Đề bài: Anh/chị hãy Bình giảng bài thơ Tràng giang của Huy Cận để làm nổi bật những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Bình giảng bài thơ Tràng giang
Mẹo Phương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ đạt điểm cao
I. Dàn ý Bình giảng bài thơ Tràng giang
1. Mở bài
Giới thiệu ngắn gọn về Huy Cận và bài thơ Tràng giang.
2. Thân bài
– Thời gian sáng tác: năm 1940- Nội dung chủ đạo: Nỗi buồn, những trăn trở suy tư về thân phận nhỏ bé, vô định của con người giữa đất trời rộng lớn.- Bài thơ mở ra không gian rộng, dài của trời và sông -> Nổi bật sự cô quạnh, bâng khuâng của con người.
– Hình ảnh thiên nhiên: Sông nước, mây trời:+ “Tràng giang” là con sông dài, con sông bất tận với những gợn sóng lăn tăn.+ Nhịp thơ 4/3 mang âm hưởng chậm rãi, đìu hiu với từ láy “điệp điệp” tả nỗi buồn.+ Không gian sông nước rộng lớn nhưng vắng vẻ, đìu hiu thấm đượm nỗi buồn.
– Nỗi buồn của con người:+ “Con thuyền xuôi mái nước song song”, trong cái không gian cao vời vợi của trời mây, cái miên man của những con sóng, thuyền trở nên đơn côi đến lạ lùng.+ Dòng sông không đơn thuần chỉ mang dòng nước, mà còn mang có nỗi u buồn của nhân vật trữ tình.-> Lấy nỗi sầu làm tinh thần chủ đạo, Huy Cận luôn mượn thiên nhiên, nói thiên nhiên sầu hay là nói ra chính cái sầu trong tâm khảm.+ Hình ảnh “một cành củi khô” gợi ra sự nhỏ bé, vô định giữa dòng đời của con người.+ Nỗi buồn lên đến “chót vót” rồi lại tràn trề ra cả “sông dài trời rộng”.+ Hình ảnh bèo trôi dạt chính là thân phận của nhà thơ trong xã hội đương thời, số phận của một trí thức.+ Nỗi nhớ quê hương tha thiết của một người con xa xứ mang tâm hồn nhạy cảm
3. Kết bài
Kết luận chung
II. Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Tràng giang
Huy Cận – một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải, nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945, khi cái tôi của mỗi cá thể được coi là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong “Tràng giang”, từng câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở. Cái nỗi buồn khó nắm bắt, khó định hình của một tâm hồn dễ rung động trước cảnh vật, của trái tim khao khát được yêu thương, được hòa quyện.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới được coi như “tập sách gối đầu giường” của các nam thanh nữ tú đương thời, viết về tình yêu, về nỗi băn khoăn, trắc trở trong tình cảm đôi lứa. Chính vì thế, tinh thần chủ đạo trong những bài thơ của thời kì này là nỗi buồn, sự cô tịch, quạnh hiu. Nhóm bút “Tự lực văn đoàn” bao gồm những cây bút lão luyện như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đã tạo nên một thời kì thơ ca lãng mạn, tình tự. “Tràng giang” là một lời tự thuật về cái khắc khoải, buồn đau của một cái tôi nhỏ nhoi giữa mênh mông trời đất. Con người cảm thấy nhỏ bé, cô độc giữa không gian vô tận. Ra đời năm 1940 trong tập “Lửa thiêng”, tác phẩm được coi là tác phẩm đưa Huy Cận lên bậc lão làng trong phong trào Thơ mới. Lấy điểm nhìn từ bờ Nam bến sông Hồng, giữa sông nước bất tận, lòng người gợi lên một nỗi u hoài cho thân phận nhỏ bé, vô định giữa đất trời khắp cùng.
Mở đầu bài thơ là lời tựa:Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Gợi ra một không gian “rộng”, “dài” của trời và sông, tác giả muốn nhấn mạnh sự cô quạnh của chủ thể con người, “bâng khuâng” giữa đất trời bao la. Trời tuy rộng nhưng lại buồn thương, mênh mang, sông tuy dài nhưng lại quạnh hiu đến thê lương. Phải chăng, thời gian lúc ấy đang là buổi xế tà với ráng lam chiều hoang hoải, con người một thân một mình bâng khuâng giữa không gian rộng mở của cả trời và đất. Nỗi niềm nhà thơ trôi cùng dòng nước lặng lờ dưới sông, cùng đám mây chùng chình trên khoảng không vời vợi.
Mang nỗi buồn ấy vào trong từng nhịp thở, mở đầu bài thơ là những nét chấm phá mộc mạc về thiên nhiên:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song
“Tràng giang” là con sông dài, con sông bất tận với những gợn sóng lăn tăn. Nhịp thơ 4/3 mang âm hưởng chậm rãi, đìu hiu với từ láy “điệp điệp” tả nỗi buồn. Từng đợt sóng trên mặt nước làm nên một câu thơ động. Con sông như trải rộng ra theo tầm nhìn của tác giả. Câu thơ không hề tĩnh, sự lay động của thiên nhiên được tác giả bắt trọn vào câu chữ. Người xưa có câu: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, con sông không đơn thuần chỉ mang dòng nước, mà còn mang có nỗi u buồn của nhân vật trữ tình. Con sông rộng dài hay nỗi buồn ngày càng rộng thêm ra. “Con thuyền xuôi mái nước song song”, trong cái không gian cao vời vợi của trời mây, cái miên man của những con sóng, thuyền trở nên đơn côi đến lạ lùng. Thuyền xuôi theo dòng nước, thuyền vô định để mặc sóng xô đi. Không chỉ là “tràng giang”, con sông dài, mà còn là “song song”, những luồng nước nối đuôi nhau xa mãi tận chân trời. Hai từ láy “điệp điệp” và “song song” tạo âm hưởng vang vọng như âm thanh dội lại giữa núi rừng, khiến câu thơ dài hơn, trầm hơn, dội vào lòng người đọc một nỗi buồn tha thiết.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lấy nỗi sầu làm tinh thần chủ đạo, Huy Cận luôn mượn thiên nhiên, nói thiên nhiên sầu hay là nói ra chính cái sầu trong tâm khảm. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, bóng thuyền chỉ mới vừa xuất hiện đã lại biến mất, nước “sầu”, nước buồn nhớ thương thuyền hay chính tác giả buồn sầu. Thuyền đi rồi, nỗi “sầu trăm ngả” có phần mơ hồ, vô cớ. Thuyền nào đi mãi rồi chẳng đến bờ, nhưng nước vẫn mang nỗi nhớ nhung, buồn bã. Trên mặt nước lặng lờ ấy, hình ảnh “củi một cành khô” trôi vô định, “lạc mấy dòng” giữa luồng nước mênh mang. Hình ảnh động, biện pháp đảo ngữ “một cành củi khô” thành “củi một cành khô” gợi sự cô tịch đến tang thương. Sóng cứ lăn tăn, nước cứ hững hờ, chỉ có một cành củi nhỏ bé, khô khốc lạc trôi theo dòng nước, như tiếng lòng kẻ say tình cứ cô độc, man mác trôi. Cả bốn câu thơ đều có những hình ảnh, chi tiết tả sự vận động của nước, của trời, nhưng những âm thanh ấy chẳng đủ để khỏa lấp nỗi chơi vơi trong lòng. Kết cục lại vẫn là sự lạc lõng, cô đơn, hoang hoải trôi theo con nước tới nơi vô định.
Tràng giang là một bức tranh miêu tả đa chiều về cảnh sắc thiên nhiên của vùng ven sông trong một buổi chiều tà hiu quạnh. Mở đầu với tầm nhìn ngút mắt của sông, của trời, Huy Cận bắt đầu những nét chấm phá về cây cối, cảnh vật bên bờ sông:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.Nắng xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Liên tiếp những từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” để tả những cồn cát nhỏ rải rác bên sông. Những từ ngữ được tác giả lựa chọn rất khéo léo và đắt giá, đặng làm nổi bật cái trống trải, ít ỏi và thưa thớt của cảnh vật. Những cồn cát đã nhỏ bé lại còn “lơ thơ”, từng cơn gió “đìu hiu” mang cảm giác cô liêu, đáng thương. Dưới tầm nhìn của một tâm hồn thi sĩ, vạn vật đều trở nên tịch liêu giữa trời rộng sông dài. Tả cảnh ven sông, tác giả không hề nhắc đến những bãi đất phù sa màu mỡ, cũng chẳng có bóng người sinh sống. Trong cái nhìn của ông chỉ có những cồn cát, những cơn gió thinh không, một cành củi khô lạc dòng,… Cảnh vật đan xen với nhau, hòa trong nỗi buồn của nhà thơ. Thảng hoặc, âm thanh “tiếng làng xa vãn chợ chiều” xuất hiện. Từ “đâu” gợi sự như có như không, vô hướng không rõ ràng. Thanh sắc cuộc sống mờ nhạt, xa xăm. Tưởng như cảnh vật đã đủ sầu, đủ thảm, thì ngay cả cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây cũng chẳng hề hoạt náo, rộn ràng. Trong bức tranh ráng lam chiều bên triền sông Hồng màu mỡ,, thời điểm đáng ra là giờ khói cơm với những làn khói đụn lên từng hồi thì ở nơi đây, thời gian và cảnh vật chỉ rặt một nỗi buồn. Buồn của lòng người đượm vào thiên nhiên, buồn của đọt nắng sắp tắt. Từ thị giác “cồn nhỏ” trơ trọi, cây cỏ “đìu hiu”, đến cả âm thanh cũng lúc vô lúc hữu, tiếng tan chợ gợi sự tan rã, kết thúc cho một ngày dài lê thê.
Nỗi buồn được đẩu tới cao trào với hai câu thơ:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu.
“Nắng xuống”, nắng tắt hẳn, thay thế cho những sự chống chọi yếu ớt của mặt trời là màn trời kĩu kịt, nặng nề. Nỗi buồn lên đến “chót vót” rồi lại tràn trề ra cả “sông dài trời rộng”. Sự vô biên được nới rộng cả về chiều dài, bề ngang. “Nắng xuống trời lên”, động từ đối lập “lên” và “xuống” mang lại chuyển động, không gian như đước kéo giãn. Tác giả không dùng “cao chót vót” như thường lệ, mà lại là “sâu chót vót”. Điểm nhìn của thi sĩ không chỉ dừng lại ở độ sâu, độ cao, mà còn là cái nhìn hun hút vào bầu trời để tìm thấy đáy giữa màn trời đang từng bước xâm chiếm không gian. Dường như ánh mắt của chủ thể trữ tình đi tới đâu, bầu trời sẽ rộng hơn, sâu hơn tới đó. Chính vì vậy mà cảm “cô liêu” lẻ bóng mới ngày càng trở nên sâu đậm. Giữa sông dai, trời rộng, chỉ có bến là lưng chừng ở giữa, quạnh hiu không một bóng người. Tâm hồn rung cảm của thi sĩ cũng cảm thấy chơi vơi, buồn bã bởi sự vắng vẻ của bến bờ. Hình ảnh bến đò trước giờ vẫn là biểu tượng của kẻ đi người ở, của sự xa lìa chia cắt. Đứng giữa màu trời chiều này, sự thê lương lại càng được tô đậm thêm rõ nét.
Hướng tầm mắt ra xa xuôi dọc theo con sông dài, những gì thu được vẫn chỉ là sự thưa thớt của tạo hóa:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Từng hình ảnh hiện ra theo trình tự quan sát, nhìn từ điểm gần trước mắt cho đến tầm nhìn xa bao quát cả dòng sông. Những cụm bèo “hàng nối hàng” gợi sự chen chúc, nhưng lại “dạt về đâu”, trôi vô định, mất phương hướng. Từ “dạt” cũng bày tỏ sự lênh đênh, chìm nổi. Ngay cả những phương tiện để di chuyển trên con sông dài thường ngày nay cũng chẳng hề xuất hiện. “Không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, không có sự kết nối nào với thế giới từ vị trí của tác giả. Cuộc sống dường biệt lập, tách lìa hoàn toàn nơi nhà thơ đang đứng. Phải chăng, hình ảnh bèo trôi dạt chính là thân phận của nhà thơ trong xã hội đương thời, số phận của một trí thức yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp nhưng chẳng thể xác định được bản thân muốn gì, cần gì. Giữa mênh mông bể sở, không cầu, không thuyền, hay chẳng có sự giao lưu nào với nhân loại. Sông nước dài rộng, “bờ xanh tiếp bãi vàng” lại càng làm không gian dài dằng dặc, hun hút. Người đọc hình dung về hai luồng suy nghĩ trong thâm tâm tác giả, rằng Huy Cận khao khát một sự liên lạc với con người, khao khát một chuyến đò, một cây cầu để được giao tiếp, được tìm kiếm tri âm, hay chính ông đã từ bó cái náo nhiệt ngoài xã hội kia để về với nơi cồn cát đồng không mông quạnh này, nhìn chuyến đò dần dần biến mất mà tiếc nuối, níu kéo. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng buồn thương, đìu hiu, bao trùm lên cả sự vật.
Viết theo trình tự quan sát sự vật, sau trời, nước, sau những bãi bồi, nhà thơ đặt hồn vào những sự vật đang di chuyển trên tầm trời cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.
Hình ảnh lớp lớp mây cao bảng lảng trôi trên bầu trời, từ láy “lớp lớp” hô ứng với “điệp điệp” tạo cảm giác chồng chất. Thời gian đã ngả từ xế trưa sang chiều, rồi cuối cùng là “bóng chiều sa” theo cánh chim vội vàng tìm nơi trú ẩn. Hoạt động của một ngày thường nhật đang chạy đua với thời gian. “Núi bạc” là núi bạc vì sương khói, vì những đám mây trung thấp xuống che phủ đỉnh núi cao. Như một bức tranh thủy mặc, có mây, có núi, có sông nước, điểm xuyết vài cánh chim nhỏ hối hả trốn màn đêm, bao phủ là sự cô đơn, ảm đạm. Một từ rất đắt trong câu thơ tả cảnh, “đùn núi bạc”, từ “đùn” thể hiện sự vận động với tốc độ nhanh chóng. Từng đợt mây bay nhanh, những đám mây khổng lồ xếp chồng, đùn đẩy nhau tạo nên một bức màn bạc mờ ảo. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch ấy, lòng người thi sĩ không khỏi thốt lên một tiếng đời:
Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
dòng sông miên man với những con sóng chạy đua, chạy đua đến cùng trời cuối đất để rồi lắng tai nhận ra một tiếng sóng khác biệt, tiếng sóng của làng quê. Thả hồn mình vào thiên nhiên, để cho tâm hồn được dạo chơi với vũ trụ, cuối cùng, Huy Cận cũng gom lòng mình lại, quay trở về với thực tại trong thời khắc giao thoa giữa ngày đêm. Dòng sông dài, “tràng giang” của đất trời hay chính là tràng giang của lòng người, tiếng thôn quê mộc mạc giản đơn rốt cuộc cũng là cái để người ta mơ, người ta nhớ khi một mình một thân phận bé nhỏ. Dòng sông giống như biểu tượng của sự trường tồn và vĩnh cửu, là chất điểm đạm, hiền hòa hàng ngàn năm vẫn thế. Tổ hợp từ láy từ “điệp điệp”, “song song”, “lớp lớp” và cuối cùng là “dợn dợn” gợi sự triền miên, dòng sông vẫn chảy như thế, con nước vẫn một đi không bao giờ trở lại, chỉ còn nhà thơ ở đây, lòng khôn nguôi nỗi khắc khoải thương nhớ quê nhà. “Khói hoàng hôn” chính là khói bếp, là bữa cơm của bà, của mẹ, là những ngày tháng tuổi thơ rong chơi vơ vẩn, chỉ mong đến giờ chiều về nghi ngút khói bếp, lấm lem nhọ nồi. Tâm trạng của một người con xa quê hiện rõ mồn một trong tâm lí tác giả, buổi chiều, cái dớp chiều tàn buồn bã khiến tâm hồn ấy không tránh khỏi nhớ nhung. Giống như lời tâm sự trữ tình, sự vấn vương, tình cảm da diết cho quê hương được Huy Cận gửi gắm vào tác phẩm. Thì ra, từ đầu đến giờ, nỗi buồn bao trùm vạn vật ấy tựu chung lại chính là nỗi nhớ quê hương của một người con xa xứ mang tâm hồn nhạy cảm, để rồi trong một buổi chiều tà đứng bên bờ sông Hồng, nỗi nhớ quê hương lại nồng cháy trong lòng.
Với hồn thơ trữ tình lãng mạn cùng cái tôi nhạy cảm, thuần khiết, Huy Cận đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật, trong thơ có họa, trong thơ có tình. Mượn cảnh hoàng hôn bên bờ sông với đất trời mênh mang, tác giả gửi vào đó những rung động của một kẻ si tình. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương cùng cái tôi nổi bật, ngòi bút độc đáo với khả năng sử dụng ngôn từ đặc sắc, xúc tích mà bao hàm, Tràng Giang đã đưa Huy Cận lên vị trí lão làng trong nền văn học Việt nói chung và thời kì Thơ mới nói riêng.
Theo đúng tinh thần sâu khổ, buồn thương, bài thơ mang đến cho độc giả một cảm giác thê lương, cô quạnh đến nao lòng. Tràng Giang là lời tâm sự, giãi bày của một người con tha hương xa quê, trước cảnh đẹp động lòng của thiên nhiên xế chiều mà tức cảnh sinh tình, xuất khẩu thành thơ. Giữa cái mênh mông, rộng lớn tột cùng của thiên nhiên là một trái tim khao khát được cảm, được yêu thương, một cái tôi cô tịch, nhạy cảm, mỏng manh.
-HẾT-