An Dương Vương trong thư tịch và truyền thuyết

An Dương Vương trong thư tịch và truyền thuyết

Phê Bình Văn Học xin giới thiệu đến các bạn học sinh lớp 10 tài liệu Phân tích An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học tập tốt hơn môn Ngữ văn 10. Mời các bạn cùng tham khảo bài phân tích có chọn lọc hay nhất do Phê Bình Văn Học chia sẻ dưới đây nhé!

1. Phần 1

Bắt đầu lịch sử văn học Việt Nam, các tác phẩm ban đầu được sử dụng ký tự để sáng tạo, đan xen với nhiều hình thức ghi chép như sử, luật, triết, chế, chiếu và biểu…v.v. Trong nghiên cứu văn học vào nửa cuối thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã gọi đây là “thời kỳ văn sử bất phân”. Đồng thời, văn học dân gian từ lâu đã tồn tại và tiếp tục phát triển song song với văn học viết, đi qua các giai đoạn phát triển độc lập của mình. Các tác phẩm văn học dân gian được ghi lại bởi các nhà tri thức tại một thời điểm nhất định, ngay lập tức trở thành một phần của văn học viết, đồng thời là một phần của cấu trúc hợp pháp của văn học viết.

Vấn đề nghiên cứu truyện An Dương Vương trong mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết, theo quan điểm “hai dòng văn học” của Lênin, cho thấy sự biến dạng nhiều đặc trưng vùng miền và lịch sử trong sự lan truyền của cộng đồng dân tộc. Các chi tiết câu chuyện có thể được thêm bớt tùy thuộc vào quan điểm của người viết hay người truyền tụng. Người truyền tụng trong diễn xướng dân gian khác biệt hoàn toàn so với những người truyền giáo hay thuyết giả. Câu chuyện về Thục Phán dẫn quân đánh bại vua Hùng, đổi tên Vương quốc Văn Lang thành Âu Lạc với niên hiệu An Dương, và nối liền với bi kịch của con gái vua An Dương, khi bị vua Triệu Đà mưu hại và cái chết bi thảm của Mị Châu, đã trở thành một câu chuyện vĩnh cửu trên miệng mọi người. Chính vì vậy, chủ đề về An Dương Vương đã xuất hiện trong ba dị bản vào thế kỷ XV trong văn học viết Việt Nam, được biết đến qua ba tác phẩm khác nhau. “Lĩnh Nam chích quái” của Trần Thế Pháp viết về An Dương Vương với lối viết súc tích, những câu văn giàu hình ảnh. Ví dụ, đoạn miêu tả cảnh cha con trên cùng một con đường, khi Mị Châu hy sinh vì lòng hiếu thảo, cô ngửa mặt lên trời cầu nguyện: “Thiếp là con gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại đến phụ thân thời chết hóa thành bụi trần, bằng như một niềm trung tín bị người phỉnh phờ thời hóa làm ngọc châu để rửa cái thù nhục nhã này.” Mị Châu chết bên bờ biển, máu chảy xuống nước, hàu hến cắn vào trái tim, biến thành ngọc châu. Vương An Dương cầm sừng tê bảy tấc theo lời của thần Kim Quy rẽ nước xuống biển. Truyền thuyết cho rằng nơi này, ở chân núi Mộ Dạ, làng Cao Xá ngày nay thuộc châu Diễn. Quân Triệu Đà đuổi theo nhưng chỉ thấy tử thi của Mị Châu. Trọng Thủy ôm thầy Mị Châu khóc, đem về chôn tại Loa Thành, hóa thành giếng Ngọc. Trọng Thủy thương tiếc vô cùng, nhớ về những nơi Mị Châu trang điểm hay tắm gội, ông nhảy xuống giếng và chết. Sau này, những ai được ngọc châu từ giếng ấy múc nước để rửa, ngọc châu sẽ càng thêm rực rỡ.

2. Phần 2

Xâu chuỗi liên hoàn trong sách “Tân đính Lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh kể về việc vua vô tình gả con gái Mị Châu cho con trai Triệu Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy và Mị Châu đến xem trộm nỏ thần và sau đó làm một cây nỏ giả thay thế, vuốt rùa vàng, và nói dối rằng anh ta đi phương Bắc thăm cha. Trọng Thủy nói với Mị Châu rằng: “Tình vợ chồng không thể quên, nghĩa mẹ cha không thể bỏ rơi. Giờ ta phải trở về thăm cha, nếu hai nước bất hòa, cách biệt giữa Bắc và Nam, thì ta sẽ tìm cách để Mị Châu biết được điều gì?” Mị Châu đáp: “Thiếp là con gái, nếu phải chịu cảnh ly biệt thì đau đớn lắm đây.”

Đó là cách Vũ Quỳnh gắn kết câu chuyện với những tình tiết liên hoàn trong “Tân đính Lĩnh Nam chích quái”: 

“Vua An Dương phí sức xây thành 

Thần Kim Quy hiến kế chém yêu tinh.”

Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần triều Lê đã tinh giản tối đa và biến các tình tiết truyện thành sự kiện. Mặc dù được viết trong cùng một thời kỳ gần nhau, ba phiên bản này khác nhau về cách xây dựng văn bản. Có lẽ Đại Việt sử ký toàn thư đã tái sử dụng tư liệu từ hai sách trên để ghi lại lịch sử Việt Nam trong thời kỳ thượng cổ. Với bản chất là một dạng văn học dân gian được phổ biến theo mức độ học vấn, rồi được biến đổi lại theo hình thức truyền miệng, sách Đại Việt sử ký toàn thư trong phần Ngoại kỷ viết rằng: “An Dương vương trị vì 50 năm. Họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục đóng đô tại Phong Khê (nay là thành Cổ Loa). Vào năm Giáp Thìn (257 TCN), vua đã thống nhất Văn Lang và đổi tên quốc gia thành Âu Lạc. Ban đầu, vua nhiều lần tiến binh đánh đâu Hùng vương, nhưng Hùng vương có binh mạnh, tướng tài, khiến vua liên tiếp thất bại. Hùng vương nói: “Ta có thần giúp sức, nước Thục có sợ sao?” Sau đó, Hùng vương chỉ quan tâm đến ăn chơi vui vẻ, không quan tâm đến việc điều binh. Quân Thục tiến sát, khi vua còn say sưa, chưa tỉnh, ông đã nhảy xuống giếng và tự sát. Dân chúng quay đầu đầu hàng Thục vương. Đoạn sau chi tiết việc Thục vương xây dựng thành Cổ Loa, đánh đuổi quân Tần, và đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, với vua xưng là An Dương vương. Khi “nỏ thần vô ý trao tay giặc” nước mất.

Năm 1758, sách Đại Việt sử ký tiền biên đã phủ nhận một chi tiết: “An Dương vương tộc họ Phán, không phải họ Thục, và ông đã trị vị trong vòng 50 năm. Các sử gia cũng ghi lại nhiều sự kiện như Đại Việt sử ký toàn thư và nhấn mạnh rằng ‘tổ tiên của vua Thục kết hôn với con gái của Hùng Vương là Mị Nương, điều này bị coi là mối căm thù, và ông để lại di chúc cho con cháu rằng phải tiêu diệt nước Văn Lang. Vào thời điểm đó, vua đã có đủ dũng cảm để thôn tính’.” Thực tế, mỗi đoạn văn trên đã trở thành một dị bản văn học dân gian, nhưng chưa hoàn thiện và thiếu sự tượng hình văn học. Đây là dị bản thứ tư ở thế kỷ XV (ĐVSKTT) và thứ ba ở thế kỷ XVIII (ĐVSKTT) của truyền thuyết về An Dương vương. Trong thế kỷ XV, Ngô Sĩ Liên đã tranh luận rằng: “Bởi vì thần luôn cảm nắng người để hành động, dựa vào vật để nói. Khi nước thịnh thì thần xuống giảng dạy để xem họ có tốt hay không; khi nước suy tàn thì thần xuống giảng dạy để xem họ có xấu hay không… An Dương vương xây dựng thành Cổ Loa không phải một việc dễ dàng, và dân chúng thật sự cần sự hướng dẫn của thần luôn vào vật để giúp họ. Nhưng liệu điều này có khiến dân oán trách quá mức không?” Và theo lý lẽ logic của sử gia, “tất cả các hiện tượng thần thánh, ma quái đều là một cách giả thuyết để làm cho những vật thiêng hóa. Có thể như việc bảo vệ nước chống giặc, nếu họ tuân thủ đạo lý đúng, nước sẽ thịnh vượng và được nhiều người giúp đỡ; nhưng nếu họ vi phạm đạo lý, nước sẽ suy thoái và ít người giúp đỡ.”

Hơn 200 năm sau đó, sử thần Ngô Thì Sĩ cũng nhắc đến “phàm vật gì mà trái với thường thì gọi là yêu, yêu khí mạnh tất phải có nơi dựa, nhưng dựa vào con gà và người con gái để đạp đổ thành thì rõ ràng là không có lý.” Trong thời kỳ cổ xưa, khi các tiểu vương quốc đã và đang hình thành ở các nước Đông Nam Á, sự tranh giành địa bàn sinh sống hoặc tính chủng tộc tự tôn của nhân dân cũng đã để lại dấu ấn trong lịch sử. Những dấu ấn lịch sử này được lưu giữ và truyền lại qua nhiều thế hệ, nhưng mỗi dị bản này đều đã bị “tô hồng” hoặc “bôi đen” theo sự phát triển của từng cộng đồng dân tộc. Nói cách khác, dù là truyền thuyết đã được ấn định trong một văn bản cụ thể hay vẫn còn được truyền miệng, mỗi dị bản đều mang đậm tính riêng biệt trong cách xử lý tình tiết câu chuyện.

Vào giữa thế kỉ XVI (khoảng 1548-1553), tác giả Việt Sử Diễn Âm đã dựa vào các tư liệu sử cũ và có lẽ đã khảo sát lại về truyền thuyết về An Dương vương ở địa phương, nên phần diễn ca trong tác phẩm này dài hơn, từ câu 65 đến câu 165. Điều đáng chú ý là về cái chết của Mị Châu, không phải do cha mà là do nàng tự vẫn:

“Rằng tôi thần đạo thực thà 

Vì chồng cho lỗi đạo cha muôn đời 

Bởi vì lòng dễ nghe lời 

Há rằng tôi có một lời chẳng ngay 

Tả hết nỗi lòng đắng cay”

Mị Châu tự vẫn trong sự đau khổ tột cùng (Hình ảnh minh hoạ)
Mị Châu tự vẫn trong sự đau khổ tột cùng (Hình ảnh minh hoạ)

Mị Châu tự vẫn thương tiếc không thốn nỗi. Vào đầu thế kỷ XVII (khoảng 1624 – 1657), tác giả Thiên Nam Minh Giám dường như đã nghiên cứu kỹ lưỡng các bộ sử cũ và rất ấn tượng với những lời phê bình sắc sảo của Ngô Sĩ Liên, nhấn mạnh rằng:

“Họ Cao nhiều chước đem quân 

Một niềm son đỏ mười phần thảo ngay 

Từng nhiều trận ra tay thước lạ 

Thao lược nhiều khác giá mọi người 

Dựng nên thần nỏ để đời”

Vuốt rùa chẳng có sức người sao thiêng. Khi xét về phiên âm Thiên Nam ngữ lục của Nguyễn Lương Ngọc vào khoảng giữa thế kỷ XX (1959), Đinh Gia Khánh đã nhận xét: “Thiên Nam ngữ lục không phải là một tác phẩm sử thi mà lại nói về thảm tình của Mị Châu và Trọng Thủy dựa trên truyền thuyết và thần thoại; ý chính của truyền thuyết là Trọng Thủy là một người vô đạo đã đánh cắp nỏ thần và lợi dụng lông ngỗng trên đường để dễ dàng trốn thoát với Mị Châu và cha con An Dương vương; Mị Châu không phải là một người không chung thuỷ như các sách Trung Quốc mô tả mà lại rất hiền lành và trung thành; sau khi Mị Châu qua đời, xác cô đã trôi ngược về Cổ Loa từ biển phương Nam; linh hồn của Mị Châu đã nhập vào một tảng đá, thường xuất hiện vào ban đêm để trách mắng cha con Triệu Đà…”

Rõ ràng là trong dị bản sau của truyền thuyết An Dương vương, được biên soạn trong Thiên Nam ngữ lục – một diễn ca lịch sử của thế kỷ XVIII, có sự khác biệt lớn về câu chuyện về cái chết và hành trình về sau của Mị Châu (mặc dù chỉ còn xác chết), so với các dị bản trước. Điều đặc biệt hơn, dị bản Thiên Nam ngữ lục còn thêm vào câu chuyện rằng Mị Châu đã có một đứa con với Trọng Thủy trước khi gặp nạn:

“Xương chu giồng ắt nở lên 

Năm sau nàng Mị mỗ liền có thai. 

Mãn nguyệt sinh đặng con trai 

Diện mạo hiền tài tư chất thong dong… 

Và ông ngoại An Dương vương thì: 

An Dương dấu nể trong lòng 

Lấy làm khí huyết sinh cùng thịt xương. 

Nâng niu xem bằng ngọc vàng 

Yêu con dấu mị chẳng phương chút rời”

Tuy không có con trai đã cháu trai… Sử triều Nguyễn Khâm, tác giả của Việt sử thông giám cương mục, không đưa ra một dị bản mới về truyền thuyết An Dương vương mà chỉ trung thành với Đại Việt sử ký toàn thư. Tuy nhiên, một phiên bản khác của truyện An Dương vương lại được tái hiện trong Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, với 35 câu thơ trên sáu dưới tám. Sử ca này tái hiện từ khi An Dương vương lên ngôi đến lúc “cơ mưu chẳng nhiệm thôi còn trách ai”, trước khi bày tỏ sự phê phán đối với An Dương vương; các tác giả đã đưa khá nhiều sự kiện lịch sử vào câu chuyện. Nhà Tần thôn tính thiên hạ, lập chức úy, phân công quan văn và quan võ trị nhậm ở từng quận huyện:

“Thục vương có nỏ thần quyền 

Muôn quân buông một lượt tên còn gì 

Nhâm Ngao mắc bệnh trở về 

Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa. 

Bình Giang rạch nửa sơn hà 

Bắc là Triệu úy, nam là Thục vương. 

Mặt ngoài hai nước phân cương 

Mà trong Triệu lại mượn đường thông”

Nhìn nhận khách quan từ những câu ca tả thực, có thể thấy rõ ràng “biên cương” thời các tiểu vương quốc chỉ là ranh giới tạm chấp nhận với nhau giữa các dòng họ hoặc một tộc người. Theo như lời ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, thời đó sông Thương (hay sông Bình Giang trong diễn ca) là đường giáp giới của “hai nước”, một là của Triệu Đà và một là của Thục Phán. So với hiện tại, địa phận mà các vị quản lý cai trị chỉ nhỏ như một tỉnh hoặc ba, bốn huyện ngày nay.

Nhân vật Thục Phán, hay An Dương vương, “người Ba Thục”, cuộc đời ông được ghi lại như thế nào trong các dị bản truyền thuyết từ thời Lê đến thời Nguyễn? Tất cả bốn dị bản trong thư tịch cổ Việt Nam đều đồng ý về một cốt truyện chung, nhưng chi tiết về mối tình và bi kịch tình yêu của Trọng Thủy – Mị Châu được ghi chép khá chi tiết.

Đến ngày nay, truyền thuyết dân gian về An Dương vương ở Cao Bằng vẫn kể: Hơn 2000 năm trước, ở phía bắc nước Văn Lang, ở đầu sông Tả, tồn tại nước Nam Cương, gồm chín xứ: Bảo Lạc, Hà Quảng, Hạ Lang, Thái Ninh, Thạch An, Thạch Lâm, Phục Hòa, Quảng Uyên, Quỳ Sơn hợp thành. Vua đặt niên hiệu là Thục Chế An Trị và đóng đô ở quận Nam Bình (tức Cao Bình = Cao Bằng sau này). Sau 60 năm cai trị, vua Thục Chế qua đời, thọ 95 tuổi. Con trai là Thục Phán lên ngôi khi mới 10 tuổi. Thực tế, Thục Phán kế vị cha nhưng quyền lực thực sự lại nằm trong tay cháu vua Thục Mô, người đứng sau rèm nắm giữ quyền hành cai trị nước Nam Cương. Lãnh chúa của chín vùng này không hoàn toàn phục tùng, mà thậm chí nổi dậy chống lại. Tình hình kéo dài vài năm, Thục Mô cuối cùng phải trao lại toàn bộ quyền hành cho Thục Phán, người đang là vị vua hiện thời.

Vua Thục Phán mở cửa thành, mời cả chín lãnh chúa trong nước Nam Cương đến hội kiến. Sau khi đàm phán, chín lãnh chúa đề nghị vua Thục Phán mở cuộc thi tài. Vua vui vẻ đồng ý và hai cuộc thi tài đã được tổ chức. Hơn thế nữa, vua Thục Phán đặt điều kiện rằng người chiến thắng cuộc thi sẽ được nhận ngôi báu của vua. Cuộc thi đầu tiên là các cặp lãnh chúa đấu võ với nhau.

Hơn 2000 năm trước, ở phía bắc nước Văn Lang, tại đầu sông Tả, tồn tại nước Nam Cương, gồm chín xứ: Bảo Lạc, Hà Quảng, Hạ Lang, Thái Ninh, Thạch An, Thạch Lâm, Phục Hòa, Quảng Uyên, Quỳ Sơn hợp thành. Vua đặt niên hiệu là Thục Chế An Trị và đóng đô ở quận Nam Bình (tức Cao Bình = Cao Bằng sau này). Sau 60 năm cai trị, vua Thục Chế qua đời, thọ 95 tuổi. Con trai là Thục Phán lên ngôi khi mới 10 tuổi. Thực tế, Thục Phán kế vị cha nhưng quyền lực thực sự lại nằm trong tay cháu vua Thục Mô, người đứng sau rèm nắm giữ quyền hành cai trị nước Nam Cương. Lãnh chúa của chín vùng này không hoàn toàn phục tùng, mà thậm chí nổi dậy chống lại. Tình hình kéo dài vài năm, Thục Mô cuối cùng phải trao lại toàn bộ quyền hành cho Thục Phán, người đang là vị vua hiện thời.

Vua Thục Phán mở cửa thành, mời cả chín lãnh chúa trong nước Nam Cương đến hội kiến. Sau khi đàm phán, chín lãnh chúa đề nghị vua Thục Phán mở cuộc thi tài. Vua vui vẻ đồng ý và hai cuộc thi tài đã được tổ chức. Hơn thế nữa, vua Thục Phán đặt điều kiện rằng người chiến thắng cuộc thi sẽ được nhận ngôi báu của vua. Cuộc thi đầu tiên là các cặp lãnh chúa đấu võ với nhau. Cụ thể là Tiến Đạt xứ Thạch Lâm đấu với Ngọc Tăng xứ Phục Hòa, Thiết Vận xứ Quảng Yên đấu với Việt Dũng xứ Thái Ninh, Văn Thắng xứ Quỳ Sơn đấu với Thành Giáo xứ Hạ Lang, Tuyền Thương xứ Hà Quảng đấu với Quang Thạc xứ Bảo Lạc và Tiến Đạt lại đấu tiếp với Kim Đán xứ Thạch An. Cả chín lãnh chúa ai cũng tự cho mình là tài giỏi võ nghệ.

Hết thời hạn thi đấu, không có cặp nào thắng cuộc. Cuộc thi thứ hai là thi trình nghề. Thời gian hạn định trong ba ngày ba đêm, trước lúc gà gáy canh năm ai hoàn thành việc mình đã được nhận thi tài trình nghề đến trước thì được vua trao ngôi cho. Lần thi tài thứ hai vua “ra đề” có linh hoạt hơn: Chúa Quảng Thạc mua trống đồng từ Bắc quốc, chúa Ngọc Tăng đóng thuyền rồng, chúa Việt Dũng làm nghìn bài thơ, chúa Tiến Đạt nhổ mạ cấy phủ kín đồng Chúp, hai chúa Tuyền Thương và Thành Giáng lấy đá đốt vôi gạch đủ xây thành, chúa Văn Thắng đẽo đá làm guốc, chúa Kim Đán bắn rụng lá đa bằng cung tên, chúa Thiết Vận mài lưỡi cày làm kim. Biết là công việc giao cho mỗi chúa đều khó khăn cả, vua còn cho tuyển chọn đủ chín cung nữ xinh đẹp, có võ nghệ đoan trang khôn khéo ngầm đi theo chín chúa để làm tình với chín chúa trong thời hạn thi tài. Kết cục, chẳng ai thắng cuộc, cả chín chúa hết mộng được làm vua.

Khẩu ngữ dân gian Tày ghi nhớ sự kiện chín chúa tranh vua bằng khẩu ngữ tiếng Tày là “cẩu chủa cheng vùa”. Một số địa danh, di tích ngày nay vẫn còn được dân chỉ rõ, ví dụ như phia Mịa xứ Thạch Lâm là núi Mại của huyện Hòa An (tên cũ là Thạch Lâm), Quy Sơn nay thuộc Quảng Tây (Trung Quốc), đồng Chúp nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Hòa An… vv. Vua Thục Phán cai trị đất nước Nam Cương bình an thịnh vượng, đến năm 21 tuổi thì nhiều lần cất quân đi thôn tính các tiểu vương quốc lân cận. Sau khi đổi tên nước thành Âu Lạc và lấy quốc hiệu An Dương vương, vua Thục Phán trụ vững trên ngai vương gần nửa thế kỷ. Tuy nhiên, ở phương bắc, Triệu Đà bắt đầu âm mưu xâm chiếm Âu Lạc – đất nước mà vua Thục Phán đã xây dựng. Triệu Đà lén lút dụ con trai là Trọng Thủy sang làm con rể vua An Dương vương. Trọng Thủy đã lấy trộm nỏ thần, giúp Triệu Đà chiếm thành cổ Loa và lập kinh đô mới.

Câu chuyện tình sử giữa Trọng Thủy và Mị Châu để lại nhiều bài học cảnh tỉnh về cách thức quản lý quốc gia và hậu quả của sự lạm dụng quyền lực. Vai người đứng đầu của hai nước vì quá tin tưởng vào lời khéo léo của một phía, đã gieo vào đôi trẻ những nỗi băn khoăn giữa công việc và tình yêu, dẫn đến một bi kịch tình yêu chẳng bao giờ nguôi sáng.

Nhiều câu ca và truyện thơ dân gian lấy cảm hứng từ câu chuyện này, tái hiện lại những chi tiết cụ thể về sự kiện lịch sử qua những bản tả thực mỹ miều. Truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” được tác giả Lê Sơn biên soạn thành một truyện thơ dài hơn một nghìn câu, chi tiết phác họa lại một cách sâu sắc:

“Từ khi vua An Trị xưng vương 

Dân đất nước An Cương an lạc 

Không hề có quân giặc quấy mường 

Chín xứ khắp bốn phương thần phục 

Hoặc khi đổi tên nước là Âu Lạc thì có đoạn: 

Thục Phán từ đó xưng vương 

Hiệu là An Dương vương hoàng đế 

Liền đóng đô ở Cổ Loa thành 

Đổi quốc hiệu lấy tên Âu Lạc 

Từ đây là đất nước hùng cường 

Nhân dân khắp bốn phương yên ổn.”

Trong các chi tiết của truyền thuyết “Chín chúa tranh vua”, địa danh Khau Khấu và Phia Gót, nơi mà chúa Thành Giáng của xứ Hạ Lang đã sử dụng đá thay gạch để xây thành, và “nàng tiên nữ theo chàng lên núi/ Khuôn đá xanh xuống núi xây thành/ Giúp Thành Giáng cửa đông xây nốt”, ngày nay thuộc xã Hoàng Trung, huyện Hòa An, nằm gần ngôi đền vua Lê trong khuôn viên thành Nà Lữ. Có lẽ sự kiện xây thành như truyền thuyết kể lại là có cơ sở thực tế. Tuy nhiên, đối với chúng tôi, truyền thuyết dân gian chỉ là một tia hy vọng mong manh, có ý nghĩa văn hóa, nghĩa là tri thức dân gian đã hình tượng hóa biểu tượng, nhằm tô điểm hoặc biến tấu biểu tượng theo góc nhìn nghệ thuật của truyền miệng. Tuy vậy, đối với mọi truyền thuyết hay giai thoại dân gian, người nghiên cứu văn hóa lịch sử cần lắng nghe để hiểu và tìm kiếm sự thật. Dị bản mà Lã Văn Lô viết lại vào năm 1963 vẫn được truyền tụng trong cộng đồng dân gian.

Năm 2001, nhóm tác giả Non nước Cao Bằng lại kể rằng Thục Phán là người ở bộ Vũ Định thuộc nước Văn Lang. Ngược lại, trong 60 năm gần đây, truyền thuyết về An Dương vương đã được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu và thu thập. Ví dụ, vào năm 1959, Nguyễn Đổng Chi trong “Lược khảo thần thoại Việt Nam” đã viết lại câu chuyện một cách ngắn gọn, với phong cách hiện đại. Đoạn trích sau đây là một ví dụ: “Yêu quái trừ xong, quả nhiên An Dương vương xây thành không đổ nữa. Chẳng bao lâu thành đắp xong, cao lớn, dài hơn ngàn trượng hình xoáy trôn ốc, gọi là Loa thành. Trước khi ra về, thần Kim Quy rút móng trao cho An Dương vương, bảo dùng làm lẫy nỏ có thể đánh đổ kẻ thù rất mạnh mẽ.”

3. Phần 3

Trong thư tịch và truyền thuyết về An Dương vương, phạm vi được hạn chế tự mình không đề cập đến những vấn đề thư tịch và văn học dân gian Việt Nam. Sự thật về lịch sử của mỗi dân tộc trên thế giới thường có một phần bắt đầu từ thần thoại; tuy nhiên, thần thoại hiện nay đã gần như biến mất, chỉ còn lại những mảnh vụn trong sử thi và truyền thuyết dân gian. Dù thế, truyền thuyết khi phát triển đến mức cao nhất, vẫn tận dụng các kỹ thuật sáng tạo nghệ thuật của thần thoại, thậm chí biến đổi các sự kiện lịch sử thành những câu chuyện huyền thoại.

Hai xu hướng hóa lịch sử truyền thuyết và thần thoại hóa lịch sử ở Đông Nam Á nói chung, và đặc biệt là ở Việt Nam, thường hiện diện xen kẽ và tương tác trong văn hóa dân gian, tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa văn học viết – ví dụ như các đoạn sử ký trong các bộ cổ sử – và văn học dân gian, không thể phân chia rõ ràng về thể loại và nội dung phản ánh. Điều duy nhất là truyền thuyết không phải lúc nào cũng là chân lý lịch sử; tuy nhiên, không thể bỏ qua trong bất cứ nghiên cứu sử học nào.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *