủ đề

– request: phân tích cú pháp nội dung của đoạn trích đau buồn của tôi.

– phạm vi tài liệu, dẫn chứng: các cụm từ, từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong văn bản câu chuyện đau buồn của kieu i.

– phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. hệ thống luận điểm

luận điểm 1 : hoàn cảnh trớ trêu của thủy kiều trong đất xanh.

luận điểm 2 : tâm trạng và cảm xúc khi sống trong hoàn cảnh trớ trêu đó.

luận điểm 3 : cảnh đẹp, thú vui thể hiện nỗi cô đơn, đau khổ của người Việt Nam ở nước ngoài.

3. lập dàn ý chi tiết

a) mở đầu

– giới thiệu sơ lược về tác giả nguyễn du và truyện kiều.

<3

+ truyện kiều là một kiệt tác văn học mà cụ Nguyễn Du để lại cho kho tàng văn học Việt Nam, khắc họa rõ nét thân phận nhỏ bé đáng thương của người phụ nữ xã tắc trong xã hội phong kiến ​​xưa.

– trình bày một đoạn trích về nỗi đau của tôi :

+ Phân đoạn “Xin lỗi em” là một trong những phân đoạn thể hiện sâu sắc nhất cuộc đời đau khổ của một người phụ nữ Việt kiều tài sắc, miêu tả tâm trạng của nàng thủy chung khi lần đầu tiên vào lầu xanh. thời gian với một giọng nói buồn và đau đớn.

b) phần thân

* luận điểm 1 : tình cảnh trớ trêu của thủy kiều trong đất xanh.

– “bướm, ong, vui vẻ, cười” – & gt; khung cảnh sinh hoạt nhộn nhịp và sầm uất trong tòa nhà xanh.

– “cành lá gió bay”: hình ảnh người hầu gái mời khách làng chơi

<3

– đối lập phụ, đảo trật tự từ: bướm – ong, vui vẻ …- cười …, sớm – muộn

– & gt; gợi lên sự xấu hổ, tủi hổ của nàng thúy kiều.

– “bao nhiêu, đầy tháng, cả đêm” – & gt; tính từ của mức độ tuyệt đối

– & gt; Trong nhịp sống hối hả của đất xanh, Việt kiều phải tiếp khách về làng triền miên, ngày đêm đắm đuối.

= & gt; Kieu’s hài hước về tình trạng của chính mình, bị ngược đãi và chà đạp cả về thể xác lẫn nhân phẩm.

* luận điểm 2 : tâm trạng, tình cảm của Kiều khi sống trong hoàn cảnh trớ trêu đó.

– không gian: lầu xanh

– thời gian: hết canh, đêm

– & gt; thời gian và không gian thích hợp để nghệ thuật thể hiện tâm trạng của một người.

– tâm trạng thuy kiều:

+ tin nhắn “tôi” – & gt; nỗi day dứt trong đêm, thức giấc một mình thấy bốn bể, rồi lại càng thấy cô đơn.

+ giật mình: ngạc nhiên, giật mình, không tin vào thực tế của chính mình.

+ Tôi cảm thấy có lỗi với bản thân mình

– & gt; sự ngạc nhiên quý giá làm bật lên nhân cách cao đẹp của thủy chung

+ “when the stars” và “the time of the stars”: cặp từ đối lập về nghệ thuật đối lập giữa hai câu – & gt; nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ bình yên và hạnh phúc, còn hiện tại đau khổ, vất vả, bị ngược đãi

+ ngữ điệu: “khuôn mặt của bạn là gì”, “cơ thể của bạn là gì”

+ sử dụng các thành ngữ tréo ngoe: “dày gió rét” (dày dặn sương gió), “bươm bướm chán ong” (con bướm chán chê) – & gt; nhấn mạnh sự ngạc nhiên, bàng hoàng, thể hiện sự đau đớn đến mức tủi nhục.

+ hình ảnh so sánh “lác đác như hoa giữa đường” – & gt; thân phận của anh ta giống như một cánh hoa bị chà đạp, một thân thể bẩn thỉu, một khuôn mặt bị sỉ nhục.

= & gt; sống thật với chính mình, kiều bất ngờ, xót xa, thương xót cho số phận của mình và đó cũng là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người trong xã hội phong kiến ​​nguyễn du, một con người mà anh biết, hiểu, cảm hóa được chính mình. hạnh phúc.

<3

– “gió, hoa, tuyết, nguyệt” (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui “cầm, khảo, thi, họa”: cảnh đẹp, thú vui của tuổi trẻ.

– & gt; tuy sống trong lầu xanh có đủ hoa lá, tuyết trăng và đủ thứ thú vui hoa mỹ nhưng thái độ của kiều nữ là sự thờ ơ, lãnh đạm, dửng dưng. đối với Thúy kiều, giai nhân giả dối, kiều không tìm được tri kỷ, tri kỷ, thờ ơ với mọi thứ xung quanh.

= & gt; thuy kiều thấy thương mình, đau cho mình, thương cho thân phận của mình khi sống trong căn nhà lầu xanh “nát bét”.

“Hãy hạnh phúc để bạn không bị như vậy,

bạn quan tâm đến ai?

<3

– & gt; kiều luôn cố tách mình ra khỏi cuộc sống chốn lầu xanh. nó là sự phản kháng, chống đối vì nó muốn đòi quyền được sống, được sống trong sạch – khát vọng hướng thiện khi nó ý thức được phẩm giá của đạo.

= & gt; Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, đồng cảm sâu sắc với số phận người Việt Nam ở nước ngoài, xã hội lên án gay gắt.

* nghệ thuật độc đáo

– hình thức độc thoại nội tâm tinh tế và sâu sắc

– kết hợp khéo léo lời kể của tác giả và lời kể của nhân vật

– sử dụng sáng tạo các thành ngữ, truyền thuyết, kinh điển

– phong cách tương phản giữa quá khứ và hiện tại

c) kết luận

– nêu tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

– cảm nghĩ của tôi về đoạn trích.

& gt; & gt; & gt; xem thêm: hướng dẫn soạn cuộc đấu tay đôi của tôi

4. bản đồ tinh thần để phân tích nỗi đau của bạn

Sơ đồ tư duy phân tích đoạn trích Nỗi thương mình

một số bài văn chọn lọc hay phân tích đoạn trích Nỗi đau của em

Phân tích mô hình nỗi đau số 1 của bạn:

trích đoạn nỗi đau của cô là trạng thái tâm hồn đáng thương và tủi nhục của người phụ nữ siêu phàm khi rơi vào hoàn cảnh tủi nhục và tủi nhục trên đầu bức tường và bắt đầu những ngày tháng làm gái điếm, chứng kiến ​​cảnh ăn chơi sa đọa và sa đọa. . , nhưng lại rơi nước mắt ngậm ngùi “đau cho phận đàn bà / chữ mệnh cũng là lời chung”.

Đoạn trích từ câu 1229 đến câu 1248, trong phần truyện lang thang ở nước ngoài. Bắt đầu từ khi cô giáo học sinh đưa Kiều đến quán xá lầu xanh của dì, Kiều mới biết mình bị lừa, để tránh thân phận gái điếm, Kiều đã nhắm mắt định tự tử nhưng không chết, phi tang xác. . đăng nhập. đã phải chịu đựng tủi nhục ra ngoài tạm lánh tường rồi sa vào những mưu mô của sở, không thoát được, bị dì ghẻ bắt, đánh đập dã man lấy cớ cưỡng bức người Việt Nam ở nước ngoài. để tiếp khách.

“rất nhiều bướm bay lượn

bạn đang xem: phân tích đoạn trích cung đấu của bạn trong lịch sử kiều – nguyễn du

say sưa cười suốt đêm.

én lá, gió, cành,

hắn sớm phái ngọc bội đi tìm hoàng đế. ”

Cảnh mở đầu là cảnh tòa nhà xanh hoang vu, hoàn toàn xa lạ, ngoài sức tưởng tượng của người phụ nữ ngoại quốc. với những trò “ong bướm, ong bướm”, đầy những lời thô tục thô tục, những hành động phù phiếm, giễu cợt của khách phố cùng với những sắc hồng đầy cám dỗ của gái điếm, như ong vờn bướm. không gian ngập tràn ánh nến đỏ hồng, “cười thâu đêm suốt sáng”, quyện với mùi rượu nồng nặc từ “cơn say cả tháng”, không kể ngày đêm, ồn ào, thư thái, náo nhiệt. . hình ảnh đôi nam nữ không quen biết “én” tựa vào nhau như “gió thoảng, cành chim”, và cảnh gái điếm ngày đêm tiếp khách, không cần biết ai là ai, vở diễn cứ thế diễn ra liên tục. không có điểm, nó dừng lại, đến nỗi họ quên mất mình là ai. Nguyễn Du đã rất tài tình khi đưa hai nhân vật trong văn học kinh điển là Trường Khanh và Tống Ngọc nổi tiếng giàu có, yêu hoa để giúp người đọc thấy được những môn ngoại mà mình thường yêu thích. Chỉ bằng vài câu thơ ngắn gọn, súc tích, tác giả đã miêu tả rõ nét cuộc sống phóng túng, phóng túng, đầy dục vọng và tủi nhục nơi lầu xanh, nơi coi phụ nữ là thú tiêu khiển, thỏa mãn, ăn chơi trác táng của những kẻ lắm tiền nhiều của. Chính trong câu thơ này, dưới con mắt quan sát của Kiều, cho thấy cô ấy có một ý thức cao cả về nhân phẩm cũng như thân phận của mình.

kiều diễm vốn được nguyễn du xây dựng là hình mẫu người phụ nữ lý tưởng, tài sắc vẹn toàn, nhưng tiếc rằng “chữ tài, phận đẹp thì ghét”, một con người thanh cao, trong sáng như vậy, không. số phận đã đẩy anh đến những nơi trần tục và tầm thường nhất. Những Việt kiều đấu tranh, chống lại số phận, không chịu làm gái điếm bẩn thỉu váy áo cho dân chơi, ở chị thể hiện đức tính cao quý của một đóa sen thanh khiết “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhưng chị Kiều bất lực trước hoàn cảnh của mình nên buộc phải chấp nhận sự thật và khóc cho chính mình.

“khi tôi tỉnh táo vào cuối đêm

Tôi ngạc nhiên và cảm thấy có lỗi với bản thân ”

kieu cố gắng quên đi nỗi đau và tủi nhục, trong men say, nhưng có ích gì khi canh tan nát, cơ thể kiệt quệ, thậm chí kieu phải “giật mình” mà “tủi thân”. “xa”. nhịp thơ trong đoạn thơ là nhịp 3/3 chậm rãi, nhịp nhàng, gợi tả cuộc sống tẻ nhạt, bất tận. khi sang câu thơ 2/2/2/2 nhanh hơn và kiều thức dậy trong bàng hoàng. , lấy nỗi đau từ trái tim, như xoắn tâm hồn.

những câu thơ sau là một kỉ niệm cay đắng, đau đớn của kiều khi so sánh kiếp trước nhung lụa thanh cao với thực tại tủi nhục nơi lầu xanh, ong bướm.

“khi ngôi sao đang thiền định

bây giờ các ngôi sao nằm rải rác như những bông hoa giữa đường.

mặt của ngôi sao dày và có gió,

tại sao bướm lại chán ong? ”

Tôi nhớ khi xưa, khi còn là một cô nương đài các, tinh thông các kỳ thi hội họa, sống trong “gấm vóc gấm vóc”, là một minh châu, được cha mẹ yêu thương, nuông chiều, thân là ngọc ngà. không bị nhiễm một hạt bụi. nhưng hiện thực phũ phàng, kiều nữ được so sánh với thân phận “hoa tàn như hoa giữa đường”, một đóa mẫu đơn xinh đẹp giờ đã bị lầu xanh vùi dập không thương tiếc. Trước đây, anh không bao giờ phải ló mặt ra trước mặt đàn ông hay người lạ, nhưng bây giờ, “mặt sao che dấu sương gió”, anh không còn xấu hổ hay xấu hổ về phép tắc, phép tắc nữa, bởi vì ở nơi này. thật nực cười. Bản thân chị kiều cũng cảm thấy cơ thể mình không còn trong trắng nữa, đã “chán đời ong bướm” rồi, rẻ rúng quá rồi. thấy nàng kiều có một cuộc đời bất hạnh, tủi nhục về thể xác lẫn tủi hổ về tâm hồn, xót xa cho một thân phận tài hoa nhưng bất hạnh. Việc Nguyễn Du sử dụng những thành ngữ đan xen, đan cài càng làm tăng thêm sức biểu cảm, từng câu từng chữ như ghim vào lòng người đọc, thấm đượm niềm xót thương cho số phận người Việt Nam nghèo khổ ở nước ngoài.

“mặc mây mưa,

ai biết mùa xuân là gì.

gió giống như một bông hoa ở bên cạnh bạn,

một nửa bức màn tuyết bao phủ cả bốn mặt của mặt trăng. ”

nhưng dù xã hội cố vùi dập nàng trong vũng bùn hôi thối, dù thân xác vướng bụi trần cuộc đời nhưng tâm hồn nàng vẫn thanh khiết, giữ nguyên bản chất của loài sen trắng. Việt kiều thờ ơ với mọi thú vui “mây mưa tần tảo”, chị không hưởng thụ thì còn gì sướng bằng? khi khách làng chơi muốn “gió như hoa sau”, cho thân tình mà giả tạo, phản cảm. Kiêu sững sờ, kiều không phản kháng, cũng không muốn phản kháng, bởi vì đau thương đã cướp đi linh hồn của hắn, kiều chỉ tồn tại, nó tồn tại giữa nơi phồn hoa nhất và cũng là thấp hèn nhất. phong cảnh tươi đẹp, hoa, tuyết và trăng đều ở đó, nhưng chúng không thể che đậy sự bẩn thỉu và đồi trụy của một nơi xa hoa.

hỏi lòng đã buồn rồi thì dù cảnh đẹp người ta có vui được không? chính vì vậy mà nguyễn du có câu thơ: “cảnh đâu mà buồn / Người buồn cũng vui?”. Tâm trạng sầu muộn của kiều như lan ra cảnh vật xung quanh, nơi đây cũng không thiếu những thú vui ăn chơi, thi cử, hội họa, cũng tao nhã và trớ trêu thay, nơi thì thô tục mà cũng có ánh trăng, dưới hoa là thế mà lòng người. của kiều bào không vui, có lẽ đó là nụ cười gượng gạo “vui là sướng, kẻo ế” nụ cười ở đây là nụ cười chua chát, mặn chát, đắng chát trên môi, chắc trái tim của hải ngoại đang khóc, có câu rằng. buồn quá không cười được, cười vì số phận cám dỗ, cười vì chán chê thân phận người phụ nữ đầy ngang trái và khổ ải của kiều nữ qua bài thơ này được nguyễn du thể hiện bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình càng cảm động và sâu lắng từng chữ, từng câu thơ cuối như một câu hỏi bâng khuâng “thương ai thế?”, kiều không ngờ có câu trả lời. Cô hỏi, vì ở nơi độc thân này, sẽ không ai hiểu được nỗi đau của cô.

đoạn trích là sự thương cảm cho số phận của một người phụ nữ ở nước ngoài, một cô gái tài hoa bạc mệnh nhưng có cuộc đời éo le. bao trùm lên không khí là nỗi buồn, sự ngậm ngùi nhưng không sầu muộn, yếu đuối. Tất cả các bài thơ của Nguyễn Du đều thể hiện tấm lòng yêu thương, đồng cảm, trân trọng phẩm giá đáng quý của người Việt Nam ở nước ngoài, trong sáng, hồn nhiên như đóa sen đang canh giữ cho những bùn nhơ bẩn thỉu của xã hội phong kiến ​​lúc bấy giờ. Nguyễn du qua đó tố cáo tội ác, sự bẩn thỉu của một xã hội thối nát đã tàn phá, chôn vùi tận đáy xã hội những đau thương, tủi nhục, những con người khốn khổ, bất hạnh, nhất là những người phụ nữ chân yếu tay mềm, không thể phản kháng, không có tiếng nói.

xem thêm : soạn cuộc đấu tay đôi của bạn (câu chuyện về kieu)

Phân tích mô hình cơn đau của bạn số 2:

bài thơ đầy nỗi buồn nhưng không yếu đuối. từ bên trong tỏa ra ánh sáng của phẩm chất cao quý và bi kịch đó là bản cáo trạng mạnh mẽ chống lại tội ác của xã hội vô nhân đạo đã tích tụ quá nhiều đau khổ trong một kiếp người

Sau khi Thủy Kiều tuyên bố sẽ bán mình chuộc cha ra khỏi tù, cố vấn học đường đã dẫn anh đến gặp cô, giả vờ lấy chồng nước ngoài làm vợ lẽ. nhưng thực ra anh ấy đã mua nó cho nhà chứa của dì mình. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều đã quyết liệt chống lại kế hoạch độc ác của mình. anh ta rút dao tự tử nhưng không chết. trong lúc mê man, thủy kiều thấy thần đập tiên hiện ra báo chưa thoát khỏi số đoạn trường, đành phải nghe tu ba thuyết phục tạm thời ở trên lầu ngăn cản. . sở giáo dục, tay sai của phu nhân bày mưu rủ cô bỏ trốn. Kiều ngoan ngoãn làm theo lời thì bị cô chú bắt quả tang, đánh đập rất dã man và ép phải tiếp khách.

đoạn trích từ câu 1229 đến câu 1248 của truyện Kiều diễn tả tâm trạng đau đớn, tủi nhục, cô đơn, tủi hờn, trách nhiệm và ý thức về thân phận đáng tiếc của nàng kiều ở chốn lầu xanh. .

cái đặc sắc của đoạn trích này là tác giả viết về hoàn cảnh và tâm trạng của nàng Thúy Kiều khi bị ép làm cung nữ đi tiếp khách làng chơi. Nguyễn du phải đối mặt với hiện thực phũ phàng mà cái xã hội xấu xa đồn thổi đã đẩy nhân vật mà anh trân trọng, yêu thương đến nơi bình yên. làm thế nào để tiếp tục phản ánh sự thật mà không hạ thấp nhân vật. họ vẫn tỏ thái độ thương cảm và thể hiện sự đau khổ, xót xa của nhân vật. Nguyễn du phát huy sức mạnh của lối viết thông thường và nghệ thuật sử dụng ngôn từ thích hợp, chính xác để giải quyết tình thế khó xử này. nguyễn du miêu tả sinh động hình ảnh tiêu biểu của cuộc sống trong lầu xanh với những ước lệ tượng trưng:

nhiều con bướm bay lượn

say sưa cười suốt đêm.

én lá, gió, cành,

anh ấy sớm gửi viên ngọc bích đen tối đi tìm nhà vua.

những câu chuyện ngụ ngôn như con bướm, con ong, lá gió, cành chim, những hình ảnh say rượu đầy tiếng cười suốt đêm, và cả những tác phẩm văn học kinh điển về tổng tài, thị phi, hai vị khách giàu có nổi tiếng đại diện cho cuộc sống và thân phận hỗn loạn, bẩn thỉu nhục của gái điếm chốn lầu xanh. Giữa khung cảnh ồn ào, náo nhiệt, nhàn nhã, yên tĩnh, dậy sớm và tăm tối ấy, nổi bật lên hình ảnh một hải ngoại cô đơn và buồn bã.

nguyễn du tận dụng tối đa các hình thức đối xứng trong câu văn như bướm / ong, lá gió / cành chim để làm nổi bật nỗi đau, nỗi niềm của thủy chung và nỗi đau. thật tiếc cho người đọc.

Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh cuộc sống bẩn thỉu trong chuồng bò vừa là tiếng thở dài đầy ẩn ý của một cô gái tài sắc bị ép làm cung nữ. tác giả tiếc thương cho nàng tiểu kiều rơi vào vũng lầy, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, nàng yêu kiều rất ý thức được phẩm giá cao quý của mình.

XEM THÊM:  Soạn bài: Truyện Kiều - Phần 2 Trao Duyên (siêu ngắn) | Soạn văn 10

Thủy kiều là một cô gái được nguyễn du xây dựng để trở thành hình mẫu lý tưởng về vẻ đẹp và lòng nhân ái. khi anh ấy ở trong một tình huống xấu hổ mà anh ấy không bao giờ nghĩ có thể. thuy kieu cố gắng chiến đấu để được thả ra, nhưng càng chiến đấu cô càng bế tắc. nỗi đau “trần thế” đối với một con người máu xương, tuyết tinh như thủy chung như nhân lên gấp bội: bởi hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc đời sớm gửi ngọc, mưu cầu cuộc sống lâu dài. . vì vậy, khi thể hiện tâm trạng của nàng thú ở lầu xanh, nguyễn du đã dồn hết tình cảm tiếc thương vào ngòi bút.

nhà thơ đã thể hiện một cách chân thực tâm trạng buồn bã, xấu hổ của nàng Thúy Kiều khi đối diện với nỗi lòng của chính mình:

khi anh ấy tỉnh táo, vào cuối đêm

ngạc nhiên, tôi cảm thấy tiếc cho bản thân mình

sống trong viễn cảnh cả tháng say sưa, cười suốt đêm, chỉ khi tỉnh táo, cuối mùa mới có những giây phút hiếm hoi được sống thật với chính mình. Khi tất cả khách làng chơi ra về, trời đã rất khuya, chỉ còn mỗi mình Kiều ngồi trước ngọn đèn.

Câu 3/3 dường như gợi từng bước chậm rãi của thời gian. thời gian và không gian tĩnh lặng, nỗi cô đơn càng gợi thêm nỗi chua xót, xót xa trong lòng người con gái lênh đênh, lạc vào xứ lạ.

ở câu thơ thứ hai, nhịp điệu chuyển sang 2/2/2/2: giật mình / uất ức / xót xa cho chính mình / xót xa. hai từ “giật mình” kết hợp với sự ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng bấn loạn của thủy chung. từ “tôi” tuy có âm điệu đơn điệu nhưng không gợi cảm giác nhẹ nhõm mà nặng trĩu vì được lặp lại đến ba lần trong câu thơ với nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố kìm nén tiếng khóc. >

thuy kieu bị sốc trước sự thay đổi khủng khiếp của số phận và cảm xúc thảm hại của cô vào lúc này. hai bài thơ tâm lý trên có thể coi là xuất sắc. nhịp điệu, âm thanh và điệp ngữ kết hợp hài hòa với thiên nhiên đã diễn tả chính xác tâm trạng nặng nề, u uất của nàng Thúy Kiều. trong sự tĩnh lặng của màn đêm, nỗi đau đó dường như hiện rõ, tạo thành một khối bằng xương bằng thịt. đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải khóc nghẹn ngào.

nỗi đau của tôi là cảm xúc được bao hàm trong đoạn trích. Thủy kiều buộc phải rời xa cha mẹ và quê hương để lên cỗ xe của số phận: vó đánh cá quanh co, bánh xe gặp ghềnh, lao mình vào con đường tăm tối và bất trắc. bà chấp nhận: phải nhắm mắt đưa chân, để xem con trai mình làm sao quay đầu lại được, nhưng bà không thể ngờ rằng nó lại rơi vào một cái hang châu chấu đầy rẫy những tên đồ tể vô liêm sỉ và đê hèn. nàng đang sống trong hoàn cảnh “một mình chân trời góc biển”, không nơi nương tựa, không có người an ủi, vỗ về, sẻ chia để xoa dịu nỗi đau cô đơn giữa những con quỷ mang mặt người nên nàng lại thấy thương mình. Tôi rất xin lỗi!

nguyễn du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” tâm trạng mê say, mà sâu xa hơn, nữ thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ của mình, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy vào trái tim, vào tâm trí người đọc. , tạo ra một sợi dây đồng ý và hòa hợp.

Thủy Kiêu cay đắng nghĩ đến sự đối lập khủng khiếp giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực tăm tối, khắc nghiệt:

khi ngôi sao rơi,

bây giờ các ngôi sao nằm rải rác như những bông hoa giữa đường.

mặt của ngôi sao dày và có gió,

tại sao những con bướm quá nhàm chán?

Anh nhớ lại cuộc sống cao quý và sang trọng khi ở nhà với cha mẹ mình trước khi thảm họa xảy ra và anh đã khóc than thân thể mình rơi vãi như hoa giữa đường. Những hình ảnh và từ ngữ đối lập diễn tả nỗi đau và sự xấu hổ của người Việt Nam ở nước ngoài. quá khứ trái ngược hẳn với hiện tại. quá khứ tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: khi sao thiền, hiện tại tăm tối nối tiếp nhau được nhắc đến trong nhiều câu thơ. Ngày xưa Kiều được yêu thương, cưng chiều bao nhiêu thì nay lại bị đánh đập dã man. sao là từ nghi vấn nhưng có tính chất cảm thán, cả về tân ngữ và hình thức điệp ngữ: khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ tạo thành từ láy, các từ xé ra rồi đan chéo vào nhau như: sương gió dày đặc, cánh bướm buồn chán tạo nên một giọng thơ mà nỗi đau như thấm vào từng câu, từng chữ. đằng sau những ngôn từ và hình ảnh đẹp đẽ ấy là những nỗi uất hận khôn nguôi, những câu hỏi day dứt muốn vang tận trời xanh. trời xưa oan trái, trớ trêu thay! Thực ra, tạo hóa không nỡ lòng nào theo đuổi người con gái tài sắc vẹn toàn Thúy Kiều mà chính những thế lực tàn ác của xã hội đã dìm nàng xuống vũng bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của anh Kiêu không chịu thua hiện tại vì anh cảm nhận sâu sắc nhân phẩm của mình và nỗi nhục của một người lương thiện bị đánh đập và hành hạ.

tác giả miêu tả tâm trạng của kiều trong lầu xanh:

mặc mây mưa,

ai biết mùa xuân là gì.

gió giống như một bông hoa ở bên cạnh bạn,

một nửa bức màn tuyết bao phủ cả bốn mặt của mặt trăng.

cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; mùa hè lộng gió; trăng thu; mùa đông tuyết. nhưng trước những cảnh đẹp này, anh Kiều lại thờ ơ, vô cảm vì trái tim anh đã đóng băng vì quá đau khổ.

Ở lầu xanh cũng có đủ thứ thú vui như mừng, thi, thi, họa, nhưng đối với kiều, cảnh, người và những thú vui ấy giờ chẳng còn ý nghĩa gì đối với nàng.

hãy hạnh phúc vì bạn sẽ không bị như vậy,

ai tốt như vậy với ai?

dưới ngòi bút miêu tả của nguyễn du, không chỉ quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng điều ngược lại. cuộc sống của một cung nữ nhìn từ bên ngoài sang trọng, quý phái: xin đường vẽ câu đối, cầm cung ngắm trăng, cắm cờ dưới hoa; gió như hoa bên hoa, nửa màn tuyết giăng kín, trăng khuyết tứ phía, nhưng trớ trêu thay khi rác rưởi lại phủ lên một vẻ thơ mộng và nổi bật.

sự tương phản mà cô ấy nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. lời lẽ gượng gạo, bàng quan, sững sờ thể hiện tâm trạng bất mãn, thậm chí tủi nhục của kiều trước hiện thực. một người chân chất như ở nước ngoài mà phải vui vẻ hớn hở chiều chuộng khách làng chơi thì nỗi buồn đau càng thêm sâu sắc, cảm động. dường như nỗi buồn trong lòng người ta kéo dài ra toàn cảnh:

cảnh nào không mang nỗi buồn

những người buồn không bao giờ hạnh phúc.

với sự đồng cảm thực sự và tài năng tuyệt vời. Nguyễn du đã viết hai bài thơ hay nhất về mối tương quan giữa ngoại cảnh và tâm trạng, giữa cảnh và tình trong văn học Việt Nam.

Đoạn văn nỗi đau hàm chứa ý nghĩa sâu sắc về quá trình tự nhận thức của cá nhân trong văn học trung đại. Phụ nữ thời xưa thường được nuôi dưỡng với tinh thần thủy chung, cam chịu và nhẫn nại. khi nhân vật giật mình và thấy thương mình, điều này bao hàm ý nghĩa “cách mạng”. con người không chỉ biết hy sinh, nhẫn nại, chịu đựng mà bước đầu còn có ý thức, nhân cách, nghĩa là ý thức về quyền sống của mình.

Tình yêu và lòng thương hại là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ ca và văn học thế kỷ XVI, nhưng nguyễn du viết về đề tài này sâu sắc và nhiều hơn các tác giả khác. lòng tự ái là cơ sở của lòng trắc ẩn đối với người khác. dân gian có câu: thương người như thể thương thân, chính vì vậy. Không thể có tình yêu chân thành và sâu sắc đối với người khác nếu không có ý thức về bản thân mình, nếu không biết cách yêu thương chính mình.

đoạn trích Nỗi đau của em thể hiện phẩm giá cao quý, trong sáng của thủy chung. Nguyễn du đã không trốn tránh thực tế phũ phàng, phát huy nhân cách, phẩm giá của kiều bằng cách thể hiện thành công nỗi buồn, sự dằn vặt, chán chường của mình giữa chốn bùn lầy.

bài thơ đầy nỗi buồn nhưng không yếu đuối. từ bên trong tỏa ra ánh sáng của phẩm chất cao quý và bi kịch đó là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của xã hội phi nhân đã tích tụ bao nhiêu đau khổ trong một kiếp người. Người đọc vô cùng căm phẫn xã hội xấu xa và càng thêm cảm phục, yêu mến người con gái tài sắc nhưng bất hạnh: Thuý kiều.

Phân tích mô hình cơn đau của bạn số 3:

Nỗi đau của tôi ” (truyện kiều) là đoạn trích thể hiện rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, tầm nhìn vượt thời gian và đặc biệt là tinh thần nhân đạo mới của thời đại. thieu nguyen du. đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ dòng 1229 đến dòng 1248, thể hiện tâm trạng đau đớn, tủi nhục, cô đơn, xót xa, trách nhiệm và nỗi niềm xót xa trước thân phận thê lương của thủy chung trong lầu xanh.

kể từ khi gia đình bị tai nạn, anh phải bán mình chuộc cha, trả lại tình yêu cho em trai thủy chung, kiều đã 15 năm xa xứ, trong 15 năm đó, kiều đã gặp không ít lận đận, nhưng nhiều lần Việt kiều bị lừa một cách đau đớn nhất có lẽ là lần chị bị mã sinh viên lừa bán mình vào lầu xanh. nó là bước ngoặt phá vỡ thủy sinh và rẽ sang một hướng khác. rơi vào tay một tú bà, kiều rút dao định tự tử nhưng bất thành.

Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều - Nguyễn Du

phân tích đoạn trích Nỗi đau của em trong truyện kiều – nguyễn du

Ở trên tầng cao nhất, kiều nữ lại rơi vào bẫy của chu khanh và chú của cô ấy đã đánh cô ấy và đánh cô ấy. tiếp theo là những tháng ngày tủi nhục của cô trong vai gái điếm: một cô gái điếm mang thân hình trắng như ngọc của mình để mua vui cho những kẻ có hầu bao rủng rỉnh. những ngày ở lầu xanh là những ngày chàng vô cùng đau buồn, tâm trạng rối như tơ vò khi nghĩ về thân phận, nỗi tủi nhục của đời mình. đoạn trích có kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và hoàn cảnh trớ trêu của lời khẳng định bất hạnh khi nghe những đoạn độc thoại nội tâm đau đớn: “khi tỉnh táo … mùa xuân là gì?” đó cũng là thời điểm mở đầu của chuỗi các cuộc trò chuyện được kết nối theo chiều ngang. Kiều nghĩ về thân phận của mình để rồi “mình lại thấy thương mình” và Kiều thấy thương mình. Đối với cô, hiện tại giống như một giấc mơ cay đắng khi so sánh với quá khứ.

mở đầu đoạn trích Nỗi đau của nàng là tâm trạng đau buồn, tủi hổ mà nàng thùy kiều phải trải qua trong căn nhà lầu xanh của mẹ:

“rất nhiều bướm bay lượn,

say sưa cười suốt đêm.

én lá và cành chim

sớm gửi ngọc bội đi tìm hoàng đế ”

Bốn câu đầu của đoạn trích đã thể hiện rõ hình ảnh nếp sống nhếch nhác, nhếch nhác và thân phận tủi nhục của một cô gái điếm chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả sinh động hình ảnh cuộc sống chốn lầu xanh bằng những ước lệ tượng trưng. Trong tòa nhà xanh ấy, anh phải tiếp khách “bao nhiêu” người mà anh không thể nhớ, không thể đếm xuể, vì một điều mà ngày nào anh cũng tự hào là tiếp khách phố thị liên tục “thâu đêm suốt sáng, đi tìm”. những câu nói đó đã cho chúng ta thấy được sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi người đàn bà có thể kiếm sống.

với những hình ảnh ẩn dụ: bay bướm lượn, say suốt tháng, cười suốt đêm ”và những câu chuyện kinh điển:“ lá gió cành chim ”,“ tông ngọc, long khánh ”- chỉ loại khách làng chơi, nguyễn du, cho thấy hoàn cảnh của thủy kiều tuy ở lầu xanh, có vẻ tao nhã, nhưng thực tế lại chỉ là giả dối, hàng ngày Việt kiều phải làm những công việc bẩn thỉu, nhận đủ các dịch vụ cần thiết. đến để giải trí.

điều này cho chúng ta thấy rõ hơn về sự bất hạnh và trớ trêu của thủy kiều. thư pháp thông thường giúp nguyễn du không tránh khỏi số phận vương giả, mà vẫn giữ được chân dung đẹp đẽ của mình. qua đó ta thấy được sự trân trọng và đồng cảm của tác giả đối với nhân vật.

Anh tái hiện hoàn cảnh của Thủy kiều với những nét trái ngược hoàn toàn: một bên là nước mắt của Thủy kiều – một bên là cơn say, tiếng cười không ngớt. Như vậy, ở bốn câu thơ đầu, dù không được miêu tả trực tiếp nhưng người đọc vẫn có thể thấy nàng Kiều đang bị cuốn vào vòng xoáy vô hình, bị ép vào cuộc sống bẩn thỉu trong nhà chứa. hiện thực phũ phàng mà nhân vật phải trải qua, để lộ thân phận nhục nhã của gái điếm. nguyễn du đã tô điểm thêm cho khung cảnh ấy một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ bình dân, ước lệ theo truyền thuyết, làm cho ký ức về cuộc đời đau thương của kiều nữ thêm thanh tao … bởi chỉ một đoạn hồi tưởng mới thể hiện hết được đời sống nội tâm chân thực của nhân vật, thể hiện chân thực nỗi đau, làm nổi bật nhân phẩm và nỗi đau khổ bất hạnh của nhân vật. đằng sau những câu thơ đó là sự đồng cảm và trân trọng mà tác giả dành cho thủy kiều.

Bốn câu thơ đầu trình bày một tình huống đầy xúc động. trên lầu xanh có rất nhiều cung nữ, bọn họ có thể bình tĩnh coi việc làm của nàng là chuyện hết sức bình thường, trớ trêu thay nàng lại có nhân phẩm cao đẹp như vậy, tâm hồn trong sáng, là hoa của cảnh đời. yên bề gia thất ”anh bỗng bị ném xuống bùn, hai câu sau kể về tâm trạng của kiều trong những tháng ngày tủi nhục, bị cưỡng bức, dằn vặt mà kiều đã phải chịu đựng:

“khi tôi tỉnh táo, vào cuối đêm

Tôi rất ngạc nhiên nhưng cũng cảm thấy tiếc cho bản thân mình ”

ở chốn lầu xanh đầy “men say tiếng cười”, chỉ có “khi tỉnh táo cuối vụ” kiều mới có được giây phút hiếm hoi được sống thật với chính mình và cũng là hoàn cảnh tỉnh táo nhất trong thế giới với con người của mình. thời gian và không gian im lặng gợi nỗi buồn man mác. nhịp thơ thay đổi giữa hai khổ thơ từ 3/3 đến 2/4/2. hai từ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã nói lên sự thay đổi đột ngột của tâm hồn siêu thoát. cô bị sốc và đau buồn trước thực tế phũ phàng và cô đơn mà chỉ có mình cô thấy thương cho chính mình, đau cho số phận bi thảm lâu dài của chính mình.

giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có tác động đột ngột từ ngoại cảnh. đó là một sự rung động của cảm xúc nội tâm mà nếu không có cô ấy, cô ấy sẽ giống như tất cả những cô gái lịch thiệp khác trong quán bar dành cho phụ nữ. Kiều giật mình nhận ra thân phận và nhân phẩm của mình bị hủy hoại thảm hại ở chốn lầu xanh, nỗi cô đơn và sự yếu đuối, bất lực của mình trước bao nhiêu tệ nạn và cạm bẫy đang rình rập mình mà mình không thể nào chống lại được. điệp ngữ “tôi” được lặp lại ba lần trong một câu thơ như một tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của con người thủy chung ý thức về nhân phẩm, về nhân cách, về quyền sống, cũng là lương tâm và lẽ sống của bản thân. câu chuyện mà nguyen du muốn gửi gắm đến độc giả.

cho hai câu trên với nhịp thơ trầm bổng, những dòng sau là những kỉ niệm dội về, những kỉ niệm tươi sáng va chạm với hiện thực đen tối và đáng nguyền rủa:

“khi ngôi sao u sầu

bây giờ các ngôi sao nằm rải rác như những bông hoa giữa đường

khuôn mặt của ngôi sao dày và có gió

tại sao bướm chán ong?

một cô gái đầy tài năng, tốt bụng và đoan trang. một cô gái nhà Nho giờ trở thành bông hoa rải rác. sự thay đổi quá nhanh chóng khiến ngay cả Việt kiều cũng phải sửng sốt và ngạc nhiên. Tương phản như một công cụ nghệ thuật chủ yếu xuyên suốt đoạn trích và đặc biệt ở hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai nhịp sống, hai thời điểm, hai cung bậc cảm xúc. các cặp từ đối lập về thời gian: “khi các vì sao / giờ của các vì sao” tạo ra một cảm giác thay đổi đột ngột trong một khoảng thời gian không xác định. đó là lý do tại sao vết thương của chị Kiều cứ đau nhức, cứ như hằn sâu vào nỗi đau và sự tê tái của chị Kiều.

quá khứ dường như đối lập gay gắt với thực tại, khi kiều diễm nhớ lại những năm tháng “nhẹ nhàng vén bức màn”, hiện thực phũ phàng lập tức tái hiện rõ ràng gấp bội, vì “blocado de viento” thể hiện một quá khứ thanh bình, êm ả. đối lập hẳn với từ “biến mất” trong câu ca dao nói về hiện tại như một hiện thực phũ phàng bao trùm lên chôn vùi quá khứ êm đềm. phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập hoàn toàn giữa quá khứ và hiện thực, giữa cá nhân và hoàn cảnh. những cụm từ “buồn tẻ cánh bướm”, “sương gió dày đặc” là nét sáng tạo trong cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh sự so sánh theo mức độ tiến triển, cho ta thấy những va chạm, chà đạp mà kiều bào phải chịu đựng. Những câu hỏi tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng để làm rõ hơn nỗi đau, nỗi tủi nhục của Kiều trước hiện thực phũ phàng, tàn khốc.

XEM THÊM:  Tính chất hoá học của Cacbon (C), Cacbon oxit (CO) – hoá lớp 9

hai câu thơ day dứt bởi tiếng thở dài tuyệt vọng của một cô gái tài sắc hơn người, khao khát hạnh phúc nhưng giờ đã chán ngán mọi thứ ”:

“mặc mây mưa

Ai biết mùa xuân là gì? ”

sống trong tòa nhà xanh cả ngày phải tiếp đãi người khác hành hạ bản thân, cứ lặp đi lặp lại mỗi ngày chắc chắn ai cũng sẽ cảm thấy nhàm chán, muốn bỏ bê mọi thứ và cả kiều nữa. sự đối lập giữa người – khách phố (số nhiều) và mình – kiều (số ít) như muốn nói lên nỗi cô đơn của mình. chữ “xuân” ở đây có nghĩa là niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi, nhưng với thủy chung sống làm vợ khắp thiên hạ không có mùa xuân, trong đó chỉ thấy tủi nhục, lẻ loi, cô đơn. một người hầu gái giải trí. chữ phục ở đây ám chỉ sự bất lực, bất chấp tất cả, muốn đi đâu thì làm, nỗi day dứt nặng nề của thủy chung nhưng không thể làm được.

“gió như một bông hoa bên bạn

một nửa bức màn tuyết bao phủ cả bốn mặt của mặt trăng

cảnh nào không mang nỗi buồn

những người buồn không bao giờ hạnh phúc

yêu cầu bản vẽ đường thẳng

vòm được hỗ trợ bởi mặt trăng di chuyển dưới bông hoa

vui là vui vì e rằng

ai biết được tiếng đó, mặn nồng với ai. ”

một hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp hiện ra, có vạn vật: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ về đây, gió xuân thổi qua, mùa hạ hoa đua nhau khoe sắc, trăng thu sáng, các mùa đông tuyết phủ trắng cả một tầng, tất cả đều rất thực, rất sống động như vẽ nên một bức tranh muôn màu, âm thanh của lầu xanh, và trong đó có đủ thứ thú vui của con người: cầm – lạ – tranh – họa làm cho bức tranh sống động và có sức sống hơn. hơn bao giờ hết. nhưng việc khơi dậy những khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã và thơ mộng ấy chẳng khác nào sự giễu cợt, trớ trêu và cay đắng. bởi dù có ngụy trang kỹ lưỡng đến đâu thì vẫn không thể che giấu được bản chất bẩn thỉu, bẩn thỉu của chốn “buôn người”. Câu thơ như vậy đồng thời tập trung vào tâm trạng của người Việt Nam ở nước ngoài: Kiều luôn phải tách ra làm hai nửa: kẻ giả tạo vui vẻ ngoài mặt, kẻ thật sống để khóc cuối ngày.

cảnh không thể vui vì lòng người trĩu nặng nỗi niềm tê tái … khi gió như hoa, khi cung đàn ngậm thơ, nỗi đau luôn tràn ngập và chìm sâu trong tim. ý thức về nhân phẩm một khi được đánh thức lại bị chà đạp, khiến cô không ngừng bẽ bàng, tủi nhục về thân phận của mình. hai chữ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là nỗi đau thường trực chưa bao giờ nguôi day dứt ở hải ngoại. nỗi buồn của kiều mở rộng ra cảnh vật:

“Bạn không nhìn thấy cảnh nào mà thấy buồn

những người buồn không bao giờ hạnh phúc ”

với sự đồng cảm hiếm có và tài năng tuyệt vời, nguyễn du đã viết nên hai bài thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm trạng, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ văn nguyễn du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lý của mọi thời đại. Có thể nói, hai câu thơ là đỉnh cao của đoạn văn vì nó diễn tả nội tâm của nhân vật sâu sắc hơn bao giờ hết, từ đó mở rộng ra cảnh vật một cách tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thủy kiều cứ dâng trào, như một con sóng cuộn trào bất tận, cứ chực trào trong sâu thẳm con người Hải ngoại, rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó lại dâng lên đánh vào trái tim và cảm xúc của Thủy kiều, khiến mọi thứ qua đôi mắt của anh ta đều trở nên buồn bã. , tăm tối và thê lương.

“hãy hạnh phúc để bạn không bị

bạn quan tâm đến ai?

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng thủy chung, được Nguyễn du thể hiện một cách tinh tế và độc đáo, điều mà tự tin, tâm thái này, tài hoa của bậc hiền tài không có được. chữ hỷ nói lên tất cả những gì được mất, chỉ còn lại là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của kiều khi đối mặt với hoàn cảnh. Sống trong sự bẩn thỉu, phải tiếp khách làng chơi, trải qua cơn say, tiếng cười quanh năm, phải lười biếng … đó là một điều bất đắc dĩ, kiều thậm chí không bao giờ muốn có thể tưởng tượng được. cuộc đời tôi là một bi kịch. giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, bao kẻ đến người đi, điều đọng lại cuối cùng đối với kiều chỉ là sự tan rã, đau đớn về thể xác và tâm hồn, không ai là tri kỷ, không ai để “mặn nồng”. nhưng trong sâu thẳm trái tim, kiều vẫn luôn tìm kiếm một trái tim, một người hiểu mình. một lần nữa, ngôn ngữ nửa trực tiếp khiến câu thơ có tầng ý nghĩa sâu sắc kết hợp với những câu hỏi tu từ đầy chua xót, thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người thuỷ chung, giàu lòng tự trọng, coi trọng nhân phẩm và muốn sống bình yên, cuộc sống trong sạch.

Đoạn trích thể hiện đầy đủ số phận và tính cách của nàng Thủy Kiều. Nó thể hiện tư duy nhân văn của tác giả: đồng cảm với bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách cao đẹp, đồng thời khẳng định ý thức về nhân phẩm và cá nhân. thể hiện nỗi đau của thủy chung, nguyễn du còn thể hiện nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa quyện tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả – người, đối tượng và người đọc. .

tham khảo:

phân tích giá trị nhân đạo trong truyện kiều (nguyễn du)

phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật trong truyện kiều

Phân tích mô hình cơn đau của bạn số 4:

Đại thi hào Nguyễn Du đã viết nên kiệt tác Truyện kiều như một viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. lật từng trang truyện ở nước ngoài cũng giống như từng chặng đường đời của một cô gái “hồng nhan bạc mệnh” chịu nhiều đau thương, mất mát. đoạn trích “ nỗi đau của tôi ” là câu nói bi thương nhất về người phụ nữ ở nước ngoài khiến người đọc không khỏi xót xa.

“Nỗi đau của tôi” kể về câu chuyện nhiều ngày đau khổ và đầy nước mắt của Thủy Kiều khi cuộc đời của anh bị đẩy vào chốn lầu xanh và bị chính tay của người phụ nữ ghê tởm đè xuống. ở đây bắt đầu cuộc sống bẩn thỉu và đáng xấu hổ của thủy kiều. nguyễn du đau lòng khi kể lại từng trang cuộc đời của nàng Kiều, câu mở đầu như vén bức màn đen tối của cuộc đời nàng Kiều trong những ngày tủi hổ:

nhiều con bướm bay lượn

niềm vui tràn ngập tiếng cười suốt đêm dài

én lá và cành chim

chàng sớm gửi ngọc bội đi tìm chàng trai trẻ

Sử dụng những hình ảnh ước lệ như “đàn bướm bay lượn”, “vui vẻ”, “cười suốt đêm … khung cảnh nhộn nhịp của đàn ong bướm trong màu xanh ấy trên cao hiện ra trước mắt người đọc, nơi người dân mang hàng đến buôn bán và buôn bán để lấy thú vui xa xỉ, cảnh làng chơi với những nét chữ ngọc và long khánh càng cảm thấy sống động hơn cuộc sống nơi đây, cô gái có số phận gắn bó với nơi đây luôn ẩn chứa một nỗi buồn mà người đời không biết:

khi anh ấy tỉnh táo vào cuối đêm

ngạc nhiên, tôi cảm thấy tiếc cho bản thân mình

Anh uống rượu để xoa dịu nỗi đau, để linh hồn anh có thể siêu thoát khỏi nơi này. rượu về khuya mới “giật mình” rồi “tủi thân”. Phép “chính mình” của Nguyễn du đã gieo vào lòng người niềm tiếc thương, xót xa cho số phận của một cô gái chân dài, nhút nhát phải sống dựa vào người bệnh hủi.

Những câu sau đây là những năm mà cơ thể người nước ngoài phải chịu đựng sự bẩn thỉu và tuyệt vọng:

khi ngôi sao gấm rơi

bây giờ các ngôi sao nằm rải rác như những bông hoa giữa đường

khuôn mặt của ngôi sao dày và có gió

cơ thể của ngôi sao nhàm chán và những con ong không được hạnh phúc

số mệnh đó không được ai yêu thương nên Thủy kiều đành ôm nỗi bi thương vào lòng mà chỉ biết khóc. Nguyễn du đã lấy hình ảnh “bông hoa héo” để nói lên cuộc đời bị áp bức, hành hạ của một cô gái mong manh. cô gái đẹp như một bông hoa đang nở rộ, nhưng những cánh hoa bị chà đạp và héo úa không thương tiếc. Qua đây, tác giả cũng đã phê phán một xã hội bất công, một xã hội còn quá nhiều định kiến, chỉ toàn những cái xấu không cho người khác một con đường sống.

thuy kieu tuyệt vọng đến mức tưởng như chết lặng:

gió giống như một bông hoa ở bên cạnh bạn

một nửa bức màn tuyết phủ đầy mặt trăng

cảnh nào không mang nỗi buồn

những người buồn không bao giờ hạnh phúc

yêu cầu bản vẽ đường thẳng

vòng cung duy trì theo dấu vết trăng tròn dưới hoa

giữa chốn lầu xanh, nàng dùng thơ, tranh và đàn làm bạn để không cảm thấy cô đơn, lạc lõng. nhưng dù vậy lòng cô vẫn không khỏi u uất “người buồn có bao giờ vui đâu” không gian nỗi buồn vẫn bao trùm lấy cô khiến nỗi buồn gieo vào lòng càng thêm buồn.

nguyen du viết rằng nàng kiều tuy cố gắng “phấn đấu” để sống, nhưng cũng chết, đây thực sự là một đoạn văn đáng lo ngại nói lên một cuộc đời vất vả:

vui là vui vì e rằng

kiểu người đó là ai với ai

sau đó, chỉ với vài câu thơ, nhưng nguyễn du như kìm nén mọi cảm xúc để xót xa cho thân phận của người Việt kiều bạc mệnh. đây là nhân vật đã lấy nhiều nước mắt cho cả tác giả và người đọc.

vẫn là chủ đề quen thuộc vẫn là số phận nhỏ bé của người phụ nữ, nhưng với nguyễn du, ông đã dùng ngòi bút của mình để viết nên bài thơ như một lời tâm sự cảm động và sâu sắc. Dường như hình ảnh thùy mị hiện thân của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​xưa được khắc họa rất tinh tế. lòng trắc ẩn là cơ sở của lòng trắc ẩn đối với người khác, anh đồng cảm với cuộc sống của chính mình và đồng cảm với người xa xứ sống ở nơi bụi bặm đầy những lưỡi dao cứa vào trái tim của cô.

phân đoạn “nỗi đau của tôi ” đầy xót xa, đồng thời là chuỗi hành trình kể lại từng mảnh đời của thủy kiều và lên án cái xã hội xấu xa đã tích tụ bao nhiêu đau khổ và đau đớn suốt đời. .

Phân tích mô hình nỗi đau số 5 của chính bạn:

Tôi rất ngạc nhiên, nhưng tôi xin lỗi.

khi ngôi sao rơi,

bây giờ các ngôi sao nằm rải rác như những bông hoa giữa đường.

mặt của ngôi sao dày và có gió,

tại sao những con bướm quá nhàm chán?

chủ nhân của mộng liên hoa đã giới thiệu khái quát về xuất thân của thủy kiều: “khi tình thơ pha, người khen tài sắc ngọc; khi duyên non biển thề vàng; khi trời đất.” đang nổi thì ba đào cửa đình xòe ra; khi lầu xanh, khi rừng tía, thế gian cũng nghĩ đến chồn chân nữa, khi hát những câu hát, khi xen vào mùi kinh nghiệm, tê tái đầu lưỡi. .. ”. Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những đau khổ đau đớn nhất của người phụ nữ trong thời kỳ phong kiến. đau khổ nhưng luôn ý thức về “cuối đời” của chính mình, rơi xuống đất xanh, cảm thấy tiếc cho số phận của mình ở nước ngoài nhưng cũng luôn ý thức về nhân phẩm. điều đó góp phần tạo nên giá trị nhân đạo to lớn và sâu sắc cho tác phẩm.

Số phận và bi kịch của nhân vật thái giám chi phối toàn bộ nội dung tác phẩm. nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài năng âm nhạc tuyệt vời, tài thi ca tài tình không cưỡng lại hoàn cảnh. rơi vào bẫy của tú bà buộc phải tiếp khách thị phi:

nhiều con bướm bay lượn

đầy say sưa và tiếng cười suốt đêm dài

én lá và cành chim

chàng sớm gửi ngọc bội đi tìm chàng trai trẻ

Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật thư pháp thông thường kết hợp với bút pháp đối xứng và thêu chữ thập để diễn tả một hiện thực đáng buồn, thân phận tủi nhục của một cô gái điếm, đồng thời lưu giữ được bức chân dung đẹp đẽ về nhân vật cung đình thủy chung, thể hiện một thái độ tốt đẹp và đáng trân trọng. đối với nhân vật của anh ấy.

Thân phận của cô gái ở nước ngoài bị cuộc đời xanh cuốn trôi, rơi xuống đầy tưởng chừng chìm trong vũng bùn mà không thể ngóc đầu lên được. nhưng nỗi đau, sự tủi thân, ý thức về nhân phẩm của cô ấy khiến chúng tôi yêu cô ấy hơn, trân trọng cô ấy hơn. lắng nghe những suy nghĩ của anh ấy sau “cuộc vui”, “tiếng cười”:

khi tôi tỉnh táo vào cuối đêm,

Tôi rất ngạc nhiên, nhưng tôi xin lỗi.

vẫn là chốn lầu xanh của cô nương, nhưng thời gian đã “tàn canh” – đêm khuya, khoảnh khắc quý giá hiếm hoi để người ta đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Tôi giật mình mà thấy thương mình”, ba chữ “tôi” trong một dòng gợi lên tất cả nỗi cô đơn của hiện trạng. “giật mình” như một nỗi sợ hãi, một câu cảm thán đau đớn. “giật mình” vì chán ghét cảnh sống cơ cực trong lầu xanh. “ngỡ ngàng” trước chính mình, một cô gái trẻ vốn sống trong cảnh “dệt gấm vóc” nay lại rơi vào cảnh “ong bướm chán chường”. “bàng hoàng” hay “bàng hoàng”, vì tấm thân “giữ vàng, giữ ngọc” cho kim trong nay đã phải để cho dân làng chơi bời, dằn vặt. vì thế bốn chữ “lại yêu em” chìm vào trong, giọng thơ đầy cô đơn, buồn tủi. bốn câu hỏi liên tiếp là dằn vặt, tự đau và “tủi thân”:

khi ngôi sao rơi,

bây giờ các ngôi sao nằm rải rác như những bông hoa giữa đường.

mặt của ngôi sao dày và có gió,

tại sao những con bướm quá nhàm chán?

Trong bốn câu đầu, chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm, ba câu liên tiếp nói về hiện thực phũ phàng. điều đó tạo cảm giác rằng hiện tại đè nặng, chôn vùi quá khứ. bốn từ “ngôi sao” được lặp đi lặp lại: “tại sao”, “vào lúc nào”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi có âm bội mạnh thể hiện sự đau đớn tột cùng trước sự dày vò của địa ngục. lời bài hát vừa tức giận, vừa than thở, đồng thời buồn đến nghẹt thở.

Lời tự bạch của Thủy Kiều có ý nghĩa sâu sắc về mặt ý thức tự giác của mỗi con người trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. phụ nữ thời xưa được dạy với tinh thần cam chịu, nhẫn nại và tận tụy. khi con người biết “tự sợ, thương mình”, không còn nhẫn nhục, cam chịu mà có ý thức, nhân cách cao, ý thức được quyền sống của mình.

Lòng thương xót là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ thứ 9 (cung oán ngâm khúc, ngâm khúc chinh phục, thơ hò hét, …). Nguyễn du là người viết về cảm hứng này một cách sâu sắc nhất, sâu sắc nhất. lòng tự ái là một phản ứng đối với thực tế về danh tính của một người. điều đó cho thấy rằng con người không bị diệt vong, không bị cuốn trôi, không bị hủy diệt. giữa một tòa nhà xanh bẩn, người nước ngoài đứng tách ra như một điểm so sánh cho tâm hồn. đó là lý do bạn hải, kim trong, nguyễn và nhiều thế hệ độc giả đánh giá cao.

Đoạn thơ vừa thể hiện giá trị hiện thực vừa thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có khuynh hướng vượt thời đại. bài thơ giúp chúng ta hiểu rõ hơn vì sao những câu chuyện về kiều luôn đồng hành cùng niềm vui nỗi buồn của người Việt Nam qua bao nắng mưa.

—————-

hi vọng những gợi ý chi tiết về cách làm và một số bài văn mẫu được tổng hợp và biên soạn từ việc đọc tài liệu trên đã giúp các em nắm được cách phân tích đoạn trích Đau thương của em

strong> (truyện của kiều – nguyễn du ). Dựa trên những gợi ý trên, hãy viết một bài luận của riêng bạn. Ngoài ra, THPT Sóc Trăng thường xuyên cập nhật nhiều bài văn mẫu 10 hay để phục vụ cho việc học văn của các em. Chúc các bạn luôn học tốt và đạt kết quả cao!

được đăng bởi: thpt luna sóc

danh mục: giáo dục

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *