Phân Tích Đặc Điểm Ngôn Ngữ Văn Học

Ngôn ngữ văn học phải chính xác

Ngôn ngữ văn học (tiếng Pháp : langue littéraire, tiếng Anh: literary language) là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn, nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn bọc và khoa học.Ngôn ngữ văn học phải chính xác

Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M. Go-rơ-ki khẳng định ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học.

Ngôn ngữ nhân dân là cội nguồn của ngôn ngữ văn học; được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến lượt mình, nó lại góp phần nâng cao, làm phong phú ngôn ngữ nhân dân.

Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác.

Tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học. Căn cứ chủ yếu để phân biệt ngôn ngữ văn học với các hình thái của hoạt động ngôn ngữ chính là ở chỗ, ngôn ngữ văn học là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mỹ. Nó được sử dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm, là xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp nghệ thuật. Vì vậy, tính hình tượng, tính thẩm mỹ là thuộc tính bản chất, xuyên thấm vào mọi thuộc tính khác, quy định những thuộc tính ấy.

Những thuộc tính chung trên đây biểu hiện qua các thể loại văn học với những sắc thái khác nhau. Ngôn ngữ của các tác phẩm trữ tình là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức cô đọng, hàm súc và đặc biệt gợi cảm. Ngôn ngữ tác phẩm kịch là ngôn ngữ các nhân vật được cấu trúc qua hệ thống đối thoại và gần gũi với tiếng nói thông thường của nhân dân. Ngôn ngữ của các tác phẩm tự sự, cũng như ngôn ngữ tác phẩm kịch, là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách. Song, sự khác biệt quan trọng giữa ngôn ngữ tác phẩm kịch với ngôn ngữ tác phẩm tự sự chính là ở chỗ, trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ người kể chuyện giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm.

Đặc Điểm Của Ngôn Ngữ Văn Học

Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ toàn dân để sáng tác tác phẩm văn học, đế sáng tạo ra ngôn ngữ văn học. Giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ vãn học có sự khác biệt. Theo Go-rơ-ki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói “nguyên liệu”, còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã được những người thợ tinh xảo nhào luyện.

Ngôn ngữ văn học có những đặc điểm riêng:

1- Ngôn ngữ văn học phải chính xác, tinh luyện và hàm xúc.

Thường thì một khái niệm có nhiều từ để diễn tả, nhưng chỉ một từ là đúng, là chính xác với điều nhà văn muốn nói. Trong khi viết văn, nhà văn phải lựa chọn từ nào là chính xác nhát. Các nhà văn cổ điển đã giác ngộ về ngôn ngữ sâu sắc, vì vậy, tác phẩm của họ có giá trị bền lâu.

Nguyễn Du tả Thúy Vân:

“… Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

và tả Thúy Kiều:

“… Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém:xanh”

“Thua” và “nhường”, “ghen” và “hờn” là những từ “định mệnh” của hai nhân vật, chính xác một cách tuyệt đối.

Tản Đà đã cân nhắc từ “tuôn” và “khô” cho câu thơ:

“Suối tuôn dòng lệ chà mong tháng ngày”

và: “ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”

Cuối cùng, tác giả đã chọn từ “khô” vì nó sâu hơn, chính xác hơn, tinh luyện hơn.

+ Viết văn phải dùng từ chính xác mới tái hiện và tái tạo đúng sự vật hiện tượng, miêu tả đúng cảnh vật, khắc hoạ đúng hình dáng, cá tính, tâm lí nhân vật. Qua đó nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ và cả tài năng của mình nữa.
+ Hơn năm trăm năm trước, Nguyễn Trãi viết:
“Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bợ cây”

Khi phiên đọc sang chữ Nôm, chữ quốc ngữ, có người đọc “bợ” thành “bẻ”. Xuân Diệu đã tìm ra sự sai sót này. Ông cho rằng “bợ” mới đúng tâm hồn cốt cách phong thái của người ánh hùng – nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, tâm hồn yêu thương cái đẹp như nước triều đông cuồn cuộn. Chữ “bợ” khiến hình tượng chủ thể trữ tình trong thơ hiện lên với vẻ đẹp của nhà hiền triết phương đông. Nhà hiền triết ấy, thích ẩn dật nơi thanh vắng, tìm thú thanh cao để tâm hồn tự tại, thanh tĩnh vĩnh hằng. Vì vậy đêm, Nguyễn Trãi làm bạn với trăng. Ông nghiêng chén để ánh trăng hoà vào ruợu và hớp nguyệt say với chất men nồng nàn mà cao nhã ấy. Và ánh sáng của vũ trụ đã nhập vào tâm hồn ông, nên ông sáng như sao Khuê. Ngày ông “bợ” hoa vì hoa là cái đẹp mong manh và yếu ớt. Ông yêu cuộc sống, nên trân trọng sự sống. Nếu đổi “bợ” thành “bẻ” thì đã vô tình đày ải thơ và Nguyễn Trãi giữa chốn trần tục một cách thô bạo. Và như thế  chất thơ sẽ  tiêu và hồn thơ sẽ tan.

Nói đến đặc điểm này, chúng ta cũng nên nhớ đến một ý kiến của Vích- to Huy-Go. Ông nói: “Trong tiếng Pháp không có từ nào hay, từ nào dở, từ nào đặt đúng chỗ là từ đó hay”.

Thật vậy, chúng ta hãy thưởng thức cái hay của sự “đặt đúng chỗ” đó:

“Lúa níu anh trật dép”

(Trần Hữu Thung)

Từ “níu” rất quen thuộc, được đặt vào văn cảnh này ý nghĩa trở nên mênh mông.

“Mình đi mình có nhớ mình”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Từ “mình” rất cũ, Tố Hữu đã dùng với ý nghĩa mới để diễn đạt nội dung tư tưởng cách mạng.

Đúng như Mai-a-cốp-xki nói “làm thơ là cân từ 1/1000 mg quặng chữ”.

2 – Đặc điểm thứ hai: Tính hỉnh tượng của ngôn ngữ văn học

Tính hỉnh tượng của ngôn ngữ văn học

Ngôn ngữ chia làm hai loại: Ngôn ngữ nhận thức và ngôn ngữ gợi hình gợi cảm. Ngôn ngữ gợi hình gợi cảm là ngôn ngữ hình tượng. Nhà văn phản ánh hiện thực và thế giới nội tâm bằng tư duy hình tượng và luận lí nên mượn ngôn ngữ hình tượng để xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Hình tượng không trừu tượng mà mang tính cảm tính cụ thể.
Một số ví dụ:
Ca dao:

“Lắng tai nghe tiếng em đàn
Tiếng êm như nhiễu nhẹ nhàng như tơ”
Trong truyện Kiều:

“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông”
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
Nguyễn Khuyến:
“Trời thu xanh ngắt mất tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” – (Thu vịnh)

Tính hình tượng gắn với tính đa nghĩa, tính hàm súc, tính chính xác và tính biểu cảm của ngôn ngữ văn học. Hình ảnh tác động sâu sắc đến tình cảm người đọc, tạo ấn tượng sinh động về sự vật được phản ánh, qua đó thấy được tình cảm và thái độ của tác giả.
“Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát”

(Tố Hữu  – Mẹ Tơm)

Ngôn ngữ văn học không trừu tượng như ngôn ngữ triết học, chính trị, cũng không phải ngôn ngữ kí hiệu hóa như một số môn khoa học.

Ngôn ngữ văn học trực tiếp xây dựng hình tượng trong tác phẩm nên nó không trừu tượng mà mang tính chất cảm tính cụ thể.

Ngôn ngữ gợi màu sắc:

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.”

(Hàn Mặc Tử)

“Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”

(Xuân Diệu)

“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”

(Nguyễn Du)

Ngôn ngữ gợi đường nét:

“Lơ thơ tơ liễu buông mành”

Ba âm “ơ” (lơ, thơ, tơ) gợi đường nét thưa thớt của những chiếc lá liễu buông mành.

“Súng bên súng đầu sát bèn đầu”

(Chính Hữu)

Hình ảnh của tình đồng chí: nét thẳng (súng) của ý chí hòa hạp với nét cong (đầu) của tình cảm.

Ngôn ngữ gợi hình khối:

“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

(Hồ Chí Minh)

“Cổ thụ” là một khối to đậm tiêu biểu cho sự hùng vĩ của núi rừng. “Hoa” là một nét nhỏ, nhẹ tiêu biểu cho vẻ thơ mộng của núi rừng. Tất cả đều nhuốm ánh trăng thật là huyền ảo.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Từ “đùn” miêu tả sự vận động của những khôi mây như núi bạc. Bên cạnh khôi mây khổng lồ đó, cánh chim đã nhỏ lại càng nhỏ hơn. Huy Cận đã diễn tả tài tình tâm trạng cô liêu trong tâm hồn thi nhân.

Nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả tâm trạng của ông khi trở về thăm người mẹ nuôi xưa với ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và nhạc tính:

Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát

Nhà thơ Tố Hữu nói: “Nhịp điệu của hai câu thơ là nhịp điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu của náo nức xôn xao và biết bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình”.

3- Đặc điểm thứ ba của ngôn ngữ văn học là tính biểu cảm.

ngôn ngữ văn học là tính biểu cảm

– Tính biểu cảm biểu hiện qua tác phẩm bằng hình tượng bao quát và ngay trong những từ ngữ cụ thể. Tính biểu cảm biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như gián tiếp, trực tiếp, có hình ảnh hoặc chỉ là ngôn ngữ thuần tuý. Tuy vậy, tính biểu cảm bộc lộ rõ nhất ấy là khi tác giả muốn nhấn mạnh cảm xúc nội tâm.
– Một vài ví dụ:
+          “Con sông bên lở bên bồi
Một con cá lội biết  mấy người buông câu

(Ca dao)
+     “Bốn bề ánh bạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê

(Xuân Diệu – Nguyệt cầm)
+     “Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ tắt
Như miền Nam
Không đêm nào ngủ được
Như cả nước
Với miền Nam
Đêm nào cũng thức

(Chính Hữu – Ngọn đèn đứng gác)

Ngôn ngữ vãn học chẳng những phải chính xác, phải có tính hình tượng mà còn có giá trị biểu cảm. Văn học trực tiếp bộc lộ cảm xúc của nhà văn qua ngôn ngữ văn học. Nhà nghệ sĩ giàu cảm xúc nên ngôn ngữ văn học giàu tính biểu cảm. Tất nhiên, tính biểu cảm có thể bộc lộ dưới nhiều dạng thức: trực tiếp, gián tiếp, có hình ảnh hoặc là ngôn từ thuần túy.

Khi Nguyễn Trãi viết: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn” thì từ “nướng” đã chứa chất cả tinh thần phẫn nộ của ông đối với giặc Minh.

Khi Tú Xương viết: “Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông” thì từ “lèn” vừa diễn tả chính xác hành vi của kẻ cướp, lại vừa bộc lộ thái độ châm biếm, chế giễu tên quan tuần phủ.

Khi Xuân Diệu viết: “Con cò trên ruộng cánh phân vân” thì cánh cò ấy là cánh cò đầy tâm trạng của trái tim đang yêu của thi sĩ.
Khi Chế Lan Viên viết: “Ta là ta mà vẫn cứ mê ta” là ông quá say mê với cuộc sống, quá tự hào về thời đại và dân tộc mà ông đã diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ trần trụi như thế.

Văn học là một hình thái ý thức xã hội và cũng là một hình thái nghệ thuật, nhưng văn học khác với các ngành nghệ thuật khác nhờ đặc trưng chất liệu sáng tạo tác phẩm. Ngôn ngữ văn học có tính chính xác, hàm súc, đa nghĩa, hình tượng và biểu cảm. Ngôn ngữ văn học tạo được tác dụng và hiệu quả thẩm mĩ cho văn bản văn chương. Tuy vậy, ngôn ngữ văn học chỉ có thể đẹp và phát huy những phẩm chất của chúng khi nhà văn thực sự tài năng, có năng lực làm chủ vốn ngôn ngữ và có cá tính sáng tạo độc đáo. Tsêkhôp: “Mỗi nhà văn phải có lối nói riêng của mình. Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả.” Hay H.D. Balzac: “Nghệ sĩ càng lớn thế giới riêng của tác phẩm càng nổi bật.”

Như vậy Phê Bình Văn Học đã phân tích đầy đủ những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn học. Trong quá trình phân tích tác phẩm, học sinh cần hiểu rằng “từ ngữ là những hiệp sĩ trong đạo quan không thể thay thế được” và “mỗi từ đều có khả năng phát động môi trường liên tưởng rộng lớn”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *