Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
348 lượt xem

Viết bài Tập làm văn số 2 Lớp 11: Đề 1 → Đề 3 (17 mẫu)

Bạn đang quan tâm đến Viết bài Tập làm văn số 2 Lớp 11: Đề 1 → Đề 3 (17 mẫu) phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Viết bài Tập làm văn số 2 Lớp 11: Đề 1 → Đề 3 (17 mẫu)

Bài Văn Mẫu Lớp 11: Bài Văn 2 (Đề 1 đến Đề 3) là tài liệu rất hữu ích, gồm dàn ý chi tiết và 17 bài văn mẫu được chọn lọc từ các bài văn hay trên cả nước. những bài văn mẫu lớp 11 này sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài văn mẫu số 2 của mình.

  • đề 1: suy nghĩ của anh / chị về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa (trích truyện Lê huu trac) li>
  • chủ đề 2: hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa qua bài thơ Bánh trôi, tự tình 2 và bài thơ tự tình.
  • chủ đề 3: về nhân cách chân chính của nhà Nho trong bài ca ngắn đi trên bãi cát (hay bài ca ngất ngưởng).

bài văn mẫu lớp 11 không. 2 chủ đề 1

dàn ý bài văn số 2 lớp 11 unit 1

1. mở đầu

– giới thiệu ngắn gọn về tác giả và tác phẩm của phần tóm tắt (nêu quan điểm của luận án).

không chỉ là một danh y, le huu trac còn là một nhà nhân văn tài ba của đất nước ta ở tkxviii.

– nhắc đến không thể không nhắc đến “Thượng Hải biên niên sử”. tác phẩm phản ánh hiện thực sâu sắc về cuộc sống hoang đàng, giàu sang và quyền thế của nhà Chúa. giá trị đó đặc biệt được thể hiện trong đoạn trích “vào phủ chúa”.

2. nội dung bài đăng

– (mở ra vấn đề: hình ảnh thực về cuộc sống xa hoa, giàu có và quyền lực tối cao của nhà chúa).

+ khung cảnh phủ chúa mới đẹp làm sao: khắp nơi cây cối tươi tốt, tiếng chim hót, hoa nở, gió thổi hương thơm. tất cả chúng đều là những loài hoa kỳ lạ, tất cả đều là động vật quý hiếm chỉ có ở đây. còn dang dở, những tòa thành ở đây thực sự là những lầu tía. kiểu xây dựng cầu kỳ với những dãy hành lang uốn lượn nối tiếp nhau. nó mang lại cho cung điện hoàng gia sự lộng lẫy, nguy nga, giàu có và trang trọng.

– bên trong nội điện có những thứ quý hiếm như: mâm vàng, chén bạc, ghế rồng, xếp vàng, rèm sắt, lều gấm đầy những thứ “thiên hạ chưa từng thấy”. cảnh hoàng cung đẹp đẽ, giàu sang đến nỗi tác giả phải thốt lên: “đây là chốn thiên đường xa hoa bậc nhất”. Dù cuộc sống của muôn dân đều khốn khó, nhưng sống trong cung điện của tân chúa thật xa xỉ. đây là tính hiện thực sâu sắc của tác phẩm. tác phẩm được ca ngợi nhưng vẫn thờ ơ không bị quyến rũ bởi sự giàu có của hoàng cung.

+ cách sống: để vào hậu cung phải trải qua nhiều cửa ải với những thủ tục rườm rà, rườm rà. những tưởng cứu bệnh nhân như chữa cháy nhưng y / g đành lui về chờ đợi vì “thánh” chúa ngự ở đó. , bước đi lặng lẽ như những cái bóng.

+ nơi ở của hoàng tử cũng thật khác thường: chàng đã phải trải qua 5-6 lần ấp ủ, nơi ở tối tăm, ngột ngạt và thiếu sức sống. người thì ốm đau, bệnh tật vì đói, thiếu mặc, nhưng vì “ăn quá, mặc quá”, vật chất nhiều mà bệnh tật thì thật xót xa. bản thân tác giả cũng để người đọc hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến thân hình ốm yếu, khô héo và tiều tụy của nàng công chúa nhỏ là kết quả của lối sống xa hoa, giàu sang, thiếu tự do. lối sống ở đâu & amp; sống trong cung điện hoàng gia làm nổi bật giá trị thực của công việc & amp; trích xuất.

3. kết thúc

– khẳng định lại vấn đề và liên hệ với chính bạn.

mục số. 2 đề 1 lớp 11 – văn mẫu 1

Lê huu trac (1724 – 1791) tên hiệu là hai thương lan ong, sinh tại thôn liêu xã, huyện đường hao, huyện thương hồng, thành phố hải dương (nay thuộc huyện yên mỹ, tỉnh hưng yên). là một danh y lẫy lừng trong lịch sử nền y học Việt Nam. sự nghiệp của ông được sưu tập trong 66 quyển hải thương và tông tam bảo, biên soạn trong gần 40 năm, là công trình nghiên cứu y học tiêu biểu nhất thời trung đại ở nước ta. nguyên bản “shang kinh ký” bằng chữ Hán, do Lê huu trac viết năm 1782, nội dung ghi lại những gì tác giả đã mắt thấy tai nghe khi được đến kinh đô thang long để chữa bệnh cho cha con nhà trinh. . Thông qua những trang viết sinh động, sắc nét, tác giả phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp lãnh chúa phong kiến, đồng thời bộc lộ rõ ​​sự thờ ơ, khinh bỉ trước danh lợi của họ.

mở đầu bài văn là cảnh đẹp hiếm có nơi hoàng cung được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và gián tiếp qua ấn tượng khiến trong lòng tác giả ấn tượng: “Ngẩng đầu: khắp nơi đều có cây lá, chim hót, hoa nở, gió thổi hương thơm thoang thoảng … Tôi thầm nghĩ: Mình là Thượng Quan, mình lớn lên ở chốn phồn hoa, nơi cung cấm, từng quen biết Chỉ có điều trong cung đình. cung điện mà tôi chỉ mới nghe nói đến. Hãy đến đây, nếu không sự giàu có của các vị vua khác với sự giàu có của người thường! ”

Dù được mời nhưng vị danh y chỉ được phép vào cung bằng cửa sau, mỗi bước đi đều có người từ hoàng cung đi theo. trên đường đi, Người đã ghi chép lại mọi chuyện: “đi bộ mấy trăm bước, qua mấy lần cửa ải sẽ tới nơi hậu quân của đại quân đang làm nhiệm vụ”. điếm hoạt động bên hồ, có cây lạ và đá lạ. trên trụ và lan can uốn cong, kiểu dáng đẹp. ”

Càng vào sâu, tác giả càng ngạc nhiên: “qua hành lang phía tây, đến một ngôi nhà lớn thật cao và thật rộng. hai bên có hai kiệu để vua đi. trang phục đều được sơn son thếp vàng. ở giữa là một vương trượng bằng vàng. trong sự sụp đổ của một chiếc võng. phía trước và hai bên sập sệ, sắp đặt bàn ghế, đồ đạc thế gian chưa từng thấy … qua một cửa khác, lên lầu cao, rộng. ở đây, các cột đều được sơn son thếp vàng. Đúng là khung cảnh cung điện tím, cung điện bạc, cung điện vàng mà người ta chỉ có thể thấy trong truyện cổ tích hoặc trong trí tưởng tượng. ”

cảnh trong phủ chúa đã được le huu trac tóm tắt qua một số câu thơ tả cảnh:

binh lính ngàn cửa mang theo gậy gộc nghiêm chỉnh, đẹp nhất chính là cái này. tầng đầu tiên được vẽ bằng mây, rèm ngọc trai, hiên bằng ngọc trai và bóng ban mai.

Cách sống trong hoàng cung càng khác xa so với nơi bình dân. lần đầu tiên trong đời làm khách, tác giả được ăn cơm mâm vàng, bát bạc, đồ ăn no nê… miễn bình luận, tác giả để chi tiết tự nói. .its chủ nghĩa hiện thực sâu sắc. thời kỳ này chế độ phong kiến ​​lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. vua le nhu nhược chỉ đóng vai bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay vua, vua lộng hành, dâm đãng, vô độ. trong khi đó, người dân sống trong cảnh nghèo đói, tiếng khóc vang vọng khắp các hang cùng ngõ hẻm. lợi ích của vua và hoàng hậu không còn đồng nghĩa với lợi ích của quốc gia, dân tộc. đó là lý do tại sao mọi người tức giận. khởi nghĩa nông dân chống triều đình nổ ra khắp nơi. Do nhận thức đúng bản chất của triều đình phong kiến ​​lúc bấy giờ, Lê Hữu Trác đã dứt khoát quay lưng lại với con đường vinh hoa phú quý, vinh hoa phú quý nhưng cũng đầy rẫy hiểm nguy.

Đoạn văn miêu tả chốn cung cấm khá tỉ mỉ, vừa mang tính hiện thực sắc sảo vừa ẩn chứa thái độ châm biếm đầy ẩn ý của tác giả: “đi qua năm sáu lần như vậy, tôi đến một căn phòng lớn, giữa phòng có một cái vàng. một người ngồi trên cầu thang khoảng năm hoặc sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. có người đứng ở hai bên. ở giữa phòng là một ngọn nến lớn gắn trên một cái giả bằng đồng. ở bên động, có một chiếc ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế là một tấm nệm bằng gấm, một tấm rèm che sân. bên trong, có một số người từ cung điện đứng trong một đám đông. ngọn đèn sáp tỏa sáng, làm nổi bật màu sắc của mặt phấn và áo đỏ. xung quanh là hoa thơm ngát. hình như thánh chủ thường ngồi trên chiếc ghế rồng này, nay lui vào rèm để có thể nhìn thấy mạch đông cung c. Hãy cẩn thận. ”

Thông qua thân thế và thân phận của vị hoàng tử phương đông được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ, người đọc có thể liên tưởng đến tình trạng suy vong của triều đình phong kiến ​​Việt Nam lúc bấy giờ: “… thái tử phi tại thế. do tán hàn, ăn quá no, dùng quá nhiệt nên tạng phủ suy yếu. ngoài ra mắc bệnh lâu ngày, tinh dịch khô, mặt khô, rốn to, gân xanh, chân tay gầy yếu. đó là vì bộ áo liền quần ban đầu đã bị sờn, hỏng quá nhiều. Kết quả là hệ thống phong kiến ​​tồn tại hàng nghìn năm đã cũ kỹ, lạc hậu và khó sửa chữa. ”

là người thông minh, người đã cân nhắc kỹ lưỡng cách chữa bệnh cho thái tử. ý kiến ​​của các bác sĩ trong cung mà anh ấy nghe chỉ để tham khảo. Căn cứ vào tình trạng bệnh tật và thể lực của thái tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hại và tìm ra phương pháp điều trị thích hợp nhất: “Ta thấy thân thể gầy gò, mạch đập yếu ớt. do đó âm dương đều hư, nay phải dùng thuốc thật bổ để dưỡng tỳ, bổ thận, để giữ nguyên bản gốc và làm nguồn gốc cho sau này. nếu nội khí thắng thì bệnh ngoài tự khỏi, không cần điều trị thì bệnh tự khỏi. ”

Điều thú vị nhất là nếu suy nghĩ kỹ thì chúng ta sẽ thấy nội dung câu nói của vị danh y nói về cách chữa bệnh cho thái tử có lời bình rất chính xác về tình hình triều đình phong kiến ​​đương thời và đưa ra một phương pháp chữa các bệnh hiểm nghèo của ông: “lợi dụng bắt mạch, xem xét sáu mạch tinh tế, sức yếu không có sức mạnh, yếu kém và yếu hơn nữa.” tức là âm hư, hỏa quá mạnh, không giữ được dương khí nên hỏa âm biến mất. do đó, bên ngoài thấy cổ trướng, tượng trưng cho sự phù nề bên ngoài và sự trống rỗng bên trong. Cầu mong bạn yên nghỉ… ”

Những vị bác sĩ đáng kính và khôn ngoan đủ khôn ngoan để kê một phương thuốc giúp thái tử bình an vì sợ rằng nếu làm ngay kết quả sẽ bị danh lợi chèn ép, không thể trở về núi. với tư cách là một hiệp sĩ, anh ta được chứng minh là có hiểu biết vững chắc về hạnh kiểm của một hiệp sĩ. Quyết định đứng ngoài vòng danh lợi và giành chiến thắng trong hoàn cảnh đó là vô cùng đúng đắn.

đoạn trích “trong phủ chúa” mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng kỹ năng quan sát tinh tế và những ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ nên bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của bậc đế vương, đồng thời tỏ ra coi thường danh lợi. Đối với ông, không có gì quý hơn một cuộc sống tự do trên miền quê xanh ngát xanh, bằng tất cả tài năng và tâm huyết của mình cống hiến cho y học, cứu nhân độ thế. Cuộc sống chốn cung vua, phủ chúa dù giàu sang tột cùng nhưng cuối cùng cũng chỉ là ra vào cúi đầu, cá trong chậu, chim nhốt trong lồng.

mục số. 2 lớp 11 đề 1 – văn mẫu 2

“Các con, hãy nhớ câu nói này rằng trộm đêm là giặc, trộm ngày là quan”

Các vị vua thời phong kiến ​​hầu hết là những kẻ cướp ban ngày. Chúng công khai cướp của con người bằng đủ mọi thủ đoạn tàn ác để danh gia vọng tộc, cuộc sống an nhàn. phía trên bên phải, một danh y, một nhà văn tài năng của nước ta ở thế kỷ 18 đã phần nào nói lên thực trạng này qua tác phẩm “Thượng Hải biên niên”. Trong những đoạn hồi ký này, đoạn “vào phủ chúa” có giá trị hiện thực sâu sắc vì nó phản ánh cuộc sống xa hoa, giàu có, quyền thế tột bậc của nhà chúa.

“Thượng Hải sử ký” nguyên văn chữ Hán, do Lê huu trac viết năm 1782. nội dung ghi lại những gì tác giả tận mắt chứng kiến ​​khi đến kinh đô thang long để chữa bệnh cho cha mình là hoàng hậu. của nhân sâm. Qua những trang văn sinh động, sắc nét, tác giả phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp lãnh chúa phong kiến, đồng thời thầm bày tỏ thái độ thờ ơ, khinh miệt danh lợi của họ. le huu trac sử dụng ngôi kể thứ nhất, tiếp cận trực tiếp lối sống xa hoa của bậc đế vương. người viết quan sát kỹ, ghi chép chân thực, tả cảnh sinh động, cách kể khéo léo.

mở đầu bài văn là cảnh đẹp hiếm có nơi hoàng cung, được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và gián tiếp qua ấn tượng tạo nên trong lòng tác giả: “Tôi ngước nhìn: khắp nơi đều có cây cối tươi tốt, chim muông. ríu rít, hoa nở, gió thổi hương thơm thoang thoảng … Ta thầm nghĩ: Ta vốn là Thượng Quan gia, ta lớn lên ở chốn phồn hoa, nơi cung cấm, ta từng biết trong hoàng cung chỉ có những thứ đó. Tôi chỉ mới nghe nói đến. Đến đây, nếu không sự giàu có của các bậc vua chúa khác với của thường dân! ”

Khung cảnh và lối sống trong hoàng cung được ghi lại một cách tỉ mỉ qua con mắt của một bác sĩ lần đầu tiên bước vào thế giới mới. không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng mở rộng theo cung bậc và cách nói của nhân vật là “tôi”. toàn cảnh hoàng cung không chỉ rộng mà còn sâu, có sức gợi mạnh mẽ.

Dù được mời nhưng vị danh y chỉ được phép vào cung bằng cửa sau, mỗi bước đi đều có người từ hoàng cung đi theo. trên đường đi, anh ghi chép lại mọi chuyện: vừa đi vài trăm bước, mấy lần qua cửa ải, anh đã đến tửu điếm “ngựa ô”. điếm hoạt động bên hồ, có cây lạ và đá lạ. trên các trụ tròn và lan can, kiểu dáng đẹp.

Sau khi đi vào, qua hành lang phía tây, đến một ngôi nhà lớn thực sự rất cao và rộng. mỗi bên có hai kiệu để vua đi. các giác đều được sơn son thếp vàng. ở giữa là một vương trượng bằng vàng. trong sự sụp đổ của một chiếc võng. phía trước và hai bên sập sệ, sắp đặt bàn ghế, đồ đạc thế gian chưa từng thấy … qua một cửa khác, lên lầu cao, rộng. ở đây, các cột đều được sơn son thếp vàng. Đúng là khung cảnh cung điện tím, cung điện bạc, cung điện vàng mà người ta chỉ có thể thấy trong truyện cổ tích hoặc trong trí tưởng tượng của mình.

Đặc biệt, lối sống trong hoàng cung càng khác xa so với dân gian. lần đầu tiên trong đời làm khách, tác giả được ăn cơm mâm vàng, bát bạc, đồ ăn no nê… miễn bình luận, tác giả để chi tiết tự nói. .its chủ nghĩa hiện thực sâu sắc. thời kỳ này chế độ phong kiến ​​lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. vua le nhu nhược chỉ đóng vai bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay vua, vua lộng hành, dâm đãng, vô độ. trong khi đó, người dân sống trong cảnh nghèo đói, tiếng khóc vang vọng khắp các hang cùng ngõ hẻm. lợi ích của vua và hoàng hậu không còn đồng nghĩa với lợi ích của quốc gia, dân tộc. đó là lý do tại sao mọi người tức giận. khởi nghĩa nông dân chống triều đình nổ ra khắp nơi. Do nhận thức đúng bản chất của triều đình phong kiến ​​lúc bấy giờ, Lê Hữu Trác đã dứt khoát quay lưng lại với con đường vinh hoa phú quý, vinh hoa phú quý nhưng cũng đầy rẫy hiểm nguy.

Đoạn văn miêu tả chốn cung cấm khá tỉ mỉ, vừa mang tính hiện thực sắc sảo vừa ẩn chứa thái độ châm biếm đầy ẩn ý của tác giả: “đi ngang năm sáu lần như thế này, tôi đến một căn phòng lớn, giữa phòng có một cái vàng. một người ngồi trên cầu thang khoảng năm hoặc sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Mỗi bên có vài người đứng. ở giữa phòng là một ngọn nến lớn gắn trên một cái giả bằng đồng. Bên trong động có một chiếc ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế là một tấm nệm gấm, một bức màn che sân, bên trong có một số triều thần đang đứng, những ngọn đèn sáp chiếu sáng, làm nổi lên màu sắc của mặt và chiếc áo đỏ ”.

chịu trách nhiệm tổ chức một điểm nhìn tường thuật linh hoạt. có một phần sự việc được kể dưới góc nhìn của nhân vật tự xưng là tôi. có đoạn nhà văn để nhân vật quan vừa miêu tả vừa trình bày. người đọc có ấn tượng không chỉ le right trac dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát, quan sát mà còn được hầu cận của chúa dẫn ta thâm nhập và khám phá sự thật nơi “đông cung”. những đoạn độc thoại của tôi chắt lọc một cái nhìn sắc sảo và một cảm giác tinh tế. những đoạn miêu tả cho thấy nhân vật tôi bao quát một không gian rộng lớn, nắm bắt được cái thần, bản chất của sự vật, hiện tượng. Là một bác sĩ trong ngành, nhân vật của tôi luôn tỏ ra là một người hiền lành và tôn trọng, ham học hỏi các kỹ thuật y tế từ đồng nghiệp. sự tương phản về địa vị của tôi với các tiến sĩ của sáu phủ và hai viện không làm cho nhân vật của tôi trở nên nhỏ bé, ngược lại càng làm tôn lên nhân cách và tài năng của nhân vật này. sự xuất hiện đông đúc của tiến sĩ trước tòa đã tiết lộ toàn bộ sự thật ở phủ chúa có một hệ thống quan lại bất tài và ăn bám.

Các nhà Nho xưa hiếm khi nói về mình. nhưng ở mảnh ghép này, tác giả đã không ngần ngại để cái “tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Đi vào hoàng cung” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân của người viết. Qua đoạn trích, chúng ta có thể thấy tác giả Lê Hữu Trác là một bác sĩ giàu kinh nghiệm. Ngoài tài năng, ông còn là một bác sĩ có lương tâm và đức độ. le huu trac coi nghề thuốc là vô cùng thiêng liêng và cao quý. một người dược sư phải tiếp nối lòng trung thành của tổ tiên, phải luôn giữ đức trong sạch và giữ tấm lòng trong sạch. lê công bằng yêu thích tự do và lối sống thanh đạm. Vượt lên trên danh lợi, ông trở lại thực hành đạo cứu người với tâm niệm: “Ý thiện là ở việc cứu người, trong lòng không có việc gì tìm kiếm / có phúc thì thà nghèo còn hơn giàu / xin vui lòng hỏi một đặc ân. ”

“vào hoàng cung” trở thành quá trình tiếp cận chân lý cuộc sống xa hoa, vương giả thay vì thăm khám và chữa bệnh cho bệnh nhân. thăm bệnh và chữa bệnh cho thái tử chỉ là cái cớ, là cơ hội giúp nhà văn hoàn thiện bức tranh về cuộc đời sâu sắc, giàu có và quyền lực. Bằng kỹ năng quan sát tinh tế và những ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ nên bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của bậc đế vương, đồng thời tỏ ra coi thường danh lợi. Đối với ông, không có gì quý hơn một cuộc sống tự do trên miền quê xanh ngát xanh, bằng tất cả tài năng và tâm huyết của mình cống hiến cho y học, cứu nhân độ thế. cuộc sống trong cung vua, phủ chúa tuy vô cùng giàu sang phú quý nhưng rốt cuộc có đúng không? chỉ cần đi vào và đi ra, thu mình lại.

mục số. 2 lớp 11 đề 1 – văn mẫu 3

le huu trac xuất thân trong một gia đình quý tộc, giỏi binh thư và võ nghệ. Sau một thời gian làm quan cho chúa, nhận thấy xã hội băng hoại, dây cương thường buông lỏng, khi anh trai mất năm Hương Sơn (1746), ông liền cáo lỗi về chăm sóc mẹ già. . từ đó ông chuyên tâm nghiên cứu y học, vừa chữa bệnh vừa cứu người, soạn sách và mở trường dạy y đức, y thuật và y thuật.

Ngày 12 tháng Giêng năm Canh Hưng 43 (1782), Lệnh Hồ Xung được chúa sai về kinh để bắt mạch và kê đơn chữa trị cho hoàng thân. sau đó ít lâu lại đãi vua trinh sâm. những điều anh đã thấy và nghe trong nhiều chuyến đi của huong là cả một tháng dài thôi thúc anh cầm bút lên.

Năm 1783, ông viết xong cuốn “Thương thế kinh” bằng chữ Hán. Cuốn nhật ký này là một tác phẩm văn học chân chính, đặc sắc, có giá trị lịch sử cao. Đoạn trích “Vào phủ chúa” trong Sách 11 – Ngữ văn nâng cao, tập 1 (NXB Giáo dục, 2007) thể hiện đầy đủ những nét độc đáo trong phong cách viết văn của Lê Hữu Trác.

như chúng ta đã biết: ngôn ngữ ký hiệu là tên gọi chung của một nhóm thể loại có sự giao thoa giữa báo chí và văn học. viết về đời thực, viết về người thật, việc thật. người ghi chép mô tả thực tế theo tinh thần của câu chuyện. mô hình của tác giả gần với mô hình của sử gia. tác giả rất coi trọng cách kể chi tiết và không bao giờ thiếu tả cảnh. nhật ký gồm nhiều thể loại viết như: bút ký, phóng sự, ký ức hành trình, hồi ký, nhật ký, v.v. trong số đó, nhật ký thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ các sự kiện – câu chuyện có thật. Tất nhiên, đan xen với mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực và sâu sắc của người viết trước sự việc.

Đoạn trích “vào phủ chúa” vẽ nên bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của bậc đế vương. le huu trac sử dụng ngôi kể thứ nhất, tiếp cận trực tiếp lối sống xa hoa của bậc đế vương. người viết quan sát kỹ, ghi chép chân thực, tả cảnh sinh động, cách kể khéo léo.

Phần mở đầu của đoạn trích là một sự kiện cụ thể và có thật. Tính chất đặc trưng của lối viết truyện ngôn tình thể hiện rõ ở cách ghi chép tỉ mỉ các sự kiện và thời gian. Nhà văn kết hợp lời kể khách quan với nghệ thuật khí thế để làm nổi bật hành động hấp dẫn và khẩn trương của các nhân vật: “Vào một ngày đầu tháng Hai, lúc tờ mờ sáng, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa rất khẩn cấp. Tôi chạy ra mở cửa. bấy giờ có đầy tớ của người công chính… ”. ở đây, “bởi có người”, người được liên kết mật thiết với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể. câu le huu trac ngắn gọn, giàu thông tin, được viết một cách tinh tế và tự nhiên, không có một chi tiết thừa. ca từ giản dị, tự tin nhưng bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa dễ cảm. người đọc có thể hình dung rất rõ ràng rằng một tình huống đặc biệt đang xảy ra.

Theo dõi lời kể, người đọc có cảm giác hồi hộp, lo lắng và chợt nhận ra một con người gần gũi, thân quen như chính cảm nhận của nhân vật “tôi” trong tác phẩm này. trước mắt chúng tôi – hình ảnh nhân vật tôi dừng lại ngỡ ngàng, có chút hụt hẫng. tốc độ tường thuật đột ngột chậm lại để đăng ký mọi người và hoạt động rõ ràng và đầy đủ hơn. hai từ “hóa ra” tạo ấn tượng về sự khám phá và kêu gọi những người thật và việc thật.

ký tự “i” không xuất hiện thông qua một hình thức cụ thể. nó xuất hiện đầu tiên qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh và rõ ràng nhất là trong hành động. nhân vật “tôi” xuất hiện với tư cách là người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự kiện được miêu tả. do đó, ngay từ đầu câu chuyện, độc giả đã có cảm giác đây không phải là một câu chuyện hư cấu, mà là hình ảnh của một cuộc sống hiện hữu.

kể chuyện, tả người, không mượn từ những khuôn mẫu, tư liệu có sẵn, tác giả hướng đến việc khai thác tư liệu trong cuộc sống đời thường và đời tư. chẳng hạn, lời đối thoại của nhân vật đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, theo vị trí, chức vụ của anh ta: “có thánh chỉ gọi cụ. Người đưa tin hiện đang ở nhà ông cố tôi, tôi tuân lệnh và chạy đi báo tin… ”

đặc biệt coi trọng cách kể chuyện đỉnh cao. nhà văn thích sắp xếp mọi thứ hoàn toàn nhất quán với phần đầu và phần cuối, nên dường như mỗi đoạn hay câu kể về hành động của người hầu đều tiếp nối câu chuyện kể về hành động và tình cảm của người công chính: “Tôi nghe một cú đánh… Tôi bỏ chạy… ”,“ Người hầu nói… tôi làm rồi ”,“ người hầu chạy đi… anh ta sợ quá, tôi không thể nói hết được ”. bối cảnh hẹp nhờ sự thể hiện thành công logic nhân quả của các sự kiện và hành động. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng nhân vật “tôi” đang hoạt động, nhưng càng đọc, tôi càng phát hiện ra rằng nhân vật “tôi” đang bị mắc kẹt trong việc này đến việc khác.

mở đầu đoạn văn bằng một cấu trúc câu ngắn. mỗi câu tương ứng với một trạng thái, một sự việc, một hành động. Độc giả đồng cảm với sự vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi và đồng tình với anh ta ở thái độ líu lưỡi châm biếm chúa Trịnh Sâm lạm quyền và hy sinh lúc bấy giờ.

Khung cảnh và lối sống trong hoàng cung được ghi lại một cách tỉ mỉ qua con mắt của một bác sĩ lần đầu tiên bước vào thế giới mới. không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng mở rộng theo cung bậc và cách nói của nhân vật là “tôi”. toàn cảnh hoàng cung không chỉ rộng mà còn sâu, có sức gợi mạnh mẽ.

theo lời kể của nhân vật “i”, khung cảnh trong hoàng cung vô cùng xa hoa, tráng lệ không đâu sánh bằng: “vào cung phải đi qua nhiều cửa với những hành lang uốn lượn nối tiếp nhau, ở mỗi cửa mỗi người một ngả. có vệ sĩ. khuôn viên hoàng cung rộng, quy mô thiết kế kiểu cách, phong cảnh thiên nhiên lạ lùng. trong vườn chim hót, hoa nở, gió mang hương thơm thoang thoảng. bên trong là những đại sảnh, với kiệu và võng màu tím. đồ dùng của chúa sơn son thếp vàng, đồ dùng để tiếp khách và ăn uống cũng là mâm vàng, chén bạc, đồ ngon và lạ … Nội cung của hoàng tử phải trâm sáu lần, nơi ở của hoàng tử. rất sang trọng, có mão vàng, ghế rồng bọc nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hoa thơm ngát… ”

chân thực

> khéo léo kết hợp miêu tả tập trung với tô điểm, chọn lọc những chi tiết đắt giá, thể hiện quyền cao chức trọng và phong cách sống vô cùng sang trọng của gia đình chúa sơn lâm. lời kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và lời phê bình kín đáo của người đàn ông. nhà văn kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn xuôi và thơ. bài thơ tả cảnh, tả cảnh ngụ tình có ý nghĩa sâu sắc, ca từ hóm hỉnh, ẩn chứa nụ cười châm biếm, mỉa mai.

Các nhận xét trong tài liệu khá đa dạng. Đầu tiên, tác giả đánh giá chung về cái đẹp. lời bình sau đây về cảnh giàu sang. sau đó đưa ra ấn tượng về thiết kế, phong cách kiến ​​trúc. Người viết đã dừng lại để đánh giá một cách tỉ mỉ và sắc sảo những món đồ xa xỉ từ nhà Đại Đường cho đến căn Penthouse màu Tím. mọi đánh giá về le huu trac là đúng đắn, tế nhị và hợp lý. cho rằng tác phẩm giàu nội dung trữ tình.

tác giả quan sát các công trình kiến ​​trúc, cảnh quan thiên nhiên qua hình khối, kích thước, miêu tả khuôn viên chủ yếu thông qua những ấn tượng về mùi và âm thanh, nói về sự xuất hiện của những vệ binh, những người lính để nhấn mạnh sự uy nghiêm của nơi đây. le huu trac đặc biệt thích miêu tả con đường, lối vào hoàng cung. Tôi cảm thấy rằng đằng sau mỗi cánh cửa đều có một hình ảnh. đoạn trích gồm nhiều hình ảnh với những mảng màu đậm nhạt khác nhau, được kết nối với nhau.

Lần đầu tiên, đôi mắt của tác giả như một tiên cảnh huyền ảo, cây cối tươi tốt, hương hoa lãng mạn. Trong tương lai, cảnh trù phú của phủ chúa được thể hiện chân thực và đầy đủ hơn. càng vào sâu bên trong, nhà văn càng có cơ hội quan sát không gian bên trong, không gian cao rộng của căn gác xép với những rui vàng, đặc biệt là biết được khẩu vị của những người giàu có. >

“vào hoàng cung” trở thành quá trình tiếp cận chân lý cuộc sống xa hoa, vương giả thay vì thăm khám và chữa bệnh cho bệnh nhân. thăm bệnh và chữa bệnh cho thái tử chỉ là cái cớ, là cơ hội giúp nhà văn hoàn thiện bức tranh về cuộc đời sâu sắc, giàu có và quyền lực.

tác giả tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. có một phần sự việc được kể dưới góc nhìn của nhân vật tự xưng là tôi. có đoạn nhà văn để nhân vật quan vừa miêu tả vừa trình bày. người đọc có ấn tượng không chỉ le right trac dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát, quan sát mà còn được hầu cận của chúa dẫn ta thâm nhập và khám phá sự thật nơi “đông cung”. những đoạn độc thoại của tôi chắt lọc một cái nhìn sắc sảo và một cảm giác tinh tế. các mô tả cho thấy nhân vật của tôi bao quát không gian rộng lớn, nắm bắt được tinh thần và bản chất của sự vật, hiện tượng.

Là một bác sĩ trong ngành, nhân vật của tôi luôn tỏ ra là một người hiền lành và tôn trọng, ham học hỏi các kỹ thuật y tế từ các đồng nghiệp của mình. sự tương phản về địa vị của tôi so với các tiến sĩ của sáu cung và hai viện không làm cho nhân vật của tôi trở nên nhỏ bé, ngược lại càng làm tôn lên bản lĩnh và tài năng của nhân vật này. sự xuất hiện đông đúc của tiến sĩ trước tòa đã tiết lộ toàn bộ sự thật ở phủ chúa có một hệ thống quan lại bất tài và những kẻ ăn bám.

Các nhà Nho xưa hiếm khi nói về mình. nhưng ở mảnh ghép này, tác giả đã không ngần ngại để cái “tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Đi vào hoàng cung” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân của người viết. Qua đoạn trích, chúng ta có thể thấy tác giả Lê Hữu Trác là một bác sĩ giàu kinh nghiệm. Ngoài tài năng, ông còn là một bác sĩ có lương tâm và đức độ. le huu trac coi nghề thuốc là vô cùng thiêng liêng và cao quý. Người làm thuốc phải mang theo lòng trung thành của tổ tiên, phải luôn giữ đức trong sạch, giữ lòng trong sạch. công bằng lê yêu thích tự do và một lối sống thanh đạm. Vượt lên trên danh lợi, ông trở lại thực hành đạo cứu người với tâm niệm: “Ý thiện là ở việc cứu người, trong lòng không có việc gì tìm kiếm / có phúc thì thà nghèo còn hơn giàu / xin vui lòng hỏi một đặc ân. ”

mục số. 2 đề 1 lớp 11 – văn mẫu 4

chúng ta thường gặp hai thương lan ong: le huu trac là một bác sĩ, nhưng anh ấy cũng là một nhà văn. trong đời ông sáng tác không nhiều nhưng ông đã để lại những tác phẩm có giá trị và ý nghĩa. tiêu biểu là tác phẩm “vào phủ chúa”. Có thể nói, qua những việc làm như vậy, giá trị hiện thực được thể hiện rất rõ ràng.

trước hết, “nhập cung” xảy ra trong bối cảnh triều đình của trinh nữ hoàng cung mời ngự y đến khám sức khỏe cho thái tử. dù không muốn nhưng anh vẫn phải làm theo mệnh lệnh của thần. và những thực tế được nhìn thấy ở đây qua đôi mắt của họ cho phép chúng ta thấy cuộc sống trong cung điện hoàng gia là như thế nào.

Hiện thực hoàng cung được tác giả miêu tả theo khung cảnh hoàng cung từ ngoài vào trong, không những thế còn có các hình thức trong hoàng cung. mọi thứ ở đây thực sự cụ thể.

đầu tiên là khung cảnh nơi đây bước vào hoàng cung, tác giả không tiếc lời khen ngợi sự xa hoa, lộng lẫy nơi đây. vốn là những cây chưa thấy đâu, những cây đó toàn là thứ quý, toàn là cây quý. quý giá như vậy, nhưng trong hoàng cung lại có rất nhiều, rất nhiều khu vực tươi tốt. Đến đây phải nói là cuộc sống đủ đầy, giàu sang phú quý. Không chỉ có những loài thực vật quý hiếm làm cho vẻ đẹp nơi đây thêm sang trọng mà cung điện còn có những loài chim quý. tên hoa chạy là gì và chim hót là gì. Có thể nói, vừa đặt chân vào hoàng cung, tác giả đã vẽ nên hiện thực chốn hoàng cung xa hoa với những loài cây, chim muông quý hiếm. phải là người giàu có mới có thể trồng những loài hoa nổi tiếng đó trong nhà.

không những thế, càng vào sâu bên trong cung điện, càng có nhiều sơn trang phong cảnh phủ chúa đẹp đẽ sang trọng. tác giả nhìn thấy nhưng không ham danh lợi, đặc biệt ông còn tỏ thái độ không thích sống cuộc sống sung túc như vậy. có thể là để tiện cho thế giới bên kia bị ốm. khung cảnh hoàng cung tiếp tục thể hiện qua các đại sảnh và quyền lực. màu vàng tươi có thể được nhìn thấy ở đây. Có thể nói, màu vàng tượng trưng cho sự giàu có và đó là lý do tại sao trong hoàng cung, mọi thứ từ nhỏ đến lớn đều được sơn bằng vàng. Cuộc sống của bậc đế vương nơi đây thực sự giống như thiên đường mà bao người ao ước. của các cột trụ trong đại điện đều được sơn son thếp vàng. hay đôi đũa, cái đĩa, cái khay cơm, những đồ vật nhỏ bé tưởng như bình thường đó cũng được mạ vàng. Nếu có mâm vàng bạc châu báu thì cũng chỉ để trưng bày làm vật quý, còn đây là vật để ăn cơm. có vàng hay vàng là thứ rất quý, nhưng ở đây từ vật lớn đến lớn đều là vàng. cuộc sống dường như thực sự đầy đủ và phong phú.

Đặc biệt, lối sống trong cung đình cũng phần nào nói lên giá trị hiện thực của tác phẩm này. Để vào cung, bạn phải trải qua nhiều lần báo cáo trong cung rồi mới được vào. mọi người ở đây đều tôn kính thần. bản thân chúa trinh sâm, có rất nhiều mỹ nữ vây quanh chờ phục vụ hắn. Khi đi khám bệnh cho thái tử, dù chỉ là một cậu bé trong cung, các bác sĩ dù đã rất cao tuổi cũng phải cúi chào thái tử rồi mới bắt mạch kê đơn cho thái tử. căn phòng hoàng cung nguy nga. thái tử đứng sau hàng rào gấm quý giá như để bảo vệ tấm thân gọi là ngọc ngà.

như vậy, qua phân đoạn “nhập cung” của truyện cổ tích, ta thấy tác phẩm này thấm đẫm giá trị hiện thực của xã hội Việt Nam những năm đó. cuộc sống của một bậc đế vương là ăn chơi, sống xa rời thú vui mà quên đi bổn phận trông coi đất nước của mình.

mục số. 2 đề 1 lớp 11 – văn mẫu 5

“Thượng Hải biên niên sử” là một cuốn nhật ký nổi tiếng viết bằng chữ Hán của Lê huu trac. trong đó, ở đầu tác phẩm nằm ở phân đoạn “nhập cung” kể về việc lê huu trắc trở về kinh thành và bị đưa vào phủ để lấy công thức làm công chúa. tại đây, anh được chứng kiến ​​cuộc sống xa hoa trong hoàng cung. đó là tính hiện thực sâu sắc của câu trích dẫn trên.

Trước hết, tác giả đã khắc họa một cách chân thực khung cảnh hoàng cung. Vào phủ chúa phải đi qua nhiều cổng, mỗi cổng đều có lính canh gác và có “ngựa hậu” túc trực. Trong hoàng cung, khắp nơi đều có cây cối tươi tốt, chim hót, hoa đua nở, gió thổi hương thơm thoang thoảng. nội thất thậm chí còn đẹp hơn. đó là những món đồ nội thất mà có lẽ mỹ nhân chưa từng thấy, đó là những món đồ nội thất trong pháp trượng, tất cả đều được sơn son thếp vàng. về sau, trong nội cung của các phi tần, gấm vóc phải trải năm sáu gian, đồ đạc sơn son thếp vàng, trên nệm gấm hoa thơm. Có thể thấy, khung cảnh hoàng cung vô cùng xa hoa, phú quý và thâm nghiêm. Đây có lẽ là một quan điểm phổ biến trong lịch sử vì các vị vua là những người đứng đầu để cai trị đất nước.

Không chỉ được quan sát tỉ mỉ quang cảnh phủ chúa mà le huu trac còn có thể tận mắt chứng kiến ​​cuộc sống thường ngày của lãnh chúa. khi tác giả khiêng cáng vào dinh: “đầy tớ chạy trước la lối, cáng chạy như ngựa lồng”, “người khuân vác loan tin ầm ĩ, người có việc đến như mắc cửi. “. Mọi lời nói đến thần đều phải tử tế và cung kính, thể hiện sự tôn trọng và lịch sự. Bữa sáng của chúa có toàn đồ ngon, vật lạ, đồ dùng trên đĩa đều bằng vàng bạc. Chúa trinh lúc nào cũng có thiếp.” chờ đợi. nếu thái tử bị bệnh thì phải có bảy tám bác sĩ chăm sóc và luôn có một số người túc trực mỗi bên. Theo mệnh lệnh của quan sai, trước khi đến gặp hoàng tử ốm phải làm bốn lễ lạy. Muốn thấy được thi thể của hoàng tử thì phải có quan đến. làm ơn.

Cuối cùng, le huu trac đánh giá hoàng cung là một nơi thiếu sức sống. ngoài ra, do mê cung càng sâu càng làm tăng linh khí tiềm ẩn, lối sống cung cấm khiến con người dần trở thành: “tính khí khô, da mặt khô, rốn lồi, gân xanh, chân tay gầy guộc…”, “thái tử ở trong. nơi kín gió lại ăn uống quá nhiều và bao bọc quá kỹ nên tạng phủ suy yếu. qua đây tác giả đã bày tỏ sự bất mãn với cuộc sống nơi đây cũng như sự thờ ơ của mình trước những cám dỗ vật chất chốn hoàng cung.

Qua phần phân tích trên, có thể thấy đoạn trích “vào phủ chúa” miêu tả rất chân thực cuộc sống trong phủ chúa. đó mới là giá trị thực mà người viết muốn gửi gắm.

bài văn mẫu số 2 lớp 11 tập 1 – văn mẫu 6

le huu trac (hai thuong lan ong) là một bác sĩ nổi tiếng và nhân đức. Đồng thời, ông còn là nhà văn, nhà thơ có nhiều đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “vào phủ chúa” trong “thượng hải truyện” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.

đoạn “nhập cung” nằm ở đầu tác phẩm kể về việc lê huu trắc trở về kinh thành bị bắt vào cung bắt mạch và kê đơn cho chúa trinh. tại đây, anh được chứng kiến ​​cuộc sống xa hoa trong hoàng cung. Ông mô tả thực tế trong phủ chúa theo quang cảnh phủ chúa từ ngoài vào trong chứ không chỉ là cuộc sống thường ngày trong phủ chúa. tất cả đều trông cực kỳ thực tế.

Đầu tiên là cảnh trong cung điện hoàng gia. Ngay từ khi vào phủ, Lê Hữu Trác đã bắt đầu chăm chú theo dõi. vừa đi vài trăm bước, sau một hai lần cửa sẽ đến điếm “binh mã”. “Con điếm hoạt động bên hồ, có cây lạ, đá lạ. trên các trụ tròn và lan can, kiểu dáng đẹp ”. sau đó, khi bước vào, tác giả càng ngạc nhiên hơn bởi sự xa hoa của bên ngoài. “Qua hành lang phía tây, đến một ngôi nhà lớn rất cao và rộng. mỗi bên có hai kiệu để vua đi. các giác đều được sơn son thếp vàng. ở giữa là một vương trượng bằng vàng. trong sự sụp đổ của một chiếc võng. phía trước và hai bên sập sệ, sắp đặt bàn ghế, đồ đạc thế gian chưa từng thấy … qua một cửa khác, lên lầu cao, rộng. ở đây, các cột đều được sơn son thếp vàng. ”

nhưng đó là điều gì, cách sống trong hoàng cung còn khiến chúng ta ngạc nhiên hơn. khi tác giả khiêng cáng vào dinh: “đầy tớ chạy trước la lối, cáng chạy như ngựa lồng”, “người khuân vác loan tin ầm ĩ, người có việc đến như mắc cửi. “. Mọi lời nói đến thần đều phải tử tế và cung kính, thể hiện sự tôn trọng và lịch sự. Bữa sáng của chúa có đầy đủ đồ ngon, vật lạ, đồ dùng trên đĩa đều bằng vàng bạc. Chúa trinh lúc nào cũng có thiếp.” Nếu thái tử bị ốm thì phải có bảy tám bác sĩ chăm sóc, mỗi bên luôn có mấy người túc trực, nhìn bệnh tình thì không thấy mặt thái tử mà thôi. họ tuân theo mệnh lệnh của trưởng dòng, trước khi vào xem bệnh tình của thái tử, phải làm bốn lạy, muốn nhìn thấy thi thể của thái tử thì phải có một vị quan đến xin phép.

khi bạn mô tả cuộc sống ở quê hương của tôi theo cách đó, hãy đặt nó so sánh với tình cảnh khốn khổ của những người sống ở đó. nhà văn cũng muốn tố cáo xã hội phong kiến ​​thối nát đã đẩy cuộc sống của nhân dân vào cảnh khốn cùng.

Tóm lại, “nhập cung” là hình ảnh chân thực, sắc nét về sinh hoạt của các bậc vua chúa thời xưa. tức là quyền uy và cuộc sống xa hoa của lãnh chúa. qua đoạn trích, ta cũng thấy được bức chân dung tự họa của tác giả. ông là một người lương thiện, một lương y tài hoa, chí công vô tư, trọng danh lợi, một lòng chăm lo cho nhân dân xã tắc.

bài văn mẫu lớp 11 không. 2 chủ đề 2

dàn ý bài văn số 2 lớp 11 unit 2

1. mở đầu

– giới thiệu hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chung.

– Cảm hứng về người phụ nữ trong “bánh trôi nước” và “tình tự” của hồ xuân hương, “người vợ thương yêu” của tấm lòng hy sinh xương máu.

2. nội dung bài đăng

– Thời đại hoàn cảnh, nội dung cơ bản trong các bài thơ của hai tác giả trước.

– họ là những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn (thân mình vừa trắng vừa tròn, mặt hồng nước non), có phẩm chất thanh cao, xinh đẹp như một cô nương yêu vợ bạn bon chen (quanh năm buôn bán ở mợ. sông – nuôi năm con với một chồng).

– thân phận của những người phụ nữ này cực kỳ nhỏ, cuộc sống của họ kéo dài và lộn xộn. họ phải sống trong một xã hội phong kiến ​​lạc hậu, trọng nam khinh nữ, phụ nữ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội, nên những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn như hoa khôi giang hồ thường không được coi trọng. Đồng thời, việc làm của người vợ thường ít được chồng thông cảm, dù vất vả cả năm trời để nuôi chồng, nuôi con, chăm lo cho gia đình dù phải chịu nhiều thiệt thòi. >

– Bản lĩnh của người phụ nữ trong xã hội xưa: dù bị trói buộc với những quan niệm, hủ tục cổ hủ, lạc hậu … nhưng sâu thẳm trong tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn ngời sáng, vẫn luôn đứng lên đòi bình đẳng. muốn rằng: họ là con gái nhưng vai trò của họ đối với xã hội rất lớn …

3. kết thúc

– người phụ nữ thời xưa chịu nhiều bất hạnh và sự hạn chế của lương tâm xã hội

– nhắc nhở mọi người trân trọng hạnh phúc của ngày hôm nay.

bài viết số 2 lớp 11 đề 2 – văn mẫu 1

Thơ văn trung đại Việt Nam, đặc biệt là các tác phẩm viết bằng chữ Nôm, nói nhiều về tình yêu và số phận của người phụ nữ trong cuộc đời.

“Con gái! Có gì sai với điều đó, cho đến khi mùa xuân héo tàn hoa, thơ và trăng tròn? “

(victoria truong quynh nhu, pham thai)

“Đau đớn thay cho phụ nữ, từ xui xẻo cũng là từ chung.”

(truyện kiều, nguyễn du)

“Nguyên nga là một cô gái tuyết trinh, được phong làm quận công vinh hiển.”

(truyện luc van tien, nguyen dinh chieu)

Xuân hương hồ điệp và bon chen, qua “bánh trôi nước”, “tự tình ii”, “thương vợ” đã thể hiện hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa với những ấn tượng sâu sắc và những nỗi niềm trong tim.

Bài thơ “Bánh trôi nước” có hai tầng ý nghĩa: vừa miêu tả món bánh cung đình, một món ăn dân tộc, vừa tượng trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê ta. từ “trắng”, từ “tròn” và hình ảnh nhân cách hóa “thân em” đã thể hiện vẻ đẹp của “em” với sự khiêm tốn, ngọt ngào, trinh nguyên và duyên dáng. mặc dù tình yêu và số phận phụ thuộc vào lễ giáo phong kiến ​​và tam giáo, vào “bàn tay của những người tạo hình”. dù “cứng cỏi”, dù trải qua bao gian nan, vất vả, trường kỳ, trải qua “bảy thăng trầm” nhưng vẫn giữ được tấm lòng kiên trung, son sắt. hình ảnh ẩn dụ “lòng son” và hai chữ “chưa” đã ca ngợi đức tính nhẫn nại, thủy chung của người phụ nữ xưa trong mỗi gia đình Việt Nam. “Bánh nước” là một bức chân dung nghệ thuật với hai màu đẹp “trắng” và “son”:

“thân em vừa trắng vừa tròn, vừa nổi vừa chìm theo nước non. Dù bị bàn tay người tạo hình bóp nát, em vẫn có trái tim của mình”.

ba bài thơ “tự tình” của nữ hoàng thơ ca, đặc biệt là bài thơ thứ hai, kể về câu chuyện tình yêu đầy trắc trở của một người phụ nữ có số phận hẩm hiu!

Người phụ nữ đó thức giấc giữa đêm, chỉ là một cái bóng đang nghe tiếng trống “ầm ầm” từ một tháp canh phía xa. Tôi thức dậy khỏi cô đơn, khỏi cô đơn. rượu và trăng cũng không làm vơi đi nỗi buồn tích tụ đang bóp nát cõi lòng. “chén hương đưa” tưởng rằng có thể làm bạn say để quên đi nỗi buồn chất chứa trong tâm hồn, cố làm bạn say, nhưng “tỉnh lại” để buồn hơn; buồn cho tình yêu vụn vặt! một mình nhìn “bóng trăng”, nhìn mãi mà vầng trăng kia vẫn “khuyết chưa tròn”. hạnh phúc mà bạn mong đợi chỉ là “có khi một tháng hoặc không!”. Số phận thật bất hạnh và bi kịch làm sao!

trong bi kịch tình yêu, người phụ nữ nhỏ nhen cố gắng thoát ra nhưng không thể thoát ra. tuy có “cúi đầu xuyên đất”, tuy có “xuyên qua mây”, nhưng những rêu phong, những tảng đá ấy cũng không thể thay đổi được tình cảnh thật đáng buồn, đáng thương, đáng thương, đáng thương:

“xâu đất, bó rêu, đập mây, đá vài tảng.”

Phép đối trong hai câu thơ không chỉ làm nổi bật sự hung bạo tiềm tàng của thiên nhiên mà còn làm nổi bật sự phản kháng số phận, sự phản kháng tuyệt vọng của người phụ nữ đã “đi lấy chồng”.

p>

thời gian không mang lại cho anh hạnh phúc. mùa xuân không mang lại niềm vui, nhưng nỗi buồn chán và nỗi đau cứ chồng chất. xuân đã qua xuân lại về, tuổi ngày càng cao, nhan sắc tàn phai, nhưng tình yêu và hạnh phúc chỉ có thể “chung đôi cùng con” mà thôi! thật đáng tiếc! quá nghèo vua cóc và người đắp tường chẳng đem lại hạnh phúc gì cho anh! hai câu cuối miêu tả nỗi đau khổ trong bi kịch tình yêu của hồ xuân hương:

“mệt mỏi vì mùa xuân đến và đi, một mảnh tình yêu để chia sẻ với một cậu bé!”

“Tự tình” – bài ii không chỉ thể hiện nỗi đau cô đơn mà còn thể hiện khát vọng tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ trong cảnh “chung sống, vợ chồng”. giá trị nhân văn của bài thơ thật sâu sắc.

bài thơ “Thương vợ” với cảm hứng chủ đạo là tình yêu, sự kính trọng và lòng biết ơn của anh đối với người vợ ngọt ngào của mình.

ba đảm đang là hiện thân của nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. bà buôn bán cần mẫn trên dòng sông mẹ quanh năm, không một ngày nghỉ. gánh nặng gia đình do cô ấy “gánh”:

“Mẹ sông quanh năm làm ăn, nuôi năm đứa con với một đời chồng.”

nhờ sự dũng cảm và khéo léo của vợ, tuy “ăn lương phụ vợ” nhưng anh ấy khá giàu:

“Anh ta nói rằng món nợ là của người châu Âu, nhưng anh ta vẫn giàu có trong suốt quãng đời còn lại của mình. Số tiền được giao cho người phụ nữ chiến thắng con ngựa và cỗ xe xem như không ngơi nghỉ”

(tự cười một mình)

hình ảnh “thân cò” là sự sáng tạo của bạn nhỏ để nói về sự vất vả, khó khăn của chị em. của bạn. cặp từ “bơi” và “đau” đã để lại vô cùng neo đơn, đức tính cần cù chịu khó của người vợ, người mẹ trong một gia đình đông con:

“én liệng thân cò bay xa, mặt nước mênh mang mùa đông”,

ba tu còn là hiện thân của sự hy sinh thầm lặng. cô cam chịu, nhẫn nại với số phận. những thành ngữ “một duyên hai nợ”, “năm nắng, mười năm mưa” kết hợp với các điệp ngữ “au đành phận”, “dám xử lý chí công” thể hiện đức tính, tâm hồn của bà. bạn rất cao quý. cô ấy đã sống hết mình vì cuộc sống và hạnh phúc của chồng:

“Một duyên phận, hai duyên nợ, một mệnh trời, mưa nắng mười năm dám quản công”

hai câu cuối là sự trêu chọc của cô ấy. bạn và sự tự buộc tội của nhà thơ:

“Cha mẹ có kiếp bất bình, có chồng hờ hững cũng chẳng sao”

“không” nghĩa là không giàu sang phú quý, không được “võng yêu, võng bạn theo” như những người phụ nữ khác. “không” là không sống trong danh dự “tối uống sâm panh, sáng uống sữa bò” như những người vợ của các thầy thông giáo thời đó.

xương của bạn tự trách mình, nhưng anh ấy đã bày tỏ tất cả sự tôn trọng và biết ơn đối với người vợ yêu thương và nhân hậu của mình.

hình ảnh của bà. em trong bài thơ “thương vợ” là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với nhiều đức tính tốt đẹp như dũng cảm, cần cù, chịu thương, chịu khó, hy sinh.

Qua các bài thơ “Bánh trôi nước”, “Tự tình” – bài ii “Thương vợ”, người đọc thấy được phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, trong đó biết ơn và tự hào nhất về người mẹ, người chị của mình. , người vợ trong mỗi gia đình chúng ta. giống như running đã viết:

“Chị em tôi chiếu nắng vàng của lịch sử, mặt trời cho cuộc đời, cũng như mặt trời cho thơ ca”.

bài viết số 2 lớp 11 đề 2 – văn mẫu 2

Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Chủ đề cảm hứng nhân văn đa dạng này đã tạo nên giá trị của văn học nói chung và của những gương mặt tác giả nói riêng. tiêu biểu là hồ xuân hương với “tình tự” (ii) và tu từ tốn với “thương vợ”.

đúng vậy, hai bài thơ có hai người phụ nữ khao khát một mái ấm gia đình. sau khi tất cả, cuộc sống là rất khó khăn. họ đã phải chịu số phận nghiệt ngã của chế độ phong kiến ​​thối nát. phác đồ mà khi nhắc đến ai cũng cảm thấy khó chịu. là phụ nữ thì sao? Không phải phụ nữ là người trong xã hội sao? Tại sao chúng ta phải bắt phụ nữ làm những việc mà họ không muốn là phong tục lỗi thời: cha mẹ đặt con, trọng nam khinh nữ, phụ nữ không có quyền trong gia đình.

Thứ nhất, những bài thơ Hồ Xuân Hương là những lời than thở về tình cảm riêng tư của một cá nhân, chứa đựng những vấn đề phổ quát về thân phận người phụ nữ. hay nói cách khác là nhập liệu bằng giọng nói cá nhân. Hồ Xuân Hương hiện lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa. “tự tình” (ii) được tìm thấy trong chùm thơ tự tình gồm ba bài bằng chữ nôm. đó là nỗi khổ của việc không được làm chủ nhân của chính mình. trong khung cảnh lúc nửa đêm, điều duy nhất nổi bật là tiếng trống “bùm bùm”. tiếng trống đập rộn ràng như thôi thúc âm vang trong lòng người. âm thanh cộng hưởng không chỉ đơn giản là nhận thức cảm tính mà còn là nhận thức xúc giác về thời gian. “Đêm khuya vang tiếng trống canh gác”. đau đầu “trơ mặt đỏ ra nước non”. vẻ đẹp của người phụ nữ trong đêm vắng lặng, gợi lên hình ảnh “hồng nhan bạc mệnh” trở nên rẻ rúng, vô giá trị. chắc hẳn bất cứ ai trong hoàn cảnh hồ điệp hương cũng cảm thấy cô đơn, tổn thương, buồn bã. hình ảnh “mặt hồng” còn “nước non” thể hiện sự e lệ, ngượng ngùng của người phụ nữ. cùng với nỗi buồn đang đè nặng lên những thân phận bé nhỏ của xã hội, về thân phận của họ. hồ xuân hương là một người rất mạnh mẽ, anh ấy không bỏ cuộc và muốn thoát khỏi anh ấy. “chén hương mang đến” là phương tiện xoa dịu nỗi đau, tuy không phải là phương tiện duy nhất, nhưng tốt nhất lúc này. tìm quên trong ly rượu, say rồi tỉnh lại, càng uống càng thấy rõ mọi thứ. nó như một vòng luẩn quẩn khiến người phụ nữ nhận ra rằng nỗi cô đơn của mình càng nặng trĩu. hướng về vầng trăng tìm tri kỷ giữa đất trời mà “oan khuất” vẫn “bóng mờ”. môi trường và con người hòa làm một. người phụ nữ tự hỏi khi nào trăng tròn sẽ đến. bao giờ người ta mới tìm được tình yêu cho mình? trăng sắp tàn mà chưa tròn, xuân đã qua mà nhân duyên chưa tới. một người phụ nữ chới với giữa thế giới bao la và hoang vắng, muốn thoát ra nhưng bất lực trước sự cô đơn, lẻ loi.

để đạt được thành tựu của bạn là yêu thích và cảm động những bài thơ viết về người vợ đang sống. bài thơ “thương vợ” nói lên thiên chức, vị thế của một người mẹ, một người vợ tốt. The Mrs. Bạn có thể gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, nhưng bạn có một hạnh phúc mà nhiều đời vợ cũ của bạn không có được. Vì chồng con, bà phải chịu đựng một cuộc sống vất vả, khó khăn. quanh năm, tháng này qua ngày khác không ngơi nghỉ, cả ngày mưa nắng, ông làm ăn trên mảnh đất nhô ra lòng sông. nơi bấp bênh, gập ghềnh hiện lên hình ảnh một cô nương bận rộn, trên dưới nhường dưới. “quanh việc buôn bán trên sông mama”. bối cảnh không gian và thời gian, cuộc sống khó khăn của người bà được ông phác thảo. của bạn. “nuốt thân cò trong vắng”. hình ảnh “thân cò” là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông. bạn đã sử dụng hình ảnh đó để nói về những khó khăn của bà. bạn, đồng thời gợi lên số phận và nỗi đau thân phận của mình. thân cò “bơi lội” trong một không gian “lúc vắng người” vừa thể hiện sự kinh hoàng của thời gian, vừa thể hiện sự kinh hoàng của không gian. hình ảnh người bà càng rõ nét về cuộc vật lộn với cuộc sống. “đầu tiên trong nước ở phía đông của con tàu”. rất khó để các nhà giao dịch thấy mình đang đấu tranh và đẩy nhau. “bến đò đông” không giống như “quãng vắng”. không chỉ có ẩu đả, xô xát, xô đẩy mà còn có những bất trắc nguy hiểm. cô biết điều đó nhưng cô vẫn lên con thuyền đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. vắng hoặc đông thì cũng mất một “thân cò”. Dù số phận trói buộc họ nhưng nhờ đó mà những phẩm chất cao quý của người phụ nữ được hiện hữu.

dù đau đớn đến đâu, dù yếu đuối đến đâu, trong trái tim xuân hương vẫn luôn bừng lên ngọn lửa khát khao, hy vọng, không từ bỏ mà muốn đứng lên đấu tranh để đổi đời. . “Xâu đất rêu thành chùm / Đập chân mây đá mấy hòn”. tâm trạng con người dường như bộc lộ sự phẫn uất, bướng bỉnh và cố chấp. thiên nhiên trong mắt xuân hồ điệp tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén đang trỗi dậy mạnh mẽ. “rêu”, “đá” chỉ là những thứ nhỏ bé, khiêm tốn nhưng không hề yếu ớt vì rêu bám đầy mặt đất, đá xuyên mây. nó chứng tỏ xuân hương muốn phá bỏ những rào cản để tìm hạnh phúc cho bản thân, muốn giải thoát số phận ra khỏi hoàn cảnh, đồng thời thể hiện cá tính táo bạo của người ca sĩ. dù lòng có canh cánh nhưng anh vẫn nhìn cảnh vật bằng con mắt yêu thương. yêu đời là thế, sức sống là thế này, nhưng đời tư vẫn “xuân sắc”. vòng quay hận thù của cuộc đời không tránh khỏi những âm thanh than thở cay đắng. càng thấm thía hơn khi giữa vòng lặp thời gian ấy có một “mảnh tình nhỏ” dù đã tan vỡ nhưng sẽ được chia sẻ lại. đối với trái tim yêu say đắm ấy, nó như một vết thương sâu và đau đớn, khao khát một tình yêu trọn vẹn.

Dù có nghiệt ngã, đau đớn hay buồn tẻ đến đâu, phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những người có phẩm chất cao đẹp. không chỉ bên ngoài mà còn bên trong. đó là tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng con. “nuôi năm đứa con với một chồng.” “Nuôi năm đứa con” là điều không cần thiết đối với một người mẹ, nhưng đối với một người chồng, tại sao lại tính “một người chồng”? vì chồng và bà cũng phải nuôi và đáp ứng những nhu cầu cần thiết của bạn. Bà nội phải thắt lưng buộc bụng để nuôi 5 đứa con vất vả, nhưng lại phải nuôi thêm một người đàn ông trong nhà càng làm gánh nặng thêm đôi vai bé nhỏ của bà. sự thông minh và dũng cảm của anh ta được phản ánh trong lựa chọn sống của một người đàn ông, khéo léo giải tỏa sự khó chịu của anh ta để tránh nóng. anh ta kiên nhẫn gánh món nợ cuộc đời như một lẽ tất yếu không thể tránh khỏi. “một duyên hai nợ”. điều kỳ diệu là người mẹ này, người vợ này không ý thức được rằng mình là vật hy sinh. chăm chỉ “năm nắng mười mưa” thể hiện đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng con mà bà không “dám manh động” một lời. cô tình nguyện gánh vác trách nhiệm chăm sóc gia đình. dù phải vật lộn với trăm thứ nhưng anh vẫn nhẫn nhịn trong im lặng. Đó phải chăng là đức tính hy sinh, là nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam?

hai người phụ nữ xinh đẹp tìm thấy sức mạnh, ý chí vượt lên hoàn cảnh. nhưng trong chuyến bay họ quá đơn độc nên đã thất bại. một người muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt. một người cam chịu và nhẫn nại để làm tròn bổn phận người mẹ, người vợ. một người đồng cảm, chia sẻ. một con người cô đơn, đau khổ trước số phận hẩm hiu. Chỉ khi phụ nữ đoàn kết, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng thì họ mới có thể thay đổi vận mệnh và làm chủ cuộc đời mình.

Người phụ nữ ngày xưa chịu nhiều thiệt thòi, bất công, bất công và bị xã hội phong kiến ​​hạn chế. phụ nữ ngày nay có quyền như nhau, quyền được học tập, quyền lựa chọn tình yêu và quyền làm chủ cuộc sống của mình. Họ không còn được đối xử theo cách cũ. Dù phụ nữ ngày xưa có cuộc đời khốn khó nhưng hình ảnh sâu sắc của bà không bao giờ mất đi. dù trong hoàn cảnh nào thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn tỏa sáng. và điều đó luôn khiến chúng tôi tự hào về những người phụ nữ Việt Nam.

mục số. Đề 2 lớp 11 – văn mẫu 3

ho xuan huong đã sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về chủ đề phụ nữ. thơ ông là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát vọng hạnh phúc. cũng có một số bài thơ nói về những vất vả mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội phong kiến ​​trọng nam khinh nữ.

Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong văn học dân gian, con hổ mang bầu gửi gắm những tâm sự sâu sắc về thân phận nhỏ bé, phụ thuộc của người phụ nữ:

“Thân mình vừa trắng vừa tròn, nổi chìm theo nước non. cứng và gãy dù có bàn tay của những người thợ tạo hình, nhưng anh em vẫn giữ được tấm lòng của mình ”.

Bánh được làm bằng bột nếp trắng tinh, mềm, tròn, đẹp khiến người ta liên tưởng đến vẻ đẹp tròn trịa, hồn nhiên của những thiếu nữ đang độ xuân thì. bánh luộc trong nồi nước sôi, trụng vài lần bánh chìm và nổi lên là bánh đã chín. chiếc bánh bông lan màu trắng nhẹ nhàng với màu nâu đỏ của nhân đường chải thô. bằng con mắt và trái tim giàu cảm xúc, hồ xuân hương đã nhận ra rằng đằng sau những chi tiết rất thực ấy ẩn chứa tình yêu và trách nhiệm của người phụ nữ. sự sáng tạo của nó là duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho cuộc sống. vai trò của ông vô cùng quan trọng, nhưng cái nhìn thiên lệch về xã hội phong kiến ​​đã cố tình phủ nhận. đó là: “nhất nam viết hay, mười nữ viết hay”. đó là: “phụ nữ nước ngoài”.

thì luật “tam tòng tứ đức” buộc người phụ nữ với điều kiện phải lệ thuộc vĩnh viễn: “ở nhà phải phục cha, dựng vợ gả chồng cho con trai”. Những quan niệm khắt khe và cổ hủ đó đã lấy đi thứ quý giá nhất là tự do sống thật với con người mình và điều đáng sợ nhất là nó khiến phụ nữ trở thành cái bóng mờ trong suốt cuộc đời. chúng tồn tại thay vì sống theo nghĩa tích cực của từ này. nó giống như một chiếc bánh trôi trên mặt nước, đặc, nát, méo mó và hoàn toàn tròn bằng tay.

trong bài thơ “tự tình ii”, hồ xuân hương đã bộc lộ tâm trạng rất bức xúc của chính mình, và cũng là tâm trạng chung của bao người phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến:

p>

“đêm khuya vang lên tiếng trống canh, mặt đỏ nước non. chén hương trả say tỉnh, vầng trăng khuyết chưa trăng khuyết. Mặt đất, rêu phong từng cụm, đâm vào chân mây, đá mấy tảng đá

nói chuyện với phụ nữ là nói về vẻ đẹp, tình yêu và sự hy sinh. họ cống hiến hết mình cho cuộc đời mà không đòi hỏi những lợi ích vật chất hơn là sự tôn trọng, cảm thông và chia sẻ. nhưng những người này hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì họ cho rằng thiên chức của người phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Hiểu được sự bất công này, Hồ Xuân Hương đã viết nên những vần thơ thấm đẫm nỗi buồn và sự chua xót như những bài trước. sắc mặt hồng hào là cách gọi của những người phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ những người cùng giới. nhưng gọi nó là mặt đỏ tức là hạ thấp nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. nỗi xót xa, tủi nhục chứa đựng trong câu thơ: mặt đỏ, nước non in đậm phong cách biểu cảm độc đáo của xuân hương.

tin tưởng vào nỗi buồn, thân phận của nữ ca sĩ không biết tâm sự cùng ai nên cứ xoáy vào, dằn vặt giữa màn đêm tĩnh mịch. nhưng dù bị phản bội hay bị lãng quên, nhân vật trữ tình của bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khát vọng sống mãnh liệt, vẫn muốn bùng cháy với hạnh phúc trọn vẹn, vẫn muốn sẻ chia và đền đáp những tình cảm yêu thương. giữa mọi người.

Có thể coi bài hát “Thương vợ” của tác giả châm biếm nổi tiếng trần trụi là một bức chân dung tương đối hoàn chỉnh về người phụ nữ trong xã hội phong kiến:

“quanh năm buôn bán trên dòng sông mẹ, nuôi đủ năm người con với một chồng. lặn lội thân cò khi xa, hẹp mặt nước đò đông. Công, cha mẹ, thói đời bạc phận, có chồng hờ hững cũng như không ”.

Trước đây, Nho giáo buộc phụ nữ phải thờ chồng, nuôi con. Yêu chồng đối với phụ nữ cũng bao gồm cả việc nuôi dạy chồng, điều này là không công bằng vì trên thực tế, người đàn ông phải là trụ cột của gia đình về mọi mặt.

Cô ấy là một cô gái khá giả trong một gia đình khá giả. khi sống với cha mẹ, anh không phải chịu khó. cũng như vợ anh, anh vất vả trên con đường học vấn, nhưng không có công ăn việc làm nên đành chấp nhận cuộc sống khổ cực dài đằng đẵng. quanh năm tần tảo buôn bán trên sông mẹ, bến chợ để nuôi đủ năm người con với một đời chồng. nhưng lại nuôi một người chồng đặc biệt tài giỏi như ông. Bạn không chỉ quan tâm đến miếng cơm, manh áo bình thường mà bạn còn phải chuẩn bị cho chàng một ít rượu, một ít trà, một ít tiền tiêu vặt để chàng có thể vui vẻ với bạn bè bằng cách sắm cho chàng một bộ quần áo tươm tất như vậy. cô ấy sẽ không cảm thấy tồi tệ nếu cô ấy đi đâu đó … vì vậy cô ấy phải lo lắng nhiều, cô ấy phải làm rất nhiều, nhưng cô ấy không dám nói, than thở: một số phận, hai món nợ, số phận, năm nắng mưa. dám cai trị. cô im lặng coi nó như thể số phận sẽ có nó. suy nghĩ và tâm trạng của một người bà cũng là tâm trạng chung của phụ nữ xưa.

Nhà thơ ngắn cũn cỡn từng tự nhận mình là người chồng vô dụng, bỏ vợ mà lội qua xác con cò … rất giống những thân cò đáng thương trong ca dao, tượng trưng cho số phận hẩm hiu. . Ngoài đau khổ về vật chất, anh còn đau khổ về tinh thần. bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng có chồng con nào biết không? Chính vì vậy mới có tiếng thở dài như một lời than thở đau lòng: “cha mẹ thờ ơ / có chồng cũng thờ ơ!”

có lẽ cô ấy đã hóa thân thành vợ anh, để hiểu và thông cảm cho cô ấy. kết hôn mà không được hỏi hoặc tin tưởng; lấy phải một người chồng hờ hững vừa có vừa không.

ba bài thơ cùng chủ đề, giống nhau đều toát lên thân phận đáng thương, nhỏ bé, phụ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​xưa. nhà thơ quê hương và nhà thơ trần thị bon đã góp phần không nhỏ vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại, những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.

mục số. 2 đề 2 lớp 11 – văn mẫu 4

Viết về phụ nữ không còn là điều gì xa lạ trong văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Đến với mỗi tác giả khác nhau, người phụ nữ lại được khắc họa với những nét riêng. nhưng mẫu số chung của họ là cuộc đời bất hạnh thêm vào đó là không thể tự quyết định số phận của mình. Điều này đã được chứng minh qua những tác phẩm vô cùng nổi tiếng như bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Tú Xương.

Trong xã hội phong kiến ​​xưa, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo: “trọng nam, khinh nữ”. phụ nữ không có tiếng nói trong xã hội. họ phải sống cuộc đời cam chịu, lệ thuộc vào đàn ông: “tại gia thì theo chồng, dựng vợ thì theo trai” (ở nhà thì theo cha, lấy chồng thì chồng chết theo con). Không chỉ có cuộc sống bất hạnh, cuộc sống hôn nhân của người phụ nữ còn gặp nhiều vất vả, đau khổ khi đàn ông trong xã hội phong kiến ​​có năm vợ, bảy thiếp …

với tư cách là đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội ấy, xuân hương đã thể hiện được tiếng nói mạnh mẽ qua hai bài thơ Bánh trôi nước và Tự tình ii. những người phụ nữ xuất hiện xuyên suốt của bà hoàng thơ ca đều vô cùng xinh đẹp và tài năng. nhưng họ phải chịu đựng cuộc sống bấp bênh, chìm nghỉm không biết đâu là bến bờ hạnh phúc:

“Thân mình vừa trắng vừa tròn, vừa nổi vừa chìm theo nước non”

ở đây hồ xuân hương mượn hình ảnh bánh trôi có thực để nói về cuộc đời người phụ nữ. khi nói đến “tự ái”, chúng ta thấy một lời phàn nàn được thể hiện trực tiếp:

“trong đêm, tiếng trống canh, mặt đỏ, nước mát vẫn vang, chén hương đưa say tỉnh lại, trăng khuyết chưa tròn”

một phụ nữ tài năng và thông minh nên được đánh giá cao và đánh giá cao. nhưng họ phải chịu đựng nỗi cô đơn tột cùng. ngay cả tình yêu cũng nên được chia sẻ với người khác:

“một chút tình yêu để chia sẻ!”

Nhưng dù cuộc đời có thế này thì những người phụ nữ trong thơ xuân sắc vẫn không chịu khuất phục trước số phận:

“xâu chuỗi mặt đất đầy rêu thành từng cụm ôm chặt chân mây và đá”

Dù bên ngoài có thể yếu đuối nhưng bên trong những người phụ nữ này luôn mạnh mẽ:

“Dù đôi tay chai sạn nhưng tôi vẫn có trái tim mình.”

Câu thơ như một lời khẳng định rằng dù xã hội có bất công đến đâu thì họ vẫn luôn giữ tấm lòng chân chính. tâm hồn họ vẫn khao khát hạnh phúc và tình yêu trọn vẹn. vì yêu và được yêu là khát vọng chính đáng của con người.

đến với “người vợ yêu” của bon chen, ta thấy hình ảnh một người phụ nữ siêng năng, nhẫn nại và giàu đức hy sinh. nhà thơ đã khoác lên mình tấm áo của một người chồng – một người đàn ông để bày tỏ sự đồng cảm với người phụ nữ. Đây là điểm khác biệt đầu tiên giữa thơ của Hồ Xuân Hương và của Tư bon chen khi viết về phụ nữ. người vợ trong thơ ca của bạn không ai khác chính là cô ấy. bạn, một người phụ nữ siêng năng.

“quanh năm buôn bán trên sông nước, nuôi năm con với một chồng, bơi theo cò khi nước cạn, ngày đầy thuyền”

bốn câu đầu tiên trình bày công việc của bà. bạn: buôn bán, công việc rất vất vả, không bao giờ nghỉ ngơi. nhưng bà vẫn chăm chỉ tần tảo sớm hôm “nuôi đủ năm con với một chồng”; ly thân với “một người chồng” dường như thể hiện một tình huống rất khó khăn. người chồng phải nuôi cả gia đình. tuy nhiên, ở đây, người vợ phải bươn chải kiếm sống một mình nuôi chồng, nuôi con. họ chịu đựng những ràng buộc phong kiến ​​nên không thể kêu ca, than thở mà chỉ có thể chấp nhận và âm thầm chịu đựng từ ngày này qua ngày khác: “nắng mưa bao năm không phụ lòng người”. hai dòng cuối như một lời tự vấn của nhà thơ:

<3

Tiếng “bố mẹ” nghe thật chua xót, như một lời tự trách mình vô dụng khiến vợ đau khổ. Qua bài thơ này, bà Tư Bốn đã khắc họa hình ảnh bà Tú, cũng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa: cần cù, chịu thương, chịu khó và giàu đức hi sinh.

Mỗi nhà thơ là một tiếng nói riêng nhưng đều là những lời lẽ trân trọng dành cho những người phụ nữ trong xã hội. ba bài thơ đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

bài viết số 2 lớp 11 đề 2 – văn mẫu 5

Khi nói đến đề tài người phụ nữ trong xã hội xưa, chúng ta không thể không nhắc đến ba bài thơ rất nổi tiếng là “bánh trôi nước, tự tình ii” của xuân hương hồ điệp và “thương vợ” của xuân hương xương ngà. hồ mỗi nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của người phụ nữ.

như đối với thơ xuân hồ, người phụ nữ không chỉ hiện lên qua vẻ đẹp hình thức mà còn ở vẻ đẹp tâm hồn. bài thơ “Bánh trôi nước” đã thể hiện điều đó:

“Thân em vừa trắng vừa tròn, nổi chìm theo dòng nước cứng ngắt, tuy có bàn tay nhào nặn nhưng em vẫn có tấm lòng của mình.”

mượn hình ảnh chiếc bánh trôi, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của người phụ nữ. dáng người phụ nữ trong bài thơ được miêu tả “trắng trẻo, tròn trịa” gợi thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. đó là tiêu chuẩn của phụ nữ đẹp trong xã hội cổ đại. nó đẹp, nhưng cuộc đời đầy bất hạnh. thành ngữ “bảy nổi, ba chìm” gợi ý về một cuộc sống vất vả, gặp nhiều khó khăn. câu thơ “rắn bất chấp tay nạn” đã nói lên số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. nhưng dù gặp nhiều bất hạnh, người phụ nữ trong thơ xuân hồng vẫn giữ được tâm hồn thanh cao, tấm lòng thủy chung: “song thân vẫn thủ”.

nếu “peda de agua” là lời khẳng định về một trái tim trung thành tràn đầy lạc quan. thì “tình yêu propio ii” là sự phơi bày đau đớn về hoàn cảnh của chính nhà thơ. trong không gian rộng lớn nhưng yên tĩnh về đêm, tiếng trống vang lên khiến người ta có vẻ bất an. hình ảnh một người phụ nữ có vẻ đơn độc:

“chén hương đưa ta tỉnh lại, trăng tàn chưa đầy”

cụm từ “say mới tỉnh” tạo nên một vòng luẩn quẩn cho câu thơ cũng là vòng luẩn quẩn của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. họ mượn rượu để quên đi thực tại rượu không thể xua tan. vì thanh xuân sắp qua rồi mà hạnh phúc còn xa. đàn bà càng muốn được yêu thương thì lại càng tiếc nuối cho số phận của mình. nỗi đau và sự phẫn uất đã khiến họ vùng lên phản đối:

“dốc dọc theo mặt đất, rêu thành từng đám, mây phá vỡ, đá vào một số tảng đá.”

nhưng ngay cả như vậy, danh tính nhỏ đó không thể thay đổi. khát vọng được sống, được tự do, được yêu thương, là nhu cầu chính đáng của con người. nhưng xã hội phong kiến ​​không chịu tiếp nhận những nguyện vọng này. vì vậy bạn càng chống cự, bạn càng đau đớn hơn:

“mỏi xuân thanh xuân, yêu con sẻ chia.”

câu thơ cuối thể hiện sự mòn mỏi, chán chường khi tuổi trẻ đã qua đi không thể quay lại. và ngay cả những cảm xúc không thể chia sẻ bây giờ cũng phải chia sẻ.

khác với hồ điệp xuân sắc, người phụ nữ trong bài thơ “thương vợ” của tu hú chủ yếu hiện lên với vẻ đẹp của nhân cách. nhà thơ với tư cách là người chồng – người đàn ông để bày tỏ sự đồng cảm với người phụ nữ. Đây là điểm khác biệt đầu tiên giữa thơ của Hồ Xuân Hương và của Tư bon chen khi viết về phụ nữ. người vợ trong thơ ca của bạn không ai khác chính là cô ấy. bạn, một người phụ nữ siêng năng.

“quanh năm buôn bán trên sông nước, nuôi năm con với một chồng, bơi theo cò khi nước cạn, ngày đầy thuyền”

bốn câu đầu tiên trình bày công việc của bà. bạn: buôn bán, công việc rất vất vả, không bao giờ nghỉ ngơi. nhưng bà vẫn chăm chỉ tần tảo sớm hôm “nuôi đủ năm con với một chồng”; ly thân với “một người chồng” dường như thể hiện một tình huống rất khó khăn. người chồng phải nuôi cả gia đình. tuy nhiên, ở đây, người vợ phải bươn chải kiếm sống một mình nuôi chồng, nuôi con. họ chịu đựng những ràng buộc phong kiến ​​nên không thể than thở, than thở mà chỉ biết chấp nhận, chịu đựng từng ngày trong âm thầm và coi đó như số phận của chính mình: “một duyên hai phận / Năm nắng mười mưa chẳng màng”. hai dòng cuối như một lời tự vấn của nhà thơ:

<3

tiếng “bố mẹ” vang lên thật chua chát, như một lời tự trách mình vô dụng khiến vợ anh đau khổ.

Tóm lại, qua ba bài thơ “bánh trôi nước”, “tự tình ii” và “thương vợ”, xuân hương và tuồng đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ trong xã hội với những biểu hiện đẹp đẽ điển hình. đồng thời, cả hai nhà thơ đều bày tỏ tình cảm trân trọng đối với người phụ nữ.

ví dụ bài văn lớp 11 # 2 chủ đề 3

dàn ý bài văn số 2 lớp 11 mục 3

(phác thảo nhân vật Khổng Tử có thật trong bài ca ngắn đi trên cát)

1. mở đầu

– giới thiệu sơ lược về tác giả cao ba và tác phẩm “khúc ngắn trên bãi cát”.

– tác phẩm cho chúng ta thấy nhân cách cao đẹp của nhà Nho thời xưa.

2. nội dung bài đăng

a. một số đặc điểm chính về tác giả và tác phẩm:

<3

– được cả thế giới tôn sùng như một “vị thánh”.

– “bài hát ngắn đi trên cát” do anh sáng tác khi đi thi qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng.

– bộc lộ những vất vả, khó khăn cũng như cảm xúc về con đường danh lợi đã thoái hóa, thối nát lúc bấy giờ.

– tác phẩm “bài ca ngắn đi trên cát” đã cho chúng ta thấy được nhân cách trong sáng và cao quý của nhà nho.

b. Một số đặc điểm chung của một nhà Nho chân chính:

– là người nghiên cứu sách thánh, kiến ​​thức sâu rộng, được nhân dân kính trọng, nể phục.

– có ý tưởng muốn giúp dân giúp nước, không màng danh lợi, vinh hoa phú quý.

– luôn duy trì chất lượng cao trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

c. Nhân cách Nho sinh qua vở kịch “khúc ca ngắn đi trên bãi cát”:

– thực chất là quyết tâm thi và thi đỗ để cống hiến cho đất nước.

– nhận ra rằng con đường tầm thường để nổi tiếng và đạt được hiện tại đã cũ kỹ và sai lầm.

– cao ba nhận thức được sự cần thiết phải thoát khỏi danh vọng và lợi ích vô nghĩa.

– mong muốn thay đổi xã hội, tìm ra cách sống mới

iii. kết thúc

– Tóm tắt một số nét nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách chân chính của nhà Nho trong bài ca dao ngắn về bãi cát.

– hãy nghĩ về nhân cách thực sự của Nho giáo

(phác thảo nhân vật Khổng Tử có thật trong bài ca hùng tráng)

i. mở đầu

– Những nét tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng, người đã để lại dấu ấn không chỉ trong văn học mà còn trên nhiều lĩnh vực khác, văn thơ của ông phản ánh sâu sắc cuộc đời và thế sự.

>

– giới thiệu chủ đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong những bài ca dao nói tiêu biểu thể hiện tài năng, bản lĩnh và ý thức cá nhân của Trạng nguyên – đó là nhân cách chân chính của nhà Nho. chính

ii. nội dung bài đăng

1. làm rõ vấn đề “nhân cách chân chính của Nho giáo”

– nhân cách: phẩm giá, phẩm hạnh, phẩm hạnh của con người

– một nhà Nho chân chính: một nhà Nho sống theo nguyên tắc, chuẩn mực của bản thân, không làm trái lương tâm, dám khẳng định tài năng và bản lĩnh của mình

2. một nhà Nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh và cống hiến tài năng của mình cho chính sự

– dáng vẻ của một cây nho với tài năng, bản lĩnh và tính cách phóng khoáng

+ “vũ trụ nội không bổn phận”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trên trời dưới đất đều là bổn phận của tác giả ⇒ tuyên bố ý chí làm con của nhà thơ.

+ “lão học giả… trong lồng”: luân hồi trần thế là công việc ràng buộc, nhưng cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của một nhà Nho chân chính

– tác giả điểm lại những việc ông đã làm khi đương chức và tài năng của ông ⇒ những việc mà các nhà Nho chân chính nên làm, cần phải làm

<3

+ thể hiện vị thế của mình trong xã hội và hơn hẳn những người khác: Nghị viên, Tổng đốc, Tổng trấn (Bình Định thành Tây), Phủ doãn Thừa Thiên

⇒ khẳng định tài năng và lý tưởng tự do của một nhà Nho tài năng xuất chúng

3. một nhà Nho chân chính cũng là một người có lối sống tự nhiên, ung dung tự tại

– những nhà Nho chân chính theo nguyên tắc có lối sống theo ý muốn và sở thích cá nhân

+ cưỡi bò và mặc quần áo ngựa.

+ đi chùa được thần tiên theo sau.

+ hoa cà cũng lố bịch: cho thấy hành động của tác giả là hành động không bình thường (lưu ý rằng nhân cách Nho gia chân chính ở đây được thể hiện theo quan điểm Nho học của nguyễn công)

⇒ tính cách của người nghệ sĩ muốn sống theo cách riêng của mình

– nghệ sĩ đồng âm với triết lý tự nhiên, ung dung tự tại, tận hưởng niềm vui như một lý do tồn tại

+ “thắng thua… đầu sóng ngọn gió”: tự tin so sánh mình với “thượng hoàng”, tức là sống một cuộc đời lặng lẽ, không màng đến những lời khen, chê của thiên hạ

+ “khi hát … khi hát”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú và thú vị, từ “khi” được lặp đi lặp lại nhiều lần tạo cảm giác vui vẻ liên tục.

+ “without … custom”: khẳng định cách sống độc đáo của tôi

⇒ nhà Nho chân chính theo nguyên tắc công chính là người thoát khỏi tư tưởng bảo thủ, siêu hình và phong kiến ​​

4. Nho giáo chân chính, theo quan niệm của nguyên tắc, cũng là đạo lý mang trong mình đạo lý trung dung

⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang với các danh tướng. tự nhận mình là một người hầu trung thành.

+ “ai ở chốn cung đình như ngươi”: vừa hỏi vừa khẳng định quan điểm của người đứng đầu về cách sống “ngất ngưởng”

⇒ Một nhà Nho chân chính không phải là người gò mình vào những quy tắc và nguyên tắc bảo thủ lỗi thời, mà sống trung thực với tài năng và quan niệm của mình

iii. kết thúc

– Nêu tóm tắt một số nét nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà Nho chân chính trong tiếng hát hào hoa của Trạng nguyên

– hãy nghĩ về nhân cách thực sự của Nho giáo

bài viết số 2 lớp 11 đề 3 – văn mẫu 1

chúng ta thường nghe nói: “tài cao, phú quý”. dường như tài năng vẫn chưa đủ để con người ta tỏa sáng mà chỉ cần một chữ “duyên”. đó cũng là bi kịch của cuộc đời một con người tài hoa bạc mệnh. ông dường như là một nhà Nho tài đức vẹn toàn, có tâm hồn văn chương và phẩm chất cao thượng. được nhân dân tôn vinh như một vị thánh – một vị thánh. tuy nhiên đồng thời cũng phải trải qua bao khó khăn, gian khổ của chế độ phong kiến ​​thối nát. nỗi buồn và sự phẫn uất của một người đàn ông đã được anh ấy bí mật gửi gắm trong bài hát châm biếm ngắn của mình.

là một nghệ nhân thực thụ, cao ba tương, người đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi quan niệm “ý chí hướng về một đứa trẻ”. cũng như nguyễn công tử và nhiều sĩ phu đương thời, ông luôn tâm niệm, khát vọng lập nên sự nghiệp vẻ vang, vẻ vang cho đời, coi đó là lý tưởng sống, là trách nhiệm suốt đời và là món nợ phải trả – “nợ nần”. Ngay từ khi còn nhỏ anh đã được coi là một tài năng xuất chúng, và càng trưởng thành, anh càng thể hiện sự dũng cảm và hoài bão lớn lao của mình. tuy nhiên, đối mặt với một xã hội phong kiến ​​bảo thủ, trì trệ và khủng hoảng, người đó không thể thực hiện được nguyện vọng của mình.

bãi cát dài bãi cát dài, tiến một bước cũng giống như lùi một bước.

“short song in the sand” là một bài hát ngắn, nhưng bản thân nó đã vẽ ra một con đường rất dài. hình ảnh một sa mạc mênh mông cát trắng với bóng dáng nhỏ bé đang bước từng bước khó nhọc. đi cũng giống như đi giật lùi, nên rời đi không hẳn là rời đi. đó là một hình ảnh rất thực và cũng mang một ý nghĩa ẩn dụ. thực ra đây là con đường thi của chính tác giả, sự nhục nhã của đấu trường cũng chính là khó khăn mà anh đang phải gánh chịu vì con đường đó: khó mà xa. Đối với các nho sĩ ngày xưa, con đường học hành – thi cử – làm quan đầy gian nan, vất vả, càng về sau càng khó khăn hơn trong các đời nho học về sau và đây cũng là con đường duy nhất để thực hiện ý chí thành danh. . Trong suốt những năm từ 14 đến 31 tuổi, Cao Bá Ba đã vô số lần đi thi ở Huế, nhưng lần nào cũng bị đánh hỏng. Không phải vì ông không có tài, mà vì tính cách kiêu ngạo của ông đã quá nổi tiếng và không được lòng các triều thần. ở điểm này, lời bài hát như những tiếng thở dài của chính tác giả, ta có thể nhận thấy điểm nổi bật là sự chán ghét của ông trời trước thời đại. bản thân ông càng thấy rõ sự lạc hậu, thoái hóa của chế độ thi cử truyền thống trước sự biến đổi của thời đại.

Nắng chưa tạnh, người đi đường rơi lệ.

“hoàng hôn” là hình ảnh chuyển từ thời gian, khi thiên nhiên đã chìm vào giấc ngủ từng chút, ngược lại là hình ảnh của người lữ khách “chưa dừng chân”. tại sao bạn không thể dừng lại? bởi vì cuộc hành trình còn dài và đích đến không thấy đâu cả. con đường đời của anh còn mãi nhưng chưa tìm được chỗ đứng cho mình trong xã hội, chưa thỏa chí lập công, lập danh. nên bản thân anh cũng không cho phép mình dừng lại. nếu câu mở đầu là sự mênh mông của không gian, thì ở đây cao ba là nói về dòng chảy không ngừng của thời gian, tất cả những yếu tố vũ trụ tự nhiên ấy dường như là chướng ngại vật cản đường, cản trở những bước chân vốn đã gian nan trên cát. do đó, anh thấy mình đơn độc trước đấu trường hoang tàn đó và khóc cho số phận dai dẳng của mình. có lẽ những giọt nước mắt ấy ban đầu chỉ đơn giản là do tác động của ngoại cảnh (gió, cát, bụi) nhưng đã được tác giả làm cho đắng hơn, mặn hơn và đau hơn bởi sự tự tin của mình. rồi từ đây những cung bậc cảm xúc của các vị thần được đưa lên một vị trí mới:

anh ấy đã không học cách ngủ, cách leo núi, vượt qua những cơn thịnh nộ.

Bạn giận ai hoặc bạn giận điều gì? anh ấy giận bản thân vì nhiều lý do. trước hết ta có thể hiểu: trước cuộc sống khốn khó của nhân dân và thời thế đổi thay, dù trung với nước, thương dân nhưng ông vẫn không thể làm gì để đem tài năng ra giúp dân, giúp nước. . ngay cả cụ Nguyễn Công Trứ cũng bị “bội thực” nên tôi luôn nghĩ “nghĩa vua tôi là trọn vẹn cho đạo nói chung”. vì vậy, ông tự trách mình đã không làm tròn bổn phận đối với giang sơn xã tắc: “không có tài thao lược để cho cuộc sống yên ổn, không hổ là nhà Nho mà lại tầm thường như vậy”. Lời tâm sự này của ông khiến chúng ta cảm thấy trân trọng một con người có tấm lòng nhân đức và tâm hồn cao thượng trong thơ ca, văn chương: “Tiên sinh, chí tôn hoa mai”.

thứ hai, anh vô cùng xấu hổ vì dù đã đi theo con đường thi cử từ lâu nhưng anh vẫn chưa có được danh hiệu xứng đáng và vẫn chưa đạt được danh tiếng được thiên hạ ngưỡng mộ. do đó lòng người ngày càng bế tắc, uất hận, căm hờn. thường dùng những hình ảnh tượng trưng để nói lên khí chất cao quý của anh ấy “

“Tôi ngẩng đầu nhìn trời và tôi muốn nắm lấy những đám mây và đi lên mãi mãi”.

Tôi ước có một phép màu kỳ diệu để tôi có thể tiếp tục đi trên con đường chông gai dù đói, mệt hay ngủ. Tôi hy vọng mình có thể nhanh chóng tìm được mục tiêu rõ ràng cho bản thân.

sự hiểu biết cuối cùng thật sâu sắc: đó là sự trốn chạy khỏi thực tế tầm thường. Tiếp cận với một đối tượng đặc biệt như Nguyễn Công, anh ta cũng tìm cách thoát ra bằng cách ẩn náu dưới lòng đất. ở đây, cao ba hét lên như thể anh ta có thể làm ngơ, bất chấp sự thay đổi của cuộc sống và mong muốn thoát khỏi những vấn đề của anh ta. nhưng không! với lí tưởng cao cả và ý chí ngoan cường, anh không thể làm điều gì trái với đạo lí của bản thân. do đó, “hỉ nộ ái ố” ở đây, càng tỏa sáng thì càng tỏ cho ta thấy một vị thần có nhân cách cao đẹp, đáng quý. không muốn trốn tránh khó khăn nhưng luôn biết cách đối mặt và vượt qua. thật là một nhân cách đáng ngưỡng mộ.

những câu thơ sau đây đưa người đọc đến gần hơn với tầm nhìn của cao ba về xã hội tìm kiếm danh và lợi:

trong quá khứ, các khu phố nổi tiếng và lãng mạn, tất cả trên con đường của cuộc sống. gió trong quán rượu hơi thơm, người say vô số, tỉnh đầy người?

Con đường công danh, tài lộc cũng là con đường lắm gập ghềnh, khó khăn trong cuộc đời. danh lợi được ví như một thứ rượu làm cám dỗ cuộc sống của con người, khiến con người phải đấu tranh, gạt bỏ mọi giá trị đạo đức và luân thường đạo lý để theo đuổi chủ nghĩa duy vật. học hành, đỗ đạt rồi vào chốn quan trường vinh hoa phú quý, con đường lập gia đình, sự nghiệp sao mà tầm thường. thôi thúc để làm một cái gì đó lớn hơn, lớn hơn. nhưng tiếc thay, ít người có thể chiến thắng được sức quyến rũ của đồng tiền. họ như những con thiêu thân lao tới nơi có ánh sáng và số lượng nhiều vô kể. ở đây, cao ba chuong thể hiện quan điểm tuyệt vời của mình. nó là một cái nhìn tổng thể về thực tại bình thường, vượt không gian và vượt thời gian. những tư tưởng này đã đi trước thời đại và thể hiện trí tuệ kiệt xuất của các danh nhân nổi tiếng. Sự khinh bỉ của ông cũng lộ rõ, sự ghê tởm với quan niệm của kẻ sĩ thời bấy giờ và ông tự hào là người tỉnh táo hiếm hoi giữa rừng người say xỉn ấy. nhưng đáng buồn là vẫn đi con đường này. trong đầu bạn đang tự hỏi “tỉnh” hay “say”? rồi anh thở dài tuyệt vọng:

bãi cát dài, bãi cát dài! con đường mờ đi, con đường sợ hãi ít đi nhiều. hãy nghe tôi hát bài “tận cùng”, núi bắc, dãy núi, núi nam, sóng mạnh.

thở dài ngao ngán, gụ mệt mỏi khi đối diện với ngõ cụt, lòng luôn thao thức với câu hỏi: “phải làm sao?”. hết khó khăn này đến gian khổ khác, nhìn bốn bể, đâu đâu cũng chỉ thấy vất vả, nhọc nhằn. lúc này, vị thần đã bị đẩy đến “thời hạn chót”. Hình như trong anh đang có một cuộc chiến gay gắt, anh giậm chân tại chỗ. Cao ba yao không muốn đi tiếp vì biết rằng con đường đi rất gian nan nhưng đầy bất trắc. nhưng có một tiếng gọi từ tình người sâu nặng, đó là nợ nước không trả được, nợ đời. bởi vì không có con đường nào khác cho bất kỳ ai, kể cả những người có chí lớn, ngoài công danh sự nghiệp. bi kịch của vị thần không chỉ của riêng mình mà còn là bi kịch của thời đại, một thời đại sắp tàn.

tại sao bạn lại đứng trên cát?

Câu hỏi vang vọng một cách tuyệt vọng trong đấu trường rộng lớn. nhưng nó dường như đáp lại một cách kín đáo những mâu thuẫn nội tại của cao ba. một lần nữa, ông khẳng định sự vô nghĩa của con đường “bãi cát” đó là tiền đề cho tầm nhìn của mình: một tầm nhìn rõ ràng và có đạo đức: từ bỏ cái cũ lạc hậu để đến với cái mới. Đến đây tôi chợt nhớ đến triết lý của ho tấn: “trên đời không có đường đi, nếu con người ta cứ tiếp tục mãi thì cũng chỉ trở thành một con đường mà thôi”. thực chất là câu hỏi tu từ: “tại sao bạn lại đứng trên cát?” như một sự thúc đẩy, một lời kêu gọi mở đường, để khám phá một con đường tiến bộ mới. đó cũng là nguyên nhân và động lực chính để thần lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa vĩ đại chống lại triều đình nhà nguyễn, một công trình để lại tiếng vang muôn thuở và khiến người đời sau không ngớt kính phục.

“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một bài thơ ngắn nhưng dài, hiện thực nhưng đầy tính tượng trưng, ​​trữ tình nhưng đầy căm phẫn, với ý thơ súc tích, đa nghĩa. ẩn chứa trong tác phẩm là những tâm tư thầm kín của tác giả, tình cảm thiết tha với đất nước, lòng dũng cảm của ý chí thanh niên, trí tuệ, tầm nhìn vượt thời gian và khát vọng cải tạo xã hội, đồng thời cũng là nhân cách cao đẹp của một nhà Nho chân chính, cao cả. >

bài viết số 2 lớp 11 đề 3 – văn mẫu 2

“một bước tiến giống như một bước lùi”

hình ảnh “bãi cát” như một nỗi ám ảnh ám ảnh anh. không gian vô tận và rộng lớn với những bãi cát rộng mênh mông đang khiến bạn mất phương hướng và sự kiên nhẫn. hình ảnh ẩn dụ về con đường xa xôi, bụi bặm đến với danh lợi cũng giống như con đường gập ghềnh trong xã hội phong kiến ​​lạc hậu. những khó khăn và vũng lầy khi bước đi trên con đường đó đã được anh ấy thể hiện:

“mặt trời lặn, lữ khách nước mắt không ngừng rơi”

Mặc dù tôi biết mặt trời đã lặn nhưng tôi không thể dừng lại bởi vì tôi không thể dừng lại. cao ba bao mô tả một trạng thái kiệt sức cùng với lo lắng và trầm cảm. giữa bãi cát dài và vô định, anh dường như là người duy nhất còn lại với tâm hồn cô đơn và lạc lõng. con đường gập ghềnh và khó khăn để nổi tiếng và lợi nhuận đã khiến anh ấy phải vượt qua nó với sự tức giận và tội lỗi.

Với một tinh thần trì trệ và bất lực, tác giả đã phát âm với sự ghê tởm và khao khát được giải thoát như vậy:

“Tôi không học cách ngủ, trèo núi, lội suối, tức giận!” ngày xưa phòng nổi tiếng về mọi thứ đường đời. trong quán rượu gió thoảng hương thơm, người say vô số tỉnh?

Tác giả đề cập đến cả những người ham danh và lợi và những người nghiện rượu. hễ có quán rượu là họ sẽ lao vào, tranh giành dụ dỗ. Dù biết là không xinh nhưng có mấy ai thoát được cái mùi đó. Qua đó ta có thể thấy rằng, Cao Bá đã nhận ra con đường danh lợi mà mình đang đi là vô nghĩa, bản thân đang dần bị xã hội phong kiến ​​làm tha hóa, biến chất. Tại sao bạn phải cạnh tranh để có được vị trí danh giá? đó là nỗi day dứt toát ra từ nhân cách cao đẹp của anh, một con người coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý. như nhà thơ nguyễn ngoan cố viết năm xưa:

“kẻ ngu thì tìm nơi vắng vẻ, kẻ khôn thì tìm nơi ồn ào”

(giải trí)

nhưng tiếc thay, tác giả nhận ra rằng dù biết con đường danh lợi là vô nghĩa, nhưng do những hạn chế của xã hội phong kiến, ông vẫn đi con đường đó, không dễ gì thoát ra được. thở dài ngao ngán vì không biết mình đang tỉnh hay đang say trên con đường cụt:

“bãi cát dài, bãi cát dài! làm sao tính được? đường mờ mịt. đường nhiều rợn, đâu ít? nghe em hát bài” tận cùng “phía bắc núi của phía bắc, ngọn núi của ngọn núi ở phía nam ngọn núi phía nam, sóng.

cao ba hét lên như thể mắc kẹt, không biết nên dừng lại hay tiếp tục. Dù biết đi con đường mòn giữa “cát bụi danh lợi” nhưng tôi không khác gì một nhóm người chỉ biết chạy theo rượu. bài hát kết thúc bằng một câu hỏi đầy khắc khoải và khao khát con đường mới:

“tại sao bạn lại đứng trên cát?”

tác giả đã đặt một câu hỏi mà bấy lâu nay vẫn giữ như tự hỏi chính mình. Nếu bạn biết rằng con đường để nổi tiếng và đạt được là tầm thường, tại sao bạn lại đứng ở đây? có lẽ, nhà nho cao cần phải tìm một con đường mới cho mình và cho đất nước.

Hơn nữa, xã hội phong kiến ​​mục nát cũng khiến những người hiền tài ra tay giúp nước, khó có người tài giỏi. và cao ba thường, có một lý tưởng sống rất khác trong xã hội đó, như bài thơ nổi tiếng của ông đã thể hiện: “Nhất sinh chi mai hoa”. cả đời này anh ta sẽ chỉ cúi đầu trước sự cao quý và thuần khiết của hoa mai, trước con người chứ không phải trước quyền lực. vì vậy ông đã thoát ra khỏi những quan niệm cũ của nền giáo dục cũ để tìm ra một con đường mới để lập công, lập danh giúp ích cho dân, cho nước.

thể thơ lục bát, kết hợp với hình ảnh ẩn dụ và ngụ ngôn giàu ý nghĩa tạo cảm giác về bãi cát dài mênh mông đã khiến “sa đoạ khúc ngắn” gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. cây bút của “thánh shou” thực sự vô cùng tài năng.

Tóm lại, tác phẩm “bài ca ngắn đi trên cát” đã giúp ta hiểu được tâm trạng chán ghét, khinh bỉ của nhà thơ đối với xã hội đang suy tàn và ước mơ muốn thay đổi nó. So với Nguyễn Công Trứ, ta thấy Tướng Uẩn cũng là người có lối sống phóng khoáng nhưng luôn trung thành với khuôn khổ của Nho giáo. trong cao ba bao la thì lại khác, chúng ta thấy những tư tưởng giác ngộ và những mầm mống của sự nổi dậy nhằm thay đổi một xã hội trì trệ đã xuất hiện trong “Bài ca ngất ngưởng”. vẻ đẹp của nhân cách một nhà Nho chân chính bộc lộ ở tấm lòng ngay thẳng, coi thường danh lợi, luôn trăn trở, băn khoăn về ý nghĩa của đường đời, khát khao tìm ra con đường tươi sáng để có thể cống hiến tài năng cho thiên hạ. cho nước non.

Qua bài thơ “bài ca ngắn đi trên bãi cát”, chúng ta đã thấy được vẻ đẹp tâm hồn và phẩm cách của một nhà Nho chân chính, một con người hết lòng vì nhân dân, không ngại gian khó, những thách thức. , luôn giữ sạch sẽ trong mọi tình huống. Chính những nhà Nho như ông đã gợi mở một con đường mới trong một xã hội vẫn còn đầy bóng tối của sự lạc hậu và trì trệ.

bài viết số 2 lớp 11 đề 3 – văn mẫu 3

Cao ba bao là một nhà thơ tài năng và dũng cảm, được người đương thời tôn xưng là bậc thánh. văn thơ của ông thể hiện thái độ khinh bỉ chế độ phong kiến ​​bảo thủ, trì trệ, lạc hậu và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam giữa thế kỷ 20. Cao ba bao là một người tài hoa nhưng con đường công danh lại gặp nhiều trắc trở, Bài ca ngắn đi trên cát là bài hát gửi gắm nỗi mệt mỏi, chán ghét của anh trên con đường mưu cầu công danh. Qua bài hát có thể thấy được tất cả những tâm tư, trăn trở cũng như nhân cách cao đẹp của một nhà Nho chân chính trước chế độ cần đổi mới.

bài hát ngắn đi trên cát được viết trên đường đi thi tiến sĩ của huệ, anh là người tài giỏi nhưng lại luôn thất bại, con đường thành danh vô cùng gian nan. Đây không phải là lần đầu tiên, vì vậy anh ấy muốn bày tỏ sự bất bình và cởi mở nói về những khó khăn, vất vả mà anh ấy đã trải qua và sắp phải trải qua một lần nữa.

the sand beach là một bãi cát dài. tiến một bước cũng giống như lùi lại một bước.

Thời phong kiến, khoa thi tiến sĩ chỉ được tổ chức ở kinh đô, đường từ cao ba lên đại học xa lắm, từng bãi cát dài nối liền với bãi cát dài, đường đi xa. , địa hình gồ ghề, thời tiết khắc nghiệt. người ta đi và đi mãi mãi và không bao giờ trở lại, cứ tiếp tục đi nhưng cứ ngỡ như mình đang đi lùi, hãy tiếp tục đi.

Mặt trời lặn chưa tạnh, lữ khách trên đường rơi lệ. anh ấy không thể học cách ngủ, leo núi, vượt suối, tức giận!

Qua bài thơ này, có thể thấy được nhân cách cao đẹp của một nhà Nho chân chính, cũng như các nhà Nho khác cùng thời đại, cũng nuôi chí làm con, muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước. , góp công sức trả nợ núi sông, trung thành với vua. nên dù đường gian nan, vất vả đến đâu, anh vẫn cố gắng đến trường thi. sự tương phản trong hai câu “hoàng hôn” và “không thể dừng lại” đã thể hiện rõ bản chất của Nho gia, mặt trời đã lặn ở đây rồi, nhưng đường đi còn quá xa. anh thi trượt, hoặc có thể anh phê phán xã hội phong kiến ​​quá đáng. lạc hậu, trì trệ và sắp chết, cần một sự thay đổi, một sự đổi mới mà những người như anh đã nhận thức được, muốn góp phần thay đổi, sự thay đổi đó, anh không ngăn được thì phải cố gắng góp phần thay đổi, để sự phát triển của đất nước. Nghĩ về thực tại của đất nước và con đường đến với danh lợi của mình, cao ba bảo vô cùng đau xót, người lữ hành rơi lệ trên đường đi, khóc cho số phận của chính mình, cũng khóc cho số phận của mình. chế độ cai trị thối nát, làm cho đất nước suy vong, vì không biết trọng dụng người tài.

trước cuộc đua mệt mỏi và khó chịu, cao ba ước mình có thể học như một nàng tiên đang say ngủ, có thể nhắm mắt và đi lại dễ dàng, nhưng cô không thể học được như vậy, thưa ông. chỉ là người phàm trần, sức lực có hạn, phải trèo núi, vượt suối, nỗi tức giận không giấu được. Cao ba tự mắng mình, đất nước cần mình thì không giúp được, cứ tranh giành, đấu tranh với thi cử, còn giận bọn quan lại, những kẻ không trọng nhân tài, những người vì sự nghiệp của mình mà ra. của nhiều người khác. chứa đầy lòng tham và sự ích kỷ của họ.

trong quá khứ, các khu phố danh vọng và tài sản, tất cả đều được mô tả trong đường sinh đạo. đầu gió, trong quán rượu nồng nặc mùi rượu, vô số người say, mấy người tỉnh?

Cao Bá Chương là một nhà Nho có nhân cách cao đẹp, ông coi thường những kẻ mưu cầu danh lợi, những kẻ mưu cầu danh lợi, tiền tài, địa vị. nhưng danh lợi là thứ có sức hấp dẫn vô cùng lớn, nó như một thứ rượu ngon, mùi thơm lập tức làm say lòng bao người. Dù con đường đến với danh vọng phải trải qua rất nhiều khổ hạnh, “tất cả đường đời”, con người vẫn lao vào để đạt được chút danh vọng, ít ai tỉnh táo trước sức hấp dẫn của nó. cao ba ba biết chuyện này vẫn là tìm công khai, cho dù không phải vì lợi ích của chính mình, nhưng chính mình cũng không biết chính mình thức tỉnh trong đám say, hắn cũng không dám xác nhận, hắn chỉ biết a câu hỏi. badger, bởi vì giống như kẻ tham lam danh lợi, nó cũng bận rộn tìm kiếm sự nổi tiếng.

bãi cát dài, bãi cát dài! con đường bằng phẳng, con đường sợ hãi có nhiều, ở đâu ít hơn?

Có thể thấy trái tim nhà thơ đang xao động, bởi những muộn phiền, suy tư, anh đang bị chi phối bởi cả thời gian, không gian và những suy nghĩ trong lòng, con đường anh biết không hề dễ dàng, những khó khăn chỉ mới bắt đầu, phía trước đầy rẫy cạm bẫy và chướng ngại vật. chính vì khó khăn đã làm rung động Nho gia, nó cũng làm lung lay ý chí, nghi ngờ chính mình. liên tục đặt ra những câu hỏi chưa được giải đáp, tôi cảm thấy như bế tắc, đi vào ngõ cụt, “tôi phải làm gì” là tiếp tục hay dừng lại.

nghe tôi hát bài hát “cho đến tận cùng” ở bắc núi bắc, trong núi, trong nam núi, trong sóng. Tại sao bạn lại đứng trên bãi cát dài?

>

đứng trước sự phân vân, mệt mỏi như đi vào ngõ cụt, đối diện với ngõ cụt không còn lối đi, xung quanh là núi non hiểm trở, “núi non trùng điệp”, “sóng ngập trời” tượng trưng cho những khó khăn, gian khổ cản đường. của một nhà Nho, chán đời, chán ghét chế độ, sau bao muộn phiền lo toan vẫn đứng đây trên bãi cát dài. Cao ba ba như kẻ lạc loài, vừa muốn cống hiến cho đời, vừa mệt mỏi chạy theo danh lợi. Dù nhìn đâu cũng thấy khó khăn, nguy hiểm nhưng anh vẫn không quay đầu lại.

“tại sao bạn lại đứng trên bãi cát dài?”

lại là một câu hỏi của nhà thơ, nhưng đó là câu hỏi về nghề nghiệp của bạn, nghe như một cụm từ kích động, bạn có thể thấy trước những khó khăn và trở ngại. anh hét lên rằng anh không muốn dừng lại, con đường phía trước vẫn còn rất xa, anh lại dừng lại ở đây, mặt trời đã lặn rồi, một ngày sắp trôi qua, anh vẫn chưa muốn dừng lại, anh vẫn muốn tiếp tục , cảm giác thật lãng phí khi bạn đứng trên bãi cát này, vẫn còn nhiều núi cao và hiểm trở, bạn đã phải dành thời gian để không bỏ lỡ phần thi của mình.

hiện tại trên bãi cát dài lúc này chỉ là một kẻ lữ hành dừng chân nghỉ ngơi, không bỏ cuộc, một người đối mặt với khó khăn thử thách, dù khó đến mấy vẫn không chịu thua. có thể thấy đây là một nhân cách cao đẹp, một nhà Nho chân chính.

Qua bài ca ngắn đi trên cát, có thể thấy Tào Bá là người tài giỏi, hết lòng phụng sự nước nhà, căm ghét chế độ thi cử tầm thường, muốn đổi đời. ông là một nhà Nho chân chính, không từ bỏ khát vọng vì khó khăn trở ngại, dũng cảm đối mặt với thăng trầm. những bãi cát dài, những dãy núi bất tận hay cuộc sống dồi dào chỉ khiến đôi chân bạn dừng lại một chút, ngắm nhìn cảnh vật không thể khiến bạn quay trở lại.

Tài năng văn chương của cao ba bảo đúng như người ta gọi là thánh hiền, qua bài ca dao có thể thấy cách dùng từ độc đáo, nghệ thuật miêu tả độc đáo. Qua từng câu chữ ta có thể hình dung ra con đường Người đi, có thể nhìn rõ bãi cát trắng của sa mạc, hay khi đứng cạnh Người nhìn ra cảnh vật xung quanh, thấy núi và thấy tư thế trầm ngâm của một nhà Nho chân chính trên hiểm trở và gian khổ theo đuổi danh vọng.

bài viết số 2 lớp 11 đề 3 – văn mẫu 4

Nguyễn Công Trứ là người học giỏi, tài cao, giữ nhiều chức vụ cao trong triều. nhưng cuộc đời của ông cũng gặp nhiều trắc trở, trắc trở theo con đường của hoạn quan, khi đang làm quan lớn trong triều thì bất ngờ bị giáng chức, nhưng khí phách của một nhà Nho chân chính thì không gì lay chuyển được. anh ta vẫn duy trì lối sống “xa hoa” khác thường. vẻ đẹp của một nhà Nho chân chính đã được thể hiện trọn vẹn trong tiếng hát hào sảng của ông.

nhân cách để nói về tư cách, phẩm chất đạo đức của một con người, Nho giáo là cách gọi của những người trí thức xưa, theo cách gọi của Nho gia. như vậy nhân cách của một nhà Nho chân chính là phải biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhân cách nhà Nho chân chính của Nguyễn Công Trứ được thể hiện khi ông còn làm quan ở triều đình, cho đến khi về hưu.

“vũ trụ bên trong không phụ trách. ngài hi van tài bộ đã vào lồng khi thủ khoa, tham mưu, tổng quản, bao gồm cả chiến lược chung quy, đã xuất thần khi trở về phủ tướng quân và thỉnh thoảng anh ấy trở về cung điện. ”

ở phần đầu của tác phẩm, ông đã nói rằng mọi thứ trên thế giới này đều thuộc trách nhiệm của chính tác giả. và chắc chắn trong cuộc đời, ông đã thi đỗ và giữ những chức vụ quan trọng của triều đình, nhưng đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi buồn vì phải “ở trong lồng” sống một cuộc đời tù túng, chật hẹp. các chức vụ ông đảm nhiệm đều là các chức quan trọng: nghị viên, thống đốc đông, tướng tây, phủ sứ. Bản thân Nguyễn Công Trứ là người có ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm của một nhà nho đối với cuộc đời. Dù biết rằng làm quan sẽ mất tự do, nhưng ông vẫn bằng lòng vào cái lồng đó, vì ở đó ông có cơ hội cống hiến tài năng cho đất nước, thực hiện ý nguyện làm con của một đấng nam nhi: “Hãy là nam bắc, nam bắc, đông tây / cho giang hồ tứ hải. ”nếu nhà Nho luôn sống trong khuôn phép khiêm nhường thì dù tài giỏi đến đâu cũng không bao giờ tỏ ra, mà ngược lại, ông đồ. hi van sẵn sàng bộc lộ, dám thể hiện mình và khẳng định bản lĩnh cá nhân: “kể cả thao lược đã làm nên tay mờ.” Dường như sau những vần thơ của mình, tác giả coi thường những kẻ bất tài nhưng tham lam, sống hẹp hòi cũng có thể thấy, trong khuôn khổ. nhưng con đường làm quan của anh cũng đầy thăng trầm, một cá nhân có những biểu hiện khác thường, đổi mới so với đám đông thì anh sẽ thường bị mọi người ghét bỏ, tìm cách hãm hại anh vì điều đó. con đường hoạn quan của ông ta biến động bất thường như vậy. có lẽ lối sống “xa hoa” của họ đã không phù hợp với khuôn khổ gò bó và gò bó của xã hội phong kiến.

Khi anh ấy nghỉ hưu, đó là thời điểm cái tôi của anh ấy có cơ hội tốt nhất để thể hiện bản thân:

đang làm phép phân chia hàng năm, ngựa vàng, bò núi ngươi thấy có mây trắng, tay cầm kiếm nhưng hình chữ dung mạo theo đỉnh một đôi thím. và anh bạn, điều đó cũng thật nực cười.

Nguyên công thật sự đã được sống một cuộc sống tự do tự tại, như con chim được thả ra khỏi lồng. Hành động và lời nói của ông là biểu hiện của một lối sống rất “dại dột”, cũng là phẩm chất cốt lõi trong nhân cách của Nguyễn Công. Ông. hi van cỡi bò vàng với tiếng nhạc ngựa khiến bao ánh mắt dõi theo. khi về hưu, ông dựng nhà trên núi Đại, mây trắng bao phủ bốn phía, tựa như chốn bồng lai tiên cảnh. đồng thời cũng thường xuyên lui tới vãn cảnh chùa, nhưng lúc nào cũng mang theo tỳ nữ đi theo. điều này trái với quy tắc của chùa. Nguyễn công tử bất chấp mọi luật lệ, sống một cuộc đời dung tục, trâng tráo và háo danh, khiến người ta “cười vào mặt cũng cười”.

không những thế còn bày tỏ chính kiến ​​của mình về lẽ sống: “thắng thiên hạ thái bình / khen có chê, phơi ngọn đông phong”. đã đưa ra quan niệm giữa được và mất trong cuộc sống này là bình thường và mỗi người cần bình tĩnh đón nhận những thay đổi của cuộc sống. đồng thời cho rằng mình bỏ ngoài tai những lời khen, chê của mọi người về mình, tự mình vui thích: “hát nhậu, nhậu nhẹt, đồng / không phật, không tiên, không vướng”.

khổ cuối của bài thơ, như một lời tổng kết của Nguyễn Công Trứ: “quả nhiên, nhạc cũng vào sảnh han, phủ / nghia vương cho ta hoàn đạo chung / Trong triều có ai ngất ngây như ngươi”. Dù có thể không phải là một danh tướng, một nhà Nho nổi tiếng nhưng trước sau ông vẫn một lòng trung với vua, đây là phẩm chất cao quý của nhà Nho, rất đáng trân trọng. ông cả đời cống hiến cho đất nước, làm tròn đạo lý của vua tôi, trên đời còn ai có thể xuất thần như ông?

Qua bài ca ngất ngưởng, ta có thể thấy lối sống ngất ngưởng của ông là xuất phát từ quan niệm sống trung nghĩa của Nho gia, đây cũng là nhân cách của một nhà Nho chân chính. Tính cách đó quá đặc biệt và khác biệt, không phù hợp với bản thân, bó buộc theo tư tưởng của Nho giáo, mà bị “lấn át” theo cách riêng nhưng vẫn trung thành với vua, với nước. đây cũng là điểm nhấn tạo nên ấn tượng riêng biệt cho nguyen cong.

mục số. 2 đề 3 lớp 11 – văn mẫu 5

Nguyễn Công Trứ là người có tài, có chí và có đức. Xuất thân từ dòng dõi Nho học, ngay từ nhỏ ông đã thông hiểu kinh sách, thi đỗ, làm quan lớn dưới các triều đại nhà Nguyễn. ông không chỉ là một nhà quân sự, nhà chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ có tài dùng thơ để “bày tỏ chí khí” và khẳng định mình. trong các tác phẩm văn học của ông, tiêu biểu nhất là “Khúc ca ngất ngưởng” thể hiện nhân cách nhà Nho chân chính nhưng có nhiều điểm khác biệt ngoài lễ nghi Nho giáo để tạo nên một nhân cách mới mang đặc điểm của quần chúng.

“Bài hát cười” có thể coi là một cuốn tự truyện ngắn gọn, tóm tắt cuộc đời và nhân cách của ông. chào van (biệt danh của tác giả). anh thể hiện lòng tự trọng của mình bằng thái độ nổi loạn, lối sống trung thực và “dại dột”. từ đó thể hiện nhân cách chân chính của nhà Nho với tầm nhìn sống tiến bộ đáng được biểu dương và học tập.

Vậy, họ là ai? Nho gia là một nhà trí thức cổ đại nghiên cứu Nho giáo, đó là hệ thống đạo đức, triết học và tôn giáo do Khổng Tử đề ra nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp. những người tuân theo các chuẩn mực đạo đức được gọi là nhà Nho, nhà Nho, hoặc nhà Nho. nhân cách là gì? nhân cách là nhân cách và phẩm chất đạo đức có ở mỗi chúng ta. nhân cách đó làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách chân chính của Nho giáo cần được hiểu như thế nào? cùng tìm hiểu chi tiết qua vở kịch “thiên lương” của nguyen cong để thể hiện cá tính của mình.

Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có “chí hiếu với trẻ”. ngay từ những câu đầu tiên ông đã tuyên bố: “vũ trụ bên trong không chỉ huy”, có nghĩa là không có gì trong vũ trụ mà không phải là nhiệm vụ của chúng ta. Tư tưởng này đã được ông thể hiện nhiều lần trong các tác phẩm như “báo hiếu” với câu “vũ trụ có nội năng”, hay trong thơ “vũ trụ quan” với câu “vũ trụ mệnh lệnh”, nghĩa là. rằng mọi thứ trong vũ trụ là nhiệm vụ của chúng ta. nó đề cập đến trách nhiệm của học giả đối với cuộc sống. ý tưởng nhập thế, truyền đời, tiếp nối truyền thống của cha ông, như văn nhân lao, nguyên trai, nguyên sinh, tất cả đều là những nhà Nho chân chính xưa nay.

thứ hai, nhân cách chân chính của nhà Nho được thể hiện là người biết “tu thân” vì theo quan niệm của Nho gia thì có ba điều “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” mà nhà Nho. nên làm. trong “tu thân”, học tập có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. học là đi theo con đường danh lợi. Cũng như nhiều nhà nho khác, Nguyễn Công Trứ luôn cố gắng thi đỗ để làm quan, cống hiến tài năng của mình vì nước vì dân. Điều này được thể hiện qua việc anh ta đã giữ chân nhiều quan lại trong triều, có thể tóm gọn trong bốn dòng:

“Khi thủ khoa, khi cố vấn, khi đốc đông bao mưu lược, tay thoăn thoắt lúc thái bình, cờ tướng thỉnh về dinh doanh thắng bại.”

p>

ông từng giữ các chức vụ quan trọng như thủ khoa đứng đầu khoa thơ, tức là Tham tán, Tham mưu thống lĩnh quân bộ ở miền Tây Nam bộ, Tổng đốc miền Đông đứng đầu một tỉnh hoặc một số tỉnh thuộc. tướng quân là người đứng đầu quân đội ở phía tây, và chính phủ là người đứng đầu ở thủ đô. Ngoài ra còn có những đóng góp khác như: khôi phục kim sơn, tiên hải, trị thủy đập sông Hồng; chống kẻ xấu trên đồng ruộng … tất cả những công việc đó đều được đồng chí Nguyễn Công thực hiện với tinh thần trách nhiệm và đạt hiệu quả cao. con đường đến với danh vọng của anh rộng mở cho đến khi anh bị “giải tán”. anh ta tự tin nói rằng mình là một người “tài giỏi” có một “tài năng xuất chúng xuất chúng” trong vũ trụ. Theo quan niệm của nhà Nho, dù tài giỏi đến đâu cũng phải khiêm tốn, nhưng Nguyễn Công tự tin đi ngược lại, mạnh dạn bảo vệ vai vế, thể hiện tài năng phá vỡ bức tường thành của nhà Nho.

Những nhà Nho chân chính là những người coi thường danh lợi, không màng vinh hoa phú quý. lập ra chỉ để phò vua giúp nước. Nguyên trai, nguyễn sinh cũng vậy, khi chính quyền khủng hoảng, nhiều người tranh giành chức tước, hơn thua nhau mà lại chọn con đường ở ẩn. Cũng như vậy đối với nguyễn công tử khi nói về chức vụ của mình, ông chỉ dùng những từ ngắn gọn, súc tích để thể hiện rằng ông không phải là người coi trọng danh lợi mà mọi việc đều là bổn phận của một đấng nam nhi đứng trong vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã từng nói: “Làm quan không coi là vinh, làm lính không coi là ô nhục”. tuy giữ nhiều chức vụ lớn ở triều đình nhưng ông cũng rất nhẹ dạ, không có gì quan trọng. đó là điều khiến anh ấy thể hiện cái tôi “choáng ngợp” của mình trong suốt bài viết.

Tính cách Nho gia chân chính của nguyen cong tru la khác thường, khác biệt với những người khác, điều này khiến cô ấy trở nên độc nhất vô nhị. nếu như các nhà Nho khác khi thi đỗ làm quan, cả đời mưu cầu công danh, thì với ông, khi đã làm tròn bổn phận “kẻ hầu người hạ” thì cả bổn phận đối với đất nước. bản thân thích tiêu tiền, lang thang. tin rằng “cuộc sống là có thú chơi, lợi ở đâu ra”, anh đã hành động như chưa từng có chuyện gì xảy ra. ngày xưa các quan lớn đi đâu cũng cưỡi ngựa hoặc đi kiệu, nhưng nguyễn công tử lại ngất ngây về một con bò vàng đeo dây nịt ngựa: “bắt bò vàng mà dùng ngựa” là thế. có người nói anh ngạo mạn và lập dị, số khác lại cho rằng anh ngạo mạn và coi thường dư luận, nhưng đây là một cách ngớ ngẩn để khẳng định cái tôi của mình và cho mọi người thấy rằng anh đã được “nghỉ hưu một năm”, được ra khỏi “lồng”. trở thành tù nhân, giam cầm tâm hồn cá nhân của tác giả.

Anh ấy quay trở lại ở ẩn với một lối sống khác, tận hưởng những thú vui của mình. Nếu mọi người đến chùa lễ phật, cầu may mắn, tài lộc thì ông trời lại đến chùa hát múa, phụ nữ đánh trống sau đây:

“Có núi có mây trắng, có kiếm và cung mà hình cái bigo đầu tiên là mấy bà cô bác, cũng nực cười”

chỉ với bốn câu thơ đã thể hiện tính cách ngang ngược của nhà Nho. Làm sao bạn có thể từ bi với kiếm, cung tên và binh lính? đi thăm chùa để ăn chay, thanh tịnh mà lại mang theo người giúp việc? những điều này có vẻ bất kính và không tôn trọng, nhưng lại khiến tôi mỉm cười hào phóng trước vị quan già với khí chất khác người.

bạn coi thường danh và lợi, bạn không quan tâm đến việc được mọi người khen và chê:

“Khi thắng thua, người thái ca ngợi và chê ngọn dong phong khi hát, khi uống, khi uống, khi không phật, khi không bất tử, khi không. vướng vào tục lệ ”

và ông đã ở một nơi trần thế, nhưng linh hồn của ông đã thoát khỏi thế giới bay cao với giai điệu náo nhiệt của giọng nói và piano. đối với anh, thú vui của bản thân là hạnh phúc, đáng được quan tâm, mọi được và mất, khen chê không còn quan trọng, coi như anh không tồn tại trên đời. Mặc dù cuộc vui của anh diễn ra nơi cửa phật, với cả hai dì cháu đi theo, anh vẫn thanh tịnh và thoát khỏi những vướng bận trần tục của nhà phật. những câu thơ mang nhịp điệu rộng rãi, thanh thoát với cách ngắt nhịp 2/2/2/2 linh hoạt, thể hiện tâm hồn, tấm lòng rộng lớn, rộng mở và hào sảng trong cốt cách khác thường của người đàn ông đã đi xa.

người đàn ông kiêu ngạo đặt mình ngang hàng với những người nổi tiếng ở Trung Quốc:

“không ngược lại, nhạc cũng vào phòng han, ta vương phi cho ta một đạo hoàn mỹ trong triều ngây ngẩn cả người”

Ông vui với đời, nhưng vẫn tự tin tuyên bố rằng mình là một nhà Nho chân chính, đã hoàn thiện đạo của mình. Anh đã sống, làm việc và cống hiến hết mình, biết cách để cũng tận hưởng và tận hưởng những niềm vui mà cuộc sống ban tặng cho anh. trong câu cuối cùng, anh ấy tự tin tuyên bố rằng không có ai giống như anh ấy tại tòa án.

Dù được phong lưu và ngông nghênh nhưng ông vẫn luôn là một nhà Nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cùng với tư duy khác biệt và tầm nhìn xa trông rộng, ông là một nhà Nho cao quý, nhân cách chân chính, điều đó còn được thể hiện trong vở kịch “sa đoản khúc” coi thường danh lợi trong bối cảnh thời đại phong kiến ​​thối nát mà ông đang bước vào “thời kỳ”. cái chết”. , cảm thấy những kẻ tham lam danh lợi năm xưa đến rồi đi, giống như người thấy quán rượu ngon tranh nhau vội vàng có vài người tỉnh táo ăn bám. thoát khỏi cám dỗ. anh ta đi trên cát và nghĩ rằng anh ta đang đi trên con đường danh vọng đầy bùn và khốn khổ. vì vậy cây nho phải đặt câu hỏi cuối cùng: “tại sao bạn lại đứng trên cát?” điều đó giải thích phần nào lý do vì sao cao ba lại đứng về phía nông dân nổi dậy chống lại triều đình phong kiến ​​nhà Nguyễn.

bài ca ngất ngưởng ”thể hiện cái tôi độc đáo trong nhân cách khác thường của bậc vĩ nhân, không bó buộc mình vào Nho giáo, luôn phóng khoáng với những thú vui riêng. bat đã giúp tạo ra một bộ mặt mới cho các học giả Nho giáo vào thời điểm đó.

mục số. 2 đề 3 lớp 11 – văn mẫu 6

Từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 19, Nguyễn Quận Công sinh ra trong một gia đình nhà Nho, sống một cuộc đời nghèo khó. cuộc đời ông cũng gặp nhiều sóng gió, thăng trầm “lên xuống thác ghềnh”. ông là người tài giỏi, am hiểu lĩnh vực quân sự và khoa học. tuy nhiên, ông “chào van” rằng người đàn ông quê Hà Tĩnh từng giữ chức vụ cao thì bất ngờ bị giáng chức, chốn quan trường như chới với với công của Nguyễn công. chính vì vậy mà ông “ngất ngưởng”, khinh bỉ, chỉ ra một nhà Nho “khác thường” trong tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng”: một nhân cách nhà Nho chân chính, không khuôn mẫu. nắm được tin tức. một người đàn ông với đầy đủ danh dự và đạo đức. một con người trọn vẹn và hoàn hảo. Tất nhiên, Nguyễn Công Trứ cũng có được những điều đó vì ông được giáo dục và thấm nhuần tư tưởng Nho giáo từ truyền thống gia đình.

“vũ trụ bên trong không quản. mễ hi văn tài bộ đã nhập lồng khi thủ khoa, khi tham mưu, khi quản đông, bao lược, tay ngây ngất khi về cung.” / p>

“Bài ca ngất ngưởng” là một bài thơ ở dạng nói, còn được gọi là ca trù, trong đó tuân theo một quy tắc nhất định. Nguyễn Công Trứ đã thay thế hai câu chữ Hán ban đầu bằng một chữ Hán “nội vũ trụ không nhiệm” và một chữ tên “chúa hi van tai bộ đã nhập lồng” để tạo nét độc đáo.

theo anh, trên đời này không có thứ gì thuộc về tài sản riêng của một người. Ông thi đỗ, làm quan, dùng tài năng và đức độ của mình để cống hiến cho nước, cho dân. tuy nhiên, ông đã sử dụng từ “trong lồng” để thay thế tiếng Quan Thoại, ông bị giới hạn trong một khuôn mẫu. Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho chân chính khi thi đỗ và giữ nhiều chức quan cao như Thủ khoa, Tham tán, Đốc học. Ý nghĩ về một học giả của các nhà hiền triết sẽ buộc anh ta phải có một thái độ khiêm tốn cho dù anh ta có tài giỏi đến đâu. tuy nhiên, ông đã đi ngược lại điều đó, phá bỏ bức tường thành kiên cố của pháp luật Nho giáo để thể hiện một thái độ sống riêng, một phong cách rất Nguyễn Công. “kể cả mưu lược đã làm cho tay anh ngất xỉu”, một cách tự tin, dạn dĩ, anh cho mọi người biết về tài cầm quân và điều binh của mình. anh không hề khiêm tốn mà có phần chảnh chọe, tự hào khi thêm vào từ “quá đáng”. “ngông cuồng” rất cao, anh dùng từ đó để làm nổi bật lối sống của mình. một lối sống vượt người, thật là “ngông cuồng”! Trớ trêu thay, cái xã hội phong kiến ​​xưa, tư duy Nho học lại ghét tư duy đổi mới như ông, nên cứ giáng cấp làm kẻ sĩ hèn mọn, rồi thăng quan tiến chức cho ông. lên rồi lại xuống, lên rồi lại lên và trò chơi “danh dự” kết thúc khi những người bình dân được giải nghệ.

“năm nào đừng phá cán cân. Ngựa vàng và bò dắt đến đó, núi mây trắng, tay cầm kiếm cung song hình chữ dung mà theo. đỉnh cao của một cặp cô và chú cũng nực cười.

Ông trở về quê hương, trốn khỏi chức quan vào năm 1848. Đó cũng là thời gian ông sáng tác bài thơ này. ông cho mọi người biết rằng Nguyễn Công Trứ đã thôi làm quan, được tự do, đang thoát “lồng” làm quan. Hành động của ông lúc ông từ chức càng làm nổi bật sự ngu xuẩn của con người ông khi không giống như các quan lại ở ẩn trên lưng ngựa, ông quyết định trở về quê hương với một con bò vàng có nhạc. Anh “bất ngờ” ngồi trên lưng bò, ai cũng nhìn anh với ánh mắt tò mò, ngạc nhiên. con bò cũng “choáng ngợp” nhờ nguyễn công trạc! câu thơ tiếp theo hiện ra là cảnh đẹp, thần tiên “bên kia mây trắng”. Nguyễn Công Trứ đã dựng nhà và ở dưới nơi huyền diệu ấy: Núi Đại Nài. chàng nghĩ rằng khi trở về ẩn cư, chàng sẽ sống giản dị và trầm lặng theo kiểu nhà nho nah2. tuy nhiên, anh ta đã làm điều gì đó trái với luật của nhà sư, không hành động theo sự giáo dục của mình. Các thiếu nữ đi theo ông đến tu viện, họ hát và chơi đàn luýt, nhưng các nhà sư phớt lờ ông vì ông đã giữ một chức vụ cao khi phải sống ẩn dật như thế này. . hành động của anh ấy khiến tôi bật cười, bật cười trước hành động “lạ lùng”, thái quá và “quá đáng”.

“Khi hát, khi tôi uống, khi tôi uống rượu, khi tôi không làm phật, khi tôi không làm tiên, khi tôi không vướng vào tục lệ.”

hai dòng có nhịp 2/2/2 và 2/3 tạo nên âm vang của bài thơ. Cũng có ghi chép rằng: Nguyễn Công Trứ tuy có đi chùa, mang theo người hầu gái, cũng chơi đàn và hát trong miếu, nhưng không thuộc về thế gian, không vì ông mà tham gia các thói hư tật xấu. anh ấy là một nhà sản xuất rượu thực thụ. cao hơn nữa là “ngỡ ngàng” rằng người thế gian, hơn cả những đỉnh cao danh vọng, vượt qua cả phật và hoa. nguyễn công thật rất riêng, không giống ai.

<3

nêu bật suy nghĩ của mình: “được” và “mất” là hai điều thường thấy trong cuộc sống. anh không buồn khi “thua” hay vui khi “thắng”. hãy chấp nhận những gì cuộc sống ban tặng, dù là “được” hay “mất”, điều đó không quan trọng. Cùng với quan niệm “được – mất”, “khen – chê” cũng được nguyễn cong nghĩ theo hướng tích cực và không quan trọng.

“không tồi, âm nhạc cũng lọt vào phòng han, không ai có thể ngất xỉu như anh ấy tại tòa.”

Hai dòng cuối kết thúc bài thơ cũng một lần nữa nhấn mạnh phong cách của nó. đã được đưa vào hang động của những người nổi tiếng, những người tài năng. nguyễn công công kết thúc bằng lời khẳng định và kết thúc “trên quan trường ai có thể xuất thần như hắn”. đó là phong cách riêng của nhà thơ.

với cách nghĩ khác về nhân cách chân chính của nhà Nho là cao ba đảm đang trong vở tuồng “sa hành khúc” (bài ca ngắn đi trên bãi cát) thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của ông. Tướng quân Tào Bá coi thường danh lợi, thanh danh trong xã hội phong kiến ​​xưa bị băng hoại. đi trên cát, tưởng mình đang đi trên con đường của danh vọng, vướng vào cát như bị rối trong danh vọng. một ý nghĩ sáng tạo, cảnh báo rằng danh vọng là miếng mồi mà con người không nên vướng vào. cao bá và nguyễn công trù đã có những suy nghĩ rất độc đáo, mặc dù bài “ngất ngưởng” của nguyễn công truân đã thể hiện rõ sự khác biệt, “thái quá” trong suy nghĩ của họ về một nghệ sĩ tạp kỹ. ông không bắt mình bị ràng buộc, nhào nặn theo tư tưởng Nho giáo lỗi thời. Nguyễn công tử đã tạo nên một cái tôi, một lối sống khác lạ, độc nhất cho mình. đó là nguyen cong tru, cao ba bat hay những người có suy nghĩ như mr. xin chào, người đã tạo ra một bộ mặt mới cho Nho giáo.

XEM THÊM:  Bài phát biểu chúc mừng thọ người cao tuổi

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Viết bài Tập làm văn số 2 Lớp 11: Đề 1 → Đề 3 (17 mẫu). Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *