Phân tích 14 câu đầu bài Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du. Phê Bình Văn Học sẽ hướng dẫn chi tiết cách phân tích đề, xây dựng dàn ý mẫu chi tiết và tham khảo bài phân tích hay…
Đề bài: Phân tích 14 câu đầu trong tác phẩm Trao duyên trích Truyện kiều của tác giả Nguyễn Du
Bêlinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Thơ ca, cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không hấp thụ được nguồn sống mạnh mẽ ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì sẽ mãi là một cây non yếu ớt, không có những cành cây chắc khỏe, những chiếc lá xanh tươi đón ánh nắng mặt trời. Là một nhà thơ, ngòi bút của bạn phải chấm vào mực sống của cuộc đời thì thơ của bạn mới tươi sáng, sâu sắc trong lòng người thưởng thức. Và hơn cả, để trở thành “thi sĩ vĩ đại” đòi hỏi người đó phải có một trái tim đồng cảm với những linh hồn cô đơn, phải lắng nghe tiếng khóc khổ đau của nhân loại để từ đó biến tác phẩm của mình thành tiếng nói đại diện cho những kiếp người mòn mỏi trong xã hội. Đến với những vần thơ của Nguyễn Du, ông đã thể hiện tiếng lòng của mình, để linh hồn của tác phẩm “Truyện Kiều” neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta qua hình tượng nàng Kiều sắc sảo nhưng phải trải qua những đau thương chất chồng trong cuộc đời. Nếu Thúy Kiều đau đớn trao duyên thì Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh Trao duyên bằng những lời thơ tan nát lòng người, đặc biệt qua mười bốn câu thơ đầu:
“Cậy em em có chịu lời,
…
Duyên này thì giữ vật này của chung.”
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, Nguyễn Du không còn là cái tên xa lạ. Ông không chỉ là một nhà thơ lớn của dân tộc mà còn là một danh nhân văn hóa thế giới, một bậc thầy về ngôn ngữ và một người có quan điểm tư tưởng tiến bộ nhất trong xã hội phong kiến đương thời. Cuộc đời Nguyễn Du là những trải nghiệm phong trần, từ chốn quan trường xa hoa đến nông thôn nghèo khó, giúp ông thấu hiểu và nắm vững ngôn ngữ nghệ thuật dân gian. Ông từng nói mình là người “Thiên tuế trường ưu vị tử tiền” (trước khi chết còn lo mãi chuyện ngàn năm), thể hiện nỗi bi thương tột cùng và phẫn nộ lớn lao nhưng luôn gần gũi với trái tim người. Nỗi đau đời to lớn này là bản chất của ông, như A. Musset từng nói, “không gì làm cho chúng ta bằng nỗi đau đớn.” Nỗi đau đớn của Nguyễn Du đã thanh lọc và nâng đỡ tất cả chúng ta.
Phong cách sáng tác của Nguyễn Du luôn mang theo “khối u sầu một đời,” đặc biệt trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”. Tác phẩm này là những dòng thơ lục bát tinh tế kể về cuộc đời nàng Kiều với bao cay đắng, tủi hờn và đoạn trích “Trao duyên” là một trong những phần hay nhất. Chỉ với mười bốn dòng thơ đầu, người đọc đã thấy được bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của nàng Kiều, khiến lòng người không khỏi xót xa, tiếc thương.
Đoạn trích này nằm từ câu 723 đến câu 756, thuộc phần gia biến và lưu lạc. Đây là thời điểm đánh dấu sự kết thúc của cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Thúy Kiều, mở ra một chặng đường đầy phiêu bạt, đắng cay và đau khổ kéo dài suốt mười lăm năm. Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về Liêu Dương gấp để chịu tang chú, đúng lúc đó, gia đình Thúy Kiều bị bọn sai nha vu oan. Nàng buộc phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình làm vợ lẽ cho Mã Giám Sinh để có tiền hối lộ cứu cha và em khỏi đòn tra khảo tàn nhẫn. Vì thế, nàng không thể giữ trọn lời thề với Kim Trọng, mang trong lòng một nỗi đau khôn nguôi.
“Một mình nàng ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu”
Khi công việc gia đình đã ổn thỏa, Kiều thức trắng đêm suy tư về số phận và tình yêu của mình. Nàng nhờ em gái Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, Kiều trao duyên xong mới bán mình, nhưng trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì ngược lại. Lý do là mọi việc đã an bài, nếu Kiều không bán mình thì Thúy Vân sẽ không đồng ý vì chữ hiếu và cảm thấy mình không còn xứng đáng. Lúc này, Kiều không còn làm chủ cuộc đời mình, điều duy nhất nàng có thể sắp đặt là “Trao duyên.” Với sự trăn trở “vì ta khăng khít cho người dở dang,” những cảm xúc mãnh liệt đã thúc đẩy Kiều hành động sau những suy nghĩ đắn đo:
“Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.”
Bi kịch tình yêu, số phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều được thể hiện rõ ràng trong đoạn thơ. Nàng phải đem tình yêu đầu đời vẫn còn sâu đậm để trao lại cho em gái. “Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên,” hôn nhân là việc hệ trọng cả đời, không có tình yêu sao có thể thành vợ chồng, nhưng vì thương cha, nàng đành bán mình; vì thương người tình, nàng đành nhờ cậy em:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Ngay từ những dòng thơ đầu, sự thông minh của Kiều được thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ đầy khéo léo. Nàng “cậy em” chứ không phải “nhờ em,” sử dụng một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi lên sự quằn quại, đau đớn và khó nói trước việc vô cùng tế nhị. Trong hoàn cảnh đó, Vân chính là niềm an ủi cuối cùng mà Kiều có thể bấu víu để vượt qua cơn thác lũ của số phận oan nghiệt. Từ “cậy” không chỉ mang ý nghĩa nhờ vả mà còn bao hàm sự tin cậy, trông cậy, hy vọng, ủy thác và cả sự phó mặc.
Bên cạnh đó, Kiều còn khéo léo sử dụng từ “chịu” thay vì “nhận.” Việc sử dụng từ này cho thấy Kiều hiểu rõ tình huống khó xử của em mình; “chịu” gợi lên cảm giác bị ép buộc, phải chấp nhận điều mình không mong muốn. Điều này cho thấy sự thiệt thòi của Thúy Vân, và Kiều không chỉ thuyết phục em mà còn đặt mình vào vị trí của Vân để hiểu rằng em không mấy vui vẻ, hài lòng. Qua đó, người đọc hình dung ra một nàng Kiều, ngay trong lúc đau đớn nhất, vẫn nghĩ đến nỗi đau của người khác – một nàng Kiều vị tha, sâu sắc. Phải chăng đó chính là nhân cách cao đẹp của nàng?
Nguyễn Du đã chọn lọc từ ngữ chính xác và phù hợp với hoàn cảnh của nhân vật. Bên cạnh việc sử dụng từ ngữ, ông còn chú trọng đến hành động của Thúy Kiều khi sử dụng lễ nghi: “lạy” và “thưa.” Trong xã hội phong kiến xưa, những hành động này thường dành cho kẻ bề dưới với người bề trên, con cái với ông bà, cha mẹ, tổ tiên, trời đất. Vậy tại sao Thúy Kiều lại lạy Thúy Vân? Dù xuất thân từ một gia đình gia giáo, nơi lễ nghi rất được coi trọng, hành động của Kiều – vốn là chị – lạy em mình dường như trái với lẽ thường. Nhưng chính sự tinh tế trong hành động ấy đã cho thấy sự thấu hiểu và tình cảm sâu sắc của nàng.
Hành động này một lần nữa giúp ta thấu hiểu hơn về Thúy Kiều. Dù đang trong cơn bão táp của cuộc đời, nàng vẫn thấu lý đạt tình, ý thức sâu sắc về hoàn cảnh hiện tại của mình. Tình yêu của Kiều vô cùng mãnh liệt, khao khát hạnh phúc thì vô biên nhưng thời gian yêu thương lại ngắn ngủi và đầy khó khăn. Sóng gió cuộc đời có thể ập đến bất cứ lúc nào, và ý thức đó khiến Kiều phải hành động như vậy.
Kiều muốn tranh đấu với số mệnh, bởi nàng đã thấy biết bao người “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương,” hiểu rõ những phi lý của cuộc đời: lời thề chưa kịp ráo thì Kim Trọng đã phải ra đi, gia đình đang hạnh phúc thì cha mẹ phải chịu oan khuất. Trong hoàn cảnh tai họa ập đến bất ngờ, con người không thể chống đỡ nổi, Kiều phải hành động để tranh chấp với thời gian và số mệnh, nhằm cứu lấy tình yêu của mình với Kim Trọng.
Kiều hiểu rằng chỉ có thành tâm, cúi mình, thì mới khiến Thúy Vân không thể từ chối lời khẩn cầu của mình. Một câu chuyện khó nói cần được mở lời một cách tế nhị, và một trách nhiệm nặng nề phải được đặt ra một cách trang trọng. Cách ngắt nhịp và giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết giúp ta cảm nhận được sự nghẹn ngào, nấc nhẹ trong cảm xúc của nàng. Hai câu thơ mở đầu đã gợi ra một không khí thiêng liêng, trang trọng, khắc họa lên một Thúy Kiều thông minh, khéo léo, chu toàn và tinh tế.
Nguyễn Du đã thâm nhập vào sâu thẳm của nội tâm nhân vật, miêu tả nàng Kiều với tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp như một con người thật ở ngoài đời của mình, không che giấu tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
Nàng Kiều trong đoạn “Trao duyên” và xuyên suốt “Truyện Kiều” không chỉ là một con người hành động vì một mục đích nào đó. Nàng còn sống với những tâm tư và tình cảm thầm kín của mình. Hình ảnh “đứt gánh tương tư” thật giàu sức gợi: thông thường “gánh” dùng để chỉ một khối lượng vật chất, còn “tương tư” là một khái niệm phi vật chất. Người xưa xem tình yêu như một gánh nặng nghĩa vụ: “Duyên tình nặng gánh ai ơi” (ca dao). Vận dụng lời ăn tiếng nói và lối suy nghĩ của nhân dân lao động, Nguyễn Du đã thêm vào kho tàng từ điển nước nhà một khái niệm trữ tình mới: “gánh tương tư.” Thành ngữ “gánh tương tư” diễn tả tình yêu nam nữ tha thiết, mặn nồng với nỗi nhớ da diết, khắc khoải không nguôi. Chính vì vậy mà “tương tư” đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, như Nguyễn Bính từng viết rằng:
“Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng”
hay như ca dao có câu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
Từ “tương tư” đẹp đẽ lại được Kiều sử dụng cùng với từ “đứt,” làm cho người đọc cảm nhận được nỗi chua xót trước mối tình dang dở của nàng và Kim Trọng. “Keo loan,” biểu tượng của tình yêu bền chặt, giờ đây phải dùng để chắp vá “mối tơ thừa.” Hai từ “tơ thừa” nghe thật xót xa! “Tơ” ở đây ám chỉ “tơ duyên” (như câu: “Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong”), nhưng tơ duyên ấy đã đứt và cần phải “chắp mối.” Đối với Thúy Vân, đó chỉ là “tơ thừa.” Kiều hiểu rõ cảm giác và tình cảm thiệt thòi của em nên nói thẳng ra. Duyên ấy trong Kiều, tình ấy trong Kiều là mối tình khắc cốt ghi tâm, nhưng khi giao cho Vân, nó trở thành “mối tơ thừa.” Ta không thể ngờ rằng, để gắn “mối tơ thừa” ấy với Kim Trọng, Kiều đã phải hy sinh đến mức dùng chính máu tình chị em ruột thịt. Điều này cho thấy Kiều đau đớn nhường nào và Vân cũng xót xa đến ra sao.
Ngay cả khi kể về mối tình của mình, Kiều vẫn không quên việc thuyết phục Vân. Dù trái tim đang chịu những giằng xé, nàng vẫn phải tỉnh táo trong việc lựa chọn từ ngữ để nói với Vân. “Mặc em” là sự tin tưởng, ủy thác, và trong đó có cả tình chị em thân thiết. Nếu quá khứ của nàng hiện lên qua các sự kiện, thì hiện tại lại được Kiều diễn tả bằng những điển tích, điển cố giàu sức gợi, khiến người đọc thấu hiểu bi kịch tình yêu của nàng một cách chua xót, đắng cay vô cùng.
Tình yêu nào mà chẳng có những kỷ niệm đẹp, những lời hẹn ước, thề nguyền, nhưng với Kiều, tất cả chỉ còn là quá khứ. Khi nàng quay lại thực tại, mọi thứ mới trở nên bẽ bàng, xót xa làm sao:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Đúng như Mộng Liên Đường Chủ Nhân đã từng nói: “Tài mà không gặp gỡ, tình mà không được hả hê. Đây là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường.” Bi kịch tình yêu của Kiều được nàng tâm sự với Vân, chỉ mong em có thể cảm thông và sẻ chia. Nàng chọn cách nói điểm xuyết có lẽ là để giảm bớt đau thương giằng xé hoặc để Vân không cảm thấy khó xử. Phép trùng điệp ba từ “khi” thể hiện những kỷ niệm giữa ký ức và thực tại, đẩy đời Kiều vào miền ký ức đau thương dù cho nàng cố kìm nén. Việc dùng từ “khi” để diễn tả sự tan vỡ là điều ta luôn bắt gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Nhờ vào lối nói trùng điệp kết hợp với kỹ thuật tiểu đối (ngày – đêm, quạt ước – chén thề), chúng ta cảm nhận rõ sự dở dang, bẽ bàng của mối tình giữa nàng Kiều và chàng Kim. Hơn nữa, việc sử dụng các từ chỉ thời gian như “ngày” và “đêm” không chỉ gợi nhớ về những ký ức tươi đẹp của đêm thề nguyền, mà còn khắc họa sự tương phản mạnh mẽ giữa quá khứ hạnh phúc và hiện tại đau khổ. Hình ảnh “quạt ước” và “chén thề” gợi lên những kỷ niệm yêu thương từng rực rỡ, nhưng giờ đây chỉ còn là những vết thương trong lòng Kiều.
Cấu trúc câu “Kể từ khi gặp… khi ngày… khi đêm” không chỉ tạo ra một âm điệu thơ luyến láy mà còn nhấn mạnh nhịp điệu gấp gáp của cảm xúc, cho thấy dù Kiều đang tự bộc bạch về mối tình đầu đầy tha thiết, nhưng tâm trạng của nàng lại đầy nỗi đau và tiếc nuối. Phải chăng Kiều đã ý thức được sự ngắn ngủi và mong manh của hạnh phúc trong cuộc đời đầy sóng gió? Những hình ảnh và từ ngữ trong đoạn thơ làm nổi bật bi kịch của Kiều: trong khi khao khát hạnh phúc là vô bờ (“quạt ước, chén thề”), thì hiện thực tàn nhẫn đã nhanh chóng làm tan vỡ mọi điều đẹp đẽ, biến hạnh phúc thành những khoảnh khắc chốc lát và để lại nỗi xót xa, tiếc nuối không nguôi. Khi khẩn thiết nhờ em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều không chỉ bày tỏ tình cảm sâu nặng với mối tình này mà còn gửi gắm vào Vân những nguyện vọng và tâm tư của mình. Đồng thời, khi hồi tưởng lại, Kiều thể hiện một nỗi tiếc nuối như thể những ký ức về tình yêu đẹp đẽ vẫn còn mới mẻ như ngày hôm qua.
Kiều không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, Kiều còn dùng những lí lẽ tình và lý để thuyết phục Vân đồng ý:
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Chỉ với hai từ “sóng gió,” Nguyễn Du đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh đầy những khó khăn và thử thách. “Sóng gió” không chỉ tượng trưng cho những cơn bão táp mà còn là hình ảnh của những biến cố lớn lao đang sắp sửa ập đến cuộc đời Kiều. Là người chị cả, Kiều buộc phải hy sinh hạnh phúc của mình để bảo vệ sự bình yên cho gia đình, thể hiện qua câu nói: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.” Kể từ đây, mối tơ duyên của nàng với Kim Trọng chính thức đứt đoạn, mở ra một chuỗi bi kịch mới trong cuộc đời nàng.
Nguyễn Du đã tinh tế sử dụng những dấu hiệu báo trước để phản ánh số phận của Kiều. Trong đoạn “Chị em Thúy Kiều,” hình ảnh “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” gợi lên một cuộc đời êm đềm dành cho Thúy Vân, trong khi hình ảnh “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” lại dự báo một cuộc sống đầy sóng gió và đau khổ đang chờ đợi Thúy Kiều. Giờ đây, khi “sóng gió” đã bắt đầu gợn lên, cuộc đời nàng đã bước vào một giai đoạn mới, u ám và thử thách hơn nhiều. Nguyễn Du không chỉ khắc họa bi kịch của Kiều mà còn lên án chế độ phong kiến đã cướp đi sự bình yên của nhiều gia đình:
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”
Bên cạnh các thế lực thống trị và những kẻ ác độc, Truyện Kiều còn phê phán một loại sức mạnh tàn bạo khác: đồng tiền. Nguyễn Du đã chỉ rõ sự thối nát của xã hội phong kiến qua hình ảnh “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.” Chính lòng tham vô độ của bọn quan lại tham nhũng đã khiến gia đình Kiều rơi vào cảnh khốn cùng. Vì lợi ích cá nhân, chúng sẵn sàng gây ra những bất công và đau khổ cho những người vô tội. Đồng tiền cũng là công cụ trong tay bọn buôn người, những kẻ “cò kè bớt một thêm hai” đã lừa gạt và đẩy Kiều vào chốn bùn nhơ, nơi nàng phải chịu sự áp bức và bạo hành từ những kẻ lưu manh.
“Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Nàng Kiều “tài sắc vẹn toàn” đáng ra phải được sống trong cảnh yên bình. Thế mà giờ đây, nàng phải chịu lấy tai ương của số phận, của xã hội phong kiến chèn ép, đè nén, bóp méo cuộc sống trọn vẹn của người dân:
“Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
Số phận của Kiều cũng chính là mẫu số chung của thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Theo đạo lý Nho giáo, chữ Hiếu là một nguyên tắc đạo đức cao quý, yêu cầu con người phải đặt nghĩa vụ gia đình lên trên tất cả. Trong “Truyện Kiều,” Thúy Kiều là hiện thân của sự hiếu thảo đó, khi nàng phải hy sinh tình yêu cá nhân để thực hiện bổn phận với cha mẹ. Sự hy sinh của nàng không chỉ thể hiện lòng hiếu thảo mà còn làm nổi bật những xung đột nội tâm sâu sắc của nhân vật, cho thấy nàng không thể trở thành một người con bất hiếu:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Mỗi người đều khao khát được sống bên người mình yêu, nhưng hiếm ai phải đối mặt với sự hy sinh to lớn như Thúy Kiều. Nàng đã từng bất chấp mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến để theo đuổi tình yêu với Kim Trọng, thể hiện lòng dũng cảm và khao khát mãnh liệt khi “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Thế nhưng giờ đây, chính nàng lại phải từ bỏ tình yêu ấy, một sự hy sinh khiến trái tim nàng đau đớn biết bao. Nhưng nàng chấp nhận sự hy sinh này vì:
“Duyên hội ngộ, đứt cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Dù trong lòng tràn đầy sự tiếc nuối và đắng cay, Kiều cố gắng nén chặt nỗi đau và kiềm chế cảm xúc của mình để suy xét một cách lý trí giữa hai lựa chọn: Hiếu và Tình. Dù nàng đã quyết định hy sinh tình yêu để thực hiện chữ Hiếu qua việc trao duyên cho em, nhưng sự phân vân vẫn hiện rõ trong từng lời nói của nàng: “khôn lẽ”! Những lời này không chỉ thể hiện sự đau đớn của nàng mà còn khiến Thúy Vân phải suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm của mình đối với việc nối tiếp mối duyên của chị.
Qua những lời lẽ đầy tâm sự này, Kiều không chỉ bộc bạch bi kịch tình yêu của mình mà còn tha thiết cầu xin Vân thay mình tiếp tục mối tình với Kim Trọng:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Chỉ những người con gái với nhân cách cao thượng như Thúy Kiều mới có thể thực hiện những hi sinh to lớn đến vậy! Chị em Thúy Kiều đều còn ở độ tuổi mười tám đôi mươi, nhưng trong đêm trao duyên, Kiều nói với Vân rằng: “Ngày xuân em hãy còn dài.” Lời nói này không chỉ thể hiện sự tiếc nuối của Kiều mà còn ẩn chứa nỗi đau sâu sắc khi nàng phải từ bỏ tình yêu và hạnh phúc của mình vì chữ Hiếu. Sự “sót” trong câu nói của Kiều không chỉ diễn tả tình cảm thiêng liêng giữa chị em mà còn phản ánh lòng thương xót của Vân khi chấp nhận nhiệm vụ tiếp nối mối tình với Kim Trọng. Kiều xót xa vì em gái phải “lấy người mình không yêu – lấy người không yêu mình,” và điều này cũng làm cho chúng ta nhớ lại cách Nguyễn Du dùng từ “xót” để diễn tả nỗi lòng của cha mẹ Kiều khi nhớ về đứa con đang ở nơi xa:
“Xót con lòng nặng chề chề”
Lời lẽ của Thúy Kiều trong đêm trao duyên không chỉ là sự thuyết phục mà còn như một bản giao hưởng của cảm xúc, chạm đến nỗi đau và sự đồng cảm. Sự kết hợp khéo léo giữa “Tình máu mủ” và “lời nước non” không chỉ làm nổi bật tình cảm sâu nặng giữa chị em mà còn thể hiện sự trân trọng của Kiều đối với Vân. Khi Vân đồng ý nhận lời, đó không chỉ là sự chấp nhận nhiệm vụ mà còn là một hành động đầy đồng cảm và nghĩa tình. Kiều còn lấy cái chết của mình làm minh chứng cho sự toại nguyện nếu Vân thực hiện lời hứa thay nàng báo nghĩa với Kim Trọng:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thành ngữ “thịt nát xương mòn” không chỉ phản ánh sự nhận thức sâu sắc của Kiều về số phận hồng nhan bạc mệnh mà còn dự đoán những bi kịch sắp tới trong cuộc đời nàng. Khi Kiều nói “Ngậm cười chín suối” và “thơm lây,” nàng như muốn chuyển hết công lao về phía em gái, đồng thời từ chối mọi sự hi sinh của chính mình. Điều này thể hiện lòng biết ơn và sự khuyến khích Vân thực hiện nghĩa vụ với Kim Trọng. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành vừa thuyết phục, tạo ra một sự ràng buộc không thể từ chối. Nguyễn Du đã khắc họa một Kiều sắc sảo và mặn mà ngay cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình, mượn hình ảnh cái chết để bày tỏ sự thanh thản của nàng nếu Vân thực hiện lời hứa. Những lý lẽ của Kiều thể hiện sự nhạy bén và thông minh, làm nổi bật bi kịch của nàng giữa còn-mất, hợp-tan, âm-dương cách trở, và lời trao duyên đã trở thành một lời trăng trối, là ước nguyện cuối cùng của Kiều, kêu gọi lòng thương và sự tự nguyện từ Vân.
Nói xong lời thỏa nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất: tra kỷ vật cho Vân. Tay Kiều thì trao nhưng lòng Kiều còn cố níu kéo giữ lại một chút gì cho mình:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.”
Nhịp điệu của đoạn thơ từ đây không còn giữ sự bình lặng như trước. Trong khi câu thơ đầu tiên mang lại cảm giác êm ả thì câu tiếp theo đã cho thấy “Rõ ràng là Thúy Kiều bắt đầu lúng túng” (Nguyễn Lộc). Làm thế nào để phân biệt những thứ khó rạch ròi như thế? “Tờ mây” và “chiếc vành” là những vật thể cụ thể, nhưng chúng lại đại diện cho những khái niệm trừu tượng như những khoảnh khắc hạnh phúc và lời thề giữa Kim Trọng và Kiều (Giở kim thoa với khăn hồng trao tay, Tiên thề cùng thảo một chương). Sự bối rối của Kiều trong việc phân chia giữa “vật này” và “duyên này” phản ánh nỗi xót xa và mâu thuẫn trong lòng nàng. Hoài Thanh đã viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!” Nỗi đau và sự chua chát khi phải từ bỏ tình yêu hiện rõ trong lời của Kiều. Khi nàng khẩn cầu Vân nhận lời trao duyên, cảm giác mất mát trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Cảm giác này chỉ thực sự trở nên rõ nét khi nàng phải trao kỷ vật cho người khác, làm cho tâm hồn nàng cảm thấy trống rỗng. Từ giây phút này, Kim Trọng sẽ mãi thuộc về người khác. Câu thơ như một nỗi nghẹn ngào, uất ức!
Từ đoạn trích “Trao Duyên” cho thấy cuộc đời của Thúy Kiều là một chuỗi những nỗi đau và bi kịch không ngừng. Nguyễn Du không chỉ đơn thuần miêu tả những sự kiện đau thương mà còn cảm nhận sâu sắc những cảm xúc của Kiều, từ đó thể hiện sự đồng cảm và trân trọng đối với nhân vật. Ông không chỉ là một nhà thơ tài ba mà còn là một người có sự nhạy cảm và tinh tế trong việc cảm nhận nỗi đau của người khác. Trong khi thời đại có Hồ Xuân Hương với sự hòa quyện giữa học vấn và tinh tế, hay Phạm Thái với sự tài hoa và ngang tàng, thì Nguyễn Du nổi bật với “lời văn như chảy máu từ ngòi bút và nước mắt thấm đẫm trang giấy” (Mộng Liên Đường, Bài tựa “Truyện Kiều”). Ông không chỉ dùng tài năng của mình để tạo ra những tác phẩm văn học mà còn dùng trái tim nhạy cảm để thể hiện sự thấu hiểu và trân trọng đối với số phận của Thúy Kiều.
Tản Đà đã nhận xét rằng: “Không có đoạn nào trong Truyện Kiều dài và tả tình như đoạn Trao Duyên. Sự lâm ly trong đoạn này là đỉnh điểm của tình cảm”. Đoạn “Trao Duyên” trong Truyện Kiều không chỉ thể hiện nỗi đau của Thúy Kiều mà còn khám phá toàn bộ thế giới cảm xúc của nàng. Đoạn văn này như một bức chân dung của lòng hiếu nghĩa và nỗi bi kịch sâu sắc, với những vần thơ:
“Người sao hiếu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi”
Khi chúng ta cảm nhận sự đau khổ và phẩm hạnh của Thúy Kiều, cũng chính là lúc chúng ta cảm nhận được cái tâm và tài năng vĩ đại của Nguyễn Du. Nàng Kiều không chỉ là sản phẩm của văn chương mà còn là hiện thân của tâm hồn thi sỹ. Chế Lan Viên đã từng viết: “Nỗi đau anh trùng nỗi đau nhân loại – Mượn câu Kiều anh hóa thạch cuộc đời riêng”. Đoạn “Trao Duyên” từ bao năm nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong di sản văn học Việt Nam, phản ánh một cách sâu sắc những giá trị nhân văn, nghệ thuật và thẩm mỹ của Nguyễn Du, làm say đắm triệu triệu tâm hồn yêu mến và trân trọng nhân nghĩa.
>> Bài viết được biên tập tại website: https://phebinhvanhoc.com.vn/