Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
2253 lượt xem

Thuật ngữ văn học

Bạn đang quan tâm đến Thuật ngữ văn học phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Thuật ngữ văn học

THỰC TIỄN & CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG “Ta làm sao biết người sau đọc đến sách ta, sẽ bảo ra sao. Nên hãy biết hôm nay, ta đưa trình bạn ta, bạn đọc mà vui thế là ta vui rồi ” (Thi Nại Am) Contact: nguyenbuikhiem

*

Một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự nhưhút kí*, hồi, kí*, du kí, phóng sự*, kí sự*, nhật kí*, tuỳ bút*
Do tính chất trung gian mà cóngười liệt kí vào cận văn học. Không nên căn cứ vào cách gọi tên của nhà văn đối với tácphẩm để xác định thể loại. Chẳng hạn Tây sương kí của Vương Thực phùthực ra là một vở kịch, Tây du kí của Ngô Thừa Ân là tiểu thuyết, Nhậtkí người điên của Lỗ Tấn là truyện ngắn. Kí có đặc trưng riêng, do nội dungvà quan điểm thể loại của kí quy định.

Bạn đang xem:

Kí không nhằm vào việc miêu tảquá trình hình thành tính cách của các cá nhân trong tương quan với hoàn cảnh. Những câu chuyện đời tư khichưa nói lên thành các vấn đề xã hội cũng không phải là đối tượng quan tâm của kí.Đối tượng nhận thức thẩm mĩ của kí thường là một trạng thái đạo đức -phong hoá xã hội (thể hiện qua những cá nhân riêng lẻ), một trạng thái tồn tạicủa con người hoặc những vấn đề xã hội nóng bỏng. Vì thế, có nhiều tác phẩm kírất gầngũi với truyệnngắn*. Nhưng khác với truyện ngắn, truyện vừa, đặc biệt là tiểu thuyết,kí có quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư cấu. Nhà văn viết kíluôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phảnánh trong tác phẩm. Kí thường không có cốt truyện có tính hư cấu.Sự việc và con người trong kí phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ hẳn hoi. Đó là vì kídựng lại những sự thật đời sống cá biệt một cách sinh động, chứ không xây dựngcác hình tượng mang tính khái quát. Tính khái quát do tác giả kí thểhiộn bằng suy tưởng.
Kí ra đời rất sớm trong lịch sửvăn học của nhân loại. Nhưng phải đến thế kỉ XVII, đặc biệt từ thế kỉ XIX, khi đời sống lịch sử của các dân tộc ngàycàng phát triển theo hướng tăng tốc, khi kĩ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa, xé ràođể thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt độngtinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp vào những cuộcđấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển mạnh mẽ.
Trong văn học Việt Nam từ sauCách mạng tháng Tám, kí giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhiềutác phẩm kí có giá trị lần lượt xuất hiện, góp phần tạo nên bộ mặt đa dạng củađời sống văn học. Những tác phẩm ấy đã phản ánh kịp thời, nhiều mặt củahiện thực đời sống bề bộn, phongphú, xứng đáng là “bộ đội tiền tiêu” của văn học nghệ thuật.
Giữa cuộc sống đầy biến động hiện nay, thời đại của thông tin trong đó cóthông tin nghệ thuật, kí lại càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Tuynhiên, cần thấy rằng, giữa kí văn học và kí báo chí còn là một khoảng cách khárõ. Người viết kí cần phấn đấu bền bỉ để cho nhiều tác phẩm kí báo chí trởthành kí văn học, trở thành những tác phẩm kí có sức sống bền lâu trong đờisống văn học.
(X. bút kí, hồi kí*, phóng sự*,tuỳ bút*,…)
13. Ngôn ngữ nhân vật
Lời nói của nhân vật trongcác tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch.
Ngôn ngữ nhân vật là một trongcác phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sốngvà cá tính nhân vật. Trong tác phẩm, nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhânvật bằng nhiều cách:nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật, cho nhânvật lắp lại những từ, câu mà nhân vật thích nói kể cả từ ngoại quốc và từ địaphương,… Trong các tác phẩm tự sự, nhàvăn còn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân vât.
Dù tồn tại dưới dạng nào hoặc đượcthể hiện bằng cách nào, ngôn ngữ nhân vật bao giờ cũng phải đảm bảo sự kết hợpsinh động giữa cá thể và tính khái quát, nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có mộtngôn ngữ mang đặc điểm riêng, có “lời ăn tiếng nói” riêng, mặt khác, ngôn ngữấy lại phản ánh được đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp người nhất định gần gũivề nghề nghiệp, tâm lí, giai cấp, trình độ văn hoá…
Ngôn ngữ nhân vật là một phạm trùlịch sử. Trong văn học trung đại, do ý niệm cá nhân chưa phát triển, nó chưa cóđược sự cá thể hóa sâu sắc, và chưa phân biệt với ngôn ngữ tác giả. Với chủ nghĩa hiện thực,ngôn ngữ nhân vật được coi là một đối tượng miêu tả, cá tính hoá thành một yêu cầu thẩm mĩ.
Ngôn ngữ mang tính nghệ thuậtđược dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn,nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mựctrong các văn bản nhà nước, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn học và khoa học.
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệucơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M.Gorki khẳng định ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. (X. th. văn học*)
Ngôn ngữ nhân dân là cội nguồncủa ngôn ngữ văn học; được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến lượt mình, nólại góp phần nâng cao, làm phong phú ngôn ngữ nhân dân.
Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thểhiện cá tính sáng tạo*, phong cách tàinăng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhândân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác.
Tính chính xác, tính hàm súc,tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học. Căn cứ chủ yếuđể phân biệt ngôn ngữ văn học với các hình thái của hoạt đông ngôn ngữ chính làở chỗ, ngôn ngữ văn học là hìnhthái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nó được sử dụng để phục vụ nhiệmvụ trung tâm, là xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp nghệ thuật. Vìvậy, tính hình tượng, tính thẩm mĩ là thuộc tính bản chất, xuyên thấmvào mọi thuộc tính khác, quy định những thuộc tính ấy.
Những thuộc tính chung trên đâybiểu hiện qua các thể loại văn học* với những sắc thái khác nhau. Ngônngữ của các tác phẩm trữ tình* là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịpđiệu, hết sức cô đọng, hàm súc và đặc biệt gợi cảm. Ngôn ngữ tác phẩm kịch*là ngôn ngữ các nhân vật được cấu trúc qua hệ thống đối thoại và gần gũi với tiếng nóithông thường của nhân dân. Ngôn ngữ của các tác phẩm tự sự* cũng nhưngôn ngữ tác phẩm kịch, là ngôn ngữ đa dạng, ngổn ngữ của nhiều tính cách.Song, sự khác biệt quan trọng giữa ngôn ngữ tác phẩm kịch với ngôn ngữ tác phẩmtự sự chính là ở chỗ, trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ người kể chuyện*giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm.
Nội dung tác phẩm là hiện thựccuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó làmột hệ thống gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấmvào nhau. Trước hết, tác phẩm văn học cung cấp cho người đọc những biểu hiện phongphú, nhiều vẻ và độc đáo của đời sống mà tính loại hình của chứng tạo thành đề tài* của tác phẩm. Vấn đề quan trọng nhất nổi lên từ đế tài, buộc tácgiả phải bày tỏ thái độ, có ý kiến đánh giá là chủ đề*. Ý kiến của tác giả trước vấn đềđược nêu ra trong tác phẩm là tư tưởng*. Thái độ đánh giá, nhiệt tìnhbảo vệ tư tưởng tạo nên cảm hứng chủ đạo* hay cảm hứng tư tưởng. Quan niệmvề thế giới và con người được dùng làm hệ quy chiếu để tác giả xác định đề tài, chủ đề, lí giảithế giới của tác phẩm có cội nguồn sâu xa trong thế giới quan. Cuối cùng, tươngquan giữa sự biểu hiện của đời sống và sự cảm thụ chủ quan tạo nên nội dungthẩm mĩ của hình tượng. Nội dung tác phẩm là kết quả khám phá,phát hiên khái quát của nhà văn.
Nội dung tác phẩm văn học chỉ tồntại bằng hình thức và qua hình thức tác phẩm. Đó là cấu tạo gồm nhiều yếu tốphụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nội dung tác phẩm. Văn bản ngôn từ là yếutố thứ nhất của hình thức tác phẩm có hai chức năng: vẽ ra bức tranh đờisống và biểu hiện thái độ, cái nhìn của chủ thểlời nói bằng phương tiện ngôn ngữ. Đến lượt mình, “bức tranh đời sống” của tácphẩm lại trở thành văn bản hình tượng mà ý nghĩa của các thành tố của nónhư chi tiết, tình tiết, nhân vật, cốt truyện, nhịp điệu trong toàn bộ thể hiệncác yếu tố nội dung kể trên. Kết cấu cóthể ví như ngữ pháp, có vai trò tổ chức các đơn vị có ý nghĩa của văn bản hìnhtượng thành những lời phát biểu. Thể loại văn học* là những quy tắctổ chức hình thức tác phẩm ứng với những loại hình nội dung nghệ thuậtcủa nó. Hình thức nghệ thuật của tác phẩm là hiện tượng độc đáo, ứng với nộidung độc đáo, hoàn toàn không phải là số cộng giản đơn của các thủ pháp và phương tiện nghệthuật. Trong tính chỉnh thể, hình thức nghệ thuật có nghĩa là hình thức cảmnhận đời sống, là cách tự bộc lộ của nội dung tác phẩm.
Trong tác phẩm văn họchình thức nghệ thuật là kênh duy nhất truyền đạt nội dung của nó, là phươngtiện cấu tạo nội dung và làm cho nó có bộ mặt độc đáo. Do đó, tìm hiểu hìnhthức là điều kiện không thể thiếu để hiểu đúng nội dung. Bỏ qua hình thứchoặc bỏ qua tính chỉnh thể của nó sẽ có nguy cơ hiểu lệch nội dung tác phẩm, biến nó thànhnhững cái “tương đương xã hội học”. Vềmặt triết học, nội dung luôn luôn quyết định hình thức, hình thức phù hợp nộidung.
Trong văn học, hình thức vănbản và hình tượng là một tổ chức mang tính kí hiệu, là cái biểu đạt, còn nộidung là cái được biểu đạt, tức là ý nghĩa. Do đó các yếu tố nội dung của tácphẩm, như đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng, tính cách,… về thực chất đều làcác lớp ý nghĩa của cái biểu đạt, do người đọc cảm nhận vàkhái quát nên. Do vậy nội dung của tác phẩm không đứng yên, bất biến, mà đượcmở rộng, đào sâu trong quá trình tiếp nhận, làm cho tác phẩm văn họctồn tại như một quá trình.
Chỉ những ai sống sâu sắc với cuộc đời, có ý thức trách nhiệm với nhânsinh, thời cuộc mới phát hiện được nội dung nghệ thuật có tầm cỡ. Và đồng thờiphải có tài năng nghệ thuật, tu dưỡng văn hoá, mới sáng tạo ra được những tácphẩm có nội dung và hình thức nghệ thuật hoàn mĩ.
Phong cách ngôn ngữ và phong cáchnghệ thuật là hai phạm trù khácnhau. Trong ngôn ngữ, do thực hiệnnhững chức năng khác nhau, do được sử dụng trong các tập đoàn xã hội hoặc nhữnggiới nghề nghiệp khác nhau, dần dần hình thành những phong cách ngôn ngữkhác nhau. Chẳng hạn, phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hànhchính, phong cách ngôn ngữ văn học (nghệ thuật ngôn hoặc phong cách ngôn ngữ điệnbáo…)
Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sựthống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểuhiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác cửa một nhà văn, trong tác phẩmriêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. Phong cáchkhác phương pháp sáng tác ởsự thực hiện cụ thể; trực tiếp của nó. Các dấu hiện phong cách dường như nổi lên trên bềmặt tác phẩm, như một thể thống nhất hữu hình và có thể tri giác được của tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật.
Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựnghình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm nhậnđược, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất. Với ý nghĩa này, người taphân biệt các “phong cách lớn”, hay còn gọi là “phong cách thời đại” (phongcách Phục hưng, Ba-rốc, chủ nghĩa cổ điển), các phong cách của các trào lưu vàdòng văn học, phong cách dân tộc, phong cách cá nhân của tác giả.
Nói chung, phong cách là quy luật thống nhất các yếu tố của chỉnh thể nghệthuật, là một biểu hiện của tính nghệ thuật. Không phải bất cứ nhà văn nào cũngcó phong cách. Chỉ những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phongcách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy thể hiện ở các tác phẩm và được lặp đi lặplại trong nhiều tác phẩm của nhà văn làm cho ta có thể nhận ra sự khácnhau, chẳng hạn, giữa Nguyễn Công Hoan và Nguyên Hồng, Xuân Diệu và Chế LanViên…
Trong chỉnh thể “nhà văn” (hiểutheo nghĩa là các sáng tác của một nhà văn), cái riêng tạo nên sự thống nhấtlặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệthống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy.
Ngoài thế giới quan, những phương diện tinh thần khác như tâm lí, khí chất,cá tính đều có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành phong cách của nhà văn.Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và của thời đại.

XEM THÊM:  TRUYỆN KIỀU | Nguyễn Du

Xem thêm:

Nghĩa đen là văn xuôi, nhưng hiện nay tản văn được dùng để chỉ một phạm vi xác định,không hoàn toàn khớp với thuật ngữ vănxuôi. Nếu văn xuôi trong nghĩa rộng chỉloại văn đối lập với văn vần,và trong nghĩa hẹp chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ, baogồm một phạm vi rộng từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí, tiểu phẩmchính luận thì tản văn chỉ phạm vi văn xuôi hẹp hơn, không bao gồm các loạitruyện hư cấu như tiểu thuyết, truyện ngắn. Nó là một loại hình văn học ngangvới thơ, kịch, tiểu thuyết. Nhưng mặt khác tản văn lại có nội hàm rộng hơn kháiniệm kí, vì nội dung chứa cả những truyện ngụ ngôn hư cấu lẫn các thể vãn xuôikhác như thư, tựa, bạt, du kí,…
Tản vãn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghịluận, miêu tả phong cảnh, khắc hoạ nhân vật. Lối thể hiện đòi sống của tản vănmang tính chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhânvật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứđộc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn táihiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếptình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính của tác giả.
Trong văn học cổ, tản văn bao gồmcác áng văn kinh, truyện, tử, tập như Mạnh Tử, Tả truyện, Sử ký cácbài biểu, chiểu , cáo*, hịch*, minh, luận,… Trong văn học hiện đại, tản văn bao gồm các thể kí*, tuỳ bút văn tiểu phẩm, văn chính luận , tạp văn , ngụngôn, chân dung vănhọc*,…
Tản văn là loại văn tự do, dàingắn tuỳ cách thể hiện đa dạng đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiếnvà cá tính tác giả, có truyền thống lâu đời và sức sống mạnh mẽ.
Những áng văn tiểu phẩm* có nội dung chính trị, có tác dụngchiến đấu mạnh mẽ. Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén vừa có tínhnghệ thuật cô đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội. Chẳnghạn như tạp văn của Lỗ Tấn, được ông gọi là dây thần kinh cảm ứng, là chântay tiến công và phòng thủ, là dao găm và mũi lao, có thể cùng bạn đọc mở ra một conđường máu để sinh tồn.
Phần lớn tạp văn mang yếu tố châmbiếm, trào lộng, đả kích. Có loại nhằm vào kẻ địch với đòn “giễu cợt chếtngười”, đánh trúng chỗ hiểm, có loại nhằm vào khuyết điểm của người cùngđội ngũ, vạch đúng sai lấm, trào phúng thành khẩn, trị bệnh cứu người.
Ở Việt Namtrước Cách mạng tháng Tám, nhiều nhà văn kiêm nhà báo đã viết tạp văn như Ngô Tất Tố, Ngô Đức Kế,Huỳnh Thúc Kháng. Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều bài văn chính luận ngắn hómhỉnh trên các báo chí ta cũng là tạp văn.
Dạng thức của tác phẩm văn học,được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sửcủa văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặcđiểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quanhệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy.
Trong quá trình sáng tác, các nhàvăn thường sử dụng những phương pháp chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiệnnhững quan hệ thẩm mĩ khác nhau đối với hiện thực, có những cách thức xâydựng hình tượng khác nhau. Các phương thức ấy ứng với những hình thức hoạt độngnhận thức khác nhau của con người – hoặc trầm tư, chiêm nghiệm, hoặc qua biếncố liên tục, hoặc qua xung đột,… làm cho tác phẩm văn học bao giờ cũng có sựthống nhất quy định lẫn nhau vé các loại đề tài, cảm hứng, hình thức nhân vật,hình thức kết cấu và hình thức lời văn. Ví dụ: nhân vật kịch, kết cấu kịch, hànhđộng kịch với lời văn kịch; hoặc nhân vật trữ tình, kết cấu thơ trữ tình vớilời thơ, luật thơ,… Người ta có thể tập hợp thành từng nhóm những tác phẩmvăn học giống nhau về phương thức miêu tả và hình thức tồn tại chỉnh thể ấy. Đólà cơ sở khách quan của sự tồn tại thể loại văn học và cũng là điểm xuất phátđể xây dựng nguyên tắc phân chia thể loại văn học.
Thể loại văn học trong bản chấtphản ánh những khuynh hướng phát triển vững bền, vĩnh hằng của văn học, và cácthể loại văn học tồn tại để gìn giữ, đổi mới thường xuyên các khuynh hướng ấy.Do đó mà thể loại văn học luôn luôn vừamới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định.
Lí luận văn học dựa vào các yếutố ổn định mà chia tác phẩm văn học thànhcác loại và các thể(hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Bất kì tác phẩm nàocũng thuộc một loại nhất định và quan trọng hơn là có một hình thức thểnào đó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: tự sự*, trữ tình* và kịch*.
Mỗi loại trên bao gồm một số thể.Ví dụ: loại tự sự có tiểu thuyết*, truyện ngắn*, truyện vừa, anh hùng ca*,ngụ ngôn*,… loại kịch có bi kịch*, hài kịch*, chính kịch,… Thể loại là dạng thức tốn tại chỉnh thể củatác phẩm. Cùng một loại nhưng các thể khác nhau rất sâu sắc.Ngoài đặc trưng của loại, các thể còn phân biệt nhau bởi hình thức lời văn (thơ và văn xuôi), dung lượng (truyện dài,truyện ngắn,…), loại nội dung cảm hứng (bi kịch, hài kịch, thơ trào phúng,thơ ca ngợi,…). Một số nhà nghiên cứu còn để xuất cách chia thể theo loại đề tài, chủ đề chẳng hạn: thơ tình,thơ điền viên, truyện lịch sử, truyện tâm lí xã hội, truyện phong tục,… Điều nàycho thấy thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạnghình thức văn bản và phương thức chiếm lĩnh đời sống. Các thể loại văn học “là một phạmtrù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của vănhọc và sau đó biến đổi và được thay thế” (D. Li-kha-chốp), vì vậy khi tiếp cận với các thể loại văn học cần tính đến thời đại lịch sử củavăn học và những biến đổi, thay thế của chúng.
Lĩnh vực văn học bao gồm các thểloại văn học khác nhau cùng viết vế đề tài lịch sử: Các tác phẩm lịch sử biên niên kể về các biến cốlịch sử qua các thời đại, tái hiện lại các nhân vật lịch sử, cáccuộc chiến tranh, các hoạt động bang giao, như Tả truyện (tương truyềndo Tả Khâu Minh, sử quan nước Lỗ soạn ), Quốc ngữ tập tư liệu về lịch sửnhà Chu và chư hầu thời Xuân Thu (Trung Quốc), Sử kí của Tư Mã Thiênphác hoạ bức tranh lịch sử Trung Quốc 3000 năm từ thượng cổ đến đầu Hán. Ở nước ta có ĐạiViệt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Nam quốc sử diễn ca của Ngô LêCát và Phạm Đình Toái. Đặc biệt có giá trị văn học trong loại này là các thể kí,truyện, chí như Sử kí của Tư Mã Thiên mà Lỗ Tấn gọi là thiên “LiTao” không vần, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Đây lànhững thể loại văn học vừa thuộc phạm trù khoa học lịch sử, vừa thuộc phạm trùkhoa học văn nghệ thuật do phẩm chất riêng của từng tác phẩm như miêu tả sinh động, khắc hoạchân dung, tính cách, chi tiết chọn lọc, gợi cảm, tái hiện tình huống, khôngkhí, ngôn từ lịch sử,… Thể loại này thường do nhà sử học hoặc người khác viết, nhưng cũng cókhi do tự mình viết, gọi là tự truyện. Các tác phẩm văn học loại này đã lưu lại vôvàn tư liệu giá trị để người sau dựa vào đó mà sáng tác kịch, tuồng, chèo tiểuthuyết,… Các loại truyện danh nhân kể về cuộc đời và sự nghiệp các nhân vật lỗi lạc trên các lĩnhvực của nhân loại cũng thuộc loại văn học này.
Thể loại văn học lịch sử còn baogồm các tác phẩm văn học nghệ thuật, sáng tác về các đề tài và nhân vật lịch sửnhư tiểu thuyết lịch sử. Ví dụ: Tam quốc diễn nghĩa của La QuánTrung, Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long, Pi-e đệ nhất củaA-lếch-xây Tôn-xtôi, Người con gái viên đại uý cùa Puskin; kịch lịch sửnhư Khuất Nguyên của Quách Mạt Nhược, Vũ Như Tô của Nguyễn HuyTưởng, Bài ca giữ nước của Tào Mạt. Các tác phẩm viết về đề tài lịch sửnày có chứa đựng các nhân vật và các chi tiết hư cấu, tuy nhiên nhân vật chínhvà sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôntrọng lời ăn tiếng nói, trang phục, phong tục, tập quán phù hợp với giai đoạnlịch sử ấy. Tác phẩm văn học lịch sửthường mượn chuyện xưa nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học củạ quákhứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con ngưòi và thời đại đã qua, song không vìthế mà hiện đại hoá người xưa, phá vỡ tính chân thật lịch sử của thể loại này.Đặc điểm này của thể loại tiểu thuyết lịch sử và kịch lịch sử đòi hỏi nhà văn phải vừa là nghệ sĩ, vừa lànhà nghiên cứu, có vốn sống và hiểu biết phong phú, có quan điểm lịch sử đúngđắn và tiến bộ.
Thể vănnghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế,triết học, văn hoá,… Mục đích của vănchính luận ĩà bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng,một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầnglớp, một giai cấp nhất định. Chính vì thế, tác phẩm chính luận bao giờ cũng thểhiện khuynh hướng tư tưởng, lập trường công dân rõ ràng. Tình cảm sục sôi,luận chiến quyết liệt và tính khuynh hướng công khai là những dấu hiệu quantrọng của phong cách chính luận. Tất cả những cái đó làm cho giọng điệu, cấutrúc và chức năng của lời văn chính luận gần gũi với giọng điệu, cấu trúc và chức năng của lời văn tuyên truyền, hùng biện.
Đặc trưng cơ bản của văn chínhluận là tính chất luận thuyết. Khác vớivăn học nghệ thuật, văn chính luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lậpluận, lí lẽ. Văn chính luận đôi khi cũng tái hiện đời sống, miêu tả các tính cách và sốphận. Nhưng người viết văn chính luận tái hiện đời sống, miêu tả tính cách, số phận chỉ nhằm mục đích đưa ra những ví dụsinh động làm cơ sơ cho lập luận thường là những hình tượng minh hoạ, nóchỉ chứa đựng nội dung phổ quát của chủngloại, chứ không phải là hiện tượng tiêu biểu cho cái độc đáo, không lặp lại.
Vănchính luận giữ vai trò đặc biệt trong các cuộc đấu tranh xã hội, trong lịch sửvăn hoá của nhân loại nói chung, của dân tộc ta nói riêng. Hịch tướng sĩ củaTrần Hưng Đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập của Chủtịch Hổ Chí Minh là những tác phẩm chính luận bất hủ.
Thuậtngữ có nhiều nghĩa và sắc thái. Nghĩa rộng là tác phẩm văn nói chung, khôngphân biệt triết học, chính trị, lịch sử, văn hoá, quân sự. Ví dụ: văn chươngNguyên Trãi, văn chương Hồ Chí Minh, sự nghiệp văn chương. Nghĩa hẹp hơn là tác phẩm văn học*, nghệ thuật ngôn từ, thường chỉtác phẩm thơ. Nghĩa phái sinh – câu văn, lời văn, hoặc hẹp hơn, chỉ tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lờivăn, ví dụ: phải viết cho văn chương, giá trị văn chương, màu sắc văn chương (X.th. vãn học*).
Thể loại tản văn ngắn gọn, xinhxắn nhưng giàu chất trữ tình. Người Trung Quốc xem các loại tự*, bạt*, ký, truyện , văntê*, thư tín,… có ngôn ngữ trau chuốt,tình cảm phong phú đều là văn tiểu phẩm. Người phương Tây xem văn tiểu phẩm(tiếng Anh: essay) là thể loạivăn xuôi nhỏ, kết cấu tự do, thiên về thể hiện các ấn tượng và ý kiến cá nhântrước các sự việc và vấn đề cụ thể, không nhằm đưa ra cách lí giải bao quát vàxác định hoàn toàn, điều cốt yếu là cố kiến giải mới mẻ, gây ấn tượng sâu đậm.Văn tiểu phẩm có loại thiên về triết lí, có loại thiên về tiểu sử, phong tục,phong cảnh, có loại nghiêng về phê bình văn học, có loại nghiêng về phổ biếnkhoa học, lại có loại thuần tuý trữ tình. Phongcách chung của văn tiểu phẩm là tính hình tượng cô đọng, tính ngụ ý, ngữ điệutrò chuyện, tâm tình, bộc lộ ưực tiếp nhân cách, cá tính của tác giả, để lại ấntượng nhẹ nhàng, khoáng đạt.

XEM THÊM:  Hai đứa trẻ - Tác giả: Thạch Lam

Xem thêm:

Mẫu mực của thể loại văn tiểu phẩm ở phương Tây có thể tìm thấy qua tập Tiểu phẩmcủa M. Mông-ten (1533 – 1592), các bài tiểu phẩm cùa Von-te, Đi-đơ-rô,Lét-xing, Héc-đơ, Pu-skin, Ghéc-xen,… Ở phươngĐông, văn tiểu phẩm có truyền thống lâu đời nhưng sựnở rộ của chúng gắn liền với ý thức về nhân cách, cá tính. Đó là tiểu phấm của Liêu Tông Nguyên, ÂuDương Tu, Chu Tự Thanh, Băng Tâm./.

Chuyên mục:

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Thuật ngữ văn học. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *