Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
373 lượt xem

Top 5 mẫu phân tích bài thơ Ông đồ hay chọn lọc – Cảm nhận về bài thơ Ông đồ

Bạn đang quan tâm đến Top 5 mẫu phân tích bài thơ Ông đồ hay chọn lọc – Cảm nhận về bài thơ Ông đồ phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Top 5 mẫu phân tích bài thơ Ông đồ hay chọn lọc – Cảm nhận về bài thơ Ông đồ

phân tích bài thơ ong do vu dinh lien. hoatieu xin chia sẻ với các bạn bài tổng hợp phân tích bài thơ của thầy. làm cùng với các bài văn mẫu thảo luận về mr hay chi tiết. do, sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn học sinh.

  • 8 bài văn mẫu về hoa đào có chọn lọc hay không vứt rác bừa bãi
  • 7 bài văn mẫu thuyết minh về hoa đào hay chọn lọc
  • 12 bài văn mẫu về hoa mai trong ngày tết rất hay

1. phân tích lược đồ của bài thơ mr. su

i. mở đầu

– trình bày bài thơ “ong do” của vu dinh lien

– Ngày xưa, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh đôi bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Đó là lý do tại sao các cụ già trên vỉa hè các con phố rất đông người viết chữ và hình ảnh đầu đội khăn xếp, mặc áo the đã khắc sâu vào tâm trí người Việt Nam, nhà thơ Vũ Đình Liên. một trong số chúng. và theo thời gian, nét đẹp văn hóa ấy dần mai một để rồi chính tác giả cũng phải sám hối sáng tác bài thơ “ông đồ” để bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc về thân phận của một lớp người và sự ăn năn về một truyền thống cao đẹp của dân tộc.

ii. nội dung bài đăng

1. miêu tả chung về bài thơ

thể thơ: qua hình ảnh của ông. Bằng cách viết câu đối tứ, tác giả muốn bày tỏ nỗi tiếc thương sâu sắc đối với một lớp người tài hoa bạc mệnh, nay đã gần đất xa trời và than thở một truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.

thiết kế: 3 phần

2. nội dung

a) nền nhân học suy đồi trong giai đoạn 1930 – 1945

khi nền văn minh phương Tây bắt đầu xâm lược nước ta. các kỳ thi học thuật đã bị bãi bỏ

– người thầy không còn giá trị, mất vị thế trong xã hội. giáo viên đã chuyển từ nghề dạy chữ sang nghề bán chữ.

trước khi “di tích tiếc và mòn của một thời đã qua” chạm đến vu dinh lien. trầm tư viết lên những trang thư khiến người ta phải suy ngẫm, khơi gợi bao cảm xúc bị lãng quên, giúp người ta nhìn lại di sản của dân tộc một thời là văn hiến lẫy lừng đất nước, nay bị bỏ rơi và lãng quên một cách phũ phàng.

bài thơ chỉ có 20 câu, tác giả tạo tình huống kéo dài theo thời gian với 3 tình huống của một con người: ông lão đang náo nức giữa mùa xuân, ông đang trầm ngâm trong nỗi cô đơn vắng khách, ông già đã vắng bóng. từ đó thể hiện tình cảm của tác giả: một vị khách không phải ngẫu nhiên.

b) ông già vẫn là khách

thời gian xuất hiện. hoa đào nở – vào mùa xuân – ông. bản đồ bằng giấy đỏ trên đường phố “để viết một câu ghép:

“Mỗi năm hoa đào nở

trên đường phố đầy người ”

Đây là thời kỳ mà người xưa vẫn còn nguồn an nhàn khi địa vị xã hội của Nho giáo không còn nữa. xuất hiện mỗi năm một lần vào dịp Tết.

lời bài hát buồn, nhưng vẫn có chút vui khi người ta vẫn thích những câu đối đỏ treo trong nhà. là niềm vui nho nhỏ, là sự huy hoàng còn lại:

“có bao nhiêu người thuê viết

giống như một con phượng hoàng đang múa với một con rồng ”

giờ anh ấy trông giống như một nghệ sĩ thể hiện tài năng của mình trước sự ngưỡng mộ của mọi người. đó là những khoảnh khắc chập chờn của ngọn đèn sắp tắt, những gì còn lại của “tàn tích của một thời đã qua”.

c) ông nội vắng vẻ và vắng khách

Theo sự tiến bộ của xã hội, con người đã có những thay đổi mới, niềm vui còn lại của người xưa ngày càng vơi đi …

“nhưng năm nào anh ấy cũng vắng mặt

người thuê viết ở đâu bây giờ? ”

Cảnh mọi người tụ tập xung quanh anh ấy để thuê một nhà văn đã không còn nữa. cô ấy trông giống như một nghệ sĩ đại chúng, một cô gái hết thời.

tâm trạng cô đơn buồn bã thấm dần từ lòng người đến cảnh vật. không ai thuê viết “giấy đỏ buồn không phai còn mực nghiên sầu” để tăng thêm nỗi buồn, nỗi cô đơn của ông lão và thể hiện sự thương cảm của tác giả.

ông già bây giờ “vẫn ngồi đây”, nhưng “không ai biết” một tai nạn tàn khốc!

Anh ấy ngồi đây để chờ đợi những hy vọng cuối cùng của mình, nhưng không ai trao chúng cho anh ấy. nhưng giữa dòng người qua lại, vẫn có một người đồng cảm với anh và viết hai câu đặc biệt: lá vàng rơi trên giấy ngoài trời mưa.

Chiếc lá vàng rơi ngừng sinh sôi. ông lão ngồi trầm ngâm không buồn thu mình lại, còn có “mưa bụi” từ đất trời, một hình ảnh tượng trưng chất chứa bao tâm trạng, mưa bay ngoài trời hay mưa trong lòng người ?, cảnh vật mà ám chỉ gợi lên trong lòng người đọc một nỗi buồn khó tả.

d) ông nội không còn nữa

Mùa xuân đến, hoa đào lại nở. nhưng xuân năm nay không còn như xuân xưa nữa vì: năm nay hoa đào không thấy người xưa.

Mùa xuân đã đến, nhưng cố nhân đã ra đi, vĩnh viễn đi vào dĩ vãng. “một con én không thể tạo nên mùa xuân”, một “giáo chủ” không thể thay đổi thế giới. anh không còn đủ kiên nhẫn để níu kéo cuộc sống khó khăn ấy nữa … anh ra đi, bỏ lại quá khứ oanh liệt của một thời huy hoàng.

Hai câu cuối là lời khuyên của nhà thơ, là lời than khóc đau thương: hồn xưa nay ở đâu? thơ như một nén hương tưởng nhớ người xưa

Con người ngày xưa đã tạo nên nền văn hóa dân tộc. đó là tinh hoa của dân tộc, là giá trị của đời sống tinh thần. bây giờ họ đang ở đâu?

Ông đồ là một hình ảnh, một di tích đáng thương của một thời suy vi. nó giống như một ngọn đèn có thể cải thiện cuộc sống và rồi vụt tắt trước khi cuộc đời thay đổi. bài thơ với ngôn ngữ quen thuộc, ca từ nhẹ nhàng, nghiêm trang, chỉ vỏn vẹn 5 khổ thơ nhưng đã gói gọn những số phận, một lớp người, một thế hệ đã qua.

iii. kết thúc

– bày tỏ ý kiến, đánh giá chung, mở rộng vấn đề

– Việt Nam có nhiều phong tục tập quán và văn hóa tốt đẹp. nhưng cùng với quá trình hội nhập, nhiều nét đẹp đã bị lãng quên. Bài thơ của Ông Đồ đã thể hiện thành công niềm tiếc nuối khi vẻ đẹp bị lãng quên. Đồng thời, đây là lời nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta hãy cố gắng giữ gìn những nét đẹp của dân tộc để Việt Nam trở thành một đất nước văn minh, hiện đại.

2. phân tích bài thơ mr. su

Trong những ngày từ tết đến xuân về, náo nức trên từng con phố, người yêu thơ lại lặng lẽ lắng mình trong nhịp điệu giản dị và nhân văn của nhà thơ vu đình liên lục: bài thơ “ong làm”.

Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành di tích của một thời đã qua. Nho giáo đã không còn được ưa chuộng, mọi người đang gấp rút theo kịp thời đại với thư pháp phương Tây.

Hai đoạn đầu của bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày tháng huy hoàng của vị hoàng đế:

có bao nhiêu người thuê viết thư

khen ngợi vốn

bản phác thảo bằng tay

Giống như một con phượng hoàng đang múa với một con rồng.

Lời khen ngợi là hào phóng, nhưng nghĩ lại, đó chỉ là lời khen ngợi từ những người bên ngoài giới văn học. tự nó viết ra một câu ghép là một sai lầm, một bước bỏ lỡ của các học giả. nếu anh ta qua các thành phố nghệ an, thám sát hay thấp thì anh ta cũng hẹn và bạn, nhưng chưa có chuyện gì xảy ra, công việc chưa thành, danh tiếng chưa được như ý, anh ta phải trở về quê hương của bạn. dạy, uống thuốc hoặc xem lý do tại nhà của bạn, nơi thành thị như nó đã từng cho rải rác. Ngày Tết, mài mực, bán chữ trên vỉa hè có lẽ cũng là công việc bất đắc dĩ của nhà Nho. những lời được đưa ra, nhưng ai bán chúng. bán thẻ là cực của học giả trong mọi thời điểm. người ta yêu mến và ngưỡng mộ cái chữ thú mà mình không biết, hay chỉ biết võ nên họ khen ngợi rất nhiều. Lời khen này không làm vinh hiển cho lão đại, có thể lão vẫn còn buồn, nhưng nó an ủi lão rất nhiều, cuối đời chính là tình yêu của thiên hạ. tác giả giới thiệu: cùng với hoa đào, mỗi năm chỉ có một lần nhưng không nhiều, giấy đỏ mực Tàu, chữ các bậc thánh hiền bày la liệt trên phố. đừng nghĩ hàn lâm, hãy nghĩ như một người bán hàng, đây là hai bài thơ hài hước vì nó nói rằng người bán hàng, ông già sống tiếp, có thể tồn tại trong xã hội đang thay đổi này. nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng như vậy, sở thích của con người cũng thay đổi theo thời đại. lớp người lớn không liên quan gì đến thứ chữ tượng hình đó. tài năng viết chân, viết chữ, đóng dấu và các quy tắc của người thợ sắp chữ giỏi đó, họ không cần biết:

XEM THÊM:  Phan tich bai tho canh khuya cua ho chi minh

nhưng năm nào anh ấy cũng vắng mặt

người thuê ở đâu?

tờ giấy đỏ thật buồn

Mực vẫn còn trong phòng thu …

ông già vẫn ngồi đó

Đi qua con đường không ai biết

lá vàng rơi trên giấy

trong mưa

anh rơi vào hoàn cảnh của một nghệ sĩ vì công, một cô gái vì sắc đẹp. kẻ đón kẻ lấy người lấy, đi sớm về khuya một mình. ông già vẫn ngồi đó, nhưng không ai biết điều đó. thực tế ngoài đời là thế và chỉ có vậy, đó là hàng thiếu. nhưng trong thơ, cùng với hiện thực ấy, còn có cả nỗi lòng của tác giả, nên trang giấy đỏ ấy dường như phai nhạt và hóa thành nỗi buồn, điều tuyệt vời nhất cộng hưởng với nỗi buồn này chính là cảnh mưa phùn. hiện thực trong thơ là hiện thực của lòng người, lòng vui như những năm tháng “bình dân” xưa chưa từng thấy mưa gió. gió đưa lá, cuối mùa lá vàng rơi trên giấy, rơi rồi nằm đó vì giấy chưa dùng, không cần nhặt. lưỡi dao bất động ở nơi không thấy bóng dáng người xưa, bất động nhìn mưa bụi bay. Đoạn văn miêu tả rất ít từ ngữ nhưng cảnh vật hiện lên như một bức tranh, không chỉ có bóng dáng của ông lão mà còn thể hiện sự hoang vu của xã hội qua đôi mắt của ông. tác giả đã có những chi tiết rất đắt: tiền đồ là bút mực, đất trời gió mưa, xã hội thờ ơ ở đâu. thể thơ năm chữ có sức diễn tả những câu chuyện đứt quãng, hoài niệm đã rất thuận, nhịp điệu gợi một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía. màn mưa bụi khép lại bài thơ thật hoang vắng, lạnh lẽo, buồn bã, trống vắng. nên chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, cũng đủ nói lên tất cả những bước cuối cùng của một thời hấp hối. sự so sánh chi tiết trong đoạn này với đoạn trước: mực và mực, giấy và giấy, người này sang người khác, cho chúng ta ấn tượng về sự thay đổi gây sốc và đau đớn nhất.

có một khoảng thời gian, khoảng thời gian của câu thơ trước khi nhập bốn dòng cuối cùng:

năm nay đào lại nở rộ

Tôi không gặp ông già

sống lâu như cũ

linh hồn bây giờ ở đâu?

hãy quay lại câu thơ đầu tiên mỗi năm hoa đào nở để thấy rằng quy luật trên không còn giữ được nữa. ông già là bệnh nhân vẫn ngồi đó, nhưng năm nay ông không còn là bệnh nhân nữa: không thấy ông già đâu. hắn cố gắng níu kéo xã hội hiện đại, chúng ta người hiện đại đã nhìn ra nỗ lực của hắn, chúng ta thấy hắn chật vật, nhưng chúng ta không làm gì, cho tới bây giờ nhìn lại, ta biết hắn đã bị bỏ rơi từ bao giờ. bóng của nó không phải là bóng của một con người, một nghề nghiệp mà là hình bóng của cả một thời đại, là kí ức của chính tâm hồn chúng ta. chỉ bây giờ chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc, nhưng đã quá muộn. Chúng ta hỏi nhau hay chúng ta tự hỏi chính mình? cầu xin hoặc cầu nguyện cho sự ghi nhớ, hoặc ăn năn. súc tích nhất hai dòng của bài thơ, ta đọc thấy ở đó số phận của ông đồ và hơn hết là thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với dân tộc, bút pháp của câu thơ này thật trọng, thật lạ mà không ai thấy. . : người già. tuổi thọ cao, trên thực tế bọn họ là mấy năm, nhưng đúng là thời của lão nhân gia rất xa, hỗn tạp bút, nghiên cứu lịch sử đều rất xa. lời xưa của câu cũ câu trước vang lên tiếng câu hiện tại của câu dưới càng thêm xúc động và luyến tiếc. câu thơ không phải là tiếng nức nở của nỗi đau mà nó như một tiếng thở dài bi thương, một lời sám hối khôn nguôi.

3. phân tích nhân vật của mr. bản đồ

Nếu sức mạnh của thơ ca nằm ở khả năng khơi gợi và truyền cảm thì “ông đồ” của vu dinh lục có thể coi là một bài thơ đầy chất thơ. ít có bài thơ ngắn chỉ năm khổ thơ như thế mà để lại ấn tượng xúc động, khơi gợi nỗi nhớ da diết đến thế. lòng tiếc thương một nét đẹp truyền thống đã mất. xót xa cho một lớp người dù đã lạc hậu dù đã dần đi vào dĩ vãng. đó là nội dung chính của tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Ông đồ. Đó cũng chính là nét khiến cho cảm hứng nhân văn này bền lâu, in sâu vào tâm trí người đọc và điều đó dường như càng phong phú hơn ở những tác phẩm sau này. nhân vật ông già ở đây tương tự như một cổ vật, nhưng thời gian càng trôi qua thì giá trị càng cao?

chúng ta thấy rằng trong cảm hứng của vu đình liên lục có hai điểm đáng chú ý: sự ngưỡng mộ và thích thú trước vẻ đẹp của ngôn từ, và sự cảm thông sâu sắc đối với “di tích đáng thương của một thời đã qua”, như chính tác giả đã tiết lộ.

p>

lòng ngưỡng mộ của nhà thơ gửi gắm vào những ca từ “như rồng bay phượng múa” của một phong cách “hoa lưu ly”. những nét đặc sắc ấy của “rồng bay phượng múa” đủ để người đời “ngợi ca tài hoa”, chinh phục được cả thi nhân. vẻ đẹp ấy trong cái nền của cảnh “đào hoa” tương ứng với tiết trời gợi cảm đầu năm và không khí xuân năm mới sắp đến, dường như đang hòa vào một men say hấp dẫn.

nhưng sự ngưỡng mộ ấy ở đây chỉ là tiền đề, là nguyên nhân dẫn đến nỗi buồn nhớ nhung đã ăn sâu vào bài viết. càng ngợi ca, ngưỡng mộ vẻ đẹp “rồng bay phượng múa giỏi” ấy, nhà thơ càng bùi ngùi nhớ nhung trước cảnh vắng vẻ chợ vắng năm nào: kẻ tá điền nay viết ở đâu? đặc biệt hai dòng thơ sau có sức truyền cảm mạnh mẽ, phảng phất hơi hướng “thi ngoại ngữ” đầy dư vị trải dài ba nhịp:

tờ giấy đỏ thật buồn,

Mực vẫn còn trong phòng thu …

Đây là những hình ảnh xúc động, những dòng thơ chất chứa nội dung xúc động. người ta nói nỗi buồn của tờ giấy thực ra là nỗi buồn của con người trước sự tàn phai của nhan sắc. nó được cho là mực trong phòng thu, chỉ là một cách bày tỏ nỗi buồn cho một hiện tượng đáng kính sắp mất.

Cho đến hai khổ cuối của bài thơ, tình cảm của tác giả đều hướng về con người đã tạo nên vẻ đẹp trên. hình ảnh ông cụ vẫn ngồi đó, nhưng gần như đã bị lãng quên, buồn đến nỗi “qua đường” chẳng ai biết “thì buồn làm sao, tội nghiệp làm sao! Chỉ có” lá vàng rơi trên giấy “trong khi” ngoài kia, mưa và bụi bay mù mịt “như muốn chôn vùi và xóa nhòa đi mọi vẻ đẹp trân quý của một thời đại. cả một lớp người quá” xấu “! một nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc nay không còn nữa.

Cuối cùng, bóng dáng của các trưởng lão đã biến mất. họ đã mất một mô hình “cũ”. lời kêu gọi tâm hồn “muôn năm cũ” ấy, có lẽ tác giả chỉ nhắm đến một thế hệ lạc hậu, nhưng chúng tôi tiếp tục cho rằng sự cảm thông, ăn năn và khao khát ấy không chỉ dành cho những người già, những người lớn tuổi. của văn hóa truyền thống đang dần bị mai một. niềm khao khát, hoài niệm ấy trong những năm gần đây ngày càng đáp ứng được sự đồng cảm của thế hệ hôm nay, những người luôn biết hướng về cội nguồn. rồi cùng với việc khôi phục các lễ hội dân gian, một số nơi như Hà Nội, TP HCM còn tổ chức triển lãm thư pháp, “cho chữ” ở văn miếu … ông già, nay cũng đã thành “ông già rồi!” -lived “ở thế giới bên kia! giấy đỏ đã đỏ bao năm; mực lại phát sáng trong phòng thu nên bạn có thể khóa bút mừng xuân khi cây đào nở hoa, bạn có vui không?

4. phân tích bài thơ mr. do de vu dinh lien

vu dinh lien là một trong những nhà thơ mở đầu cho phong trào thơ mới. những tác phẩm về vu dinh không nhiều nhưng đều là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật và nhân văn sâu sắc. Trong số những tác phẩm còn lại của ông cho đến ngày nay, Ông đồ là tác phẩm nổi bật nhất. bài thơ của mr. làm là hoài niệm của tác giả với một nét đẹp truyền thống xưa đang từng chút một bị mai một.

những bài thơ ra đời khi Nho giáo suy vi, những tinh hoa của Nho giáo năm xưa chỉ là phế tích, cổ nhân và chữ Nho cũng trở thành phế tích khi người ta ném bút lông, bút chì

p>

hai khổ thơ đầu, vu đình liên tưởng nhớ lại những ngày tháng vinh quang của ông. c:

hàng năm hoa đào nở

gặp lại cố nhân

hiển thị giấy và mực đỏ

trên đường phố đông đúc

có bao nhiêu người thuê viết thư

khen ngợi vốn

bản phác thảo bằng tay

như phượng hoàng múa rồng

Khổ thơ đầu tiên gợi ý về thời gian và địa điểm ông làm việc. thời gian là mùa xuân, mùa đẹp nhất trong năm với hoa đào nở rộ hình ảnh hoán dụ đã cho chúng ta thấy được công lao của con người khi đất trời bắt đầu vào cái đẹp nhất của không khí mùa xuân trong năm, hình ảnh từ quả đào vốn đã rực rỡ. hoa nở, giờ họ thêm “giấy đỏ mực” để từng đường nét trong bức tranh miêu tả khung cảnh của thời kỳ huy hoàng này đậm hơn, nhạt hơn, hạnh phúc hơn, tràn đầy sức sống hơn. đặc biệt là sự lặp lại thời gian “lại” đã thể hiện sự gắn bó lâu dài giữa ông đồ với mùa xuân, công việc sáng tác của ông không chỉ thực hiện trong một năm mà từ mùa xuân năm này qua mùa xuân năm khác. năm. nơi ông già viết chữ là “cạnh phố đông người”, phố đông người vào mỗi độ xuân về, điều quan trọng nhất là đám đông quan tâm đến ông lão “bao nhiêu người thuê viết chữ” và biết quý trọng tài năng của mình “bằng cách ca ngợi tài năng”. tác giả miêu tả lời bài hát của mình là “những bông hoa, những nét vẽ tay / như phượng múa, rồng bay”. nghệ thuật so sánh của hai câu thơ này toát lên khí chất trong từng nét chữ của ông đồ. làm, tức là nét chữ đẹp đẽ, phóng khoáng và cao quý. bằng ca từ ca ngợi, tác giả gửi gắm sự trân trọng và ngưỡng mộ. nghiêm túc, trân trọng nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc. ở 2 khổ thơ đầu hình ảnh ông đồ trong thời đại oanh liệt được tác giả trân trọng, ngưỡng mộ, qua hình ảnh ông đồ, vũ đình còn thể hiện tình cảm chân thành đối với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc

XEM THÊM:  21 bài thơ về cây lúa, lay động lòng người

hai khổ thơ tiếp theo, tác giả vẽ nên bức tranh một sĩ phu thời hiện đại, một nho sĩ lạc vào một huyết mạch không còn phù hợp, một huyết mạch mà chữ nho đã trở thành phế tích

nhưng năm nào anh ấy cũng vắng mặt

người thuê gõ cái này ở đâu?

tờ giấy đỏ thật buồn

Mực vẫn còn trong phòng thu

ông già vẫn ngồi đó

Đi qua con đường không ai biết

lá vàng rơi trên giấy

ngoài trời đang mưa

“Năm nay đào lại nở” cảnh xuân vẫn diễn ra nhưng lòng người đã thay đổi, “người viết thuê bây giờ ở đâu?”. đây là một câu hỏi tu từ chứa đựng sự trăn trở, xót xa của tác giả trước rằng con người ta đổi thay, mùa xuân vẫn đẹp như thế này nhưng người ta không còn mặn mà với những nét đẹp của văn hóa xưa nữa. đây là bài thơ tiêu biểu cho sự suy tàn của văn hóa nho học cổ đại. “giấy đỏ buồn chẳng soi / mực ở lại phòng thu” trước sự thờ ơ của con người, vật cũng u buồn, nhân hóa làm giấy đỏ, mực chữ thảo cũng mang nỗi niềm như con người, bị lãng quên thì giấy đỏ cũng phai, mực ở lại nghiên cứu hay trong lòng buồn “sầu” nghe thật buồn.

hình ảnh người đàn ông thời hiện đại cũng đã thay đổi, “người xưa ngồi yên / chẳng ai biết” nếu trước là “kẻ viết thuê bao người / khen tài hoa” thì bây giờ là hình ảnh người đàn ông. .nên nhẹ nhàng, tan dần vào quên lãng của mọi người. Vốn dĩ nghề Nho là nghề của những nhà Nho xưa nay không đạt được ước mơ học hành là bào chế thuốc, dạy học hay truyền bá bán chữ, đó là công việc bất đắc dĩ của một nhà Nho, cái chữ chỉ của riêng ai. lại bán tín bán nghi như lời một người đàn ông bị kết án chung thân chỉ cho chữ 3 lần, nhưng ở đây phải bán chữ kiếm sống, đủ thấy nỗi bất hạnh của một đời Nho. ngày xưa được mọi người chấp nhận, ít nhất cũng kiếm sống được bằng nghề này, bây giờ, Nho học đã sa sút, người ta không còn quan tâm đến ông đồ, chữ ông viết, tức là không thể tự kiếm sống được. .Khả năng của tôi cũng vậy, ở đây không chỉ là bất hạnh về tài năng mà còn là bất hạnh về cơm áo gạo tiền. phong cảnh xung quanh mr. tu còn chất chứa nỗi buồn “lá vàng rơi trên giấy / ngoài trời mưa bụi bay”, nghệ thuật dựng cảnh ngụ ngôn, cảnh xuân cũng tàn, buồn theo nỗi buồn của người, thực ra là “người vui. không bao giờ hạnh phúc “(nguyen du)

khổ cuối của khổ thơ tác giả dùng để bày tỏ lòng tiếc thương ông đồ cũng như những nét đẹp văn hóa mất đi của dân tộc

năm nay hoa đào nở

Tôi không gặp ông già

sống lâu như cũ

linh hồn bây giờ ở đâu

ở đầu bài thơ tác giả viết “hoa đào năm nào cũng nở / Người lại thấy cố nhân” cuối bài thơ tác giả viết “năm nay hoa đào nở / Người không thấy người xưa. man ”kết cấu tương ứng Đoạn đầu của bài thơ giúp bài thơ gần gũi, gắn kết thành một thể thống nhất nhưng nó cũng ghi đậm nỗi buồn của tác giả trước sự mai một ngày càng nhiều nét đẹp truyền thống của dân tộc. cảnh thiên nhiên vẫn đẹp, hoa đào vẫn nở, nhưng ông đồ không còn “bày giấy mực đỏ nữa”. ông đồ đã khuất hẳn trong hình ảnh mùa xuân không thay đổi ấy, cảnh vật đã quên người xưa theo thời gian. , hay là nét đẹp truyền thống đã mai một? câu hỏi tu từ “người xưa / hồn nay ở đâu?” đó là cuộc đọ sức của tác giả với những quý ông làm bằng được những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc

Với hình dáng cây trượng gieo vần chân, ca từ giản dị nhưng sâu lắng, cô đọng, lời ca như một lời tự sự kể về nét đẹp truyền thống lâu đời của dân tộc, kết cấu cuối bài tương xứng. bài thơ chứa đựng tất cả những yếu tố nghệ thuật đặc sắc nhất. Qua những nét nghệ thuật tiêu biểu đó, tác giả thể hiện niềm tiếc thương ông đồ và xót xa cho sự mất mát của một nền văn hoá dân tộc.

5. cảm nghĩ về bài thơ mr. su

vu dinh lien (1913-1996) la mot dien vien, nguoi mau noi tieng. nổi tiếng trong phong trào thơ mới với bài thơ “ông đồ” viết theo thể trượng, gồm 20 dòng. Thuộc thể loại thơ “trái đất” nhưng “bốn bề thăm thẳm” thể hiện một hồn thơ nhân hậu, giàu tình người và mang nỗi nhớ da diết.

Người xưa vốn là một nhà Nho, không học cao để làm quan, mà chỉ là ngồi dạy “lời nói khôn”. ông nội mà nhà thơ nhắc đến là một nhà Nho tài giỏi. xuất hiện vào độ “hoa đào nở”… “bên phố người đông”. Tôi đã có những ngày vui vẻ, những kỷ niệm đẹp:

“hoa vẽ tay

giống như một con phượng hoàng đang múa với một con rồng “

Hoa đào nở rất đẹp. giấy đỏ đẹp, mực đen tuyền. thư bay tài năng còn gì vui hơn:

“trên đường phố đông đúc

có bao nhiêu người thuê viết thư

thẻ khen ngợi tài năng. “

Thời gian đã thay đổi. Hán học đã mai một trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến: “dù chữ uva – ông nghệ, ông công cũng nằm…” (tu xương). ông già là một khách nghiệp dư sinh ra vào một thời điểm không thích hợp. trước “phố vắng bóng người”, nay “năm nào vắng”. khiến mực bị khô và mất thời gian “tra cứu” như làm giấy đỏ phai “buồn không đỏ”. của tình huống:

“tờ giấy đỏ thật buồn

Mực còn lại trong phòng thu … “

cảnh buồn. trái tim buồn. vu dinh lien đã xuất thần viết nên hai bài thơ tuyệt vời làm xúc động lòng người.

nỗi buồn của lòng người thấm sâu và lan tỏa trong không gian cảnh vật. trong cơn mưa bụi, “ngồi đó vần” như bất động. lẻ loi và cô đơn: “qua đường chẳng ai biết”. màu vàng của lá, của giấy bạc màu, của mưa bụi bay đầy trời và mưa trong lòng người. một nỗi buồn dai dẳng:

“lá vàng rơi trên giấy

Trời mưa và bên ngoài đầy bụi. “

bài thơ tả ít nhưng gợi nhiều. khung cảnh u ám khổng lồ. lòng người vô cùng đau buồn.

đoạn cuối bài thơ là một câu hỏi thể hiện một nỗi buồn trống trải, một nỗi thương tiếc, một nỗi niềm. hoa đào lại nở. ông già đã đi đâu …

“năm nay đào nở lại

Tôi không gặp ông già

sống lâu như cũ

linh hồn bây giờ ở đâu?

Yêu cố nhân cũng là yêu một lớp người đã vĩnh viễn lùi vào dĩ vãng. yêu anh cũng là đồng cảm với một nền văn hóa đã bị diệt vong dưới ách thống trị của ngoại bang. vu dinh lien’s thương cảm cho mr. làm bao trùm và thấm sâu vào từng câu thơ, đoạn thơ. kỹ thuật tương phản, kết hợp với nhân cách hóa và ẩn dụ, đã tạo ra nhiều hình ảnh giàu sức gợi, thể hiện một phong cách nghệ thuật điêu luyện và táo bạo.

bài thơ “xưa” chứa chan tinh thần nhân văn. “Theo đuổi sự nghiệp văn chương chỉ cần làm được một bài thơ như thế cũng đủ làm rạng danh thiên hạ” (hoai thanh). đó là những lời tốt đẹp nhất, trân trọng nhất mà tác giả “Thi nhân Việt Nam” đã dành tặng cho vu dinh liên hoàn và tuyệt tác bài thơ “ong làm”.

Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Top 5 mẫu phân tích bài thơ Ông đồ hay chọn lọc – Cảm nhận về bài thơ Ông đồ. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *