Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
661 lượt xem

TOP 23 bài Phân tích Tây Tiến siêu hay

Bạn đang quan tâm đến TOP 23 bài Phân tích Tây Tiến siêu hay phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ TOP 23 bài Phân tích Tây Tiến siêu hay

tây tiến là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ quang dung. tác phẩm hướng tới việc học trong chương trình ngữ văn lớp 12.

hôm nay, download.vn sẽ cung cấp bài văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ miền tây quang gánh , mời các em cùng tham khảo.

lược đồ phân tích các bài thơ phương Tây

i. mở đầu

giới thiệu về nhà thơ quang dung, thơ tây.

ii. nội dung bài đăng

1. quang dũng hoài niệm núi rừng tây bắc hùng vĩ

– “sông ma xa rồi về tây”: sông Mã là con sông quen thuộc của núi rừng Tây Bắc. Mở đầu bài thơ, Quang Dũng có nhắc đến dòng sông này, cho thấy niềm khao khát của tác giả dường như đã lan tỏa khắp dòng sông Mã. kết hợp với cụm từ “tây tiến” là đội quân với từ “ơi” vang lên trìu mến.

– “nhớ núi nhớ chơi”: cảm xúc chủ đạo của bài thơ, thể hiện nỗi nhớ da diết, hụt hẫng.

– những địa danh “sai khao, muong lat, pha luong”: gợi nhớ về những cuộc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa cách và hấp dẫn.

– “lên dốc của khúc cua gấp: những con dốc vẫn sừng sững giữa trời đầy hiểm trở và khi đó bạn vẫn phải cố gắng vượt qua.

– “ngửi mây ngửi trời”: vũ khí trên vai người chiến sĩ được nhân hóa tạo nên hình ảnh “vũ khí ngửi trời” gợi tả độ cao lớn nhất, hoang sơ, kỳ lạ và kỳ thú chứa đựng vẻ đẹp của tâm hồn một người lính.

<3

– “chiều tối, tiếng thác hùng vĩ gầm thét / chiều tối, tiếng hổ lao xao xuyến lòng người”: tiếng thác hòa cùng tiếng tru hoang dã, hãi hùng của dã thú với âm thanh của đại ngàn.

– “nhớ thì dời cơm khói / mai chín mùa thơm mùi xôi”: người lính bị nhân dân giam giữ sau đêm hành quân gian khổ, mùi xôi mới thơm nồng của tình quân dân tan. muôn vàn gian khổ.

2. Những bức tranh ảo ảnh về dòng sông Tây Bắc và Đêm hội nghệ thuật vui nhộn

a. đêm hội nghệ thuật vui nhộn:

– ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã trở thành “lễ hội đuốc hoa”, làm cho khung cảnh dẫu thiếu thốn vẫn bừng sáng bao ước mơ, hạnh phúc.

– hai từ “kìa” thể hiện sự ngỡ ngàng của người lính. các cô gái Tây Bắc trong trang phục biểu diễn các điệu múa truyền thống.

– tiếng khèn mang hồn núi rừng, càng trở nên hấp dẫn. tâm hồn những người lính mơ mộng và lãng mạn.

b. hình ảnh hư ảo của những dòng sông ở Tây Bắc:

<3

– “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh hiện thực: những bông hoa khẽ đung đưa, đung đưa trên mặt nước lũ; đồng thời là hình ảnh ẩn dụ gợi vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc.

3. chân dung người lính anh hùng nhưng vẫn lãng mạn và cao cả, sự hy sinh, mất mát

– hình ảnh thực của đoàn quân đang tiến về phía Tây:

  • “Tây không mọc tóc”: bom đạn, chất hóa học của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể người lính đã chủ động cắt tóc đi cho tiện. . hoạt động.
  • “quân xanh”: màu xanh của áo rằn ri xen lẫn màu xanh của lục, nhưng còn được hiểu là sắc mặt tái nhợt của người lính khi bị sốt rét rừng tấn công.

= & gt; những khó khăn, gian khổ của những người lính miền Tây trong hoàn cảnh chiến tranh. – mạnh mẽ là vậy, nhưng đôi khi người lính cũng nên thơ

  • “Mắt sáng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt nhìn kẻ thù với lòng căm thù và quyết tâm
  • “đêm mơ Hà Nội ngát hương thơm”. gợi nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thanh lịch.

– mất mát và hy sinh của người lính:

  • “biên giới rải rác và những ngôi mộ xa”: không phải một người chết mà là nhiều người chết.
  • “áo choàng phản chiếu nó trở lại trái đất”: hình ảnh “quần áo”. “là áo lính bạn mặc,” trở về trần gian “là phép điệp ngữ để tránh gợi sự hy sinh của người lính.
  • hình ảnh cuối cùng” ngựa sông gầm thét hành quân lẻ loi “là lời tiễn biệt trân trọng đối với bạn.

4. tổng quan về những ngày miền Tây và những kỷ niệm khó quên

– “người đi không hẹn ngày về / đường đi sâu chia cắt”: sự hiên ngang, tinh thần sẵn sàng chiến đấu vì Tổ quốc.

– “xuân ấy ai đi tây / hồn đi không trở lại”: gợi cho tôi những kỉ niệm về đoàn quân miền tây không thể xóa nhòa.

iii. kết thúc

khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ ca phương tây.

xem thêm: phân tích sơ đồ các bài thơ phương Tây

bản đồ tư duy phân tích phương tây

TOP 23 bài Phân tích Tây Tiến siêu hay

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 1

“Tây Tiến” là đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với Quân đội Lào chống thực dân Pháp. hầu hết binh lính trong đoàn quân tây đều là học sinh, kể cả nhà thơ quang dung. năm 1948, sau khi chuyển công tác về đơn vị khác, nhà thơ nhớ lại bộ đội năm xưa và sáng tác bài thơ “về miền tây”. tác phẩm thể hiện hình ảnh người lính hướng Tây với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa cùng với hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc vừa dữ dội vừa thơ mộng.

“sông ma xa tít tận trời tây! nhớ núi rừng nhớ vờn sương đêm mưa hoa đoàn quân mỏi mòn, hơi leo khúc quanh dốc, hít mây, súng ngửi trời. cao ngàn thước đến nhà ai hòa mưa xa, bạn tôi nước dãi, rơi súng quên đời! Mùa mai chín thơm hương xôi ”

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến “Đàn ngựa sông” và đoàn quân “Tây tiến” với một cách gọi nghiêm trang và trìu mến. tiếp theo, cụm từ “nhớ” đã thể hiện cảm xúc chủ đạo của bài thơ: nỗi nhớ nhung trống vắng, hụt hẫng. những địa danh “sai khao, mường vĩ, pha luồng” gợi lên những khúc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, cuốn hút. thiên nhiên Tây Bắc có vẻ hùng vĩ. từ “gút”, “sâu” để thể hiện hình ảnh con dốc hiểm trở. nhưng trong hoàn cảnh ấy, người lính vẫn hiên ngang: khẩu súng trên vai đã được nhân hóa để tạo nên hình ảnh “súng ngửi trời”. họ hành quân không biết mệt mỏi trong đêm mưa gió, trong tiếng thác dữ dội xen lẫn tiếng hú dữ dội, hãi hùng của thú rừng với âm thanh của đại ngàn. Sau những đêm hành quân gian khổ, họ dừng chân nơi làng quê, mùi gạo nếp mới và hơi ấm nghĩa tình của người lính đã xua tan mọi gian khổ.

Trong khổ thơ thứ hai của bài thơ, quang dung đã miêu tả cảnh vui đêm hội và hình ảnh hư ảo của sông nước Tây Bắc:

“Doanh trại bừng sáng lễ hội đuốc hoa, em áo nào cũng áo, khúc nhạc chăn người xây hồn người đi chầu mo cau chiều sương mù sợ, anh thấy hồn. lau bờ nhớ bóng dáng anh bên khúc lũa, nước chảy hoa lá đung đưa ”

Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan nghệ thuật truyền thống đã trở thành “lễ hội đuốc hoa”, làm cho khung cảnh dù vắng vẻ nhưng lại bừng sáng ước mơ và hạnh phúc. hai từ “kìa” thể hiện sự ngỡ ngàng của người lính. các cô gái Tây Bắc trong trang phục biểu diễn các điệu múa truyền thống. tiếng khèn mang hồn núi rừng càng trở nên hấp dẫn. tâm hồn chiến binh mơ mộng, lãng mạn. cảnh gò má vào một buổi chiều mù sương trên mặt nước mênh mông, hoang sơ và huyền ảo. hình ảnh “bông hoa đung đưa” vừa là hiện thực tượng trưng cho những bông hoa đung đưa nhẹ nhàng nơi làng quê hữu tình trên dòng nước lũ; đồng thời là hình ảnh ẩn dụ gợi vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc.

<3

“hành quân tây, quân không mọc tóc, quân xanh oai hùng mắt sáng, gửi mộng qua biên giới trong đêm hà nội mộng mơ, hương thơm trải khắp biên giới, xa quê chiến trận không tiếc đời xanh áo dài chiếu Tôi về xứ sông rền khúc đơn ca.

Trên chiến trường gian khổ, mọi hoạt động thường ngày đều được tiến hành một cách đơn giản nhất. do đó, họ đã chủ động chọn cách cắt tóc để thuận tiện cho cuộc sống. nhưng không chỉ vậy, hình ảnh “đoàn quân không mọc tóc” còn nói lên một thực tế khốc liệt trên chiến trường. sốt rét rừng khiến bộ đội rụng hết tóc gáy. dưới đây là hình ảnh “đội quân xanh hung hãn” gợi cho người đọc hai cách hiểu. cách thứ nhất là màu xanh của lá ngụy trang. khi hành quân trên chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh tai mắt của kẻ thù. ở đây, màu xanh của rằn ri hòa cùng màu xanh của cây rừng. cách giải thích thứ hai là khuôn mặt nhợt nhạt của những người lính vì những cơn sốt trong rừng. cả hai cách hiểu đều cho thấy những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu.

Họ không chỉ dũng cảm mà còn rất thơ mộng. Binh lính phương Tây xuất thân từ giới trí thức tiểu tư sản. họ xung phong vào chiến trường và trở thành những người lính, nhưng vẫn giữ trong mình những tâm hồn tuổi học trò. hình ảnh “đôi mắt chói lọi” gợi lên một đôi mắt nhìn kẻ thù đầy căm thù và quyết tâm. đôi mắt ấy “gửi ước mơ qua biên giới” với khát vọng hòa bình cho đất nước và nhân dân. Để rồi khi đêm về, họ mơ về “Hà Nội ngát hương thơm”: đó là những cô gái Hà Nội mang vẻ đẹp duyên dáng, thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đều cho rằng nó mang “nỗi buồn, niềm mơ ước gục ngã” của tầng lớp tiểu tư sản vụn vặt. nhưng ở đây không phải như vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, quê hương của người lính miền Tây.

Bốn câu thơ tiếp theo diễn tả sự hy sinh anh dũng của người lính miền Tây. nghệ thuật đảo ngữ: “vãi” – “mép mồ từ xa” kết hợp với các điệp từ “vãi” và các từ tiếng Việt có “biên”, “xa” làm cho giọng thơ bỗng trở nên trang trọng. . hình ảnh này gợi ý rằng nó không chỉ là một cái chết, mà là nhiều cái chết. có mộ của những người lính đã ngã xuống ở khắp mọi nơi trên trái đất này. nhưng dù bạn bè đồng trang lứa đã ra đi, nhưng bạn vẫn muốn cống hiến thân mình cho đất nước. câu thơ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. những người lính đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. bạn không hối tiếc về những năm tháng tuổi trẻ của bạn. nhưng làm thế nào để không ăn năn? Họ chỉ là những đứa trẻ mười tám tuổi với rất nhiều ước mơ. nhưng vì lý tưởng cách mạng người lính vẫn sẵn sàng hy sinh tất cả. hình ảnh “áo cà sa” gợi ra hai hình thức hiểu biết sâu sắc. khi bộ đội ra đi, đồng đội của bạn không còn gì để chôn cất, nên bạn phải mặc những chiếc áo còn nguyên vẹn để thay thế. nhưng “bộ quần áo” của cậu bé mang một ý nghĩa thiêng liêng: cậu là một con báo chiến được khoác lên mình những chiến binh. những người lính đã ra đi, nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội như những vị tướng năm xưa. Với hình ảnh này, người lính đã trở thành bất tử. bạn chưa chết, bạn vẫn sống trong lòng dân tộc Việt Nam. cuối cùng là hình ảnh con sông ma: “sông ma gầm thét đơn côi”. trước sự hy sinh ấy, dòng sông ma – i đã sống gắn bó với cuộc đời của người lính miền Tây nơi núi rừng Tây Bắc dường như cũng không hề lặng tiếng: “ngựa sông gầm thét hành quân lẻ loi”. Dòng sông vốn là vật vô tri vô giác được nhân cách hóa qua động từ “gầm”. cái chết của bạn khiến thiên nhiên thương xót bạn và hát cho bạn một bài hát tạm biệt.

Khổ thơ cuối là lời tổng kết về những ngày miền Tây và những kỉ niệm khó quên. người đi tây đi / đường lên sâu thăm thẳm “như biểu thị cho người đi bộ, tinh thần sẵn sàng chiến đấu giữ nước. Hai dòng cuối:” ai đi tây xuân ấy / hồn người về. đã không trở về ”gợi lại những ký ức về đoàn quân miền tây không thể xóa nhòa.

như vậy, bài thơ về miền tây thể hiện hình ảnh người lính đến miền tây với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa cùng với hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và thơ mộng. .

phân tích bài thơ miền tây – bài mẫu 2

“Bạn có nhớ thảo nguyên châu chấu không? một thời lính trẻ khóc không xa. mỏ mịt mù, tây bắc, lau sậy cũ… ký ức xưa bỗng hóa trắng xóa ”.

(nhớ tây bắc, pham ngoc san)

Không biết từ bao giờ, Tây Bắc đã trở thành ký ức trong lòng bao người, nhất là đối với những người lính đã từng vào sinh ra tử trên mảnh đất ngàn hoa. tây bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi nhân và tất nhiên không thể không kể đến bài thơ “tây tiến” của nhà thơ quang dũng. giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật giở những trang sách cổ, gặp miền tây quang dung, lòng chợt xốn xang theo những vần thơ đầy hào sảng, bâng khuâng: sông ma xa tây…

Ngoài những bài thơ nổi tiếng thời bấy giờ như Đồng chí chính trực, Tôi từ đồng đỏ … thì bài Tây tiến của quang dũng là một bài thơ đặc sắc. Binh đoàn Tây là đơn vị binh chủng được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với Quân đội Lào chống lại quân đội của thực dân Pháp. địa bàn hoạt động của bộ đội miền tây rất rộng, từ sơn la, lai châu, hòa bình, thanh hóa, sam na (lao) đến miền tây, trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn, sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ sống được. . với nhiều lạc quan và đã chiến đấu dũng cảm. sau một thời gian chiến đấu bộ đội miền tây trở về bình yên thuộc trung đoàn 52, lúc đó quang dũng là đại đội trưởng, sau chuyển sang đơn vị khác. nhớ nhà nam thanh nữ tú, ông viết bài thơ “Tây tiến” (1948).

toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ. tác giả nhớ lại cuộc sống gian khổ, những kỉ niệm về những đêm tiệc tùng, âm u, hoang vu của núi rừng và khắc khoải nhất là nỗi nhớ của người lính miền Tây. làm nổi bật trong tác phẩm cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong từng câu thơ. phần mở đầu của tác phẩm là một nỗi nhớ khôn nguôi.

“sông ma xa lắm, nên đi về hướng Tây! nhớ núi nhớ chơi vơi. “

Mở đầu bài thơ là tiếng gọi làm xao xuyến lòng người. nỗi nhớ, nỗi nhớ dồn nén, chợt choáng ngợp. sông ma không chỉ là địa danh mà còn là “nhân chứng lịch sử” trong những cuộc hành quân. Tây tiến không chỉ là danh nghĩa của một đội quân, mà đã trở thành người bạn, người bạn tâm giao từ lâu. “sông xa thì về tây” như chứa đựng cả một bầu trời khao khát với bao nỗi niềm, hụt hẫng, nuối tiếc. tiếng “ơi” như âm vang vọng lại từ núi rừng núi rừng Tây Bắc, âm vang lan tỏa đến bất cứ nơi đâu dẫn cảm xúc nhẹ nhàng lan tỏa khắp nơi. từ “ơi” vần với từ “chơi vơi” làm cho âm điệu của câu thơ bao la, chơi vơi. có lẽ quang dũng đã học cách thể hiện nỗi nhớ trong các bài hát nổi tiếng:

“Khi tôi về nhà, tôi nhớ bạn bè, tôi nhớ chiếc chiếu, tôi nhớ chiếc chăn bạn nằm”

có lẽ nếu thành ngữ “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những cơn sóng dữ thì có vẻ không đúng lắm. hai chữ “chơi vơi” không diễn tả được sự vội vã, tình cảm và đau đớn. về bản chất mô tả những thứ như chỗ đứng, sự bấp bênh và rộng lớn. và có lẽ nỗi nhớ ở đây cũng vậy, đó là nỗi nhớ bâng khuâng, mênh mang, không nơi nương tựa. nó như một nỗi thất vọng, mang đến sự bồn chồn, hoang mang trong tâm hồn. nhớ lại điều đó, có thể quay đầu lại khiến lòng người nhức nhối.

của dòng chảy vôi nhớ sông mã, núi rừng miền tây, bộ đội miền tây, một đơn vị bộ đội hành quân miền núi miền tây thanh hóa, hòa bình, sơn la, các biên giới với Việt Nam vào đầu những năm chiến tranh. bao kỷ niệm đẹp của một thời chinh chiến chợt hiện về. những cái tên bản, tên núi rừng xưa thân thương bỗng trở nên gần gũi, làm xao xuyến bao tâm hồn người chiến sĩ:

“Xin lỗi vì đã nạp đầy đội quân mệt mỏi. những lát hoa mường trở về giữa đêm khuya ”

sai khao và muong lat là những nơi xa xôi và làng mạc nơi những người lính phương Tây hành quân hoặc có những giây phút nghỉ ngơi. Sài Khao là vùng đất nhiều sương khói, sương mù phủ kín đường, sương phủ bóng người, sương phủ lên sông suối, đèo núi như một lớp. chúng tôi nghe đâu đó giữa núi rừng hiểm trở, có hơi thở mệt nhọc của những chàng trai thành phố miệt mài trên từng chiếc bánh răng. Chưa hết, với trái tim nhạy cảm và tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ dường như nghe rõ từng hơi thở, nhịp tim, thậm chí là sự chuyển động nhẹ nhàng của cỏ cây hoa lá trên mặt đất khi màn đêm buông xuống.

ngày này qua ngày khác, đêm qua mỏ dầu “đoàn quân mỏi mòn” giữa biển sương núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi mệt” tưởng chừng như được “đắp chiếu,” đè nặng bao mệt nhọc, nhọc nhằn thì bỗng “hoa về trong đêm”. bao mệt nhọc, vất vả dường như đã tan biến. sáu thước đo bằng nhau liên tiếp thể hiện sự nhẹ nhàng, bàng hoàng trong tâm hồn người lính trẻ về đích sau những chặng đường dài đầy thử thách: “mường lát trở về trong đêm”.

Có thể nói, quang dung giống như một phóng viên đang chuyển ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước phim về những ngọn núi hiểm trở và dốc đứng:

“đi lên một khúc quanh, rất dốc, tận hưởng những đám mây và ngửi thấy bầu trời. phía trên nghìn mét, phía dưới nghìn mét, xa xa là nhà ai đó đang mưa ”

các từ: “sâu”, “ngoằn ngoèo”, “ngọt ngào” được lựa chọn và sử dụng làm bản khắc và hình vẽ có giá trị hình ảnh đặc biệt, thể hiện những sườn núi, đồi mây mà nhà thơ và bạn đồng hành đã phải vượt qua bao tháng ngày. : “áo trần đi săn giặc” (hồng nguyên). cả câu có 5 từ mang âm hưởng “dốc ngược dốc đứng” để nhấn mạnh cuộc hành quân của đoàn quân miền Tây vượt qua vùng đèo dốc quanh co, leo mãi, vào vùng hiểm trở, ác liệt.

có một câu thơ gồm hai tiểu đoạn, sự ngoan cường của người lính miền Tây được đo bằng: “trên ngàn thước // dưới ngàn thước”. hết núi này sang núi khác, từng bước, từ đỉnh, lại xuống, đoàn quân đi xuyên sương, vào rừng mưa. dường như câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy về hai phía, núi cao chồng chất lên trời, vực thẳm vô tận để lại một khoảng trống đến một vùng Tây Bắc dữ dội và huyền bí như một bí ẩn đối với lòng người.

Từ độ cao “hàng nghìn feet”, các chiến binh nhìn ra xa. những bản mường, những ngôi nhà sàn thấp thoáng. câu thơ đầy ngôn từ, đầy âm hưởng bởi gợi cảm xúc vui tươi, êm đềm nảy sinh trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan, yêu đời khi nhìn xa xăm qua cơn mưa rừng: “Nhà ai. hòa cùng cơn mưa phía xa? cảnh bỗng trở nên nửa thực nửa ảo như trên mây, chất lãng mạn như bao trùm lên cảnh, đó là sản phẩm của một nghệ sĩ ẩn chứa trong tâm hồn thi sĩ.

“một khẩu súng có mùi thơm như thiên đường” là một cách thực sự thú vị để cảm thấy mình là một người lính. một chút khéo léo của người lính giữa đèo cao càng khiến họ đẹp hơn, như một minh chứng cho ý chí, nghị lực phi thường và khát vọng chinh phục. đó là sự thật:

“Nếu bạn có đường chuyền cao, hãy sử dụng đường chuyền cao và vượt lên trên, bạn sẽ cao hơn người vượt qua”

Tây Bắc được nhà thơ quan sát dưới nhiều góc độ: nhìn lên là núi cao lưng trời, nhìn xuống là vực thẳm, lùi vào trong sương, ta có cảm giác như những ngôi nhà giữa mây trời. đang lênh đênh giữa biển. cảnh bỗng trở nên nửa thực nửa ảo như trên mây, chất lãng mạn như bao trùm lên cảnh, đó là sản phẩm của một nghệ sĩ ẩn chứa trong tâm hồn thi sĩ.

Những khó khăn và nguy hiểm của thiên nhiên cũng được mô tả một cách mạnh mẽ:

“Buổi chiều thác nước hùng vĩ gầm thét, đêm cọp nhởn nhơ động lòng người”

khung cảnh hiểm trở, nhưng không có sự tĩnh lặng yên bình … với những từ “ma thuật”, “ầm ầm” thác nước như một lực lượng thánh, đầy quyền lực, đầy uy hiếp, và các con hổ bỏ đi. ro ro dữ dội ngang dọc tự xưng mình là chúa sơn lâm khiến khung cảnh núi rừng thêm rùng rợn, đáng sợ. “tối”, rồi “đêm”, bản chất hung tợn “gầm thét” và hiểm nguy luôn rình rập như thể “rình rập con người”. Thiên nhiên hùng vĩ mà tráng lệ, qua ngòi bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt, khó khăn và đầy hiểm nguy. và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc, biết bao chiến sĩ và biết bao người bạn đồng hành đã phải bỏ mạng nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và những ước mơ còn dang dở:

“người bạn béo ục ịch dừng bước, gục ngã vì súng mà quên mất mạng sống”

“Sống quên mình” chỉ là một cách để giảm bớt nỗi đau mất mát khi một người lính hy sinh. nhưng hình ảnh được sử dụng rất đắt là hình ảnh “rơi trên đầu súng”. Tôi chợt nhớ đến tư thế của người chiến sĩ giải phóng quân sau này trong bài thơ Lê anh xuân:

“ngã khi đang đứng bắn ra máu chảy trong ngọn lửa cầu vồng”

Tư thế hiên ngang của người giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hình bóng người lính già ngã xuống sẽ không phai mờ trong tâm hồn dũng sĩ quang minh, bộ đội miền Tây và những người đã tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sức cản. “rơi súng” cũng là một cách nói nhẹ nhàng và cũng là cách nói của giới trí thức trẻ thời bấy giờ. người lính rời đi, nhưng những người bạn đồng hành của anh ta vẫn tiếp tục bước đi.

sự tĩnh lặng của câu thơ như một nốt nhạc trân trọng và thiêng liêng trong một bản nhạc hào hùng gần đây. ở đó, những người lính thật đáng quý. họ đã hy sinh tuổi thanh xuân, những gì đẹp nhất của cuộc đời để giữ lấy nền hòa bình hôm nay. Chúng ta nói về cái chết nhưng thơ không buồn. đó cũng là một đặc điểm trong phong cách thể hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, giúp bạn xuyên núi rừng Tây Bắc gian khổ lắm. những gian khổ vẫn còn khắc ghi trong ký ức. Brave Quang không phô trương bản lĩnh anh hùng, cũng không nói đến chiến công bất khả chiến bại. nhưng sống và chiến đấu ở địa hình hoang vu, ác liệt đã là anh hùng rồi.

khi nói về sự rùng rợn bí ẩn của rừng già, nhà thơ chợt nhớ lại kỷ niệm ấm áp tình quân dân:

“Nhớ nhé, hãy chuyển lúa sang mai vào mùa xôi thơm”

Giữa khó khăn, nghèo khó, con người ta càng quý trọng và biết ơn. hình ảnh những nồi cơm bốc khói, những bông lúa nếp dẻo thơm và đặc biệt là “em” tượng trưng cho người dân Tây Bắc hiện lên trong cảm xúc của nhà thơ vừa tự nhiên, vừa tinh tế. sự xuất hiện của những hình ảnh này làm bay bổng đoạn cuối của khổ thơ. bài thơ ấm áp trong tình đồng bào ấm áp. hai câu cuối gieo vào lòng người đọc một cảm giác ấm áp. hơi ấm của tình người. đây là sự lãng mạn dâng trào của bài thơ và nó giống như một nét vẽ rực rỡ của một hình ảnh.

bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách hiện thực và lãng mạn. toàn bộ bài thơ như một bức tranh mực cổ điển được phác họa theo phong cách phương Đông. Quang Dũng là một họa sĩ. anh ấy có một tài năng đáng chú ý để vẽ cảnh. quang dũng xây đài tưởng niệm thiên nhiên tây bắc và người lính miền tây.

Ở đoạn thứ hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc mở ra với vẻ đẹp mới, khác hẳn đoạn đầu. anh hùng trong trận chiến, nhưng người lính miền Tây cũng đa tình và lãng mạn trong lễ hội:

“doanh trại bừng sáng với lễ hội đuốc và hoa, tôi đã luôn mặc quần áo của mình vào âm thanh của bản nhạc rụt rè về người chăn cừu, người đã xây dựng tâm hồn”

Đây là kỉ niệm đẹp về tình yêu của người dân quân trong đêm hội và khung cảnh thơ mộng của sông nước miền Tây. chữ “phách” là vẽ truyền thần. “ngọn lửa” là để chiếu sáng, đốt sáng rực rỡ với những ngọn đuốc trong đêm “lễ hội đuốc hoa”. “lễ hội đuốc hoa” là cảnh thực. đêm hội diễn ra dưới rừng cây, tất cả những người tham dự đều cầm đuốc trên tay và gió thổi làm đuốc sáng lấp lánh và kêu lách tách. cảnh này vào ban đêm thực sự trông giống như một bông hoa đuốc. Tình cảm của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi cho người đọc nhiều liên tưởng, liên tưởng. “Em” xuất hiện trong nền không gian đó.

“bạn mặc áo sơ mi của mình khi nào”

“There you go” là một lời chào đầy bất ngờ, vui vẻ và bất ngờ. chào mừng khám phá. Tôi lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng đã phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái với lòng yêu mến và ngưỡng mộ. chính những bộ trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các cô gái Tây Bắc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ. bạn trở thành cốt lõi của hình ảnh với vẻ đẹp của một vùng đất xa lạ. câu thơ thứ ba xuất hiện, ngay lập tức khổ thơ tràn ngập âm nhạc.

“xin kính chào cô gái nhút nhát”

từ “nhiều” mà quang dung sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. độc giả muốn chứng kiến ​​những vũ điệu hoang dã của nền văn hóa Âu Lạc. điệu nhảy đó kết hợp với điệu nhảy của bạn với sự duyên dáng, e thẹn và tình yêu. Chính trong bầu không khí của âm nhạc, vũ điệu đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính miền Tây thực sự ngây ngất trước nhân dân và sân khấu.

vùng Tây Bắc rộng lớn và huyền ảo hiện ra trong bốn dòng sau:

“Những ai đi chơi gò má vào buổi chiều mù sương ấy có thấy tâm hồn đang lau bờ, có nhớ bóng dáng trên gò bồng bềnh theo dòng nước và những bông hoa đung đưa?”

một không gian đá phiến khói vừa xuất hiện như trong một cõi mơ. thực của khí trời tây bắc, mộng sương khói tưởng như chốn thần tiên. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ nên bài thơ mang đầy màu sơn. quang dung phác thảo thật là có tài. Chỉ với một vài nét chấm phá, linh hồn của cảnh và người hiện lên sống động và hấp dẫn.

cách dùng các điệp từ “lao hồn, thân hình, hoa đung đưa” có sự cộng hưởng với nhau, tại sao lại là “lao hồn” mà không phải là bến bờ? bởi rìa, nó sẽ rất cụ thể, nhưng đây là cảm giác. cách đặt câu hỏi thật đặc sắc: “có thấy hồn lau bến bờ nhớ bóng dáng cây đơn”. hình ảnh khỏe khoắn, tươi trẻ, tràn đầy sức sống “hoa đong đưa” gợi lên vẻ đa tình như muốn hút hồn người trên đồi, vẻ đẹp tinh tế trong cách diễn đạt của tác giả. . phong cảnh linh thiêng, bạn như lạc vào thế giới của mây. Ai nói Tây Bắc là rừng thiêng, nước độc thì hãy một lần thả hồn mình lắng đọng để chất thơ Tây Bắc ngấm vào tâm hồn.

Đoạn thơ bộc lộ phẩm chất hào hoa, lãng mạn của Quang Dũng. cảm ơn nhà thơ đã cho tôi một chuyến trở lại Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và thêm yêu Tây Bắc.

quang dung đã dựng tượng người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ miền tây. có thể coi khổ thơ thứ ba này là những nét vẽ cuối cùng để hoàn thiện tượng đài người lính miền Tây anh dũng, dũng cảm. chân dung người lính xuất hiện trong khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tinh thần, lí tưởng chiến đấu và phẩm chất anh dũng hy sinh. có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng của một nghĩa quân trong một bối cảnh khác thường.

“Đội quân hành quân về phía tây không mọc tóc trước quân xanh hung hãn. chói mắt gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội một sắc hương thơm ”

da xanh, không mọc lông do sốt rét rừng. nhiều người chết vì sốt rét hơn trong trận chiến, do điều kiện thiếu nước khó khăn. cuộc chiến đi kèm với nước mắt và đau thương, cũng như bao người lính khác, những người lính miền Tây dù phải chịu nhiều gian khổ nhưng vẫn anh dũng nhưng không khuất phục, luôn ở thế chủ động tiến công. . giọng điệu của họ coi thường khó khăn, họ ốm yếu nhưng không yếu đuối. “ba mắt gửi mộng qua biên giới, hà nội mộng ngoại thơm”. đây là cái đặc sắc của sự mơ mộng và mơ mộng ”của những người lính Hà thành. ý chí kiên quyết “hiên ngang” giết giặc lập công, ước mơ quyết thắng, trở về gặp lại những bóng thơm, nhưng hữu tình. Họ có lẽ không phải là những người lính cứng rắn, nhưng họ cũng rất lãng mạn.

“trải bờ mồ, xa chiến trường, đời xanh chưa tàn, áo bào thay phản chiếu trở lại trần gian, sông ma gầm lên khúc ca hiu quạnh”

những ngôi mộ là có thật, tinh thần tình nguyện hy sinh vì đất nước cũng có thật. đó là tinh thần của một thời đại “quyết tử cho tổ quốc”.

Chính tinh thần lãng mạn đã giúp nhà thơ có thể nói về một chủ đề mà nhiều người né tránh thời bấy giờ. nếu có chiến tranh thì phải có mất mát, hy sinh. vấn đề là không để rơi vào bi quan, là thấy mất đi tầm vóc cao cả của đức hy sinh. nhà thơ đã sử dụng những câu thơ kép dòng, câu sau giải thích và giải thích cho câu trước. những ngôi mộ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân vì đất nước cũng có thật. đó là tinh thần của một thời đại “quyết tử cho tổ quốc”.

chết trên chiến trường là đơn giản, đơn giản. anh ta nằm xuống mà không có một tấm màn che cơ thể. anh trở về quê hương như thể cái chết của anh đã nghiêng mình bên dòng sông hùng vĩ để từ biệt với những tiếng gào thét đau thương và uất hận. tiếng gầm của dòng sông ngựa sẽ kéo dài mãi mãi.

“miền tây đi về hướng tây, người đi không hứa đường lên là vực sâu, có người đi về hướng tây mùa xuân ấy hồn quay không về”

Bài thơ khép lại bằng bốn dòng như một lời thề son sắt với trời Tây. tinh thần thấm nhuần tư tưởng, tình cảm của người lính miền Tây, tinh thần sẵn sàng hy sinh, cống hiến. tình cảm máu mủ của tác giả dành cho đoàn quân miền tây, đại từ “ai” có thể là quang dung, có thể là quân tử miền tây, hay ai đã từng gắn bó với miền tây. tiến về vùng đất phía tây bắc. cuộc chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp của tinh thần phương Tây là bất diệt.

Từ sự kết hợp hài hòa giữa ngoại hình hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên một bức chân dung, một tượng đài về người chiến sĩ cách mạng vừa hiện thực vừa khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh của dân tộc ta trong thời kỳ mới, khi cả dân tộc đứng lên làm nên cuộc kháng chiến thần kỳ bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp xâm lược. nó là tượng đài kết tinh âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. đó là tượng đài khắc ghi tình yêu của anh Quang đối với đồng đội, đối với Tổ quốc.

Tây tiến là tượng đài thơ ca qua nhiều thế hệ. nhưng trước hết và quan trọng nhất đối với phương tây là lịch sử. câu chuyện về một đội quân câu chuyện về một cuộc chiến tranh. lịch sử của một quốc gia. và câu chuyện của một người đàn ông, một nhà thơ. Sự tiến bộ của phương Tây trở thành lịch sử của linh hồn, của văn hóa, của tinh thần giống nòi. khiến quân đội trở nên bất tử.

phân tích bài thơ miền tây – bài mẫu 3

quang dung là một nhà thơ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Những bài thơ của ông thường viết về thời kỳ kháng chiến có sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người, đặc biệt là vẻ đẹp của người lính. Những bài thơ miền Tây là một trong những tác phẩm hay nhất của ông.

western> được sáng tác vào năm 1948, lấy cảm hứng từ nỗi nhớ về thiên nhiên và chiến binh của miền tây. Để miêu tả những nét đẹp ấy, ngòi bút của Quang Dũng đã diễn xuất một cách xuất sắc những cung bậc cảm xúc dâng tràn.

“sông ma xa rồi, về tây ơi! nhớ núi rừng nhớ vờn sương lấp đoàn quân mỏi, hoa về trong đêm”

Hai dòng đầu gợi lên tất cả cảm giác nhớ nhung da diết về tác phẩm. câu thơ đầu sử dụng phép điệp thời gian 2/2/3 như một tiếng gọi tình yêu với nỗi nhớ ùa về. Quang Dũng đặt tên là sông Mã vì sông Mã là nơi gắn liền với bước đi và chứng kiến ​​bao kỉ niệm vui buồn. dòng thứ hai là nỗi nhớ da diết không nguôi trong tâm trí nhà thơ và được thôi thúc bởi một điều gì đó xa xăm, lạc lõng và không còn hy vọng. sai khao, sương mù là những địa danh rất nổi tiếng ở Tây Bắc được tác giả sử dụng để khơi gợi nỗi nhớ. “Muồng lát hoa về trong đêm” là một bài thơ có giọng điệu độc đáo, tái hiện hình ảnh những bông hoa thoang thoảng trong sương.

“trèo lên khúc cua dựng đứng, mây khói, súng ngửi trời. Lên ngàn thước, xuống ngàn thước, nhà ai hòa theo tiếng mưa xa”

hình ảnh thiên nhiên hiện lên vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở với những vùng núi cao, vực thẳm: “quanh co”, “sâu thẳm”, “ngọt ngào”, “súng ngửi trời” cùng với âm thanh rùng rợn càng làm cho sự hung dữ sẽ tăng lên gấp bội. Ngoài ra, thiên nhiên nơi đây cũng rất êm đềm, huyền ảo “mưa nhà ai xa”, những người lính có thể lao vào cuộc sống gia đình, quây quần bên bếp lửa đêm. đoạn thơ sau thể hiện hình ảnh người chiến sĩ anh dũng, hào hoa và lãng mạn:

“bạn ơi, dừng bước, ngã súng, quên đời! chiều thác ầm ầm hùng vĩ, chiều tối hổ giễu người. Nhớ đi khói hương mai tạm biệt xôi thơm bạn nhé.” lúa mùa. gạo nếp “

những người lính phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách và hy sinh. Dù anh dũng trong gian khổ, nhiều người đã phải bỏ mạng trên núi cao, vực thẳm khi hành quân. họ đã hy sinh trong tư thế kiêu hãnh, trên tay vẫn cầm chắc vũ khí: “người bạn bất cẩn dừng bước, rơi vũ khí quên đời!”. vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng Tây Bắc luôn là mối nguy hiểm đối với nhiều người: “về đêm, hổ rình mồi”. tuy nhiên, những người lính vẫn mang trong mình một tâm hồn hào hoa, lãng mạn, hòa mình vào thiên nhiên để xoa dịu mọi gian khổ về thể xác. Vẻ lãng tử đã giúp Quang Dũng tạo nên màu sắc bi tráng trong hình tượng người lính miền Tây.

“doanh trại bừng sáng với lễ hội đuốc và hoa, tôi đã luôn mặc quần áo của mình vào âm thanh của bản nhạc rụt rè về người chăn cừu, người đã xây dựng tâm hồn”

liên hoan nghệ thuật với hình ảnh ánh lửa bập bùng xua tan bóng tối, giá lạnh của núi rừng và thể hiện niềm xúc động, hân hoan trong lòng người. chính trong bầu không khí của âm nhạc và vũ điệu đã góp phần tạo nên tâm hồn cao cả và lãng mạn của người lính. dưới đây là hình ảnh không gian sông nước yên tĩnh và thơ mộng.

“Những ai đi chơi gò má vào buổi chiều mù sương ấy có thấy tâm hồn đang lau bờ, có nhớ bóng dáng trên gò bồng bềnh theo dòng nước và những bông hoa đung đưa?”

Quang dung sử dụng văn phong mềm mại, tinh tế như muốn chia sẻ nỗi buồn vui cùng những người lính hành quân. trong màn sương với từng mảnh kí ức hoài niệm, đó là một sáng tạo ngôn từ mới thể hiện chất lãng mạn của thi nhân.

“quân không mọc tóc tây, quân xanh oai hùng, mắt mở trừng trừng, đêm đêm gửi mộng qua biên giới trong dáng vẻ thơ mộng của hà nội”

Con đường hành quân gian khổ biết bao khi những người lính phải đối mặt với những căn bệnh hiểm nghèo. Sử dụng biện pháp đảo ngữ, Quang Dũng nhấn mạnh vẻ đẹp của mỗi chiến binh, qua cách tác giả miêu tả những căn bệnh không còn đáng sợ. hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp tâm hồn ngông cuồng của những chàng trai Hà Nội. những người lính dù ở đâu cũng luôn hướng về quê hương thân yêu.

“trải bờ mả, xa chiến trường, đời xanh không hối tiếc, áo bào thay hồi hướng trần gian, sông mã gầm khúc đơn ca.

Cái chết của người lính là cái chết anh dũng mang đậm chất sử thi, là lí tưởng cao đẹp trong cuộc hành trình gian khổ của người lính. thực tế ở đây khốc liệt nhưng rất hào hùng và không quá buồn.

“người đi miền Tây không hẹn trước, đường lên thăm thẳm chia cắt. Người đi miền Tây mùa xuân ấy hồn mãi không về”

Hành trình chiến đấu của người lính là một chặng đường dài, đầy khó khăn và thử thách. những người lính ra đi tìm đường bảo vệ Tổ quốc đã phải trải qua bao thử thách của thiên nhiên và của kẻ thù, tưởng chừng như không có khả năng hứa hẹn ngày gặp lại. quang dung kết thúc bài thơ với nhịp điệu chậm rãi và đầy cảm xúc.

Bài thơ sử dụng biện pháp tu từ sáng tạo, bút pháp lãng mạn và ngôn từ độc đáo, thể hiện vẻ đẹp của người lính hành quân và ca ngợi ý chí chiến đấu cao cả của anh ta.

tây tiến là một bài thơ hay và sẽ mãi để lại dấu ấn trong lòng người đọc về hình ảnh người chiến sĩ anh dũng vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy để bảo vệ biên cương Tổ quốc.

phân tích bài thơ miền tây – mẫu 4

“có không gian, đo độ dài của nỗi nhớ? Tình yêu bao la nào sâu sắc hơn? “

(tran dinh chinh)

thơ hiện đại Việt Nam có cả một trời hoài niệm. đó là nỗi nhớ mà hoang cam gửi về đất khách quê người trong bài thơ “bên kia sông”, nỗi nhớ của người con xa quê qua bài thơ “bếp lửa” của người Việt. đôi khi đó còn là nỗi nhớ trong tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi người này trong bài thơ “hương đói” của phan thị thanh nhàn. và quang dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không ngoại lệ trong việc truyền tải tình cảm của mình đến đồng đội, đồng đội qua bài thơ “tây tiến”.

nói đến quang dung, chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc của ông về đề tài người lính – cuộc Tây tiến. có lẽ vì nàng đã từng gắn bó sâu nặng với nhà thơ. Tây Tiến là đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với Lào, trấn giữ biên giới Việt – Lào, đánh tan quân địch ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của Binh đoàn Miền Tây, nhưng đến năm 1984, Miền Tây bị giải tán, thành lập Trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển đến một đơn vị khác ở lưu vực sông: một làng ven bờ sông Đáy. trong nỗi nhớ về đơn vị cũ, ông đã sáng tác thành công bài thơ có tên đầu tay là “nhớ miền tây” nhưng sau một thời gian, in lại trong tập “mây và đầu”, ông đã bỏ chữ “nhớ” ở đầu đề vì để. Xuyên suốt bài thơ là dòng cảm xúc của nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết, da diết, chỉ với hai từ “Tây tiến” cũng đủ gợi nên cảm hứng chủ đạo trong bài thơ. đó là nỗi nhớ.

bài thơ mở đầu bằng những câu thơ với giọng điệu trầm buồn, sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về những khúc hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi nên thơ, trữ tình của một thời đã qua! nỗi nhớ ấy được thể hiện qua hai câu đầu nhà thơ cất lên thành tiếng:

“sông ma xa lắm, nên đi về hướng Tây! nhớ núi nhớ chơi vơi “

Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc đến hình ảnh con sông mã. và chúng ta cũng thấy sông Mã xuất hiện ở đầu và gần cuối tác phẩm, đây là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, có sự kết nối với nhau để thể hiện một điều rằng sông Mã gắn liền với cả cuộc hành trình. đoàn quân tây bộ hành quân từ vùng này sang vùng khác. mặt khác, dòng sông ấy còn được nâng lên trở thành chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác khủng khiếp của kẻ thù và những chiến công hiển hách của người lính miền Tây. như nhà thơ phan đã nhận xét rằng: “Câu thơ tựa như lông chim thiên lý trên sông Mã. Tôi chưa bao giờ đọc bài thơ nào về sông Mã hay hơn thế. dư âm của câu thơ là khí phách hiên ngang, gan dạ, dũng cảm trong độc hành của anh và lửa đã tạo nên bộ tứ kỵ binh. “Tây tiến” không phải chỉ để gọi tên đơn vị quân đội, mà đã trở thành “người bạn” để nhà thơ gửi gắm tâm tư tình cảm của mình. câu thơ cảm thán kết hợp với điệp ngữ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ quay cuồng ùa về trong tâm can khiến nỗi nhớ bồng bềnh như dải lụa, đọng lại mãi trong lòng người đọc. nỗi nhớ ấy không chỉ là về dòng sông Mã mà nó còn là nỗi nhớ của người trung đoàn miền Tây đã cùng nhà thơ đi qua bao gian khổ, khó khăn, nỗi nhớ ấy còn là nỗi nhớ về địa bàn hành quân. gợi lại thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc vừa thơ mộng vừa trữ tình, đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” đã lột tả được cái hồn của câu thơ. Thơ Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có rất nhiều cách diễn đạt. các bài hát nổi tiếng có cụm từ:

“Nhớ ai đó sảng khoái như được đốt lửa, như ngồi trên đống than nóng”

cách nói “đi” càng tạo thêm cảm giác buồn bã, lo lắng, tiếc nuối về một thời đã qua, về những kỉ niệm đẹp của một thời, bởi những điều đó sẽ không bao giờ quay trở lại. “chơi vơi” là trạng thái chỉ có một mình mình giữa không gian rộng lớn, không thể bám víu vào bất cứ thứ gì. “Nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu là cô đơn trong thế giới bao la của nỗi nhớ, không có đầu, không cuối, không theo thứ tự thời gian và không gian. chính nỗi nhớ nhung da diết, bất tận khiến lòng người bồi hồi. vần “ơi!” kết hợp với từ láy là tiếng gọi đoàn quân tây nghiêm, thể hiện nỗi nhớ da diết, mênh mang, chênh vênh giữa hai bờ hiện thực, nỗi nhớ không thể hình dung, khi cụ thể, khi cụ thể. đắm chìm trong mê lầm. , chơi với. nó cũng vẽ nên một trạng thái cụ thể của nỗi nhớ: nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, thấm không gian, thấm vào thế giới bao la của nỗi nhớ. quang dung đã liệt kê một số địa danh như: sai khao, mường vĩ, pha luồng, mai châu,… đều là những nơi đã đi qua và dừng chân trên chặng đường gian khổ, những cột mốc, để lại dấu chân của những bước tiến. quân đội. càng nhiều địa danh hiện ra, nỗi nhớ càng da diết nhưng càng da diết, xa xôi, hoang sơ và huyền bí.

​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​​Về cái lạnh và khắc nghiệt mà thời tiết sương mù cũng rất trữ tình:

“sai mong muốn sương lấp đầy đội quân mệt mỏi với những bông hoa trong đêm tàn”

Nói đến Tây Bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt. ấn tượng đầu tiên về thiên nhiên nơi đây phải là sương. trên đỉnh sai khao, sương mù dày đặc, bao trùm cả đoàn quân vượt núi băng rừng ngày đêm khiến họ không thể nhìn rõ mặt nhau. động từ “lấp đầy” khiến ta có cảm giác như sương sa càng làm cho đoàn quân càng thêm khó khăn, choáng ngợp vì mệt mỏi. “Đoàn quân mệt nhoài” nhưng tinh thần của họ không hề tỏ ra mệt mỏi hay nản chí, bởi quyết tâm lên đường về quê hương càng làm cho họ thêm kiên cường, bất khuất. Quang dũng thật tài tình khi sử dụng hình ảnh sương để thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng Tây Bắc. còn tả sương, lan viên viết trong “khúc tàu”:

“nhớ bản sương, nhớ nơi mây phủ đèo đi qua, lòng không thương khi ta ở, chỉ là nơi có đất khi ta đi, đất đã thành tâm hồn”

/ p>

nhưng thật ngạc nhiên, dù trong hoàn cảnh gian khổ, khó khăn ấy vẫn có một nét lãng mạn đặc trưng với hình ảnh “hoa về khuya”, là hương hoa hé nở về đêm, nhẹ nhàng xao xuyến trong tâm hồn người. của người lính. . nhưng chúng ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây là những người lính miền tây trở về, vì chú ho đã từng nói: “dân ta là hoa của đất, người là đẹp nhất”, mặt khác, hình ảnh của hoa là một ẩn dụ hình ảnh những ngọn đuốc bình thường lập lòe, lấp lánh, huyền ảo mà những người lính cầm trên tay để soi đường trong những đêm dài hành quân căng thẳng. cái hay của nhà thơ ở chỗ không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói sương đêm mà là “sương đêm”. cách dùng từ đã chứng tỏ vẻ đẹp trong tâm hồn người lính là tâm hồn hào hoa, lãng mạn.

—ngoài cái lạnh của màn phun, những con dốc và đèo là những địa điểm không thể bỏ qua khi đến vùng hoang dã Tây Bắc. Quang dũng miêu tả cảnh vượt dốc, vượt đèo, hiểm trở với những dốc cao, vực thẳm tuy hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, huyền ảo:

“lên khúc cua dựng đứng, tận mây mù, súng ngửi trời ngàn thước lên, ngàn thước xuống nhà ai, mưa tầm tã từ xa”

Tác giả sử dụng cụm từ “con dốc” để nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua. Với hàng loạt từ ngữ tượng hình có vần điệu như: “quanh co”, “sâu thẳm”, “ngọt lịm” diễn tả rõ nhất sự hiểm trở của núi rừng, việc đi đường bao giờ cũng nguy hiểm. “undercut” dùng để chỉ con đường nguy hiểm, nhiều khúc quanh co. “vực thẳm” là một từ chỉ độ sâu, nhưng tác giả dùng nó để chỉ độ cao, cao một cách đáng sợ. Quang dung đã khéo léo không dùng từ “topping”, vì khi đó người đọc có thể cảm nhận và thấy được chiều sâu của nó, nhưng “sâu” thì khó ai hình dung được nó sâu đến mức nào. . Để cho cảm giác chân thực như vậy thì góc nhìn của bạn phải từ dưới lên trên mới có thể nhìn được độ dốc quanh co, từ trên xuống dưới mới biết được độ sâu của dốc, nhưng để có được góc nhìn đó thì bắt buộc bạn phải thử nghiệm , để hành quân qua những ngọn núi và con dốc nguy hiểm. kết hợp với câu thơ 4/3 gấp đôi câu thơ giúp người đọc hình dung ra cảnh hai anh em treo mình trên sườn núi đá, một bên là vực thẳm, một bên là núi cao chót vót. ở câu thơ đầu với 7 chữ mà đã có 5 ô nhịp gợi cảm giác bấp bênh, ổ gà, nguy hiểm vô cùng. chúng ta nghe thấy tiếng thở dốc của một người lính khi anh ta băng qua những hẻm núi dốc và thăm thẳm. Đây cũng là nhạc trong thơ Quang Dũng gợi nhớ đến nhạc trong ca khúc Nhạc rừng của nhạc sĩ Hoàng Việt. các “đụn cát ngọt” tượng trưng cho sự hoang vắng, không có bóng người. quang dung đã viết “súng ngửi trời” thay vì “súng chạm trời”, bởi vì “chạm” hoặc “chạm” sẽ làm suy yếu ý nghĩa của câu thơ, đồng thời “súng ngửi trời” cũng cho thấy vẻ đẹp kiêu sa của những chiến binh dũng cảm, họ đang chinh phục những đỉnh cao của thiên nhiên, chinh phục những nơi ít người lui tới. Khi những người lính phương Tây hành quân qua các ngọn núi, mũi súng của họ dường như đã chạm tới đỉnh trời, khoảng cách được rút ngắn xuống khoảng cách ngắn nhất giữa súng trường và bầu trời, đó là một thực tế nhưng bằng cách này, nó tôn lên ngôi đền. vẻ đẹp của người lính miền Tây, đồng thời đó cũng là những khoảnh khắc đồng đội nhí nhảnh, vui tươi, tinh nghịch bên nhau. quang dung đối lập ở dòng thứ ba, đối lập “trên” với “dưới”, dấu phẩy ngắt nhịp đột ngột của dòng, tạo thành hai vế đối lập. núi bây giờ thật cao và hiểm trở, nhô lên rồi đổ xuống gần như ngay lập tức, nó gần như thẳng đứng, nhìn lên là cao, nhìn xuống là vực sâu, khoảng cách giữa đỉnh dốc và mặt đất dường như xa lắm ”một ngàn thước ”vạn dặm. thế nhưng, những người lính vẫn lặng lẽ tiến bước, đứng trên độ cao ấy, nhìn về phía xa xăm, rồi chợt vỡ òa sung sướng trước cảnh cánh đồng thanh bình trải dài trước mắt: “trời mưa xa vắng nhà ai”. trên biển cả ”. Dưới cơn mưa xối xả của núi rừng Tây Bắc, những ngôi nhà ẩn hiện, chìm trong biển mưa sương. từ góc độ hình ảnh, nó giống như một bức tranh mực với những nét miêu tả sắc nét nhưng cũng có những khoảng trống và những khoảng lặng huyền ảo. “nóc nhà” là của ai, người dân miền núi, bạn luôn được đón tiếp nồng hậu và đây cũng là nơi an nghỉ của bạn. vẻ đẹp này cũng được thấy trong bài hát “When will you come back” của hoang trung thong:

“anh em về quê vui tiếng hát, tiếng cười nói rộn ràng trước ngõ, lớp trẻ vui theo mẹ già áo nâu, đàn con trong sâu trong khu rừng mà họ vừa trở về “

p>

Đó là cảm giác bình yên của người lính khi nhìn thấy những mái nhà của người dân altiplano. và càng hạnh phúc hơn khi được chào đón bằng tình cảm quân nhân nồng hậu.

— Bốn câu thơ này kết hợp rất tốt, sau khi vẽ ba nét bằng những nét mạnh mẽ, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất nhẹ. Không phải ngẫu nhiên mà tài năng hội họa của Quang Dũng lại được mọi người quý trọng như vậy. bởi vì quy tắc sử dụng màu sắc trong hội họa là giữa những gam màu nóng, nên pha trộn một số gam màu lạnh để tạo nên sự hài hòa trong bức tranh, ở đây nhà thơ cũng sử dụng như vậy trong thơ của mình từ các họa sĩ khác nhau. thanh bằng – tam giác. không chỉ là tranh vẽ, mà những hình ảnh đó còn là âm nhạc, sau nốt cao lại đến nốt thấp, nên nói như xuân diệu: “đọc để tiến, người như có nhạc trong miệng” cũng là một nhận xét tế nhị.

Dù trên đường hành quân, các bạn gặp vô vàn gian khổ, khó khăn đến cùng cực, nhưng chúng tôi vẫn thấy ở các bạn lòng dũng cảm tột độ. đoàn quân cứ thế tiến lên, nối tiếp nhau tiến quân. sức mạnh của thiên nhiên dường như bị suy giảm và giá trị của con người dường như được nâng lên một tầm cao mới. Quang Dũng cũng nói về sự hy sinh của đồng đội trong những chuyến hành quân vô cùng gian khổ:

<3

“Tây tiến” từng không được đưa vào chương trình giảng dạy vì tác phẩm đề cập đến một đề tài nhạy cảm trong văn học Việt Nam thời chiến tranh, tức là viết về cái chết, viết về sự hy sinh. chúng ta biết rằng tài liệu để thuyết phục mọi người trước hết phải trung thực. Dù viết về chiến tranh nhưng Brave Quang không quan tâm, trốn tránh sự thật đau lòng. do đó “Tây tiến” một lần nữa được đưa vào chương trình học như một kiệt tác văn học. hai tiếng “anh ơi” bật ra như tiếng nấc nghẹn ngào. sức nặng của câu thơ được đặt lên từ “giọt dầu” để thể hiện những gian khổ, khó khăn trong cuộc hành quân. đặc biệt tác giả không viết “ngã” mà viết “không bước nữa”, biến anh em từ bị động thành chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi đó đơn giản như một giấc mơ. “nón súng” là biểu tượng của người lính, thể hiện dù ra đi vẫn không quên mình vẫn là người lính, dù ngã xuống cũng phải “đội nón ra đi”, tư thế hiên ngang. của sự hy sinh, đau buồn nhưng cũng rất anh hùng. hình ảnh người chiến sĩ hy sinh anh dũng ấy sau này được nhìn thấy trong “hiên ngang Việt Nam”:

“và chết đứng vì máu của mình phun ra với lửa cầu vồng”

bóng dáng của những người lính dù đã gục ngã nhưng vẫn còn mãi trong lòng người anh dũng quang minh, bộ đội tây tiến và những người đã tham gia kháng chiến. họ hy sinh trên đường hành quân, có chiến sĩ nằm xuống, hiển nhiên súng nổ, dân tộc Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải chuyện đùa, có người chết, có người chết, đó là chuyện rất bình thường. người lính rời đi, nhưng những người bạn của anh ta đi theo anh ta. “quên đi cuộc sống” là một cách để giảm bớt mất mát và đau buồn. khi người lính chết, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. cách nói giảm phần u ám mà tăng thêm nét cao cả, sự hy sinh thầm lặng của những người lính miền Tây. qua lăng kính lãng mạn của tác giả, sự hy sinh ấy dường như là một ước mơ của người lính. ông hóm hỉnh miêu tả cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng. tuy nhiên vẫn không thể diễn tả được nỗi buồn, nỗi đau nên tác giả phải đặt dấu chấm than “!” cuối câu như thắp hương.

—Những khó khăn không dừng lại ở đó, mảnh đất Tây Bắc không chỉ có đèo cao hiểm trở hay ngàn lũ mà còn nhiều thử thách khó khăn hơn gấp bội. cuộc hành quân của bạn qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang sơ và kỳ bí, dường như bất chấp bước chân của những người lính:

“Buổi chiều thác nước hùng vĩ gầm thét, đêm cọp nhởn nhơ động lòng người”

quang dũng đã chọn hai mốc thời gian là “chiều tối” và “ban đêm”, đây là thời điểm bộc lộ rõ ​​nhất hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, hiểm trở đó vẫn tiếp tục luân chuyển. Theo chu kỳ, hàng ngày bạn phải đối mặt với những khó khăn và nguy hiểm đó. họ phải thường xuyên hành quân qua những vùng đất thiêng núi rừng nước độc nên tâm hồn họ bị ám ảnh bởi tiếng gầm dữ dội của thác nước. ở những nơi xa, việc làm chủ thiên nhiên khó như nhân lên. “mường hịch” với sức nặng dồn lên từ “hh” tượng trưng cho những bước chân nặng nề với bóng hổ vờn người, hổ ăn thịt người, hổ xé xác người, hổ giết người. nhưng xét về bản lĩnh của người lính thì quả bóng nổ chỉ là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện qua từ “chọc ghẹo” để thử thách bản lĩnh và sức chịu đựng của người lính.

và trong những câu thơ này, tác giả miêu tả rất chân thực, chúng ta tuy không sống ở thời kỳ này, chưa từng đặt chân đến núi rừng phía tây, chưa gia nhập quân đội phía tây. . nhưng khi đọc tác phẩm chúng ta mới hiểu được những gian khổ mà những người lính phải trải qua. để khép lại khổ thơ đầu, nhà thơ đã kết thúc bằng hai dòng cảm xúc của nỗi nhớ, nỗi nhớ ấy tràn về thị trấn Tây Bắc thân yêu:

“nhớ dời lúa mai mùa xôi thơm”

lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị miền Tây, bạn có nhớ những khó khăn và kỷ niệm ở lại cùng đồng đội trong những năm tháng chiến tranh nên anh dũng không? đi về phía Tây “như thế này. Sau một cuộc hành quân dài và mệt mỏi, các chiến sĩ có dịp dừng chân và cắm trại tại một ngôi làng có cái tên được nhiều người yêu mến – làng mai. Ở đây, những cô gái dân tộc trẻ trung, xinh xắn mang xôi thơm cho anh em, còn anh em ngồi quây quần bên nồi xôi khiến bao vất vả, khó khăn tan biến, đây là cảnh thắm đượm tình quân dân, chiến tranh lùi vào góc khuất nhường chỗ cho cảnh sinh hoạt vui tươi. Những ngày dài hành quân gian khổ giữa núi rừng phải chịu đói khát, hôm nay người mai đón bạn bằng món “cơm lam” và mùi thơm rất dễ chịu của “xôi nếp nương” quang dung dùng từ. “bạn mùa” để thể hiện sự gần gũi, tình cảm, gắn bó như “tình anh em”, bộ đội nhớ mùa màng, xôi thơm, ửng hồng miền sơn cước cũng nói về cây lúa. gạo nếp, gạo tẻ và tình cảm quân dân, che lan vien đã viết nên trong ca khúc “Tiếng hát con tàu”:

XEM THÊM:  Thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều

“vắt xôi nuôi bộ đội, giấu mình giữa núi rừng Tây Bắc hàng ngày không theo lịch trình, hạt xôi đầu mùa vẫn tỏa mùi thơm”

nhớ hương lúa là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ công ơn, nhớ đến tấm lòng cao cả của những con người Tây Bắc thân yêu.

mười bốn dòng đầu của bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp. một bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ dũng cảm, lạc quan, dấn thân vào máu lửa. đã nửa thế hệ trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị. như bốn câu thơ của giang nam:

“tây tiến về biên giới, hun hút, đi về phía bao lớp rừng cây và bài thơ ấy, con người ấy sẽ sống mãi với sông núi”

cảnh núi rừng hoang vắng, hoang vu, dữ dội rồi biến mất hẳn, nhường chỗ cho một thế giới hoàn toàn khác của núi rừng Tây Bắc. Nét vẽ mềm mại, dẻo dai, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng còn được bộc lộ rõ ​​nét hơn ở khổ thơ thứ hai. đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn nghệ và vẻ đẹp huyền bí của thiên nhiên Tây Bắc. mở đầu phần hai là sự tiếp nối hương vị “xôi thơm” ấy. “Lễ hội đuốc hoa” đã trở thành kỷ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, là hành trang trong tâm hồn người chiến binh miền Tây. Trên chặng đường hành quân gian khổ, anh em dừng chân dựng trại và được nhân dân đón tiếp nồng hậu, thân tình. Đối với cả quang dũng và các chiến sĩ, không khí vui tươi của đêm nhạc hội đầy tình quân dân rực sáng luôn là những kỷ niệm khó quên:

“doanh trại bừng sáng với lễ hội đuốc và hoa, tôi đã luôn mặc quần áo của mình vào âm thanh của bản nhạc rụt rè về người chăn cừu, người đã xây dựng tâm hồn”

đêm liên hoan được tổ chức ngay trong doanh trại quân đội, đây là thực tế. không gian trong bốn câu thơ không còn rộng lớn như câu thơ đầu mà không gian nay thu gọn lại thành “rặng xà nu”, một không gian yên bình, được coi là nóc nhà của người lính. ở đây, người lính không phải vất vả vượt qua khó khăn, gian khổ mà tâm hồn thực sự thư thái. hai chữ “soi rọi” trong câu thơ như tăng thêm vẻ tưng bừng, ấm áp, tươi sáng, tràn đầy sức sống. “Đốt” là chỉ ánh sáng của những ngọn đuốc hoa, của lửa trại rực rỡ, “đốt” còn có nghĩa là tiếng kèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng. ở đây quang dung có sự so sánh nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “đuốc hoa” trong tiếng Hán Việt có nghĩa là “đuốc hoa”, là biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi, một từ dùng trong văn học cổ: “đuốc hoa không thẹn với con quay” (truyện kiều). Nhưng trên thực tế, những “ngọn đuốc hoa” ở đây chỉ là những ngọn đuốc bình thường trong những đêm giao lưu văn nghệ của lính Tây, khi có gió thổi qua khiến những ngọn đuốc đó phát ra tia lửa và nhìn xuyên qua không trung sẽ biến thành ngọn đuốc hoa, gợi nhớ đến một đám cưới. Lễ. “Em đây rồi” là sự chiêm nghiệm, đồng thời là sự bất ngờ trước vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của những cô gái miền núi. đằng sau chữ “ấy” là đôi mắt, nụ cười yêu đời, yêu đời, phong độ và tài hoa của người lính miền Tây. “áo siêm” là trang phục đẹp đẽ của thiếu nữ vùng cao, nhưng ta có thể hiểu đây là hình ảnh rất vui tươi, tinh nghịch của anh bộ đội khi khoác lên mình bộ quần áo nữ, nô đùa nhảy múa bên đống lửa trại. Từ xa xưa, bè khèn đã được dùng làm nhạc đệm trong hầu hết các làn điệu dân gian, làm nền cho các điệu múa dân gian, múa ngũ Vọng, hát đối, hát giao duyên, trong các lễ hội, hội hè. o khèn dùng để gọi bạn tình đêm của trai gái lao khi yêu nhau. tiếng kèn trầm bổng, trầm bổng, dồn dập, huyên náo giữa không gian tĩnh mịch. khi tiếng khèn cất lên, người nghe trầm bổng, sâu lắng, trong trẻo như tiếng suối reo vi vu, thể hiện vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Chính vì vậy, Quang Dũng không khỏi say sưa hòa mình vào điệu nhạc du dương của bản khèn vừa lạ, vừa thô sơ nhưng đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. từ “nhiều làn điệu” mà tác giả sử dụng ở đây cũng thật tài tình, người đọc như được chứng kiến ​​những điệu múa hoang dã của nền văn hóa au lac. vào những đêm đó có trang phục đẹp, âm nhạc, khiêu vũ, nhảy múa vui vẻ và bầu không khí ở đây thật ngây ngất. điều đó được thể hiện khi anh ấy lần đầu tiên sử dụng từ “em” và sau đó chuyển sang sử dụng từ “she”. bằng cách sử dụng đó, tôi cảm thấy bạn như một nàng tiên xinh đẹp và tôi đang lạc vào một thế giới thần tiên với không khí cực lạc. những cô gái Mường, người Thái xinh đẹp, duyên dáng xuất hiện trong trang phục rực rỡ, hòa cùng tiếng khèn theo “điệu nam” đã “dựng nên hồn thơ” và tạo nên nỗi nhớ da diết trong lòng người lính trẻ. Vientiane không phải là một địa điểm ở Việt Nam, mà là thủ đô của Lào. chúng ta có thể thấy sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của người lính miền Tây. họ không chỉ chiến đấu trên đất nước ta, mà còn có vũ khí trên đất lào. “nhạc về” tạo nên một cung bậc phiêu bồng khiến tâm hồn người lính thăng hoa. mọi cảm giác mệt mỏi tan biến, thay vào đó là niềm yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những khoảnh khắc đó đã tiếp thêm sức mạnh cho họ trên con đường phía trước.

Ở bài thơ này, tác giả đã làm hiện lên một thế giới Tây Bắc khác, thiên nhiên không còn dữ dội, dữ dội mà hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Ngòi bút của quang dung đã thay đổi, ngoài những nét mạnh mẽ, khỏe khoắn vẫn có những đường nét mềm mại, uyển chuyển và tinh tế. tất cả làm cho hình ảnh thiên nhiên và con người miền Tây trở nên vô cùng rõ nét.

so với bốn câu thơ trước là hình ảnh của không khí tưng bừng của đêm hội hòa với ánh đèn rực rỡ và tâm hồn trẻ thơ đằm thắm của những người lính miền Tây thì bốn dòng thơ sau, quang dung đã dẫn dắt người đọc bằng hình ảnh của những con người và Phía tây bắc. núi vào một buổi chiều mù sương. Một không gian làng bàn nghi ngút khói vừa hiện ra như ở xứ sở mộng mơ. thiên nhiên vùng tây bắc xuất hiện theo hướng đô thị hóa. những thứ dữ dội, khốc liệt bị đẩy lùi thay vào đó là những hình ảnh ngọt ngào, thơ mộng:

“Những ai đi chơi gò má vào buổi chiều mù sương ấy có thấy tâm hồn đang lau bờ, có nhớ bóng dáng trên gò bồng bềnh theo dòng nước và những bông hoa đung đưa?”

“he who go” phải là một người lính đi về phía tây. Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. hình ảnh đầu tiên là hình ảnh “chiều sương” cho ta thấy được những nét đặc sắc vốn có của núi rừng nơi đây. nhưng sương lúc này không phải là bao, phủ hay mây mù mà là một làn khói bình thường, ảo ảo, nó gợi lên những sắc màu, làn khói và một chút buồn man mác. chỉ duy nhất ở khổ thơ thứ hai là gò vấp, bởi nơi đây có cảnh sắc thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, có sông núi kỳ vĩ, có thung lũng lúa chín vàng, gió thổi mây bay, có nắng vàng rực rỡ. mở ra có một không gian trong buổi chiều mở mắt ra, mùa sương khói hiện ra như chốn bồng lai tiên cảnh, chính vì vậy mà gò má là nơi để lại cho bạn nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất. đại từ “ấy” làm rõ nghĩa của từ chiều sương, nhấn mạnh đây là một buổi tối rất đặc biệt, buổi tối mù sương trong nỗi nhớ đã trở thành kỉ niệm nên tình người cũng bâng khuâng, nhớ nhung. từ “nó” cùng vần với từ “see” ở dòng sau, một vần thân mật, âm điệu của dòng có vẻ nặng trĩu như cúc áo. nữ thi sĩ ngày xưa nhớ thành thăng long nhớ “hồn thu thao”, nay quang dung nhớ “hồn lau”, nhớ gió rì rào, nhớ cờ lau trắng trời, lau sậy rải rác khắp bến tàu, băng ghế, trông giống như băng ghế thời tiền sử. trong văn chương nguyễn tuấn, cảnh không phải là vô tri, bởi đó là nghệ thuật nhân hoá “hồn lau sậy”. nỗi buồn, tâm trạng của người qua đường dường như cũng lan tỏa trong cảnh vật, những bông sậy rung rinh bên bờ cũng có hồn của thi nhân, ta nhớ đến thơ lan viên:

“người đi biên ải để lòng ta tiếp ngàn lau trắng, chỉ còn một mình bạt ngàn trắng nơi cuối biên giới cho suốt đời sóng gió chống chọi”

những hình ảnh “chiều ấy mù sương”, “hồn mía”, “bờ bến”, “bông hoa đung đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy không, có nhớ không” mở ra một khung cảnh chiều mù sương trong kí ức. của . sương mù giăng khắp không gian, bến cảng tĩnh lặng, hoang sơ như một bờ tiền sử, trên sông hiện ra bóng dáng người đi xuồng mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng rất vững chãi, những bông hoa dại duyên dáng trên mặt nước. cụm từ “Tôi đã thấy-nhớ” đan xen vào nhau như khắc sâu vào nỗi nhớ da diết và khôn nguôi. doc moc là một loại thuyền được làm từ một cây gỗ to dài, hình tượng trên chiếc xuồng đó có thể là hình ảnh những cô gái, chú mèo Thái mềm mại, uyển chuyển dẫn dắt những người lính qua sông. nhưng ta cũng có thể xem đây là dáng vẻ kiêu hãnh của những chiến binh miền tây chèo chống con thuyền hung dữ của dòng thác đang tiến. tất cả những hình ảnh này đã để lại một tia sáng không thể xóa nhòa trong tim. cảnh và người hòa quyện vào nhau. ai bảo mảnh đất tây bắc là rừng thiêng nước độc xin hãy thả hồn mình lắng đọng để chất thơ tây bắc thấm vào hồn. câu thơ cuối được tác giả sử dụng rất tinh tế, ông đã dùng từ “đong đưa” thay cho từ “đong đưa” hay “đu đưa”, vì nếu viết “hoa đong đưa” thì cảnh vật nơi đây sẽ không đáng kể. tri giác vô tri, gợi sự chuyển động máy móc khô khan, còn “hoa đong đưa” có tâm hồn con người, thể hiện sự vận động tao nhã, đằm thắm thì hoa lau trở thành linh hồn sống động. thật buồn cười, nó tạo dáng trong làn nước đang dao động và lắc lư. Cánh hoa dã quỳ còn gắn bó với con người, những cánh hoa ấy như những bàn tay vẫy gọi chiến sĩ, tiễn đưa anh em qua sông đánh giặc. cảnh vật như có hồn, vừa có sự linh thiêng của núi rừng, vừa thấm đượm màu sắc thần tiên, huyền thoại. qua những dòng hư ảo trên, ta thấy trước mắt mình một bức tranh mê hồn mang đậm dấu ấn của một con người nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng tình cảm và gắn bó với mảnh đất miền Tây trong một tâm hồn quả cảm. đồng thời ta cũng cảm nhận được sự xốn xang của tâm hồn những người lính miền Tây hướng về cái đẹp.

tám câu thơ đã vẽ nên cảnh sắc thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp diễm lệ, thơ mộng và trữ tình. chất nhạc, chất hoạ và chất thơ mộng hòa quyện chặt chẽ trong bài thơ tạo nên một thế giới mĩ miều. từng nét vẽ của tác giả mềm mại, tinh tế và uyển chuyển. Đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất tài năng và sự lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.

giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng là hình ảnh người lính Tây Bắc với những gian khổ, bôn ba được thể hiện trong khổ thơ thứ ba. Nếu ở những câu thơ đầu tiên, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua những nét vẽ gián tiếp, nói lên những gian khổ, hy sinh và địa bàn hoạt động, thì ở đây, đoàn quân ấy lại hiện ra với những nét vẽ cụ thể và những đường gân, cốt cách tất nhiên. Nó đã trở nên sáo rỗng khi nói đến lòng dũng cảm của các chiến binh:

“quân không mọc tóc tây, quân xanh dữ”

là tượng đài bi tráng về những chàng trai của thủ đô hoa lệ, sẵn sàng ra đi với lý tưởng cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. hai câu thơ trước nói về dáng vẻ của người lính miền Tây, vẻ đẹp ở đây là thể hiện sự ốm yếu nhưng không yếu đuối. nhà thơ miêu tả và khắc cốt ghi tâm của mình, những con người anh hùng được tác giả gọi với cái tên thú vị: “đoàn quân không mọc tóc”, chủ nghĩa anh hùng hiện lên bằng cách dùng từ hán việt “đào binh” thay cho “quân ấy”. để khơi gợi sức mạnh phi thường, tiếng vang mạnh mẽ, khẳng định một lực lượng đông đảo, giàu nghị lực, nhà thơ phú tiên du cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng một cái tên xuất phát từ thực tế khắc nghiệt: “tiểu đội xe không ống kính”, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và sự hóm hỉnh hóm hỉnh. của những người lính.

Nhưng trước hết, đây là những vần thơ tả thực, trần trụi: lính Tây thời đó làm việc ở vùng rừng núi hiểm trở, ma chướng thì độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì cộng thêm. , có suối bắt gội chân trị rụng tóc, gội đầu trị rụng tóc. câu thơ còn mang một ý nghĩa khác là những người lính miền Tây đến cạo trọc đầu để trở thành “vệ binh” để giữ gìn vệ sinh trong chiến tranh đói khổ và cũng để tiện tay trong chiến đấu. . và nhà thơ còn nhắc đến một căn bệnh rình rập suốt trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp, căn bệnh khiến anh em rụng hết tóc là bệnh sốt rét. một căn bệnh hiểm nghèo bùng phát dữ dội khiến người lính chết bệnh còn hơn chết trận. thơ ca kháng chiến đã ghi lại những hình ảnh xúc động về sự tiều tụy của những người lính vì căn bệnh hiểm nghèo này, không chỉ những người lính “tây” mà trong thơ “bạn đồng hành” của chính nghĩa người ta cũng nhắc đến:

“Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt, vầng trán đẫm mồ hôi”

Quang dũng rất tinh tế khi viết “không mọc tóc” thay vì “không mọc tóc”, bởi vì ông sửa thành “không mọc tóc” để chỉ người kiêu căng, ngạo mạn, thần thái siêu việt. dựa trên sự khốc liệt của chiến tranh nơi người lính nhưng với óc hóm hỉnh, anh đùa không cần mọc tóc, nhìn qua lăng kính lãng mạn của tác giả, chuyển từ bị động sang chủ động. Từ đó, ta thấy rằng, trong trang thơ quang dung hiện lên vẻ đẹp của những mỹ nam đầu trọc, gầy nhưng không yếu.

Thực tế, “xanh” là màu xanh của da bị bệnh, nhợt nhạt, vàng, sưng tấy. Ở điều này, chúng ta có thể thấy điểm tương đồng trong bài thơ “cá gặp nước” của nhà thơ tou:

“Những giọt mồ hôi rơi trên đôi má vàng của em, tại sao em lại yêu anh nhiều như vậy”

có trong thơ của nhà thơ cũng được đề cập đến:

“khuôn mặt đã biến thành một màu ốm yếu, nơi còn tươi tắn của những ngày hoa”

Không phải chỉ có những người lính trong thơ Quang Dũng mới mắc bệnh và phải chết vì căn bệnh quái ác này. nhưng qua lăng kính lãng mạn của quang dung, màu xanh ấy không còn là màu da bệnh nữa mà trở thành màu xanh của áo lính, màu xanh của rằn ri, màu xanh của lũy tre làng xanh non. quang dung đã sử dụng từ “dữ dội, oai hùng” một cách rất sáng tạo, tạo nên âm vang mạnh mẽ cho câu thơ khiến người đọc cảm nhận được sức mạnh tinh thần, khí thế hào hùng khiến quân thù phải khiếp sợ. hình ảnh người lính tiến quân trong tư thế chế ngự thiên nhiên, thống lĩnh đất trời Tây Bắc, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn để tiến lên, họ mạnh mẽ, oai phong, lẫm liệt như một con hổ ngự trị giữa rừng xanh bạt ngàn. câu thơ thứ hai tạo nên hai mặt đối lập giữa “quân xanh” và “gian lao, ác liệt”, một bên là thiếu thốn, khó khăn, gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của người lính miền Tây. ba chữ “dũng mãnh, oanh liệt” tạo nên âm vang hùng tráng, hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ có nhịp điệu mạnh mẽ, mang đậm tính nhân văn. như vu quan phuong đã nhận xét: “là màu xanh bộ đội, màu áo hay màu da? chắc chắn cả hai! chỗ này tả bộ đội rất hay, nói có thể ôm bộ đội mà không yếu, rụng tóc, da xanh, nhưng ấn tượng để lại là oanh liệt. ” có một không hai, độc nhất vô nhị trong đời sống như trong thơ, những vị quân tử một thời “gác bút ra trận”.

dưới ngòi bút lãng mạn của quang dung, những người lính không còn là nạn nhân mà trở nên chủ động, kiêu ngạo: tóc không mọc, da xanh xao thích ứng với hoàn cảnh chiến đấu. vu quan phuong bình luận: quang dung tả binh tây tuy ốm nhưng không yếu. đầu không tóc không phải là hình ảnh vui, hay nói chính xác hơn là buồn cười không cầm được nước mắt, bởi cái răng cái tóc là gốc con người, ai cũng muốn chăm chút cho vẻ đẹp ngoại hình của mình. tạm biệt đất Hà thành ra trận khi tóc còn xanh, da còn hồng. nhưng giờ đây họ đồng lòng hy sinh mái tóc và tuổi thanh xuân để góp phần làm nên mùa xuân vĩnh cửu của đất nước.

—khó khăn là vậy, nhưng các chiến binh phương Tây vẫn không thể dứt bỏ được tình cảm lãng mạn của mình. nếu hai câu thơ trước như một bức khắc chạm vào không gian tác giả tạo nên một tượng đài với dáng vẻ mỏng manh nhưng không thân thương, thì hai câu thơ sau, tác giả lại nói lên vẻ đẹp tâm hồn của họ. còn tâm hồn là sức mạnh bên trong, là khí phách của người lính phương Tây. cuộc sống tuy vất vả, nghèo khó nhưng không vì thế mà từ bỏ lý tưởng “mơ chinh phục, mơ làm đẹp”:

“gửi những giấc mơ qua biên giới vào ban đêm trong hương thơm ngọt ngào của Hà Nội”

cùng một lúc ta có thể thấy đồng thời xuất hiện hai hành động trong tâm hồn người lính miền Tây. đó là “chói mắt”, đó là “gửi gắm ước mơ”. hai câu thơ gói gọn hai thế giới, hai ước mơ của người lính miền Tây. người ta thường nói: “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là trung tâm của mọi suy nghĩ”. do đó, khi chúng ta thấy chói mắt, chúng ta có nhiều liên tưởng. anh em mở to mắt nhìn thẳng vào kẻ thù và nổ súng với tinh thần thề sống chết với kẻ thù. đôi mắt ấy còn gửi những ước mơ về bên kia biên giới: ước mơ giết giặc, ước mơ lập công, ước mơ hòa bình… ban ngày anh gửi những ánh nhìn căm thù về phía quân thù. hình ảnh “đôi mắt chói lọi” là đôi mắt to và hung tợn nhìn về phía trước, thể hiện ý chí quyết tâm và khát vọng chiến đấu, quyết thắng. đôi mắt ấy cũng gửi gắm những ước mơ bên kia biên giới: ước mơ giết giặc, ước mơ lập công, ước mơ hòa bình. một hình ảnh ước lệ làm tôn lên khí thế oai hùng, anh dũng của quân đội như trong bài thơ “chim hót vang trời” của tác giả Thu bon đã từng viết:

“kẻ thù! một bầy man rợ ruồi nhặng, không chịu khuất phục mạng sống của ta, chúng tìm cách hạ ta thành tro tàn, cúi đầu trong lửa đỏ, ta hiện ra như một vương miện hoa. “

nhiều người cho rằng: “Sắc đẹp hương trời” là nỗi nhớ của Quang Dũng về cửa hàng kiều trên phố Hàng bông, nơi ông thường lui tới nói chuyện văn chương. hoặc có người cho rằng chính những người lính đang nhớ về những thiếu nữ thành phố, nhớ về người thân yêu với vẻ đẹp “sắc nước hương trời” thì với những người lính, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi gian khổ. hành quân, không nhớ những việc này mà quên nhiệm vụ cao cả, nhớ đến rụng tim. Tuy nhiên, đã có lần, một dòng chữ “đẹp như mơ” như thế này đã khiến tác giả và chính bài thơ của nó phải trải qua nhiều thăng trầm. từng bị tiểu tư sản chê bai, nhưng thực sự nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có thêm sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ. quang dung đã tạo ra một sự tương phản rất đặc biệt. Người chiến đấu kiên cường có ý chí sắt đá cũng là người có đời sống tinh thần phong phú. Những người lính miền Tây không chỉ biết cầm vũ khí đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà còn rất hào hoa, giữa bao khó khăn thiếu thốn, trái tim họ vẫn đập trong nỗi nhớ về một vẻ đẹp thơm ngát. bức tượng người lính đi về phía Tây được tạc bằng những nguồn sáng tương phản, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Tại sao lại cấm những người lính xuất thân từ thành phố sống theo tình cảm của mình, trong khi những người lính xuất thân từ nông dân lại được phép nhớ về giếng nước, cội nguồn và những người thân yêu của mình? câu hỏi đặt ra là nỗi nhớ ấy có ảnh hưởng gì đến ý chí và tinh thần chiến đấu của những người lính không? hoặc vẫn trơ trẽn chung tay tiêu diệt kẻ thù. có lẽ bộ đội miền Tây đa phần là học sinh, sinh viên còn đang ngồi trên ghế nhà trường, tuổi đời còn rất trẻ nên hành trang họ mang theo khi ra chiến trường không chỉ là vũ khí mà còn là cả một thế giới tâm hồn đầy ước mơ. nỗi nhớ ấy cũng đã được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện qua bài hát “đất nước”:

“những đêm dài đi dạo mãnh liệt bỗng chốc bồi hồi nhớ người yêu”

Tuy nhiên, thơ hay không nên theo đuổi theo đúng nghĩa để mất đi vẻ đẹp của nó, chúng ta phải theo đuổi nó theo nghĩa chung. dù có đến cửa hàng ở nước ngoài như quang dung, dù có nhớ bóng dáng người con gái xinh đẹp thì các sĩ tử đều nhớ về Hà Nội quê hương với những con đường hoa sữa sôi động:

“từ khi mang gươm đi mở vương quốc ngàn năm đã yêu mảnh đất thăng long”

phân tích bài thơ miền tây – mẫu 5

Cuộc chiến nào rồi cũng sẽ qua, lớp bụi thời gian có thể sẽ phủ lên hình ảnh những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã mãi mãi khắc sâu trong tâm hồn mọi người. Đọc những hình ảnh về những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Và “Tây tiến” là một trong những bài thơ hay và tiêu biểu của Quang Dũng, cũng là người đã dựng lên bức tượng đài bất tử ấy về người chiến sĩ cách mạng trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là tượng đài đã làm cho những chiến sĩ yêu nước ngã xuống trong những năm tháng gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.

“sông ma xa lắm, nên đi về hướng Tây! … Linh hồn không đến và đi ”

Khi nói đến nhà thơ quang dung, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông: tay tiền. vì nàng đã gắn bó sâu nặng với nhà thơ một thời. Tây Tiến là đơn vị bộ đội thời kỳ kháng chiến chống Pháp, được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội lao động tiêu diệt sinh lực địch ở thượng du lào, trấn giữ một vùng rộng lớn phía Tây Bắc nước ta. và việt nam. -Lao giới. Quang Dũng từng là đại đội trưởng Đại đoàn quân miền Tây, nhưng đến đầu năm 1948, do yêu cầu nhiệm vụ, ông chuyển công tác sang đơn vị khác. bài thơ được sáng tác vào cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở lưu vực sông, một thị trấn bên bờ sông ngày nhớ về đơn vị cũ mà ông đã viết bài thơ. lúc đầu ông gọi bài thơ là “Nhớ miền Tây”, nhưng sau đổi thành “Miền Tây” vì toàn bài thơ là nỗi nhớ và chỉ cần hai chữ “Miền Tây” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ: cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.

là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi Tổ quốc, sống và chiến đấu gian khổ nơi núi rừng nhưng chất thơ vẫn trào dâng trong lòng nhà thơ. một thời gắn bó sâu nặng với miền Tây, với bạn đồng hành, với núi rừng khiến ông bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ miền Tây trỗi dậy trong ký ức nhà thơ.

“sông ma xa lắm, nên đi về hướng Tây! nhớ núi nhớ chơi vơi “

câu thơ như một tiếng gọi chân thành và thiết tha xuất phát từ trái tim và tâm hồn của nhà thơ. qua việc sử dụng các cụm từ cảm thán và nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp một cách kì diệu. “sông ma” không chỉ là con sông – nơi từng là địa bàn hoạt động của bộ đội miền Tây- mà đã trở thành hình ảnh hiện hữu, là nhân chứng lịch sử trong suốt cuộc đời của người lính miền Tây với biết bao vui buồn, thành tựu và lỗ vốn. “Tây tiến” không chỉ là đặt tên cho một đơn vị quân đội mà đã trở thành “người bạn” để nhà thơ gửi gắm tâm tình.

câu thơ thứ hai có điệp ngữ “nhớ” được lặp lại hai lần thể hiện nỗi nhớ da diết, quay cuồng ùa về trong trí óc dũng sĩ. tính từ “chơi vơi” – thể hiện nỗi nhớ nhẹ nhàng và rất sâu lắng – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu nỗi nhớ nhung da diết của nhà thơ. và nỗi nhớ ấy như dòng thác tràn ngập tâm trí anh, đẩy anh vào trạng thái bồng bềnh và hư ảo. có lẽ quang dũng đã học cách thể hiện nỗi nhớ trong các bài hát nổi tiếng:

“Khi tôi về nhà, tôi nhớ bạn bè, tôi nhớ chiếc chiếu, tôi nhớ chiếc chăn bạn nằm”

Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc và giàu sức gợi đã mở ra một nỗi nhớ da diết trong tâm hồn nhà thơ.

“sương sa hoa nở đoàn quân mỏi đêm, hơi nghiêng mình theo đường cong dốc hút mây, súng ngửi trời cao ngàn thước, cách nhà ai ngàn thước, mưa xối xả phía xa”

> / p>

quang dung đã liệt kê ra một số địa danh như: sai khao, mường vĩ, pha luồng … – địa bàn hoạt động của binh đoàn miền tây – những cái tên mang âm hưởng núi rừng hoang sơ. Núi rừng Tây Bắc đẹp và dữ dội, là vùng đất có địa thế hiểm trở, khắc nghiệt, rừng thiêng, nước độc. có những đêm dài hành quân, những người lính miền Tây vất vả đi trong đêm sương mù dày đặc, không nhìn rõ mặt nhau. “quân mệt” nhưng tinh thần không “mệt”. bằng quyết tâm lên đường về quê hương đã làm cho những trí thức yêu nước kiên trung, bất khuất. Quang dũng đã rất tài tình khi đặt hình ảnh “sương mù” vào đây để thể hiện rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh giá. cũng tả “sương mù”, lan viên cũng viết trong “ship song”:

“nhớ sương, nhớ đèo mây phủ, nhưng lòng không yêu khi ta ở, chỉ là nơi đất khách khi ta đi, đất đã thành hồn”

Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng và độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, vừa hoang sơ, vừa ấm áp. có những lúc những người lính miền tây phải vất vả trèo lên đỉnh để lên mây. quang dung đã khéo léo dùng từ “sâu” mà không dùng từ “topping”. bởi vì nói “lên” bạn vẫn có thể cảm nhận và thấy được độ sâu của nó nhưng “sâu” thì khó ai có thể hình dung được nó sâu như thế nào. với những từ láy có sức gợi hình ảnh cao như “quanh co,” “sâu thẳm”, “ngọt ngào”, nhà thơ đã khiến người đọc cảm nhận được sự man rợ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” được sử dụng một cách rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa hài hước vừa tinh nghịch của người lính, cho ta thấy ngoài tính chất nguy hiểm, hình ảnh ấy còn thể hiện người lính với vẻ oai phong lẫm liệt. tư thế giữa núi rừng hoang vu. câu thơ sử dụng nhiều âm tiết vừa tạo nên vẻ hoang hoải, vừa khắc nghiệt, nhấn mạnh cảnh thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, hiểm trở. đứng trên một sườn núi cao, họ nhìn xuống con đường nguy hiểm mà họ vừa băng qua và con đường ngoằn ngoèo sẽ đi xuống. con đường lên dốc và con đường xuống dốc rất sâu sắc và hấp dẫn. hình ảnh bài thơ rất cân xứng, câu thơ như một đường thẳng uốn cong: “trên cao vạn trượng, dưới ngàn thước”

thông báo “nghìn thước” đã mở ra một khung cảnh hùng vĩ từ trên xuống và từ dưới lên. ngoài vẻ hoang sơ, hoang sơ, ta còn thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng: “nhà ai hòa mưa xa”. Xa xa, lẫn trong sương núi rừng, thị trấn mờ ảo, hiện ra trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. có những cơn mưa bất chợt trong rừng khiến những người lính miền Tây rất lạnh. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn và trữ tình hơn. nhà thơ đã thật tài tình và sáng tạo khi nói đến cơn mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa”. nó gợi lên một cái gì đó rất huyền bí, hoang sơ của núi rừng. câu 8 với 7 thanh như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra hình ảnh thiên nhiên núi rừng thơ mộng. thơ phương tây hôm nay nhắc lại những dòng “ngâm thơ của hoàng hậu”

“hình thù của khe núi xa gần vừa nổi, chỗ thấp chỗ cao, đỉnh núi mây chiều như nước trong lòng suối vẫn sâu”

Tám dòng đầu của bài thơ về miền Tây là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc và tình đồng chí của miền Tây. qua những nét riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc đã trở thành kỉ niệm xa xăm trong tâm trí nhà thơ. đó là nỗi nhớ da diết của người lính miền Tây nói riêng và những người lính nói chung.

Hình ảnh người lính đi về hướng Tây là một tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng và cả những đam mê, khát khao lãng mạn, cao đẹp. Nhưng thơ Quang Dũng cũng miêu tả rất chân thực những mất mát, hy sinh của đoàn quân Tây tiến. không thơ hóa hiện thực, nhà thơ dũng cảm dám nhìn thẳng vào những mất mát không thể tránh khỏi của con người trong chiến tranh tàn khốc. hình ảnh người lính đi về phía Tây có những giây phút mệt mỏi:

“Người bạn béo ú dừng bước và rơi vào tay súng và quên đi sự sống”

Từ “vết dầu loang” đã diễn tả đầy đủ sự khốc liệt của trận chiến. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ bao trùm lên đầu người lính, khiến anh mệt mỏi và chảy nước miếng là những khoảnh khắc tự nhiên. Người lính phương Tây không chịu thua, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng giây phút bỏ cuộc, bất cẩn, đầy kiêu ngạo của người lính cũng không tránh khỏi? bạn không thể tiến xa hơn trên con đường hành quân gian khổ. Những người bạn của Quang Dũng ngủ quên trên vũ khí. “tù” là một động từ mô tả một chuyển động rất nhanh, cho thấy rằng không còn bất kỳ sự phản kháng nào nữa. bạn đã cố gắng đứng dậy và tiếp tục bước đi, nhưng bạn không còn sức lực. câu thơ: “gục súng quên đời” miêu tả giấc ngủ vĩnh hằng, gian khổ và hy sinh cơ cực.

Cũng có người hiểu câu thơ này tả cảnh ngủ của người lính để lấy sức tiếp tục hành quân. nhưng bài thơ theo nghĩa nào cũng viết về những khó khăn cùng cực. nhưng nhiều người hiểu theo cách cũ vì nó phù hợp với tính chất bi thảm của cuộc đời một chiến binh phương Tây: chết nhưng vẫn hiên ngang và chỉnh tề. ba chữ cuối: “quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người chiến sĩ trước cái chết, coi như chuyện hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. bạn đã lên đường, đến vùng rừng núi phía Tây và biết rằng: “cổ lai hy chiến tranh chống lại loài người”.

nếu ở những câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên bao la của Tây Bắc qua không gian hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng mưa tầm tã với độ cao chạm tới mây trời của núi rừng Tây Bắc. thì đến hai câu thơ tiếp theo, thiên nhiên được khám phá theo chiều thời gian với hai từ “chiều” và “đêm”

“Buổi chiều thác nước hùng vĩ gầm thét, đêm cọp nhởn nhơ động lòng người”

Người ta thường nói đến rừng thiêng, nước độc, núi xanh chướng khí. với núi rừng Tây Bắc, chiều nào cũng nghe tiếng thác đổ ầm ầm từ trên cao và đêm sâu nghe tiếng hổ gầm. mọi âm thanh đều kinh khủng. quang dũng với tài năng phá án của mình đã cụ thể hóa và khuyến khích những ý kiến ​​đóng góp của mọi người. Vậy là chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã vận dụng tối đa trí tưởng tượng của mình để lột tả vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, vùng đất ấy còn ẩn chứa bao điều hoang sơ, kỳ bí của miền núi rừng Tây Bắc. những nguy hiểm vẫn rình rập đâu đó, những nét hung dữ và dữ dội mà đoàn quân phương tây đã từng vượt qua.

“nhớ dời lúa mai mùa xôi thơm”

người chiến binh miền Tây hào hoa nhưng cũng rất hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và sự dịu dàng của con người. không có cảnh thiên nhiên miền Tây trong hai câu thơ, chỉ có cảnh sinh hoạt của đời sống thường ngày. đằng sau những câu thơ rất mãnh liệt và mạnh mẽ là một cảm xúc thơ dịu dàng và thiết tha. câu cảm thán gợi nỗi buồn bằng cách gợi lại những kỉ niệm ấm áp: khi đoàn quân dừng lại sau cuộc hành quân gian khổ, lều chõng đầu làng, bếp lửa hồng, nồi xôi thơm phức, khói bếp, khói rơm bốc lên, và hỗn hợp của khói lam chiều. đồng đội gặp lại nhau, quên hết bao khó khăn vất vả. chiến tranh lùi vào một góc nào đó để nhường chỗ cho khung cảnh vui tươi.

Ở đoạn thứ hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc mở ra với vẻ đẹp mới, khác hẳn đoạn đầu. anh hùng trong trận chiến, nhưng người lính miền Tây cũng đa tình và lãng mạn trong lễ hội:

“Doanh trại bừng sáng lễ hội đuốc hoa, em áo nào cũng áo, khúc nhạc chăn người xây hồn người đi chầu mo cau chiều sương mù sợ, anh thấy hồn. lau bờ nhớ bóng dáng anh bên khúc lũa, nước chảy hoa lá đung đưa ”

những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và nhạc, đối lập hoàn toàn với những cung đường hành quân gian khổ, hiểm trở, với những gian nan, vất vả … thăng hoa để tâm hồn người lính cất cánh, trong hòa cùng những giai điệu và những bản nhạc du dương. không gian Tây Bắc chơi vơi trong một miền ý thức, với bóng dáng trên một chiếc cột, với dòng nước chảy từ những bông hoa đung đưa đã khắc sâu, khắc sâu vào tâm hồn người lính. những câu hỏi tu từ nhẹ nhàng, da diết khiến không gian núi rừng thêm vui tươi, bồng bềnh trong sương khói. Ngòi bút hiện thực của Quang Dũng trở nên mềm mại, uyển chuyển, chất chứa tình yêu chân thành, sâu sắc.

Quang dũng không chỉ khắc sâu hình ảnh những người lính với đời sống tình cảm vô cùng phong phú, tình cảm cao cả là tình quân dân. Quang Dũng đặc biệt tâm đắc với ý tưởng xây dựng tượng đài người lính miền Tây trong tác phẩm của mình. nhà thơ đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, một loạt các thủ pháp như tương phản, nhân cách hoá, tăng cấp nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, khắc sâu vào tâm trí người đọc những hình ảnh về người con anh hùng của tổ quốc, của dân tộc. . Đó là một tượng đài sừng sững giữa núi cao, sông sâu, giữa không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu ca dao:

“hành quân tây, quân không mọc tóc, quân xanh oai hùng mắt sáng, gửi mộng qua biên giới trong đêm hà nội mộng mơ, hương thơm trải khắp biên giới, xa quê chiến trận không tiếc đời xanh áo dài chiếu Tôi về xứ sông rền khúc đơn ca.

nếu như ở những câu thơ trước, người lính chỉ xuất hiện trong: “sai mong sương che đoàn quân mỏi” hay trong một khung cảnh thật lãng mạn đêm hội, đêm lửa trại đầy nghĩa tình của muôn dân. trên thế giới đây là hình ảnh quân không mọc tóc xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng không hề né tránh khi miêu tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. những cơn sốt rét rừng khiến tóc cô không thể mọc được. cũng do sốt rét rừng mà da dẻ xanh như xanh (không phải xanh rằn ri), dáng vẻ phong trần lắm. nhưng thế giới tinh thần của những người lính cho thấy họ là những chiến binh anh dũng, họ cũng ẩn chứa một sức mạnh áp đảo kẻ thù. Tài năng của Quang Dũng là thể hiện một người lính với nét khắc khổ nhưng vẫn gợi lên âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống.

với những âm tiết rơi vào trọng âm đầu tiên của dòng như “tiến”, “mọc tóc” đã làm cho âm thanh của dòng trở nên bay bổng. không chỉ vậy, họ còn là một đội quân. hai từ “đoàn quân” ​​- âm Việt đã gợi lên một không khí rất trang nghiêm và hào hùng. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng trong câu thơ “Đoàn quân xanh rờn” không chỉ làm nổi bật sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu vào màu sắc văn hóa của dân tộc. ở đây nhà thơ muốn nói đến sức mạnh bất khả chiến bại bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ. Phạm Ngũ Lão cũng đã ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “hoang sóc giang sơn ca – tam quan ký hổ khí thôn ngưu”. và ngay cả hồ chí minh trong “dang sơn” cũng viết: “nghĩa quân ở làng đầu nậu: mặt giặc sai long”

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm hưởng của lịch sử, hình ảnh người chiến sĩ cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. đọc câu thơ: “quân xanh oai hùng dũng mãnh” ta như nghe thấy tiếng vọng của hào khí trời từ đông á.

Người lính miền Tây mạnh mẽ, gan lì trong trận chiến nhưng cũng rất lãng mạn, nồng nàn trong những khoảnh khắc thơ mộng. ở đây, có sự pha trộn hoàn hảo giữa chủ nghĩa anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. hình ảnh người lính miền Tây bỗng trở nên rất đẹp khi được điểm thêm ánh sáng vào tượng đài này với sự hào hoa và lãng mạn trong tâm hồn họ:

“gửi những giấc mơ qua biên giới vào ban đêm trong hương thơm ngọt ngào của Hà Nội”

bao nhiêu yêu thương, khát khao và ước mơ đều được gửi gắm và gom lại trong hình ảnh “hoa cả mắt”. hình ảnh ấy không chỉ gợi lên nỗi đau khôn nguôi mà còn chất chứa bao nỗi lo lắng, mong chờ. có một khoảng cách rất xa giữa biên giới và Hà Nội. Những người lính phương Tây muốn dùng ước mơ và khát vọng cao đẹp để tiêu diệt kẻ thù và thu hẹp khoảng cách giữa chúng. “sắc thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi là lý do của nỗi nhớ ấy. Đó không phải là một hình bóng cụ thể, cũng không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa, nỗi nhớ non nớt của người lính cao hơn cả một vẻ đẹp của tấm lòng luôn hướng về quê, hướng về thủ đô. . Những người lính dù ở miền biên viễn, miền đất xa xôi nhưng trái tim luôn hướng về Hà Nội. Những người lính Tây tiến, dẫu “chói mắt gửi mộng qua biên giới” nhưng nỗi nhớ vẫn hướng về một “sắc thơm”. từng có cái nhìn ấu trĩ người ta chê tiểu tư sản nhỏ nhen, thực ra nhờ vẻ đẹp tâm hồn đó mà người lính có thêm nghị lực vượt qua mọi khó khăn, người lính trở thành biểu tượng vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam. quang dũng đã tạo nên sự tương phản độc đáo: người dũng cảm chiến đấu có ý chí sắt đá cũng là người có đời sống tinh thần phong phú. Người lính miền Tây không chỉ biết cầm súng, gươm theo tiếng gọi non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao khó khăn gian khổ, trái tim họ vẫn đập trong niềm khao khát một bóng hình đẹp đẽ, thơm tho. mỹ nhân hà nội – thăng long xưa. Chợt tôi nhớ đến câu thơ của Huỳnh văn Nghệ: “Từ khi mang gươm đi mở nước – tình yêu đất thăng long ngàn năm”

Nếu như ở 4 câu thơ trước, người lính miền tây hiện lên trong hình ảnh một đoàn quân với những bước chân tây phương cộng hưởng với khí thế hào hùng và một thế giới tâm linh vô cùng lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính miền tây được chạm khắc với những đường nét nổi bật trên sự hy sinh của mình. Quang dung đã miêu tả chân thực sự hy sinh của người lính với cảm hứng lãng mạn, do đó bức tranh không những không bị đau đớn mà còn có sức mạnh bay bổng.

ngay cả trong cái chết, người lính miền Tây vẫn thể hiện và khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế hiên ngang. người ta có thể run sợ trước sự hoang vắng lạnh lẽo của những “mồ xa”, nhưng cũng không khỏi xúc động, tự hào về sự hy sinh anh dũng bất khuất của các anh bộ đội. Những từ Hán Việt “biên giới, chiến trường, xa, hành trình một mình” được sử dụng trang trọng như nén hương trước họ. ngày xưa vua thường ban áo cà sa cho các chiến binh trở về, nhưng thời binh tây thì không có áo cà sa. tuy nhiên, quang dung vẫn tự hào gọi quân phục của binh lính là “áo choàng”. Người trong cuộc kể rằng ngày đó ban đầu có quan tài và bài vị, nhưng sau đó lính tây phương hy sinh nhiều, người bản xứ cho mảnh chiếu để quấn xác, nhưng sau đó áo lính chạy ra ngoài để trở về quê hương. Quang Dũng muốn trốn tránh sự thật đau lòng nên đã gọi nó là Tấm áo. là một cách nói sang trọng để an ủi người đã khuất và cũng làm nguôi ngoai nỗi lòng của người gửi. cụm từ “anh về trần gian” nói về cái chết nhưng bất tử về người lính, về bi kịch nhưng bằng những hình ảnh hào hùng. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã luôn gắn liền và theo suốt chặng đường hành quân, chiến đấu gian khổ của nghĩa quân. sự ra đi của người lính miền Tây là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên xen lẫn nỗi đau của con người. dòng sông ma kêu lên, ngân vang khúc “đơn ca” như khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với quê hương. sự hy sinh ấy được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, quê hương với những cánh tay dang rộng chờ đợi, dòng sông anh dũng hiên ngang bước tới bến bờ, đó là sự hy sinh cao cả nhất.

qua bài thơ tây quang dũng, hình ảnh người lính vừa chân chất, vừa lãng mạn, đa cảm, đa cảm và cũng rất anh hùng. Bằng nhiều từ ngữ mang âm hưởng cổ điển, trang trọng, tác giả đã tạo nên không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính cộng hưởng với thiên nhiên. âm hưởng của bốn dòng thơ cuối làm cho hơi thơ tiếp tục ngân vang không dứt, đồng điệu với con đường của người lính xung phong ra đi vì Tổ quốc.

“người đi miền Tây không hẹn, đường lên thăm thẳm chia cắt. Người đi miền Tây mùa xuân ấy hồn bay không về.”

Năm mươi năm qua, bài thơ Miền Tây vẫn hấp dẫn người đọc hôm nay, gợi lại những năm tháng khó quên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Với lối viết hiện thực, lãng mạn, Quang đã thể hiện một cách táo bạo những khó khăn trên đường hành quân của đoàn quân Tây tiến, tạo nên một hình tượng rất đẹp về một người lính với khí phách hiên ngang trong chiến đấu, chiến đấu và sự hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng người chiến sĩ đi về phía Tây được tạc bằng tấm lòng dũng cảm của anh Quang đối với đồng đội, vì Tổ quốc.

phân tích thơ miền tây – mẫu 6

“Hướng Tây” là bài thơ của một người lính viết về người lính: người vệ quốc trong cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp. quang dũng vừa dùng binh khí đánh giặc vừa làm thơ. thơ của ông rất trung thực và hào phóng. Bài thơ được Quang Dũng viết năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn nhiều gian nan.

Mở đầu bài thơ là tiếng gọi làm xao xuyến lòng người. nỗi nhớ, nỗi nhớ như bị dồn nén, chợt choáng ngợp:

“sông ma xa, đi về tây! nhớ núi nhớ chơi vơi.”

Từ “ơi” cùng vần với từ “chơi vơi” làm cho giọng điệu của câu thơ trở nên nghiêm trang, sâu lắng và ngân vang. hai từ “nhớ” như hai điểm nhấn miêu tả nỗi nhớ da diết cháy bỏng của nỗi nhớ “chơi vơi”. từ sông vôi sông ma mất tích, núi rừng miền tây, bộ đội miền tây, một đơn vị bộ đội đã hoạt động ở miền núi miền tây thanh hóa, hòa bình, sơn la, biên giới việt nam và lào việt nam. những năm đầu tiên của cuộc chiến. bao kỷ niệm đẹp của một thời chinh chiến chợt hiện về. những cái tên bản, tên núi rừng xưa thân thương bỗng trở nên gần gũi, làm xao xuyến bao tâm hồn người chiến sĩ:

“sương dài sai lấp đoàn quân mỏi mòn. Muồng hoa lát về đêm.”

Đường phố sài gòn và muôn ngàn địa danh tuyệt vời đã từng để lại dấu vết bước chân của các chiến binh phương tây. trong “sương mù”, trong “đêm” lạnh và nhiều sương mù, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ. ngày này qua ngày khác, đêm này qua những mỏ dầu, “đoàn quân mỏi mòn” giữa biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi mệt” tưởng chừng như được “đắp chiếu,” đè nặng bao mệt nhọc, nhọc nhằn thì bỗng “hoa về trong đêm”. bao mệt nhọc, vất vả dường như đã tan biến. sau thanh, liên tiếp thể hiện sự nhẹ nhàng, bâng khuâng trong tâm hồn người lính trẻ về đích sau những chặng đường dài đầy thử thách: “mường lát trở về trong đêm”.

Trận chiến diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền tây. những bậc thang dốc “cong”, “sâu” chưa từng in dấu chân người! sự “hút mây”. độ cao của núi, độ sâu của thung lũng và suối, những thử thách dũng cảm như ngăn chặn bước tiến của quân đội:

“lên khúc cua dựng đứng, tận mây mù, súng ngửi trời ngàn thước lên, ngàn thước xuống nhà ai, mưa tầm tã từ xa”

các từ: “sâu”, “rẽ”, “ngọt” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị hình ảnh đặc biệt, thể hiện những sườn đồi đầy mây mà nhà thơ và bạn đồng hành đã phải vượt qua bao tháng ngày. : “áo trần đi săn giặc” (hồng nguyên). “súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa phản ánh sự vui nhộn, hồn nhiên trẻ trung, yêu đời của người lính trẻ. có câu thơ gồm hai tiểu đoạn, lòng dũng cảm ngoan cường của người lính miền Tây được đo bằng: “trên cao nghìn thước // dưới nghìn thước”. hết núi này sang núi khác, từng bước, từ đỉnh, lại xuống, đoàn quân đi xuyên sương, vào rừng mưa. từ độ cao “hàng nghìn feet”, các chiến binh phóng tầm mắt ra xa. những bản mường, những ngôi nhà sàn thấp thoáng. câu thơ đầy ngôn từ, đầy âm hưởng gợi cảm xúc vui tươi, êm đềm nảy sinh trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan, yêu đời khi nhìn xa xăm qua cánh rừng nhiệt đới: “.

điều gì đã xảy ra trên những con đường dài, đẫm máu và gian khổ đó? giọng điệu của câu thơ bỗng trầm xuống, thổn thức:

“Người bạn cáu kỉnh không còn bước đi. Anh ta rơi vào vũ khí và quên đi sự sống!”.

hai tiếng “anh em” giống như một tiếng hét im lặng. trong gian khổ “giọt dầu tràn ly”, suốt những ngày dài hành quân chiến đấu, biết bao đồng đội thân yêu đã “không đội trời chung”. tạm biệt bộ đội, “quên đời”, quên đồng đội, bạn bè, văng vẳng mãi dưới chân đèo, góc núi. bốn chữ “rơi mũ sắt” thể hiện một sự hy sinh vô cùng bi tráng: ngã, ngã ngửa giữa trận địa mà vũ khí vẫn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. tuy quang dung đã thay từ “chết”, từ “hy sinh” bằng cụm từ “không bước nữa”, “gục ngã”…, “quên đời!”, nhưng vẫn tràn ngập đau thương, tang tóc. sự thật của chiến tranh vẫn vậy! Tuy nhiên, bài thơ của Quang dũng tuy nói về cái chết của người lính nhưng không gợi nỗi buồn, ngược lại, trong sự thương tiếc, có niềm tự hào khẳng định: vì độc lập, tự do, biết bao cuộc chiến tranh, những chiến sĩ anh dũng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong một tư thế “rơi trên thân tàu …” khốc liệt như thế!

Trường đoạn chiến trường không chỉ có đèo cao, mây mù, dốc cao, không chỉ có mưa, muỗi vắt núi, mà còn nhiều thử thách của rừng thiêng ngàn đời với vẻ hoang sơ, bí ẩn, hùng vĩ, hùng vĩ. chiều qua chiều, đêm này qua đêm khác, chiến khu vang lên tiếng thác “gầm thét”. trong không gian bao la của đại ngàn, từ pha luồng đến mường hoang tàn, chết chóc rình rập, đe dọa. khu rừng thiêng ẩn chứa nhiều bí mật “ma thuật”, được nhân hóa khi chúng tăng dần cường độ. thác nước “gào thét”, hổ “giễu cợt người” như muốn thử lòng dũng cảm của các chiến binh phương tây:

“buổi chiều thác hùng vĩ gầm thét đêm cọp nhởn nhơ lòng người”.

vượt qua gian khổ, hy sinh, hành trang của người lính là đầy ắp những kỷ niệm đẹp của tình quân dân. quên sao được “cơm lam khói”, cái vị đậm đà của “mùa nào mùi xôi nếp”. Trong cái vị đậm đà của bát cơm cháy, vị dẻo của xôi còn hòa cùng cái tình sâu nặng “bạn mùa” của người dân bản Mai Châu. hai chữ “lỡ ơi” gợi bao nỗi buồn man mác, dai dẳng, cảm động và ngọt ngào:

“nhớ thì hun khói mai vào mùa thơm như xôi nếp”

phần thứ hai của bài “tây tiến” gồm 8 câu kể về “lễ hội đuốc hoa” và những buổi chiều mù sương trên cao nguyên châu mịch. giọng thơ da diết, liêu trai. nhà thơ tự hỏi “đã thấy” và “nhớ.” tài năng, tài năng và sự lãng mạn của các chiến binh đã được đề cao trong đêm “Lễ hội đuốc hoa”. từ láy là đại từ quay lại từ xa gợi nhiều ngạc nhiên và trìu mến. trong ánh đuốc lung linh, sự xuất hiện của những cô gái Mường, cô gái Thái Tây Bắc, cô gái Lào trong trang phục dân tộc rực rỡ đã làm cổ vũ những người lính trẻ miền Tây vui vẻ, thân thiện. có điệu “nhiều điệu” của núi rừng, có điệu hát du dương “dựng hồn thơ”. có tư thế “e thẹn” ngộ nghĩnh của “nàng”, của “hoa rừng” đang múa may nhảy múa:

“doanh trại bừng sáng với lễ hội đuốc và hoa, tôi đã luôn mặc quần áo của mình vào âm thanh của bản nhạc rụt rè về người chăn cừu, người đã xây dựng tâm hồn”

từ “beat” là một bức vẽ thần thánh. “ngọn lửa” là để chiếu sáng, đốt sáng rực rỡ với những ngọn đuốc trong đêm “lễ hội đuốc hoa”. nó cũng có nghĩa là rộn ràng niềm vui qua tiếng kèn “man tone”, qua giọng hát say đắm và da diết của các bài dân ca Thái và Lào.

Nhớ về miền Tây là nhớ đến những buổi chiều mù sương trên con tàu altiplano, nhớ những chiếc xuồng, nhớ “hồn lau bến bờ”. nhớ nhiều, nhớ mãi “bóng dáng trên cây đơn”, nhớ mãi không quên hình ảnh thơ “trôi nước hoa đong đưa”. nếu không sống mạnh mẽ, sống cuộc đời của một người lính trẻ trong trận chiến gian khổ thì không thể làm nên những vần thơ có hương vị lạ, đẹp và thơ như thế. âm điệu của bài thơ trầm bổng, nhẹ nhàng như ru hồn ta ngủ trong cõi mộng. chất nhạc, chất thơ toát lên từ chất thơ, thể hiện nét thẩm mỹ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của những chiến binh miền Tây: trong gian khổ, thử thách, trong gian khổ, chết chóc, họ vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.

đây là một trong những bài thơ hay nhất của bài “tây tiến” thể hiện sự cảm nhận và biểu hiện tinh tế, tài hoa về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, đồng thời rất hồn nhiên đã từng làm say lòng người đọc:

“ai đi chơi gò má chiều sương mù ấy thấy hồn lau bờ, nhớ bóng dáng trên gò bồng bềnh nước hoa đung đưa?”

Ở phần Ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng tráng và bi tráng về đoàn quân tiến lên. đoàn quân kênh rừng đi trong biển sương, trong mây trong mưa, vượt qua bao núi cao, đèo cao, dốc đứng, “áo trần đi săn giặc”, bất ngờ xuất hiện:

“hành quân tây, quân không mọc tóc, quân xanh oai hùng mắt sáng, gửi mộng qua biên giới trong đêm hà nội mộng mơ, hương thơm trải khắp biên giới, xa quê chiến trận không tiếc đời xanh áo dài chiếu Tôi về xứ sông rền khúc đơn ca.

Bài thơ ghi lại một cách chân thực và hào hùng sự khốc liệt của chiến tranh, của một dân tộc thời loạn vùng lên dùng giáo mác đánh giặc sắt thép. hình ảnh thơ được đặt ở thế tương phản nhằm khẳng định khí phách anh dũng, những tâm hồn nhiều ước mơ cao đẹp. “quân không mọc tóc”, “quân xanh”, trông tiều tụy, ốm sốt rét rừng nhưng tư thế lại vô cùng oai phong: “cào cào khủng khiếp”. Đó cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ca ngợi sức mạnh của Việt Nam: “tam quan hổ khí thôn ngưu” (phò mã năm châu), “tam hổ ba quan – gươm sáng” (trượng nghĩa), “thế Giếng lính giơ tay đánh hổ – chém nanh ”(nguyễn trai). Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã đưa lực lượng Việt Nam của hàng nghìn năm trước vào trận chiến với một sẽ Quyết liệt, trải qua bao cay đắng, ngọt bùi, bao thiếu thốn, gian khổ, đã chiến đấu nhiều trận đẫm máu trong rừng sâu. Quang dũng đã kế thừa một cách sáng tạo nền thơ ca cổ điển của dân tộc để viết nên những vần thơ như thế!

đoàn quân miền Tây đi trước, hầu hết cán bộ, chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi lưu giữ hiện vật ngàn năm. họ là những “chàng trai chưa vì anh hùng…” đã ra đi đánh giặc với bao “mộng”, “mộng” đẹp. ước mơ chiến thắng. ước mơ phá hủy đồn bốt địch, đánh cắp vũ khí của địch và giết kẻ thù. “mắt trừng trừng” gợi lên một tư thế chiến đấu dũng mãnh vô song trong cận chiến, khi tung hoành trong thành trì của kẻ thù. đồng thời, trong hành trang và trong tâm hồn của những người lính trẻ, họ mang theo bao ước mơ diệu kỳ. Nhớ phố xưa trường xưa, mơ tà áo đẹp, “kiều thơm” Hà Nội yêu dấu.

câu thoại “đêm nằm mơ trong lòng người đẹp thơm” thể hiện sự tài hoa, hào hoa của người lính miền Tây. và người lính trong bài “đồng chí” của chính nghĩa, nỗi nhớ về cánh đồng, về “ngôi nhà không bị gió lay”, về giếng gốc… nỗi nhớ về người lính bảo vệ Tổ quốc trong bài. Bài thơ “nhớ” của tác giả hong nguyen là câu chuyện tình yêu khắp mọi miền đất nước đằm thắm, sâu lắng, chân thành:

XEM THÊM:  Truyện kiều của nguyễn du lớp 9 sgk

<3Như vậy ta thấy nỗi nhớ, ước mơ của người lính trong chiến tranh là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và quyến rũ bởi nỗi nhớ, ước mơ đó thể hiện tình yêu quê. Nếu ai cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang theo ước mơ rơi rụng, đầu xuôi đuôi lọt của tiểu tư sản thì sẽ xót xa. thời gian và người đọc nửa thế kỷ qua đã khẳng định vẻ đẹp độc đáo của thơ Quang dũng vì nó đã góp phần làm phong phú thêm chân dung “ông già bộ đội” trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc, khí phách vĩ đại của dân tộc, được ghi bằng xương máu của nhân dân, mà trên hết là máu xương của hàng vạn, hàng vạn chiến sĩ trên khắp thế giới chiến trường. ý tưởng cao cả: “Tổ quốc hay là vong quốc” đã được thể hiện bằng lòng dũng cảm trong những vần thơ bi tráng lay động lòng người.

bao nhiêu người bạn đồng hành thân yêu của nhà thơ đã rơi vào cảnh lửa đạn. với “áo thay chiếu” hết sức giản dị, không “da ngựa đắp xác” như những con giáp năm xưa, họ đã bình yên “trở về dương gian”, nằm mãi trong vòng tay của mẹ, của quê hương thân yêu. bạn đã “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. hai từ “trên trái đất” rất sáng tạo. Tiếng “ầm ầm” của thác sông Mã vang vọng núi rừng như vang vọng vào lòng đồng đội. nó như tiếng kèn của bài hát “gọi hồn các liệt sĩ”, như những loạt đại bác nổ giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao đẹp, thiêng liêng. Đặt cái chết của những người anh hùng vô danh giữa không gian rộng lớn, giữa thiên nhiên bao la, hùng vĩ, câu thơ “gấm vóc bên bờ mồ” càng làm cho nỗi đau mất mát, hy sinh càng thêm mênh mang. được nâng lên tầm vĩ đại và tráng lệ. cao cả hơn nữa là lý tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin sắt đá: “Chiến trường đi không tiếc đời xanh”.

“tầm vóc thi sĩ ngang tàng” (che lan vien). Những câu thơ trên của Quang Dũng thực sự ngang tầm với những người lính phương tây, với những người đồng đội đã hy sinh vì đất nước, hy sinh giữa núi rừng biên giới Việt – Lào. quang dung đã miêu tả và ca ngợi người lính miền Tây với tinh thần anh hùng vô danh, anh hùng thời đại, ra trận với “tình yêu sông núi”, với quyết tâm “ra chiến trường không tiếc một đời xanh”. họ đã đi theo con đường của tổ tiên, ông cha, họ đã đem xương máu để giữ vững núi non. họ sống giản dị, yêu đời, biết mơ ước và rất hồn nhiên, lạc quan. họ đã sống anh dũng, họ đã chết vẻ vang, tình nguyện hiến máu và “sống xanh” cho nhân dân, cho đất nước. nhà thơ đã gây thương tiếc, tự hào!

Ở khổ cuối của bài thơ, giọng điệu trở nên nghiêm trang, sâu lắng và ai oán. vẫn là tiếng lòng xao xuyến bao nỗi nhớ. rất nhiều tình yêu và nỗi nhớ:

“người đi miền Tây không hẹn, đường lên thăm thẳm chia cắt. Người đi miền Tây mùa xuân ấy hồn bay không về.”

mùa xuân năm ấy, khi “tiếng kèn kháng chiến vang lên sông núi” (hồ chí minh), đoàn quân miền Tây xuất trận. họ ra chiến trường với lời hứa: “trở về quá khứ”. đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “ra chiến trường không tiếc đời xanh”. bạn đã rời khỏi đất nước của bạn. Còn ai đã chết sau những ngày máu lửa? những người bạn, người đồng đội thân yêu, những người “một đi không trở lại”. nhưng đất mẹ vẫn mãi ôm ấp hình ảnh anh – người lính bộ đội miền Tây. bài thơ đã kết thúc nhưng giai điệu của nó vẫn còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta.

Có những bài thơ từ một lần nhưng cũng có những bài thơ luôn luôn. thơ hay là bất hủ, như mùa xuân không hẹn ngày về. đó là “bước đi vĩ đại” của chính loan, “nhớ” của bình nguyên đỏ, “đồng chí” của cánh hữu, “đột phá về phương tây” của quang dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến Việt Nam. tốt.

“Tây tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính cầm súng bảo vệ Tổ quốc và tiêu biểu cho nền thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với lối viết lãng mạn, với phong cách nhà thơ – chiến sĩ tài hoa, anh hùng, Quang Dũng đã tạc vào thời gian, thơ ca và lòng người hình ảnh người lính vô danh Thăng Long – Hà Nội. , của dân tộc Việt Nam anh hùng. trước hương hồn liệt sĩ thắp nến tri ân, chúng tôi xin cúi đầu thành kính tri ân nhà thơ và những người chiến sĩ tây quân vẻ vang.

phân tích bài thơ miền tây – văn mẫu 7

Tây tiến ”là một bài thơ xuất sắc, có thể coi là một kiệt tác của quang dung xuất hiện ngay ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lệ Vân, một người bạn thân bao năm, ông đã từng in thơ về hoàn cảnh của Quang Dũng và viết bài thơ sau:

đoàn quân tiến công về phía Tây, sau một thời gian hoạt động ở Lào, thành lập lại trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó cho đến cuối năm 1948 thì được điều động sang đơn vị khác. cách đây không lâu anh rời đơn vị cũ; ngồi trên cây bồ đề (hà đông) làm thơ về phía tây.

Cuối xuân năm 1947, Quang Dũng lên đường nhập ngũ. Là đơn vị được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với Quân đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu diệt tàn quân Pháp ở Thượng Lào cũng như Tây Bắc Việt Nam. địa bàn hoạt động của quân miền tây khá rộng, bao gồm các tỉnh sơn la, lai châu, thái bình, miền tây đô thành đến sam nua (lào) rồi ngược tây thành bình địa. những nơi này lúc bấy giờ còn rất hoang sơ, hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, nhiều thú dữ.

Những người lính Tây tiến về miền Tây phần lớn là người lớn từ Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh (Quang Dũng thuộc số này). Cuộc sống hàng ngày của lính Tây rất vất vả, ốm đau không có thuốc men, số người chết vì sốt rét nhiều hơn là do chiến đấu. tuy nhiên, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và điều kiện sống vô cùng khó khăn, họ vẫn giữ được nét hào hoa, phong nhã, yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Thơ ca phương Tây có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.

Cảm hứng lãng mạn được thể hiện trong cái tôi tình cảm của nhà thơ. khơi gợi trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi các biện pháp phóng đại và cường điệu, và các phương pháp tương phản để làm nổi bật sự khác thường, tạo ấn tượng mạnh mẽ về sự hùng vĩ và vẻ đẹp.

Thiên nhiên miền Tây qua ngòi bút lãng mạn của Quang dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng và độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, vừa hoang sơ, vừa ấm áp. hình ảnh những cô gái và con người miền tây làm đậm thêm vẻ huyền bí và thơ mộng của thiên nhiên núi rừng. tính cách lãng tử được thể hiện chủ yếu là nguồn cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng hy sinh tất cả vì lý tưởng chung của cộng đồng và của cả dân tộc.

Sự tiến bộ của phương Tây không che giấu được viên bi. nhưng lòng trắc ẩn nhưng không thương xót. đá cẩm thạch được thể hiện bằng giai điệu, âm thanh và màu sắc tráng lệ và hào hùng. chất lãng mạn hài hoà với chất bi tráng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. ngay từ khi ra đời, Miền Tây đã có sức lan tỏa lớn trong giới chiến sĩ và những người yêu thơ. nhưng về sau, bằng một quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ, bài thơ này được coi là một mùa thu đẹp như mơ, với những giọt tư tưởng lãng mạn hào hùng thuở xưa. do đó, trong một thời gian dài, hướng tây hiếm khi được đề cập đến. Phải đến thời kỳ đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, thơ ca phương Tây mới lấy lại được vị trí của mình trong lịch sử văn học.

sợi dây liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm về đoàn quân miền tây gắn với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ và thơ mộng của miền tây. bài thơ là những kỷ niệm của dũng quang về việc đi về hướng Tây; ký ức, ký ức tái tạo một cách tự phát, ký ức này gọi người khác, người này gợi lên người khác như sóng này qua sóng khác. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã thổi hồn vào những ký ức ấy và khiến người đọc như được sống cùng nhà thơ trong những ký ức ấy.

cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là nỗi khát khao cay đắng (2), trải dài cả không gian và thời gian:

“sông ma xa rồi, đi về hướng tây! nhớ núi rừng nhớ vờn sương giăng đầy đoàn quân mỏi hoa đêm ”

nỗi nhớ về đơn vị cũ đâm chồi nảy lộc, không sao kìm nén được, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng. hai từ “chơi vơi” làm sao để vẽ nên một trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình dung nỗi nhớ; cảnh núi cao, vực sâu, vực thẳm, rừng rậm, những câu thơ sau hiện ra liên tiếp:

“lên khúc cua dựng đứng, tận mây mù, súng ngửi trời ngàn thước lên, ngàn thước xuống nhà ai, mưa tầm tã từ xa”

Khổ thơ này là một thử nghiệm trong thơ sơn (thơ và họa) (3). Chỉ với bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng miêu tả độc đáo sự hiểm trở, dữ dội, thiên nhiên hoang sơ, quyến rũ của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây tiến. hai dòng đầu của bài thơ, những từ ngữ quý giá tạo nên những khúc quanh co, những đám mây, những hẻm núi hun hút bầu trời đã lột tả hoàn hảo sự hiểm trở, trập trùng, sừng sững của núi đồi miền Tây. hai từ “ngửi trời” được sử dụng rất hồn nhiên và cũng rất đậm nét, vừa tinh nghịch của người lính. những ngọn núi cao như chạm mây, mây trôi trên những đụn cát “ngọt ngào”. người lính leo núi cao dường như đang đi trên mây, điểm vũ khí của anh ta chạm tới đỉnh trời. câu thứ ba như bẻ đôi, tả cảnh sườn núi nhô lên, hạ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống vực sâu. Đọc câu thứ tư, ta có thể hình dung ra cảnh những người lính đứng trên sườn núi, phóng tầm mắt ra xa qua một không gian mờ ảo của sương rừng, mưa núi, thấp thoáng thấy những ngôi nhà như đang lơ lửng. giữa biển.

Bốn câu thơ này kết hợp với nhau, tạo nên một âm vang đặc biệt. Sau khi vẽ ba câu bằng nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất nhẹ (câu thứ tư hoàn toàn bằng phẳng). Quy tắc này tương tự như cách sử dụng màu sắc trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng gam màu lạnh dịu nhẹ như một sự xoa bóp của cả khổ thơ.

sự trập trùng của dãy núi phía tây và những con đèo trong bài thơ về phía tây gợi cho tôi mấy dòng trong bài ngâm vịnh: “hình ảnh thung lũng xa gần, – khi cắt thì nối, thôi thúc. thấp là cao ”. Nhưng sự man rợ và nguy hiểm của nó gợi lại câu thoại trong bài thơ Thu Dao Nan của Lly Bach: “Đường đi dưới đất khó theo, khó hơn lên trời xanh” (vậy Dao Chi Nan, Nan Nau Thanh Thien!).

Sự hoang sơ, dữ dội, đầy bí mật khủng khiếp của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ mở ra ngoài không gian mà còn khám phá trong chiều không gian luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:

“Buổi chiều thác nước hùng vĩ gầm thét, đêm cọp nhởn nhơ động lòng người”

Phong cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ, hiểm trở, qua ngòi bút quang mang hiện ra với muôn hình vạn trạng núi cao, vực thẳm, dốc đứng, mưa rừng, sương núi, thác gầm, hổ dữ. những tên đất lạ (sai khao, mường vĩ, pha luông, mường hịch), hình ảnh giàu giá trị hình ảnh, những câu thơ có vần điệu cao đọc thành tiếng, khó khăn được xoa dịu bằng những câu thơ có vần điệu cao. đến cuối mỗi khổ thơ, họ đã phối hợp với nhau rất ăn ý, tạo nên một thế giới dị thường vừa đa dạng vừa độc đáo của núi rừng miền Tây Tổ quốc.

câu thơ kết thúc đột ngột với hai dòng:

“hãy nhớ, tôi sẽ thái mai khi còn thơm mùi gạo nếp”

Cảnh tượng thật cảm động. Sau bao khó khăn băng rừng, vượt núi, vượt suối, vượt đèo, các chiến sĩ dừng chân, nghỉ ngơi tại một bản làng nào đó, quây quần bên nồi cơm điện bốc khói. khói thuốc vẫn còn vương vấn và hương thơm của xôi ở đồn làm tan đi vẻ mệt mỏi trên gương mặt các chiến sĩ, làm cho họ cảm thấy sảng khoái. hai dòng này tạo cảm giác ngọt ngào và ấm áp, chuẩn bị tâm trí người đọc cho khổ thơ thứ hai.

Khổ thơ thứ hai mở ra một thế giới phương tây khác. khung cảnh núi non hoang sơ, hiểm trở cứ lùi dần rồi biến mất để chợt lộ ra vẻ đẹp nên thơ, duyên dáng của miền tây. những nét thanh đậm, mạnh mẽ, đầy sức sống ở câu thơ đầu, ở câu thơ này được thay thế bằng những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển và tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng còn được thể hiện rõ nét hơn trong bài thơ này.

Tâm hồn thơ mộng và lãng mạn của Quang Dũng bị cuốn hút vào những vẻ đẹp huyền bí của con người và cảnh vật của những miền đất xa lạ. trong cảnh đó, con người được thể hiện trong một khoảng thời gian càng làm nổi bật vẻ rực rỡ và kì ảo của họ: cảnh lễ hội đuốc bập bùng và cảnh chiều sương mờ trên dòng sông hùng vỹ.

khung cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính miền Tây với đồng bào địa phương đến chung vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực nhưng cũng rất mơ, rất ảo:

“doanh trại bừng sáng với lễ hội đuốc và hoa, tôi đã luôn mặc quần áo của mình vào âm thanh của bản nhạc rụt rè về người chăn cừu, người đã xây dựng tâm hồn”

Cả doanh trại “bừng sáng” với không khí tưng bừng, và trở nên sôi động hơn khi đêm nhạc bắt đầu. trong ánh sáng rực rỡ của ngọn lửa đuốc, trong tiếng kèn réo rắt, toàn cảnh, cả người như muốn cúi xuống, say sưa, ngây ngất, ngây ngất. hai từ “kìa” thể hiện cái nhìn ngạc nhiên, ngạc nhiên, say mê và vui sướng. nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm đại nhạc hội là những cô gái đến từ núi rừng miền Tây bất ngờ xuất hiện trong những bộ váy lộng lẫy (“xiêm y thuở nào”) vừa e ấp, vừa đằm thắm (“xiêm y”) rực rỡ sắc màu. điệu múa của nước ngoài (“dance of men”) đã hút hồn trẻ em phương Tây.

<3

“Những người đi chơi gò má vào buổi chiều mù sương ấy có thấy hồn lau đôi bờ, có nhớ bóng dáng trên gò bồng bềnh theo dòng nước và những bông hoa đung đưa?”.

không gian của dòng sông vào một buổi chiều mù sương. những dòng sông, bờ biển êm đềm, hoang sơ như thời tiền sử. Trong dòng sông ấy mang màu sắc của những câu chuyện cổ tích, huyền thoại, nổi bật lên hình dáng mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc xuồng. và như hòa cùng con người, những bông hoa rừng cũng “chui” vào dòng nước lũ.

Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không miêu tả mà chỉ gợi lên khung cảnh thiên nhiên đất nước qua ngòi bút của anh như có hồn bay trong gió, trong cây (“có thể thấy hồn lau bến bờ”). không chỉ mang vẻ đẹp của thiên nhiên vào mắt người đọc mà còn gợi lên phần linh thiêng của cảnh vật.

Đọc bài thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải tươi đẹp, thế giới của những giấc mơ và âm nhạc (4). bốn dòng đầu của bài thơ như một khúc tráng ca, như một giai điệu của tâm hồn ngây ngất, thiết tha của những người lính miền Tây. hơn bất cứ nơi nào khác, trong đoạn văn này, thơ và nhạc hòa quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời chúng. Với suy nghĩ đó, Xuân Diệu có quyền nghĩ rằng đọc một bài thơ miền Tây khiến bạn như có nhạc trong miệng.

trước khung cảnh hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn 1) và cảnh đẹp miền Tây thơ mộng, đẹp đến mê hồn (ở đoạn 2), ở khổ 3 là hình ảnh tập thể của những người lính miền Tây. với vẻ đẹp bi tráng:

“hành quân tây, quân không mọc tóc, quân xanh oai hùng mắt sáng, gửi mộng qua biên giới trong đêm hà nội mộng mơ, hương thơm trải khắp biên giới, xa quê chiến trận không tiếc đời xanh áo dài chiếu Tôi về xứ sông rền khúc đơn ca.

quang dung đã chọn lọc và chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính miền tây để tạc nên một bức tượng đài tập thể tổng kết bộ mặt chung của toàn quân. đá hoa cương và anh hùng là hai chất liệu chính của tượng đài, chúng hòa quyện, xuyên suốt, nâng đỡ, nâng đỡ để tạo nên vẻ đẹp bi tráng: hào quang chung của cả di tích.

thơ ca thời kháng chiến khi viết về người lính thường đề cập đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. chính chủ trong bài viết đồng chí trực tiếp mô tả bệnh:

“Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt, vầng trán đẫm mồ hôi”

ngoài ra, việc vẽ chân dung người vệ quốc trong trò chơi bắn cá nước bằng những hình ảnh rất cụ thể: “giọt mồ hôi rơi, – trên má anh sa hoa” cũng không quên kể về ảnh hưởng của căn bệnh quái ác đó. Bản lĩnh ở miền Tây đã không che giấu được những gian khổ, khó khăn, bệnh tật hiểm nghèo và sự hy sinh to lớn của các chiến sĩ. chỉ có điều, tất cả những điều đó, qua ngòi bút của anh, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn lãng mạn. những cái đầu trụi lông của những người lính miền Tây không phải là những hình ảnh thú vị và giật gân, những hình ảnh tưởng tượng hoang đường của nhà thơ, mà ẩn chứa một sự thật khó hiểu. Những người lính phương Tây tiến lên, một số cạo trọc đầu để tiện tay trong chiến đấu với kẻ thù, một số khác bị sốt rét đến rụng cả tóc và trở nên hói đầu. Vẻ nhợt nhạt vì đói, khát và sốt rét của người chiến sĩ qua con mắt của Quang Dũng vẫn toát lên vẻ uy nghiêm, dữ tợn của những con hổ nơi rừng thiêng. vẻ oai phong lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua đôi mắt giận dữ (đôi mắt mơ màng) của chàng. Những người lính miền Tây qua ngòi bút của Quang Dũng không phải là những người khổng lồ vô tâm. Cái nhìn đa chiều của Quang Dũng đã giúp anh nhìn thấu được dáng vẻ oai phong, lẫm liệt của họ, tâm hồn, trái tim cháy bỏng, khao khát tình yêu của họ (“đêm mơ trong cảnh đẹp Hà Nội”). Chính vì vậy, ở khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên một bức tượng tập thể những người lính miền Tây với những đường nét không chỉ thể hiện hình dáng bên ngoài mà còn thể hiện thế giới mộng mơ bên trong của tâm hồn họ.

Ngòi bút của Quang Dũng trong việc tạo dựng hình tượng tập thể những người lính Tây tiến đã không làm người đọc chìm đắm trong bi kịch. Cảm hứng của ông, chìm trong bi kịch, được nâng đỡ trên đôi cánh của hình ảnh, của tinh thần lãng mạn. chính vì vậy mà nỗi buồn gợi lên qua hình ảnh mồ mả những người lính nằm rải rác trên sa mạc biên cương xa xôi lạnh giá, một mặt đã được giảm bớt phần lớn bằng những từ Hán Việt cổ; trang trọng: “rải rác mép mồ xa”; mặt khác, nỗi buồn tương tư ấy cũng mờ ảo trước lý tưởng quên mình hy sinh vì nước của những người lính miền Tây (“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”). họ có vẻ ngoài tiều tụy, tàn tạ nhưng lại tỏa sáng với vẻ đẹp lý tưởng, mang dáng dấp của những bậc lão thành hiên ngang, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. sự thật bi thảm: Những người lính Tây nằm gục bên vệ đường không có chiếu che thân, qua con mắt quang minh chính đại, lại được khoác trên mình chiếc áo cà sa sang trọng (5). nỗi buồn đó được giải tỏa qua cách anh ta nói (anh ta trở lại trái đất), và sau đó hoàn toàn chìm trong tiếng gầm dữ dội của sông ngựa:

“chiếc áo cà sa phản chiếu anh trở về miền đất nơi ngựa sông gầm lên khúc độc tấu.”

Trong âm hưởng dữ dội và hào hùng của thiên nhiên, cái chết và sự hy sinh của người lính Tây tiến không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

Giọng điệu chính của khổ thơ thứ ba này là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn của nhà thơ và lòng thành kính, kính trọng trước sự hy sinh của đồng đội.

Bài thơ khép lại bằng bốn dòng, một lần nữa làm nổi bật không khí chung của một thời Tây Phương, chí khí thủy chung của những người lính miền Tây. nhịp thơ chậm rãi, giọng buồn nhưng hồn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng:

“người đi miền Tây không hẹn, đường lên thăm thẳm chia cắt. Người đi miền Tây mùa xuân ấy hồn bay không về.”

Tinh thần “một đi không trở lại” đã thấm nhuần trong tư tưởng, tình cảm của toàn quân, bộ đội miền Tây. tâm hồn và tình cảm của những người lính miền Tây vẫn gắn chặt với những ngày tháng và những nơi mà miền Tây đã đi qua. “Mùa xuân miền Tây” đã trở thành khoảng thời gian bạn ra đi không bao giờ trở lại.

Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại một thời thơ mộng, lãng mạn và hào hùng trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ và ác liệt như thế này.

phân tích bài thơ miền tây – bài văn mẫu 8

trong cuộc đời của người lính quang dũng và có lẽ trong suốt cuộc đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy, những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân miền Tây chắc chắn là đáng nhớ nhất, được ghi lại sâu sắc nhất. và thật may mắn cho người quang minh dũng cảm và cho chúng ta, biết bao kỉ niệm sâu sắc, biết bao vẻ đẹp và cả bi kịch của một quãng đời khó quên nơi miền Tây Tổ quốc với những người đồng đội trong vòng tay thơ ca được lưu giữ mãi theo thời gian trong một bài thơ xuất sắc: hướng Tây. bài thơ gần như trọn vẹn cái đặc sắc nhất của hồn quang dung, để khi nhắc đến quang dung là người ta liên tưởng ngay đến phương tây, mặc dù nó cũng có những bài thơ nổi bật khác.

bài thơ được hình thành và kết tinh từ nỗi nhớ da diết, nhớ thương đồng đội và những tháng ngày, kỷ niệm khó quên của chính nhà thơ trong đoàn quân miền Tây, gắn liền với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kỉ niệm để kết tinh thành những hình ảnh sống động. Nhìn chung, những hình ảnh trong trí nhớ được gợi lên không có một trật tự rõ ràng, nó có thể làm thay đổi trình tự thời gian và không gian, nhưng vẫn còn một trình tự khác, đó là mạch cảm xúc của chủ thể. ở đây, mạch hồi tưởng đã hiện lên liên tiếp những hình ảnh về phương tây theo một trình tự diễn biến tâm lí. mở đầu là hình ảnh những cuộc hành quân gian khổ giữa khung cảnh miền Tây hoang sơ, hùng vĩ và huyền bí. thì nỗi nhớ gợi lên những hình ảnh đẹp đẽ, trong sáng, mềm mại và thơ mộng. Đáng chú ý trong số đó là hình ảnh những thiếu nữ miền Tây trong đêm lửa trại và vẻ đẹp huyền ảo trong làn khói sương buổi chiều chia tay ở gò vấp. ở đây nỗi nhớ phải kết tinh thành bức chân dung cận cảnh, tập trung của những người lính Tây tiến và sự hy sinh của họ. Nỗi nhớ đã đi khắp mạch ký ức của nhà thơ, đến tận cùng, tác giả muốn gửi gắm tâm hồn mình về miền Tây, đất trời miền Tây. Nếu coi hành động sáng tác thơ như một sự giải phóng những cảm xúc trào dâng trong tâm hồn nhà thơ (cảm xúc ấy được cô đọng từ cuộc đời đã chứa đựng trải nghiệm của chính tác giả) thì Hướng Tây có thể coi là một ví dụ điển hình.

bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ, nỗi nhớ dâng đầy trong lòng nhà thơ, câu nói: “sông xa thì về tây!”. câu thơ như một lời tâm sự mà như một tiếng gọi, chất chứa cả nỗi nhớ nhung, tiếc nuối. câu thơ bảy chữ có bốn chữ làm tên riêng, cũng là nơi gửi gắm nỗi nhớ về mảnh đất miền Tây (tượng trưng cho sông ma) và đoàn quân miền Tây. câu thơ mở đầu này dẫn dắt tất cả cảm xúc của bài thơ. Toàn bộ bài viết sẽ là sự thể hiện cụ thể hai hình ảnh đọng lại nỗi nhớ của tác giả: Tây và người lính Tây.

nỗi nhớ về một miền sơn cước đưa nhà thơ lên ​​một trạng thái đặc biệt, gọi là “nỗi nhớ chơi vơi”. trong nỗi nhớ ấy, tất cả những kỉ niệm hiện lên bằng hình ảnh, đôi khi rõ ràng, đôi khi mờ ảo, nhưng tất cả đều sống động và tươi sáng.

hình ảnh hiện ra đầu tiên là cuộc hành quân của đoàn quân miền tây trên khung cảnh thiên nhiên miền tây hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng:

“lên khúc cua dựng đứng, mây hút, súng ngửi trời ngàn thước lên, ngàn thước xuống nhà ai, mưa xa tầm tã”

câu thơ đầu bảy chữ với năm chữ là thanh (sắc, hỏi) đã diễn tả thành công con đường hành quân với những bước dốc, quanh co, khúc khuỷu, vươn lên cao mãi. câu thơ tiếp theo tả độ cao thăm thẳm của đỉnh núi chìm trong mây mù. “mùi vũ khí như mùi trời” là cách nói rất đời thực, tự nhiên, đậm chất lính. đường thứ ba dường như được tách xuống ở giữa, vẽ hai giai đoạn của đường hành quân: “một nghìn mét lên, một nghìn mét xuống.” câu thứ tư có đầy đủ âm sắc, hầu hết là âm sắc, mở ra một không gian rộng, xa dưới tầm mắt. trong cơn mưa bao trùm cả đất trời, một vài ngôi nhà hiện ra, như đang bồng bềnh trong biển mưa giăng khắp núi rừng. Bốn dòng miêu tả cuộc hành quân này là một trong những dòng đặc sắc nhất trong bài thơ. kiểu bút định hình tương tự như kiểu vẽ mực, đồng thời tô đậm một số điểm nổi bật của hình ảnh bằng các chi tiết cụ thể và tạo không gian có ba chiều: chiều cao, chiều rộng, khoảng cách và nét vẽ, khoảng mờ, khoảng trống.

Những cuộc hành quân gian khổ, gập ghềnh và liên tục khiến những người lính kiệt sức và nhiều người đã ngã xuống trên đường hành quân. Cảm hứng lãng mạn của quang dung không bỏ qua sự khốc liệt đó.

<3

Lâu nay, hai câu thơ này vẫn được hiểu là nói lên sự hy sinh của những người lính khi hành quân. nhưng cũng có ý kiến ​​cho rằng đây chỉ là bức ảnh ghi lại sự mệt mỏi, đuối sức của người lính với những khoảnh khắc ngủ gật giữa đường hành quân. Dù thế nào đi nữa, anh ấy vẫn nói về những khó khăn và khắc nghiệt của những cuộc hành quân. cần chú ý giọng điệu, ngôn từ của hai câu thơ này: vừa thìa, vừa buồn, nhưng lại có chút chát chúa, man mác (quên đời). Hung dữ, hoang dã và âm u, bí ẩn của thiên nhiên miền Tây được thể hiện một cách ấn tượng nhất trong câu 11, 12:

“buổi chiều thác hùng vĩ gầm thét đêm cọp nhởn nhơ lòng người”.

đó cũng là những ấn tượng mạnh trong ký ức của người lính miền Tây qua những chuyến hành quân, nhất là vào những buổi chiều, tối, có lẽ bởi những lúc này, sự hoang sơ, huyền bí và tăm tối của núi rừng hiện lên. rõ ràng hơn. .

hai câu cuối của đoạn 1 tạo nên một bước ngoặt về hình ảnh, cảm xúc và thiết lập cho đoạn 2. Điểm đến của các cuộc hành quân, cũng là nơi đoàn quân có thể dừng chân, nghỉ ngơi thường là các làng quê. Bữa cơm nóng hổi nghi ngút khói, vị dẻo thơm của xôi là niềm khao khát, niềm vui ấm áp của người lính sau chuyến hành quân xa. bây giờ nó đã hiện về trong ký ức, trong nỗi nhớ như có vị ngọt:

<3

cần chú ý những đặc điểm riêng của dòng cuối đoạn đầu: những cách kết hợp từ mới, sự lặp lại phụ âm đầu trong hai từ “mai chau”, “em mùa”, dòng gồm của hầu hết các từ. âm thanh gợi lên một cảm giác dai dẳng và thấm thía.

Khổ thơ thứ hai của bài thơ mở ra những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên và con người miền Tây: vẻ đẹp thơ mộng, mộng mơ của thiên nhiên và vẻ đẹp của tình người sâu nặng, giàu tình cảm.

p>

một bữa tiệc thắm đượm tình quân dân được diễn tả bằng những hình ảnh rực rỡ, rực rỡ dưới ánh đuốc và nồng nàn, hấp dẫn trong âm nhạc, giai điệu. các từ được chiếu sáng, tiệc hoa, kìa, các bạn liên tiếp thể hiện sự xúc động, say sưa, ngạc nhiên và náo động của các chiến sĩ trong đêm tiệc và trước sự xuất hiện của các cô gái trong trang phục cải trang. văn lãng mạn tạo nên vẻ đẹp mê hồn đầy tình tứ: những cô gái dân tộc lộng lẫy xuất hiện trong trang phục rực rỡ, dưới ánh đuốc, nhưng vẫn giữ được vẻ e ấp; tất cả những nét đẹp ấy như sống động và hấp dẫn hơn trong tiếng khèn, điệu nhạc đặc trưng của các dân tộc. vẻ đẹp ấy còn được thể hiện qua những hình ảnh, câu chữ gợi nhớ một lễ cưới, hội đuốc hoa, cô gái thẹn thùng. Dòng “Nhạc về người chăn cừu xây tâm hồn thi sĩ” có thể gợi ý lễ hội này diễn ra xuyên biên giới Việt – Lào. Cần nhớ rằng địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây tiến không chỉ ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, mà còn ở nhiều địa bàn các tỉnh của Lào (cuối bài có câu: “linh hồn của các mẫu không trở lại.”).

Bốn câu thơ tiếp theo (19 đến 22) miêu tả cuộc chia tay với má trong một buổi chiều mù sương. những câu thơ ấy mở ra một vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên, cảnh vật như mờ ảo, nhưng dường như vì thế mà nó càng lay động, mềm mại. lau sậy rung rinh, lay động bên bờ như có hồn, hay hồn thi nhân thả hồn vào cảnh thì thấy hồn cảnh trong từng bông sậy khẽ lay động, rung rinh. Tương tự, những bông hoa nổi trên mặt nước lũ cũng mang cái hồn của cảnh vật, sự lưu luyến, tình tứ (hoa đung đưa chứ không đung đưa). nổi lên trên nền bức tranh thiên nhiên thơ mộng là hình ảnh chiếc xuồng vững chãi giữa dòng nước lũ. hình ảnh đó tạo nên vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ cho hình ảnh thiên nhiên mềm mại và thơ mộng.

Bút pháp ở đoạn 2 cũng có những thay đổi so với đoạn 1. Nét bút uyển chuyển, biến ảo, sử dụng ánh sáng và âm thanh tạo nên vẻ tươi sáng, say mê của một đêm ra quân. Trong những câu thơ về một buổi chiều tà, vẻ đẹp thơ mộng, mơ màng trong sương chiều của hàng ngàn ngọn lau sậy và thác nước được vẽ nên bằng những nét cọ tinh tế, uyển chuyển như bức tranh lụa hay màu nước, xen kẽ với một vài nét chấm phá tạo nên. một ấn tượng.

Cao trào trong mạch cảm xúc của bài thơ và cũng là hình ảnh trung tâm trong nỗi nhớ miền tây của tác giả là ở đoạn 3, tiêu biểu cho hình ảnh người lính miền tây anh dũng, oanh liệt và bi tráng. chân dung của một người lính đang tiến về phía Tây được vẽ bằng những nét vẽ khác thường và kỳ lạ:

“đoàn quân hành quân tây không mọc tóc quân xanh dữ tợn”.

Cảm hứng lãng mạn và anh hùng đã giúp nhà thơ khám phá và khắc họa vẻ đẹp anh hùng của người lính, vượt lên, coi thường mọi gian khổ, tự tôn. hai câu thơ có âm hưởng độc đáo. từ quân đội vang hơn và mạnh hơn từ quân đội, và không có lông, nó gợi ý một nhân vật độc đáo và táo tợn, giống như một người lính không cần hoặc thậm chí không mọc tóc (chủ yếu là vì bệnh sốt rét làm cho nó tồi tệ hơn). .Rụng tóc). câu thơ tạo nên hình ảnh về dáng vẻ dũng mãnh, lẫm liệt và hung dữ của đoàn quân miền tây. câu tiếp theo: “quân xanh hiên ngang, dũng mãnh” càng thể hiện rõ hình ảnh đó. “xanh” là màu da xanh xao vì sốt rét, thiếu thốn, gian khổ, nhưng qua cảm hứng hào hùng và bút pháp lãng mạn của quang dung, màu xanh ấy vừa mang vẻ dữ dội của núi rừng, vừa không có sức gợi. anh ấy trông tiều tụy, ốm yếu.

hai câu thơ tiếp theo tô thêm một vẻ đẹp nữa cho hình ảnh người lính miền Tây: vẻ hào hoa của những đứa trẻ Hà Nội với tâm hồn phong phú và mơ mộng. Trong những ngày tháng chiến đấu nơi núi rừng miền Tây vô cùng gian khổ, khắc nghiệt, Hà Nội với những bóng dáng kiều thơm vẫn hiện về trong giấc mơ là nỗi nhớ, là miền đất mộng mơ. người chiến sĩ cách mạng trong thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã từng bày tỏ nỗi lòng khắc khoải khôn nguôi của người tình giữa đường hành quân đêm dài.

but Hướng về phía tây là một trong số ít bài thơ nói về nó một cách xúc động với cảm hứng bi tráng. cái chết, dù là hy sinh cũng không khỏi gợi cảm giác xót xa. hình ảnh những ngôi mộ nằm rải rác nơi bờ cõi xa xôi càng nhân lên cảm xúc bi thương ấy. nhưng câu thơ tiếp theo lại khẳng định mạnh mẽ khí phách của người thanh niên một thời không chỉ sẵn sàng chấp nhận, mà còn chiến thắng cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời và tuổi trẻ cho sự nghiệp vĩ đại của dân tộc: “chiến trường: đi xanh không tiếc tay”. đây không phải là cách nói thơ, mà là tinh thần dũng cảm và hành động của bao thế hệ người Việt Nam trong những năm kháng chiến.

Cũng hiếm trong thơ có những dòng miêu tả trực tiếp giây phút tiễn biệt đồng nghiệp, như hai câu sau:

“chiếc áo cà sa phản chiếu anh trở về miền đất nơi ngựa sông gầm lên khúc độc tấu.”

Những người lính ngã xuống nơi chiến trường rất ít, đồng đội của họ chỉ có thể che cho họ bằng những bộ quần áo đơn giản của những người lính đó (“quần áo thay chiếu” còn được hiểu là mặc chiếu thay cho áo chẽn, nhưng cách hiểu đó có thể không phù hợp với thực tế của quân đội phương tây.) Chữ áo gợi lên nét cổ kính, trang nghiêm nhưng không quá xa vời. những từ ngữ gợi cảm giác gần gũi, thân thương: người chiến sĩ hy sinh là được trở về với quê hương, trong lòng quê hương đất nước. vào giờ phút thiêng liêng được trở về quê hương của những linh hồn người chiến sĩ, cũng là giây phút vĩnh hằng của đồng đội, tiếng vó ngựa sông gầm vang lên như khúc tráng ca một mình. Chỉ với tiếng đàn ấy, quang dũng đã chuyển tải vào câu thơ tất cả sự bi tráng của sự hy sinh và nỗi đau trong lòng người lính khi phải từ biệt đồng đội. Nhiều nhà thơ cũng dùng những hình ảnh từ thiên nhiên để nói lên sự hy sinh của những người lính. tác giả khẳng định sự bất tử của những người cách mạng đã hy sinh bằng những hình ảnh thiên nhiên bao la, trường tồn: “tâm hồn giàu có vô danh: biển xanh sóng biếc, núi rừng ngút ngàn”. vu cao mượn hình ảnh loài hoa để làm bất tử cho sự hy sinh của cô thôn nữ:

“Em sẽ là hoa trên đỉnh núi bốn mùa, hoa thơm muôn đời”.

và nguyen duc mau so sánh cây trầm hương với cuộc đời của người lính:

“sống tốt với niềm tin giản dị và đức hy sinh để ngửi đất, ngửi trời”.

những hình ảnh biểu tượng như vậy có xu hướng ca ngợi sự vĩ đại và bất tử của sự hy sinh, xóa đi nỗi đau mất mát. Với hình ảnh “ngựa sông gầm thét đơn côi”, quang dung đã nói lên một nỗi đau khủng khiếp nhưng không bi lụy mà dữ dội, mạnh mẽ.

ở đây, mạch nhớ miền Tây đã trôi theo dòng chuyển động của nó, nhà thơ lại trở về với hiện tại. Hiện tại, với đồng nghiệp cũ, với đất khách quê người là một khoảng cách rất xa:

“con đường về phía Tây không có lời hứa”

là một khoảng cách rất xa về không gian và thời gian. nhưng vượt qua mọi khoảng cách, miền Tây đã trở thành một phần không thể tách rời trong tâm hồn nhà thơ. hay nói một cách mạnh mẽ và thấm thía hơn, tâm hồn nhà thơ đã mãi mãi gắn bó với mảnh đất miền Tây, miền Tây. câu thơ chuyển sang sử dụng đại từ thông tục “ai”, vì điều đó không chỉ dành cho nhà thơ mà còn dành cho tất cả những ai đã từng gắn bó với quân tây ta.

tây tiến là một bài thơ xuất sắc kết tinh tâm hồn tài hoa và tài năng sáng tạo của nhà thơ Quang Dũng trên nhiều phương diện nghệ thuật: hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu.

Hình ảnh trong bài thơ khá đa dạng và được sáng tạo theo nhiều phong cách khác nhau, tạo nên những sắc thái thẩm mỹ phong phú. Trong bài thơ có hai loại hình ảnh chính: chất phác và người lính miền Tây, đồng thời có những hình ảnh về cuộc sống của người miền Tây gắn liền với người lính miền Tây. Khi xem xét kỹ hơn, có thể thấy rằng trong mỗi loại hình (thiên nhiên, con người) cũng có hai dạng chính, tạo nên hai sắc thái thẩm mỹ phối hợp và bổ sung cho nhau. thiên nhiên có cái gì đó dữ dội, thô ráp, hoang sơ, hùng vĩ (“tựa khúc quanh dốc – hút mây ngửi trời”; “tối thác gầm – tối hổ trêu hổ người”, “ngựa sông gầm thét”. một bài hát đơn ca ”). Thêm vào đó là những hình ảnh thơ mộng của thiên nhiên, ẩn hiện trong sương, trong mưa, đung đưa bóng hoa … (“sai mong sương lấp đoàn quân mỏi – mường lát hoa trong đêm tối”. , “nhà ai hòa mưa chiều xa”, “sương sớm chiều sương”, “hồn lau bến bờ”, “dòng hoa đong đưa”) .Hình ảnh con người cũng hiện lên với nhiều sắc thái, chủ yếu là hào hùng. hào hùng là ở ý chí, tư thế kiêu hãnh, vượt lên, coi thường gian khổ, hy sinh, hào hùng là ở tâm hồn nhạy cảm với thiên nhiên, thiết tha với tình người và cả những khát khao, ước mơ. tác giả đã sử dụng nhiều lối viết để miêu tả và xây dựng hình ảnh. đôi khi chúng miêu tả cận cảnh, tập trung vào những chi tiết khá cụ thể, đôi khi lùi lại để bao quát một khung cảnh rộng lớn, mở ra một hình ảnh phóng khoáng và hùng vĩ. đến từ phương tây Nếu bạn hình dung nó theo cách của một bức tranh, bạn có thể thấy hai nét chính: có nét mạnh, nét đậm, mạnh và có những nét mềm mại tạo nên vẻ đẹp tiềm ẩn.

Đặc trưng của ngôn ngữ phương Tây là sự kết hợp và pha trộn của nhiều sắc thái văn phong với các lớp từ vựng đặc trưng. có ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc cổ kính (chủ yếu ở đoạn 3 miêu tả trực tiếp hình ảnh những người lính Tây tiến và sự hy sinh bi tráng của họ; có lớp ngôn từ thông tục, sinh động của ngôn ngữ nói hàng ngày, đậm nét văn phong. kẻ sĩ: anh nhớ chơi vơi, binh khí sặc mùi trời, mối anh quên đời, con cọp giễu cợt thiên hạ, …). Nét sáng tạo trong ngôn ngữ của bài thơ là có những cách kết hợp từ mới lạ, độc đáo, mang lại ý nghĩa, sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ: nhớ chơi vơi, không khí đêm, ngửi trời, mưa xa). , mai tạm biệt mùa em, hoa đung đưa, kiều thơm, về với đất, …). việc sử dụng địa danh cũng là một đặc điểm đáng chú ý trong ngôn ngữ của bài thơ. những địa danh tạo ấn tượng về tính cụ thể, chân thực về hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống con người, đồng thời gợi lên sức hút của một vùng đất xa lạ.

toàn bộ bài thơ được bao phủ trong nỗi nhớ. nỗi nhớ ấy gợi lên những kỉ niệm, những hình ảnh với nhiều trạng thái tình cảm khác nhau, được thể hiện bằng những giọng điệu phù hợp với từng trạng thái cảm xúc. ở đoạn đầu giọng chủ đạo tha thiết, phấn chấn, cất lên những tiếng gọi, những lời cảm thán (“sông ma xa rồi về tây ơi!”, “nhớ ơi tây chuyển cơm khói”). ở đoạn hai tái hiện kỉ niệm về những đêm tiệc đầy tình quân dân, giọng thơ chuyển sang hồn nhiên vui tươi rồi man mác, man mác buồn khi nhớ cảnh chia tay vào một buổi chiều mù sương ở trời Âu. mộc giọng thơ trở nên trang trọng, hào hùng rồi lắng đọng bi tráng ở khổ thơ thứ ba, tái hiện hình ảnh những người lính miền Tây và sự hy sinh của họ. cuối cùng, giọng thơ trở lại nỗi buồn, nỗi nhớ da diết khi xa cách, sự xa cách với bạn đồng hành và phương tây.

Tây tiến là kỷ vật bất hủ trong thơ ca, khắc ghi những hình ảnh và rung động của một thời hào hùng, ác liệt, của một thế hệ trẻ từng “ra trận không tiếc đời xanh”.

phân tích bài thơ miền tây – văn mẫu 9

Trong thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954, Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật nhất trong lĩnh vực thơ ca với tập thơ nổi tiếng “mây và đầu”, trong đó nổi bật nhất là bài thơ miền Tây.

bài thơ miền Tây thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, lãng mạn và thanh bình:

“sông ma đi xa rồi về tây nhớ chơi vơi núi rừng”

nhà thơ đã đặt tên là sông ma, con sông chảy qua một số tỉnh miền Tây thanh hóa, con sông gắn liền với cuộc hành quân xa của người lính miền Tây. vì vậy, trong cảm nhận của nhà thơ, dòng sông là một minh chứng lịch sử, một người bạn đồng hành. nhưng giờ đây “sông đã xa…” mọi kỷ niệm về một thời binh lửa đều đã vào dĩ vãng. tuy nhiên, nỗi nhớ đồng đội vẫn luôn nóng bỏng, tươi mới như xưa khiến tác giả phải thốt lên “tây tiến”. nhà thơ gọi tên đoàn quân đang tiến như thể họ là những người thân nhất của mình. chỉ với từ “ôi” ấy, người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, nỗi nhớ mong, tình yêu tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân miền Tây là nỗi nhớ về núi rừng thiên nhiên.

chỉ là một dòng thơ, nhưng với câu thơ ngụ ngôn “nhớ” ta như hiểu được nỗi niềm trong lòng của thi nhân. nhà thơ nhớ về cảnh vật thiên nhiên, nhớ về nơi in đậm dấu tích đoàn quân miền Tây với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang dũng thật tài hoa khi đong đầy mọi cung bậc cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “nỗi nhớ chơi vơi” ấy là nỗi nhớ không rõ ràng, vô định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến người ta không thể thoát ly thực tại để đắm chìm trong những kỉ niệm xưa cũ. cũng có nỗi nhớ trong những câu ca dao như thế này:

“nhớ mãi về nhà”

có xuan dieu cũng đã viết:

“muốn nâng cao trái tim của bạn để chơi”

Tuy nhiên, nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ quang dung có sức lay động lớn, để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc. hai câu thơ mang chút bùi ngùi, hoài niệm gợi lại những kỉ niệm thân thương. dường như chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn của một người nghệ sĩ, quang dung như đang xé mình khỏi thực tại để đắm chìm trong nỗi nhớ “chơi vơi”.

Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân miền tây hiện lên:

“xin lỗi vì đã điền vào đội quân mệt mỏi”

Nhiều địa danh được nhắc đến trong bài thơ, người ta tin rằng: “tên đất, tên trấn, tên đọc mà muốn khóc”, đó là nơi in dấu những bước chân. nhóm đã. đoàn quân từng đi qua mọi vùng đất, địa danh như một nhân chứng sống cho hành trình của đoàn quân. từ câu trước, chúng ta có thể hình dung rõ ràng cuộc hành trình. giữa núi rừng, hình ảnh của anh như chìm xuống, ẩn hiện trong hư ảo. sương mù, hình ảnh “sương mù” gợi ý về thời tiết và khí hậu khắc nghiệt ở miền tây, trong chuyến đi của bạn, bạn phải đi trong sương mù dày đặc như vậy không thể tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.

Nếu câu thơ trước miêu tả điều kiện thời tiết khắc nghiệt thì câu thơ sau miêu tả vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên và tâm hồn của người lính:

“những lát hoa mường trở về trong đêm”

Quang dũng rất có tài dùng từ. Nếu nhiều người nói rằng hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, đó là một sự nhân cách hóa rất độc đáo. những bông hoa xuất hiện trong “sương đêm”, tò mò, tại sao không phải là đêm của sương? Có thể nào nếu trong đêm sương giá lạnh ta không được nhìn thấy hoa? vì vậy, nhà thơ đã để lại bông hoa trong “màn sương đêm”. Qua hai từ “hơi đêm” ta có thể hình dung ra một không gian tươi sáng, huyền ảo của núi rừng nơi đây. trong không gian ấy, muôn sắc hoa càng trở nên xinh đẹp, lộng lẫy. hai câu thơ như hai đường nét tương phản, thể hiện hai cực nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt nhưng vô cùng thơ mộng và đẹp đẽ. Và có lẽ những người lính miền Tây phải rất tinh tế và lãng mạn mới có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, những khó khăn của hoàn cảnh cuộc sống không làm họ mất đi sự phong phú của thế giới tâm linh. như vậy bốn dòng đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc “Tây tiến” nhớ cảnh càng nhớ người, nhất là nỗi nhớ đồng đội, những người cùng vào sinh ra tử. lao đến nơi bão tan.

“đang lên một khúc cua dốc … đằng xa có ngôi nhà đang mưa”

bốn dòng được coi là bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng quang minh, phối khí, gieo vần và sử dụng từ ngữ rất tốt. đồng thời là hình ảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hung dữ. ở dòng đầu tiên, mật độ dày đặc của các phong vũ biểu đã tạo ra sự không đồng đều của từng câu. Con đường có gập ghềnh và quanh co không? cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc dựng đứng, gian nan và vô cùng khó khăn. và nếu “quanh co” gợi ra những con dốc cao và hiểm trở, thì “vực thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi cái gì đó lạnh lùng, mời gọi bởi độ cao của vực thẳm. cuộc hành quân gian khổ biết bao, tôi như nghe rõ từng hơi thở lao nhọc, gian khổ của các chiến sĩ. họ đang đi trên con đường hành quân mà như đang lơ lửng giữa biển mây, mũi nhọn của vũ khí chạm trời. câu thơ không chỉ gợi tầm cao mà còn thể hiện cái gì đó tinh nghịch, hồn nhiên và đầy tài trí quân tử. con đường bây giờ đột nhiên rẽ rất xa, nhưng nó vẫn chưa kết thúc:

“cao hơn một nghìn mét, dưới một nghìn mét”

Nhờ vào thơ mà đặt dấu phẩy vào giữa câu thơ hay là một dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy đó khiến câu thơ gấp lại một nửa để ta hình dung ra một con đường quanh co, nhiều khó khăn, trắc trở. đoạn thơ được viết bằng một thủ pháp nghệ thuật tương phản độc đáo. Con đường như nghìn mét, nghìn mét. nếu lên cao thì rất cao, nhưng khi xuống thì chóng mặt vì một bên là dốc thẳng đứng, bên kia là vực thẳm vô hạn. Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc rất mạnh mẽ, nó như một thử thách cho lòng dũng cảm và ý chí sắt đá của con người. Những người lính phương Tây phải rất dũng cảm mới có thể vượt qua được những khó khăn này. câu thơ tưởng như tả cảnh nhưng để làm nổi bật tầm vóc ý chí của người lính miền Tây.

nếu ba câu thơ trước là vần bằng nhiều âm tiết thì câu dưới lại được cấu tạo bằng một chuỗi các thanh điệu: “Nhà ai hòa mưa biển”. Những người lính phương Tây đôi khi dừng lại trên đường đi. họ dừng lại để ngắm nhìn những ngôi nhà sàn của người dân nằm ẩn mình trong núi và thung lũng sâu. Đâu đó trên đường đi, những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn dường như là nơi cung cấp hơi ấm cho con em họ trên chiến trường gian khổ.

quang dung đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. dường như tên của các vùng đất và dân tộc khác đã trở nên quá quen thuộc. thì hình ảnh những người lính vô cùng ấn tượng đã hiện ra.

“Người bạn béo ú dừng bước và rơi vào tay súng và quên đi sự sống”

có người từng nói rằng trong hai câu thơ này, người lính ngủ gục bên tay súng, nhưng cũng có ý kiến ​​cho rằng người lính “không bước tới” chính là sự hy sinh của anh ta. lấy nhau, chúng ta nên hiểu những người lính đã hy sinh. sự hy sinh của anh thật thanh thản và nhẹ nhàng. đối với họ cái chết chỉ là một cái chân không đi được nữa, cái chết chỉ là một giấc ngủ say. ở đây, những người lính hy sinh trong tư thế hành quân: trên đầu vẫn đội nón lá, vũ khí vẫn cầm trên tay. Dường như chúng ta đã gặp những người lính hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:

“và chết khi đang đứng bắn ra máu như những viên đạn cầu vồng”

(le anh xuan)

Dù đắm chìm trong tư thế hy sinh cao đẹp của người chiến sĩ, nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc vẫn cứ lởn vởn trong tâm trí nhà thơ:

“Buổi chiều thác nước hùng vĩ gầm thét, đêm cọp nhởn nhơ động lòng người”

thiên nhiên miền Tây được miêu tả qua tiếng thác gầm thét và tiếng hổ rình mồi, hai câu thơ gợi lên sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sơn cùng cốc. nhất là với những từ ngữ biểu thị thời gian “chiều tối, đêm khuya”, người đọc như hiểu được phần nào những khó khăn, gian khổ mà người lính miền Tây đã phải trải qua. sự khắc nghiệt hơn của vùng hoang dã Tây Bắc, những người lính dũng cảm. quang dung viết về cuộc hành quân của những người lính miền tây với sự hiểu biết của một người từng trải.

“nhớ dời lúa mai mùa xôi thơm”

Trên đường hành quân, những người lính nhớ những bữa cơm đầm ấm tình đồng đội, nhớ hương vị tình quân dân. mùa nếp nương dẻo thơm quấn quýt, quấn quít trong tâm trí mỗi người. Dường như trong thơ Quang Dũng, ta vẫn cảm nhận được hương xôi, những kỉ niệm xưa vẫn tươi nguyên.

Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao thăm thẳm, hương thơm của gạo nếp nương còn đọng lại để mở ra một khoảnh khắc khác trong đoạn văn tiếp theo:

“Doanh trại bừng sáng đuốc hoa… trở về mục đồng xây hồn thơ”

đêm hội rực rỡ ánh sáng, ánh đuốc tựa như hoa lửa trong đêm đủ sắc, rộn ràng tiếng kèn nhân tạo. nếu khung cảnh thiên nhiên của phương tây gợi lên vẻ quyến rũ đen tối của núi rừng thì nay mọi thứ đã lùi xa. những người lính đắm mình trong tiếng kèn du dương, trong tiếng nhạc rộn ràng, vui tươi.

Trong khung cảnh thiên nhiên ấy, người lính miền Tây hiện lên với vẻ đẹp hào hoa, anh dũng:

“quân tây không mọc tóc, quân xanh giữ dáng oai hùng gửi mộng vượt biên. Đêm mơ hà nội dáng thơm”

ở đây, hình ảnh người lính mới được thể hiện trọn vẹn, nhà thơ sử dụng điệp từ “binh đoàn” với nhịp thơ mạnh mẽ, tràn đầy sức sống.

quân đội được miêu tả một cách hết sức dị thường: “quân đi tây không mọc tóc”, bệnh sốt rét khiến lông quân không mọc. “quân xanh” này có thể hiểu là màu xanh của lá ngụy trang hoặc cơn sốt rét đã làm cho nước da của người lính tái đi.

Chúng ta phải hiểu rằng đây là những hậu quả của bệnh sốt rét. trên đường hành quân, những người lính đã phải đi qua bao rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao mà tránh được cơn sốt rét quái ác ấy, ước mơ ở đây là ước mơ được chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. từ “đôi mắt long lanh” gợi ý chí chiến đấu kiên cường của người lính Tây tiến, khát vọng hy sinh vì từng tấc đất của Tổ quốc, thể hiện hoài bão, hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.

Giữa thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tránh nói đến hy sinh, mất mát, Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh không tránh khỏi những mất mát, hy sinh. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ dùng nhiều từ Hán Việt để tôn vinh cái chết của người lính. trên biên giới đất nước còn rất nhiều ngôi mộ vô danh. Những người lính phương Tây là những người lính vô danh nhưng họ đã làm nên đất nước. vì vậy, lời ca không bị chìm mà trở nên hào hùng hơn ở những câu thơ sau. câu thơ nói lên vẻ đẹp trong lí tưởng sống của người lính Tây tiến, người đã hiên ngang cống hiến cả đời mình cho khúc ca khải hoàn của dân tộc: “không tiếc công lao”, cũng như gợi lên sự dũng cảm, hùng hồn. giống như câu cửa miệng của một người lính.

những người lính đã hy sinh vì phương châm đó, vì vậy Quang đã dũng cảm gửi đến họ như thế nào:

“áo choàng của anh ấy thay đổi để trở về phương Tây và anh ấy đã hát vang bài hát solo”

“Áo” ban đầu là một loại áo quan trọng được vua ban cho binh lính ngày xưa khi họ ra trận. thực tế, binh lính phương tây không có áo choàng để che thân khi họ được chôn cất. Trong hình ảnh Quang Dũng, các anh trở về quê mẹ trong trang phục sang trọng của những chiến binh năm xưa. hình ảnh chiếc áo bào ấy tô đẹp thêm cho cái chết của người chiến sĩ và an ủi những người đang còn sống. thơ không gợi nỗi sầu muộn, yếu đuối, đau thương dù viết về sự hy sinh, mất mát. tiễn đưa người lính về với quê hương thân yêu với tiếng hò reo của sông ma: “sông ma gầm khúc hành quân lẻ loi”.

nếu thi nhân cần khóc trong văn tế thì trượng phu như tiếng khóc của con người đối với con người, ở đây quang dung nói đến tiếng kêu của thiên nhiên. đây là bài ca anh hùng liệt sĩ, là lễ tiễn biệt vô cùng thiêng liêng. Đó không phải là tiếng kêu của con người mà là tiếng kêu của thiên nhiên, những gì bạn đã luôn làm.

quang dung viết về người lính đi về miền Tây với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, niềm tự hào xen lẫn tiếc nuối. nhà thơ viết theo phong cách hiện thực và lãng mạn, nhưng nghiêng về lãng mạn nhiều hơn. bài thơ đặc sắc ở cách xây dựng hình ảnh, vần điệu, cách hoà âm, tiết tấu. tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời đại khó quên của dân tộc. đọc tây chúng ta sẽ hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính thời chống Pháp, hiểu thêm về đất nước ta trong thời chiến tranh, hiểu hơn về giá trị của hòa bình, mất mát và hy sinh, để chúng ta thêm trân trọng những ngày hơn. sống trong độc lập, tự do ngày nay.

…….. xem tài liệu chi tiết trong tệp tải xuống bên dưới …….

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc TOP 23 bài Phân tích Tây Tiến siêu hay. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *