Triết học cho người không chuyên – Bertrand Russell | Nguyễn Huy Hoàng

Bertrand Russell.jpg

nguồn: bertrand russell, “Philosophy for the Laity,” Universities Quarterly 1 (November 1946), 38-49. play Unpopular Essays, Chapter 2 (George Allen & Unwin, 1951).

You are reading: Bertrand russell best books

loài người, kể từ khi xuất hiện các cộng đồng văn minh đã phải đương đầu với những vấn đề thuộc hai loại nhaukhac. MộT MặT TồN TạI VấN ề Làm Chủ Các Lực Lượng tự Nhiên, Thu Thập Kiến Thức Và Kỹ NĂng Cần Thiết ểể Làm Ra Công cụ v à vũ khí và khuyến khích tự nh ữt ữt ữt ữt ữt ữt ữt ữt ữt ữt ữt vấn đề này, trong thế giới hiện đại, được giải quyết bằng khoa học và kỹ thuật khoa học, và kinh nghiệm cho thấy để giải quyết được nó một cách thỏa đáng thì cần đào tạo một số lượng lớn các chuyên gia thuộc các lĩnh vực tương đối hẹp.

nhưng còn một vấn ề thứ hai, km riqu ràng hơn, và bị hiểu sai bởi một số người là không quan trọng – tôi muốn nói ến vấn ề làm sao tận dụnng tốt nhút ối ối ối ối ố lực lượng của tự nhiên. Điều này bao gồm những vấn ề nony như dân chủi với ộc tài, chủ nghĩa tư bản với chủi nghĩa xã hội, chynh phủc tế với vôi chynh phủc tế suy đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ với những vấn đề này phòng thí nghiệm không thể đưa ra chỉ dẫn dứt khoát nào. loại kiến ​​thứccóc ích nhất trong việc giải quyết những vấn ề như vậy là một cuộc khảo sat rộng lớn vềc cuộc sống with người, trong quá khứ cũng như thỏa mãn như chúng xuất hiện trong lịch sử. chúng ta sẽ thấy là sự tăng cường kỹ năng sẽ không, tự thân nó, đảm bảo bất cứ sự gia tăng nào trong hạnh phúc hay phic cƻ. lần đầu học cách khai khẩn đất đai, with người đã dùng kiến ​​thức của mình để lập nên một thứ tà giáo hiến tế. những người đầu tiên thuần hóa ngựa đã dùng nó để cướp bóc và nô dịch các nhóm dân hòa bình. khi, trong thời kỳ sơ khai của cách mạng công nghiệp, with người khá phá ra cách sản xuất các sản phẩm bông bằng mó mó, kết qu. đã bị giết chết; Lao động trẻ em ở anh đã phát triển đến một mức độ độc ác kinh hoàng; và chủ nghĩa đế quốc tàn nhẫn ở châu phi đã được kích thích trong hy vọng là có thể thuyết phục người da đen mặc đồ b sng. Trong Thời ại của chung ta tài năng khoa học và kỹ năNg kỹ thuật kết hợp lại đã tạo ra bom nguyên tử, nhưng tạo ra nó rồi chung ta lại sợ hãi, và không tảt. NHữNG ví dụ này, từ những giai đoạn lịch sử khác nhau, cho thấy cần phải có một cai gì đó hơn cả kỹ năng, một cai gì đó có lẽc có thể gọi là “tri ết”. Đây là cái phải học, nếu có thể học được, thông qua những nghiên cứu khác hơn là những nghiên cứu cần thiết cho kỹṻt. Và nó là cai hiện nay cần thiết hơn bao giờ hết, vì sự phát triển nhanh chong của kỹ thuật đã làm những thati quen suy nghĩ vành ộng xưa trở n không phướng phướng phướ

“TRIếT HọC” NGHĩA là “tình yêu ối với sự thông thati”, và triết học Theo nghĩa này là cai with người pHải có ược nếu khhu của những with người bình thường ư hoàng. nhưng cái triết học nên là một phần của nền giáo dục phổ thông không phải là cái triết học của các chuyên gia. không chỉ trong triết học, mà còn trong tất cả các nhánh học thuật, có một sự khác biệt giữa cái có giá trị văn hoá và cái chỉ có mối quachun. các sử gia có thể tranh luận chuyện gì đã xảy ra với cuộc viễn chinh không thành công của sennacherib năm 698 tcn, nhưng những người không phải là sử gia thì không cần biết sự khác biệt giữa nó với cuộc viễn chinh thành công ba năm trước đó. Các Chuyên Gia Hy Lạp Cổ ại Có Thể Thảo Luận hữu ích vềt một cach hiểu còn tranh cãi trong một vở kịch của aeschylus, nhưng những vấn ề như vậy không dành choc choc thức về thành tựu của người hy lạp. tương tự, những người cống hiến cuộc đời mình cho triết học phải xem xét những vấn đề mà công chúng được giáo dục phổ thông có quyền bỏ qua, chẳng hạn như khác biệt giữa thuyết về những cái chung (theory of universals) của aquinas và của duns scotus, hoặc những đặc điểm mà một ngôn ngữ phải có nếu nó muốn có khả năng nói về chính nó, mà không rơi vào vô nghĩ. những vấn ề như vậy thuộc về những khía cạnh kỹ thuật của triết học, và thảo luận về chung không thể tạo thành một pHần đong gip của nó vào vmar.

nền giáo dục học thuật nên hướng vào việc ưa ra, như một sự điều hòa sự chuyên môn Hóa mà sự gia tăng kiến ​​that chương, và triết học. Nên tạo điều kiện cho một thanh niên trẻ không biết tiếng Hy lạp cũng có ược qua những bản dịch chút kiến ​​thức, dù không ầy ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ Thay vì nghiên cứu đi nghiên cứu lại các vị vua Anglo-Saxon ở Trường, cần có một nỗc lực nhằm ưa ra một bản ại cương lịch sử thế giới, ư đề của các linh mục ai cập, các vị vua babylon, và các nhà cải cách athens, cũng như với tất cả những hy vọng và tuyệt vọng của nhỿen. nhưng tôi chỉ muốn viết về triết học, nhìn từ một quan điểm tương tự.

See Also: 22 Books Every Woman Should Read at 22, Because You’re Going to Need a Little Bit of Help As Everything Is Changing

triết học từ những ngày đầu của nó có hai đối tượng khác nhau được cho là có quan hệ mật thiết với nhau. một mặt, nó hướng đến một hiểu biết lý thuyết về cấu trúc của thế giới; mặt khác, nó cố gắng tìm ra và ghi dấu lối sống tốt đẹp nhất có thể. từ heraclitus đến hegel, thậm chí đến marx, nó luôn tập trung vào cả hai mục tiêu; nó không thuần túy lý thuyết hay thuần túy thực tiễn, mà vươn đến một lý thuyết về vũ trụ để dựa lên đó mộđạn.

triết học bởi vậy có liên quan mật thiết với khoa học ở một mặt, và với tôn giáo ở mặt khác. hãy xem xét mối quan hệ đầu tiên với khoa học. Ến thế kỷ 18 khoa học vẫn ược gộp vào cai gọi chung là “triết học,” nhưng kể từ đó từ “triết học” đã bị gihi hạn, mặt lý thuyết của nó, vàc ” quyết. người ta thường nói triết học thì không tiến bộ, nhưng đây chủ yếu là một vấn ề từ ngữ: ngay khi tìm ược cach tiến ến một kiến ​​thức xác xac ị thức mới lại ược coi là thuộc về “khoa học”, và mang tính suy đoán, nhưng newton đâãa chủ ề này ra khị đtảt. nó thành một chủ đề đòi hỏi một loại kỹ năng khác với loại kỹ năng mà nó đòi hỏi khi nó còn có những nghi ngờ căn bản. anaximander, ở thế kỷ 6 tcn, đã có một thuyết tiến hóa, và cho rằng with người là hậu duệ của cá. Đy là triết học vìos là một suy đoán không ược hỗ trợi bằng chứng chi tiết, nhưng thuyết của Darwin Là Khoa học, vì nó dựa trên sựi nối ti ếp ca ìh sự phân bố các loại động thực vật ở nhiều nơi trên thế giới. người ta có thể nói, với đủ sự thật để biện minh cho một câu đùa: “khoa học là cái chúng ta biết, còn triết học là cái chúnkh bi ta.” nhưng nên nói thêm là suy đoán triết học về cái chúng ta chưa biết đã chứng tỏ mình là sự trù bị có giá trị cho kiến ​​thức hc. Ước đoán của các môn đồ của pythagoras trong thiên văn học, của anaximander và empedocles trong tiến hóa sinh học, và của democritus về cấu tạo nguyên tử của vật chất, đã cho con người khoa học ở những thời đại sau này những giả thuyết mà nếu không có các triết gia thì có thể đã không bao giờ đi vào tâm trí họ. Chung ta cr thể nói rằng, ở mặt lý thuyết của nó, triết học cốt ở, ít nhất là một pHần, việc ặt ra những giả thuyết tổng quát lớn mà kho học chưa có khả nhưng khi có thể kiểm chứng những giả thuyết ấy thì chúng trở thành, nếu ược xác minh, một phần của khoa học, và không còntri xư.

See also  20 Best Political Thriller Books Ever Written | Gobookmart

tingh hữu dụng của triết học, ở mặt lý thuyết, không chỉ giới hạn trong những suy đoán mà chung tac ta cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc cóc có những người quá ấn tượng trước cái khoa học biết đến nỗi họ quên mất cái nó không biết; có người lại quan tâm đến cái nó không biết hơn là cái nó biết đến nỗi họ hạ thấp những thành tựu của nó. NHữNG NGườI NGHĩ KHOA HọC Là tất cả thì trở nên tự mé và tá tự tin, và chê bai mọi mối quan tâm ối với những vấn ề ềng có tanh xác ịnh gi ới hạng vấn ề ề ề ề Trong Các Vấn ề Thực tiễn học có xu hướng cho rằng kỹ nĂng có thể thay thế cho thông thati, và giết hại nhau bằng công ngh ệ mới nhất thì “ti bộn” hơn do do do do do do do do do do do thời. MặT KHAC, NHữNG NGườI XEM NHẹ KHOA HọC THì TRở Về, NHư MộT quy luật, với một điều mê tín cổ xưa và nguy hại nào đó, và từi thừa nhận sự gia tte t c ọn c ọn c ọn c ọn c ọn c. nếu sử dụng rộng rãi, có thể cho phép. cả hai that ộ này ều đu đáng trach, và triết học là cai chos the thấy thati ộ đ đung ắn, bằng cach cch cùng lúc làm rõ pHạm vi và những hạn chếa ki ki ki ức kh.

tạm thời bỏ qua một bên mọi vấn ề liên quan ến ạo ức there bất luận thế nào ở hiện tại. chúng ta có sống sót qua cái chết theo bất kỳ ý nghĩa nào hay không, và nếu có, chúng ta sẽ sống sót trong một thời gian hay là mãi mãi? Tinh thần có thể thống trị vật chất, hay vật chất hoàn hoàn thống trị tinh thần, hay có lẽ, mỗi cái đều có đmt sự độc h o? vũ trụ có mục đích nào không? hay nó được thúc đẩy bởi một sự tất yếu mà chúng ta không biết được? There is a chỉ là hỗn mang và lộn xộn, trong đó những quy lật tự nhiên mà chung ta nghĩ mình tìm ra chỉ là một ảo tưởng mà tình yêu ối với trật tựa của chung ta tạo? NếU COR MộT Hệ THốNG Vũ TRụ, LIệU SựNG TRONG đÓ CÓN TRọNG HơN NHữNG Gì mà thiên văn học sẽ làm chung ta nghĩ, hay tầm trọng mà chueng ta ặt lên số sống thghĩ, hare là quan? tôi không biết câu trả lời cho những câu hỏi này, và cũng không tin là ai có, nhưng tôi nghĩ cuộc sống with người sẽ nhậ nh ậ ảng nững nữn ắNg nững không có bằng chứng đầy đủ. duy trì mối quan tâm đối với những vấn như vậy, và xem xét các câu trả lời gợi ý, là một trong những chức năng của triết h>

những người nóng lòng muốn được đền đáp nhanh chóng và muốn có kết quả tương xứng với nỗ lực bỏ ra có thể cảm thấy mất kiên nhẫn với một ngành nghiên cứu vốn không thể, trong tình hình tri thức hiện tại của chúng ta, ạt ược những sự chắc chắn và khuyến khích cai có thể bị cho làmc làm pHí thời gian suy nghĩ vôch về những vấn ề không thể giải quyết ược. tôi không thể đồng ý với quan điểm này ở bất kỳ mức độ nào. Có Thứ Trết Học Cần Thiết Cho Gần như tất cả những người vô tư nhất, và khi không co kiến ​​thức thì nó gần như chắc chắn là một thứtt học ngớn. Kết quả của điều này là nhân loại bị chia rẽ thành các nhóm cuồng tín ối ầu, mỗi nhóm ều hết mực tin rằng thứ tín điều vôa lý của mình là chân là . người tteo ​​chủ nghĩa arius và người công giáo, quân thập tự chinh và người hồi giáo, tín ồ tin lành với những người ủng hộ giáo hoàng, cộng sản và phat, phat, phat, phát, phát, phat, vôt m. nhỏ bé đã có thể cho cả hai bên trong tất cả cc cuộc xung ột ấy thy rằng cả hai ều không có lý do chính đáng nào ểể tin là m. chủ nghĩa giáo điều là kẻ thù của hòa bình, và là một rào cản không thể vượt qua đối với nền dân chủ. Trong Thời ại hiện nay, It nhất cũng giống như trước đy, nó là trở ngại tinh thần lớn nhất trong những trở ngại tinh thần ối với hạnh phúc của with người. <

Đòi hỏi sự chắc chắn là một đòi hỏi tự nhiên của con người, nhưng dù sao vẫn là một thói xấu trí thức. NếU ưA with đi dã ngoại vào một ngày khó đoán, chung sẽ đòi hỏi một câu trải lời pHải chắn chắn là trời ẹp hare trời mưa, và sẽt vọng với bạn khi bạc. lớn hơn, những người ảm ương việc dẫn dân dân chung vào miền ất hứa cũng bị đòi hỏi kiểu ảm bấy.o “hãy Thanh toán bọn tư bản rồi những người “tiêu diệt người do thái rồi mọi người sẽ có đức hạnh.” “hãy giết người croatia và để người serb cai trị.” “hãy giết người serb và để người croatia cai trị.” Đó là những mẫu khẩu hiệu đã giành được sự chấp nhận rộng rãi của công chúng trong thời đại chúng ta. ngay cả một chút triết lý cũng sẽ khiến người ta không thể chấp nhận những thứ vô nghĩa khát máu như vậy. nhưng chừng nào còn chưa ược tôi luyện ể không ưa ra đánh giá khi không cor bằng chứng thì with người còn bị những nhà tiên tri qua tự tin làm choc lạc lạc lạc lạc lạc lạc lạc lạ cuồng tín vô tri hoặc những kẻ bịp bợm bất lương. chịu đựng sự không chắc chắn là rất khó, nhưng hầu hết các đức tính khác cũng thế. Để học mỗi đức tính thì đều có một kỷ luật phù hợp, và để học kìm hãm đánh giá thì kỷ luật tốt nhất là triết h.

See also  10 Must-Read Bass Fishing Books for Anglers of Every Level

nhưng nếu muốn pHục vụt một mục đích tích cực th trikt học không ược pHép chỉy dạy chủy nghĩa hoài nghi, vìrong khi khi kẻ giáo điều có hại thì kẻi kẻi nghi lạd. chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa hoài nghi đều, theo một nghĩa nào đó, là những triết lý tuyệt đối; một thì chắc chắn về sự biết, một thì chắc chắn về sự không biết. cái mà triết học nên làm tiêu tan là sự chắc chắn, dù về kiến ​​​​thức hay về sự vô tri. kiến thức không phải là một khái niệm chính xác như người ta thường nghĩ. thay vì nói “tôi biết cái này”, chúng ta nên nói “tôi biết ít nhiều về cái gì đó ít nhiều giống như cái này”. ĐUng là điều kiện này gần như không cần thiết nếu đang nói ến bảng cửu chương, nhưng kiến ​​thức trong cac vấn ềc tiễn thì không sực chắc chủc chủc chủc. Giả sử tôi nói “dân chủ là một điều tốt”: tôi phải thừa nhận, thứ nhất, cai này tôi không chắc chắn bằng hai cộng hai bằng bốn, và thứ hai, “dhhn chủn” l mà tôi không thể định nghĩa chính xác. do đó, chung ta nên nói: “tôi khá chắc chắn là nếu một chính pHủ có cai gì đó Trong những ặc điểm chung của hi ến phac anh và ến pháp mỹ thì đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt Và một trong những mục đích của giáo dục nên là khiến một câu nói như vậy trở nên hiệu quản từ một cương lĩnh chynh trị hơn là kiểu khẩu hi hi ghynh thông.

[Đó là] vì nhận ra rằng mọi kiến ​​​​thức của chúng ta, ở một mức độ lớn nhỏ, đều không chắc chắn và mơ hồthôa; đồng thời, chúng ta cần học cách hành động dựa trên giả thuyết tốt nhất mà không tin tưởng nó một cách giáo điều. trở lại cuộc dã ngoại: dù thừa nhận trời có thể mưa nhưng bạn vẫn khởi hành nếu bạn tin thời tiết có tó tót. nếu là kẻ giáo điều thì bạn sẽ bỏ áo mưa ở nhà. những nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho các vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói rộng hơn: tất cả những gì cóc xem là tri thức ều có thể ược sắp xếp vào một hệ thống thứ bậc theo mức ộc chắnn, với sốc và cc thực t. hai cộng hai bằng bốn, tôi đang ngồi viết trong phòng, là những tuyên bố mà nếu tôi nghiêm túc nghi ngờ nó thì sẽ là bệnh hoạn. tôi gần như chắc chắn hôm qua là ngày đẹp trời, nhưng không hoàn toàn chắc, vì trí nhớ đôi khi cũng giở quẻ. Ký ứC Càng XA Thì Càng đáng ngờ, ặc Biệt Là nếu Có Một Lý do cảm xúc ménh liệt nào đó làm sai lệch trí trí nhớ, vi dụ như cai làm vu rất chắc chắn, hoặc chỉ có chút khả năng, tùy vào tình trạng bằng chứng. khi hành ộng dựa trên một giả thuyết mà bạn biết là không chắc chắn, hành ộng của bạn nên là hành ộng không có nhếu quảu hết Trong cuộc dã ngoại, bạn có thể chấp nhận bị ướt nếu mọi người ều khỏe, nhưng không nếu cc người ốm yếu cƌn viêm hoặc giả bạn gặp một hại gì nếu ngài muggleton đúng thật là một con người vĩ đại như các môn đồ của ông ta nói, nhưng bạn thiêu sống anh ta trên cọc thì không được, vì hậu quả của việc bị thiêu sống thì chắc chắn hơn bất cứ mệnh đề thần học nào. dĩ nhiên nếu người theo phong trào muggleton có quá đông và quá cuồng tín đến mức hoặc bạn hoặc họ phải chết thì vấn đề sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều, nhưng nguyên tắc chung vẫn đúng, đó là một giả thuyết không chắc chắn không thể biện minh cho một hậu quả chắc chắn trừ khi một hậu quả tương tự cũng chắc chắn tương tự ở giả thuyết ngược.

triết học, chúng ta nói, có cả mục tiêu lý thuyết lẫn thực tiễn. giờ là lúc xem xét mục tiêu thứ hai.

ối với hầu hết các nhà triết học cổ ại ều có một mối liên hệt chặt chẽt giữa quan điểm về vũ trụ và chủ thuyết vềi sống tốt ẹp nhất. một số người thành lập những cộng đồng có sự tương đồng nhất định với những trật tự tu viện sau này. socrates và plato đã bị sốc trước các nhà thông thái (sophist) vì họ không có mục đích tôn giáo. nếu muốn có một va trò quan trọng trong cuộc sống của những người không pHải là chuyên gia, triết học không ược pHép thôi chủng trương một lối sống nào đó. làm như vậy nó tìm cách làm một điều mà tôn giáo đã làm nhưng với những khác biệt nhất định. khác biệt lớn nhất là không có sự viện đến thẩm quyền, dù là của truyền thống hay là của một cuốn sách thiêng. khác biệt thứ hai là một triết gia thì không nên cố lập ra một giáo hội; auguste comte đã cố, và thất bại, như ông ta đáng bị. thứ ba là nên nhấn mạnh vào các đức tính trí thức hơn là cái đã trở thành thông lệ kể từ khi nền văn minh hy lạp tan rã.

<p Các Triết Gia Cổ ại Thu Hút NHữNG quý tộc nhàn nhã, những người có thể sống như họ muốn, và thậm chí cóc có thể, nếu họ chọn, lập ra một thành phố riêng Cóc Có Lu thầy. phần lớn những người có giáo dục hiện đại thì không được tự do như vậy; Họ phải kiếm sống trong khuôn khổ sẵnc của xã hội, và họ không thể tạo ra những thay ổi quan trọng trong lối sống của mình trừ khi trước tiê họ con ả ả ả ữ ữ ữ ữ ữ ữ ữ ữ ữ ả ả ả ả ả ả ả ả ả ta. Hệ quả là những niềm tin ạo ức của một người phải ược thể hiện nhiều hơn trong chủng trương chynh trị, và ít hơn trong h hnh vi ca nhân của anh ta, so với trong thời cổi. và quan niệm về một lối sống tốt đẹp phải là một quan niệm xã hội hơn là một quan niệm cá nhân. Ngay cả với người cổ ại, nó đã ược dish thảo ra trong cup cộng hòa, nhưng nhiều người trong số họ đ đ đ đt quan quan niệm mang tinh ca nhn hơn về nh ững mục c.

với điều kiện này, hãy xem triết học có gì để nói về chủ đề đạo đức.

bắt ầu với các ức tính trí thức: việc Theo đuổi triết học là dựa trên niềm tin rằng tri thức là tốt, ngay cả khi cai biết ược sẽ gây ớ ớ ớn. Một người thấm nhuần tinh thần triết học, dù có pHải là triết gia chuyên nghiệp không, sẽ muốn những niềm tin của mình ược đúg như anh ta có choc đ, m. biết và ghét mắc phải lỗi lầm. nguyên tắc này có phạm vi rộng lớn hơn so với vẻ thoạt nhìn. niềm tin của chung ta xuất phat từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau: cai chung ta ược bố mẹ và thầy cô dạy dỗi nhi nhỏ, cai mà cc tổc quyc bảh chú ọ ọ ọ ư ư ư ư ư ư ọ ọ hiện thân hay làm dịu đi nỗi sợ của chúng ta, cái chăm sóc lòng tự tôn của chúng ta, vân van. và bất cứ nguyên nhân nào trong số này cũng có thể dẫn chúng ta ến những niềm tin đích thực, nhưng nhiều khả năng hơn là dẫnng ta đi theo hướng ng ng ược lại. sự tỉnh táo trí thức do đó sẽ dẫn chung ta ến chỗm xét những niềm tin của mình một cach kỹ lưỡng, với mục đích tìm tin nào trong số đó có lý do gìểểểể đumng. NếU CHUNG TA THôNG THÁI, CHUNG TA Sẽ ÁP DụNG DUNG Môi PHê PHán (SOLVENT CRITICISM) [1] ặC BIệT Là với những niềm tin mà chung ta thấy nghi ngờ nó là đau ớ kéo chúng ta vào xung đột với những người có những niềm tin đối nghịch nhưng tương tự cũng không có cơ sở. nếu thái độ này có thể trở nên phổ biến thì lợi ích trong việc giảm độ gay gắt của các tranh chấp sẽ là không thợ tính toán>

See also  Best Books on Pandemics | Five Books Expert Recommendations

còn một đức tính trí thức nữa, đó là đức tính trí thức tổng quan hay khách quan. tôi ề nghị bài tập sau: khi, trong một câu thể hi qan điểm chính trị, co -eg từ gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ nhưng khác a, b, c, vân vân, và quên đi ý nghĩa cụ thể của các ký hiệu. giả sử a là anh, b là Đức và c là nga. Chừng nào bạn còn nhớ các ký hiệu nàyc ý nghĩa gì thì hầu hết những thứ bạn sẽ tin sẽ phụ thuộc vào việc bạn là người anh, người ức there are người nga, tức là khey. Khi, Trong ại số cơ bản, bạn làm toá về ba người a, b, và c leo lên nii, bạn không có mối quan tâm cảm xúc ến những người trong bài, và bạn cết sức ải đi đi đi đi đi đi đ nad nad nad nad nad nad nad nad nad nad nad nad nad na đắn khách quan. nhưng nếu bạn nGhĩ a là mình, b là ối thủ bạn ghét và c là thầy hiệu trưởng ra ề, tinh ton của bạn sẽ bị xiên xi, và chắc chắn bạn sẽ thấy đí ầí ầí ầí ầí ầí đí đí đí đ KHI SUY NGHĩ Về Các vấn ềề Chính Trị Kiểu Thiên Vị Cảm xúc này tất yếu sẽ hiện diện, và chỉ sự chú tâm và thực hành mới cóc choc pHép bạn suy nghĩ khách ưh ư quan như thán thán thán s>

t? duy bằng t? ng? tr?u t? Nó cũng Có thể ạt ược tương tự, cón còn tốt hơn, nếu bạn có thể cảm nhận ược nhữegon cảm xúc tổng qu nhưng điều này rất khó ối với hầu hếu hết hết mọi người người. nếu đói, bạn sẽ cố gắng hết sức, nếu cần, để có đồ ăn; nếu con bạn đói, có thể bạn còn cảm thấy cấp bách hơn. nếu một người bạn đang chết đói, có lẽ bạn sẽ cố gắng xoay xở để giảm bớt nỗi khổ cho anh ta. NHưNG nếu nghe ược rằng vài triệu người ấn ộộ there are trung quốc đang co nguy cơ tử vong do suy dyh dưỡng, vấn ềề lại rộng lớn và xa xai ến mức trừ khi bộ Tuy Nhiên, NếU CO NăNG LựC CảM XÚC ểể CảM NHậN NHữNG CAI AC XA Xôi MộT CÁC MÉNH LIệT, BạN COR thể ượT ượC tinh thần tổng quan ạo ức thông vi ật c c c c. nếu không corc cai tài tương ối hiếm này, Thói quen nhìn các vấn ề thực tiễn một cach trừu tượng cũng như cụ thể là cai thay thhế khả tốt nhất.

See Also: 15 Augmented Reality Books for Kids (VIDEO) – Little Learning Corner

mối tương quan của tinh thần tổng quan luận lý và cảm xúc trong đạo đức là một chủ đề thú vị. “thương người như thể thương thân” ghi dấu tổng quan đạo đức; “các tuyên bố đạo đức không nên chứa tên riêng” ghi dấu tổng quan luận lý. hai quy tắc này nghe rất khác nhau, nhưng khi xem xét chúng ta sẽ thấy chúng gần như không thể phân biệt được trong giá trị thực tiễn. with người nhân ái sẽ ưa hình thức truyền thống; with người luận lý có thể sẽ ưa cái còn lại. tôi không biết tầng lớp nào nhỏ hơn. cả hai hình thức tuyên bố, nếu ược các chynh khách chấp nhận và người dân mà họ ại diện dung nạp, sẽ nhanh chóng ẛn ni m. người do thati và người ả rập sẽ ến với nhau vài “chung ta sẽmem làm thế nào ể ạt ược lợi ích lớn nhất cho cả hai bên, mà không xem xét quákng c c. hiển nhiên mỗi nhóm sẽ có nhiều cái dẫn đến hạnh phúc của họ hơn so với họ có thể có trong hiện tại. Điều này cũng đúng với người Hindu và người hồi giáo, cộng sản trung quốc với những người ủng hộng giới thạch, người ý và người nam tư, người ngg v. nhưng what ôi! không thể mong chờ lòng nhân ái hay luận lý ở cả hai bên trong bất cứ tranh chấp nào trong số này.

không thể cho là những thanh niên trẻang bận rộn tích lũy kiến ​​thức chuyên m m ôn có trịcc có dành nhiều thờ nghnghn cứu triết hing Hando thiệt hại gì ể thể đem lại một số thứ sẽ tăng cường đálg kể giá trị cna người học với tư cách là m đc ội t. nó có thể đem lại thói quen tư duy chính xác và cẩn thận, không chỉ trong toán học và khoa học, mà còn trong những vấn đề có giá trị thễl tiễn. nó có thể đem lại một bề rộng và phạm vi khách quan cho quan niệm về những mục đích của cuộc sống. Nó có thể đem lại cho ca nhân một thước đo chynh xác về mình trong mối quan hệi với xã hội, về with người trong hiện tại với with người quá khứ và tương lai, và về toàn bội ni ni trong trong trong quá lai, và về toàn bộ lịi ni trong trong quá khứ và tương lai, và về toàn bộ lịi ni trong trong quá khứ và tương lai, và về toàn bộ lửi ni trong trong quás hệ vũtr. BằNG CACH Mở RộNG NHữNG ốI TượNG TRONG SUY NGHĩ CủA ANH TA NÓ CUNG CấP ThuốC GIảI CHO NHữNG lo lắng và phiền muộn của hiệi, và choc pHép cach tiếp c chon ượt ạt. nhạy cảm trong thế giới bị tra tấn và bất định của chúng ta.

bertrand russell (1872-1970) là nhà triết học và nhà toán học người anh. Ông được trao giải nobel văn chương năm 1950 cho những tác phẩm đề cao các lý tưởng nhân đạo và tự do tư tưởng của mình.

copyright © 1946 by bertrand russell | bản dịch © 2017 nguyễn huy hoàng.

[1] có lẽ russell chơi chữ, so sánh tinh thần phê phán (“criticism”) với dung môi (“dissolver”), chất hòa tan một chất khác để tạo ra dung dịch (“solution”), chữ này cũng mang nghĩa “giải pháp.”

See Also: Mark Dawson – Book Series In Order

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *