Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
862 lượt xem

Thuyết minh về một nhà văn nhà thơ

Bạn đang quan tâm đến Thuyết minh về một nhà văn nhà thơ phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Thuyết minh về một nhà văn nhà thơ

tự sự về một tác giả văn học lớp 6 lớp 10 đề 2. tài liệu gồm dàn ý chi tiết và 22 bài văn mẫu về tác giả: nguyễn du, nguyễn đình chiểu, nguyễn trai, nam cao , xuan dieu, ho chi minh, nguyen tuan ….

Qua 22 bài giảng của tác giả văn giúp các em học sinh lớp 10 có thêm gợi ý ôn tập, hình dung cách làm, các bước và cách giải bài toán nêu trong bài toán. thì hãy nhanh chóng biết cách viết một bài văn hay, đầy đủ sức thuyết phục để đạt kết quả cao trong bài 6. sau đây là chi tiết 22 bài văn của các tác giả văn học mời các bạn cùng theo dõi tại đây.

dàn ý bài tường thuật về tác giả văn học

ví dụ về sơ đồ tường thuật của tác giả

* yêu cầu về chủ đề

– Về nội dung: đề yêu cầu thuyết minh về một tác giả, tác phẩm nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam: Nguyễn du và “truyện kí”. Trước hết phải kể đến những nét tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Du. sau đó, chúng tôi thuyết minh kiệt tác “truyện cổ tích” trên các phương diện: xuất xứ, thể loại, trừu tượng, giá trị tư tưởng và nghệ thuật, …

* về cách làm bài: chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp thuyết minh như: phương pháp định nghĩa, phương pháp phân loại, phương pháp so sánh, … về cấu trúc, bài văn phải có cấu trúc. theo một trình tự hợp lí: lần lượt thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du, xuất xứ, thể loại, tóm tắt, giá trị nội dung và nghệ thuật của “truyện kí”. chúng ta phải kết hợp giữa tự sự và biểu cảm để làm cho bài văn sinh động hơn.

1. mở đầu

– giới thiệu tác giả nguyễn du: đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

– Giới thiệu về “truyện kiều”: là kiệt tác của Nguyễn Du, là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

2. nội dung bài đăng

a) về nguyen du:

– cuộc sống:

  • tên, bí danh, năm sinh, năm mất: tên là Tế tử, biệt hiệu là thanh hiền, sinh năm dậu (1765), mất năm ngọ (1820).
  • quê quán: quê cha ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; quê mẹ ở bắc ninh, nhưng sinh ở thăng long. nhờ đó, nguyễn du dễ dàng tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa.
  • gia đình: đại quý tộc, nhiều đời làm quan lớn, có truyền thống làm thơ và say mê ca hát.

> Thời đại: Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động dữ dội của xã hội phong kiến.

  • Cuộc đời: Đầy bi kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cha mẹ. cha mẹ, phải sống với anh trai es nguyen khan. gia đình ly tán, bản thân anh đã phiêu bạt “mười năm gió bụi” ở quê vợ Thái Bình. Nhưng chính những vất vả, gian khổ đó đã rèn cho ông vốn sống quý báu và vốn hiểu biết sâu rộng về văn học dân gian.
  • Nguyễn Du làm quan dưới hai triều đại Lê và Nguyễn. ông là một vị quan thanh liêm, được nhân dân yêu mến, kính trọng.
  • – sự nghiệp văn học đồ sộ với những kiệt tác ở nhiều thể loại:

    + Tác phẩm Văn học của Nguyễn Du: Thơ chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập thơ (thanh hiền thi tập, nam trung tâm tạp, tú tài tạp lục). thơ nôm, nguyễn du có hai kiệt tác “kiều truyện” và “văn học mười loại chúng sinh”.

    + nội dung:

    – Thơ văn nguyễn du có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh cuộc đời khốn khó của ông nói riêng và xã hội đen tối, bất công nói chung.

    – Những tác phẩm của Nguyễn Du mang đậm tinh thần nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo cấp thiết, luôn hướng tới sự đồng cảm, bênh vực, ca ngợi và đòi quyền sống của con người, đặc biệt là những người phụ nữ tài sắc. hoa nhưng số phận.

    + nghệ thuật:

    – Về thể loại: nguyễn du đã đưa hai thể thơ truyền thống dân tộc lên tầm điêu luyện và điển cố.

    <3

    – Về ngôn ngữ: nguyễn du đã có đóng góp to lớn, làm cho tiếng Việt trong sáng, tinh tế và phong phú.

    nguyễn du đã có những đóng góp to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của văn học Việt Nam.

    b) giới thiệu về “truyện kieu”

    – tên: tân thanh trường (tiếng kêu mới vỡ lẽ).

    – dung lượng: 3254 câu thơ lục bát.

    – xuất xứ: “truyện kiều” được sáng tác từ cốt truyện “kim văn kiều truyện”, một tiểu thuyết của thanh tâm tài nữ (Trung Quốc). Nguyễn du đã “chuyển thể chất chứa thai” vào trong tác phẩm Thanh tâm tài sắc, đồng thời mang đến những sáng tạo mới cho truyện “kiều” cả về nội dung và nghệ thuật.

    – thể loại: truyện đề cử hàn lâm.

    – tóm tắt ngắn gọn về công việc.

    – giá trị tư tưởng:

    • thể hiện khát vọng yêu tự do và ước mơ công lý.
    • Là tiếng kêu đau lòng cho thân phận con người, nhất là một tài nữ trong một xã hội đa dâm. kiến.
    • là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cổ đại. nguyễn du phê phán mạnh mẽ sự “lên ngôi” của thế lực đồng tiền.
    • đó là bức chân dung tự họa của nguyễn du với “tấm lòng thấu sáu cõi, tấm lòng suy nghĩ ngàn đời”, một trái tim chan chứa tình người.

    – giá trị nghệ thuật:

    • nghệ thuật xây dựng nhân vật.
    • nghệ thuật trần thuật mới.
    • thể loại.
    • đào tạo ngôn ngữ đơn giản, điêu khắc, gợi cảm, ẩn dụ, cổ điển, …
    • giọng điệu thương cảm rất phù hợp với chủ nghĩa nhân văn của bản du ký.

    3. kết thúc

    – khẳng định tấm lòng nhân đạo, tài năng của Nguyễn Du và sức sống bất diệt của truyện Kiều.

    tường thuật về tác giả nguyễn tuấn

    Nguyễn tuấn (1910-1987) là nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam, người mở đường cho nền văn học mới. Con người và sự nghiệp văn học của nguyenobedecen với phong cách nổi bật, tài hoa và uyên bác đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

    nguyen tuan sinh ra tại Nhân Mục, Thị trấn Thường Định, nay là khu phố Chính Nhân, Huyện Thanh Xuân – Hà Nội. sinh ra trong một gia đình Nho học khi đã học xong. Cha ruột của Nguyễn Tuân là Nguyễn An Lân, tốt nghiệp Hán học. một nhà Nho tài năng và bất đắc dĩ đã có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và phong cách phục tùng nhà Nguyễn.

    Anh học đến hết giai đoạn phổ thông thì bị đuổi học vì tham gia một cuộc bãi công của lớp học chống lại những giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam. Năm 1930, do “di chuyển” không phép từ Lào sang Thái Lan, ông bị bắt giam. Sau khi ra tù, ông bắt đầu sự nghiệp viết báo của mình bằng cách viết báo và viết báo. nhưng ông chỉ thực sự nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm Chuyến đi, một thời oanh liệt… đến năm 1941, ông lại bị bắt vì giao du với các nhà hoạt động chính trị. Sau cách mạng tháng Tám, Nguyễn tuẫn trở thành nhà văn tiêu biểu hết lòng phụng sự nhân dân, kháng chiến, làm Tổng thư ký Hội văn học nghệ thuật Việt Nam từ năm 1948 đến năm 1958, mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội. Với những đóng góp to lớn và có giá trị cho nền văn học nước nhà, năm 1996, Nhà nước đã truy tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.

    Người đàn ông Nguyễn tuấn là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, những kiệt tác văn học trung đại, những lời ca tiếng hát của mỗi đất nước, những món ăn dân dã, dân dã… ở Nguyễn tuấn, ý thức cá nhân được phát triển cao. với anh, viết văn là thể hiện cái tôi một cách phi thường. ông là một người rất tài năng và uyên bác, có kiến ​​thức sâu rộng về nhiều ngành khoa học và nghệ thuật. ông cũng là một nhà văn thực sự coi trọng nghề nghiệp của mình, coi nghệ thuật như một hình thức lao động vô cùng nghiêm túc, thậm chí nghệ thuật còn là một kẻ khổ hạnh (khốn nạn). Những đặc điểm này của Nguyên là do ảnh hưởng rất nhiều đến phong cách nghệ thuật của anh.

    Nguyễn tuấn thử bút ở nhiều thể loại truyện ngắn, hiện thực trào phúng, thơ, nhưng phải đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công với: một cuộc hành trình (1938); vô gia cư (1940), Chiếc lọ đồng mắt cua (1941). Sự nghiệp của ông có thể được chia thành hai giai đoạn khá rõ ràng trước và sau cách mạng tháng Tám, từ một nhà văn lãng mạn trở thành một nhà văn cách mạng.

    Trước cách mạng, nguyễn tuấn đã sáng tác xoay quanh ba chủ đề chính: “dời non” thể hiện cái tôi lãng mạn của nhà thơ theo bước chân anh qua những vùng quê để tìm cảm giác mới, thực đơn “lựa chọn thay thế cho các giác quan”. Tuy nguyễn tuấn kiệt đến “như một phản ứng bất lực với thời cuộc, nhưng với chủ đề này, ông đã biết thể hiện phong cảnh, hương sắc quê hương bằng ngòi bút đầy tình cảm và tài hoa, qua đó nhà văn thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của mình. . trong tác phẩm của mình: một chuyến đi, “quê hương đã mất …”.

    Trong chủ đề “vang bóng một thời”, nhà văn tìm kiếm và làm sống lại những nét đẹp độc đáo của một thời xa xưa với những phong tục văn hóa, những sinh hoạt nhàn hạ thanh tao, gắn liền với những bậc hiền tài và bất đắc dĩ của tầng lớp nho sĩ. những sáng tác này một cách kín đáo và cẩn trọng thể hiện tình yêu và sự trân trọng đối với những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. tác phẩm chính là tập hợp những câu chuyện gây tiếng vang một thời.

    chủ đề về cuộc sống, tâm trạng bi quan của một cái tôi hoang mang và trì trệ, cố thoát ra trong âm nhạc, rượu và thuốc phiện, qua đó ta thấy được tâm trạng khủng hoảng của lớp thanh niên đương thời. . nhưng đôi khi “khao khát về một thế giới trong sáng, cao quý, được nâng đỡ bởi những đôi cánh của nghệ thuật” vẫn trỗi dậy. tác phẩm chính là chiếc lọ mắt cua đồng, ngọn đèn dầu lạc …

    Sau cách mạng, lòng yêu nước và sự bất mãn với chế độ thực dân đã khiến họ Nguyễn phải tuân theo cách mạng và kháng chiến. các sáng tác của ông trong thời kỳ này tập trung phản ánh hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tôn vinh quê hương đất nước, ca ngợi những anh hùng, tài năng trong đấu tranh và sản xuất. Tác phẩm: Con đường hạnh phúc (1949), Chiến dịch tình yêu (1950), Hà Nội, Chúng ta đánh bại tôi tốt (1972), Sông Đà (1960).

    Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn tuấn cũng có một phong cách nghệ thuật riêng thể hiện ở tài năng và sự uyên bác.

    Trước cách mạng, nguyễn tuấn được biết đến là một nhà văn có óc thẩm mỹ. đánh giá cao và đánh giá cao cái đẹp. đối với ông, cái đẹp chỉ tồn tại trong thời cổ đại, vì vậy ông tìm kiếm và làm sống lại những cái đẹp của quá khứ và phê phán và bác bỏ xã hội về mặt văn hóa. Nguyễn tuân theo quan niệm xã hội đương thời là “xã hội máy móc giết chết cái đẹp”. ông cũng nhìn người ở khía cạnh tài hoa, nghệ sĩ và tập trung khắc họa những nhà Nho tài năng, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh. các nhân vật của ông trong thời kỳ này đều có dáng dấp của những con người “đặc biệt”. Nguyễn Tuân đang đi tìm một cảm giác mới, “nguồn sống đang xô đẩy lối ra (mái tóc của nàng lúc nào cũng vậy) trong sự ‘chuyển động’ và hoang dại.

    có lối viết tự do, phóng khoáng, vừa xúc động, vừa cổ trang, vừa trẻ trung, hiện đại, không chỉ sử dụng ngôn ngữ văn học phong phú mà còn vận dụng kiến ​​thức của nhiều môn nghệ thuật, khoa học khác như hội họa, điện ảnh, âm nhạc, quân sự, võ thuật. Nghệ thuật. … để gợi hình ảnh, mang đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị.

    Sau cách mạng, ông tiếp tục khẳng định tài năng và sự uyên bác của mình nhưng cũng có những chuyển biến rõ rệt. ông cũng nhìn con người về phương diện văn hóa, nhưng nguyễn tuấn không còn đối lập với quá khứ và hiện tại mà tìm thấy hơi ấm của cuộc sống. vẻ đẹp không chỉ hiện hữu trong ngày xưa mà còn trong thiên nhiên, trong cuộc sống lao động, sản xuất và chiến đấu. tài năng nghệ thuật không chỉ có ở những con người đặc biệt, mà còn ở quần chúng bình dân, ngay cả trong các ngành nghề của họ như bộ đội, dân quân, lái đò sông nước. ông cũng không phản đối cái phi thường với cái bình thường nữa. tài năng xen lẫn những suy nghĩ rất giản dị, rất con người. giọng điệu không còn bác bỏ mà chỉ ném thẳng vào mặt kẻ thù để trộm cắp, buôn bán và những mặt tiêu cực khác của xã hội.

    Với những đặc điểm độc đáo và khác biệt nêu trên, nguyễn tuấn đến với thể loại văn chính luận là tất yếu và có công đưa bút pháp lên hàng đầu. vì lý do này, ông được gọi là “vua” của thể loại tiểu luận. Bài văn tế của Nguyễn Tuân cũng đã thể hiện rõ nét phong cách phóng khoáng của ông. những sáng tác này giàu thông tin và có tính thời sự cao, mang nhiều yếu tố lịch sử. nhà văn đã

    được xây dựng có cốt lõi là các sự kiện, các nhân vật được miêu tả kỹ lưỡng, có cá tính riêng, đi sâu vào tâm lý. lời văn thoải mái pha trộn giữa triết lí và nghị luận trữ tình. Qua đó ta thấy được tâm hồn tự do, trí tưởng tượng bất ngờ, táo bạo của nhà văn không tồn tại ở trạng thái tĩnh mà nhìn vào chiều sâu của thời gian và chiều rộng của không gian. Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân phong phú, đa dạng, thể hiện một mặt tâm tình trữ tình của một cái tôi trẻ trung, hiện đại, bác học; mặt khác thể hiện sự tinh tế, giàu cảm xúc thẩm mỹ, đầy chất thơ và khả năng nhào nặn. câu kéo dài nhịp nhàng.

    nguyen tuan là một nhà văn dành cả cuộc đời để tìm kiếm và khẳng định cái đẹp, một nét nghệ sĩ. ông đã có đóng góp to lớn trong việc hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là thể loại chính luận. xứng đáng là nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc.

    tường thuật về tác giả văn học – nguyễn du

    tường thuật về nhà văn nguyễn du – văn mẫu 1

    “Vô tình, ba trăm năm sau thiên hà, mọi người thích trở thành người như thế nào?”

    Đó là cảm xúc của một người có trái tim muốn bao dung mọi thứ khi viết về một thiếu nữ tài năng nhưng kém may mắn. Và tất nhiên, trong tâm trí của người đó cũng có một nỗi sợ vô hình, sợ bị lãng quên, sợ bị bỏ rơi, vì cũng là người tài giỏi nhưng cuộc đời cũng bấp bênh. Con người tài hoa ấy chính là Nguyễn Du, đại thi hào của nền văn học Việt Nam và thế giới.

    Nguyên du (1765 – 1820) là một công tử tự, tên hiệu là thanh hiền, hiệu là hồng sơn lapho hay nam hải điểu, sinh tại làng Tiền Điện, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, a mảnh đất giàu truyền thống văn hiến, mảnh đất hiền tài, cũng là quê hương của nhiều trí thức Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc lớn và có truyền thống văn học. thân sinh là Tiến sĩ Trạng nguyên, làm quan đến chức Đại tư đồ, Tể tướng. mẹ cô ấy là cô ấy. Trần thị tân, con gái một người nối nghiệp, ở kinh bắc, tỉnh bắc ninh ngày nay. Nguyễn du chịu ảnh hưởng của giọng hát quan họ ngọt ngào của quê hương mà ta vẫn thấy xuất hiện nhiều trong các sáng tác của ông. quê hương, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn và tạo mảnh đất màu mỡ để tài năng của Nguyễn Du phát huy trong thời niên thiếu.

    Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động khi chế độ phong kiến ​​đang khủng hoảng trầm trọng và đang trên đà suy tàn, sụp đổ. Các nhóm phong kiến ​​le-trinh-nguyen tranh giành quyền lực, dẫn đến các cuộc nội chiến kéo dài. giai cấp thống trị thối nát, thối nát và tàn bạo. tiếp đến là cuộc sống khốn khó của người dân khi phải oằn mình với những thứ thuế vô lý, những luật lệ hà khắc đã làm tan nát biết bao gia đình. Và hệ quả tất yếu của áp bức, áp bức là vũ bão của các cuộc nổi dậy của nông dân, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn do người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ lãnh đạo. Đạo đức suy đồi, các tôn giáo phong kiến ​​sụp đổ, tiền bạc trở thành vật trao đổi cho mọi giá trị, khiến giới trí thức hoàn toàn mất niềm tin vào chế độ phong kiến. Chính những biến động lịch sử đó đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và tư tưởng của Nguyễn Du. anh đồng cảm với tất cả những mảnh đời bất hạnh, dù họ là ai, xuất thân của họ ra sao. Tôi càng thấy tiếc cho những người tài, những người hâm mộ đã mất, những con người thù hận với chính chế độ mà họ đã hết lòng ủng hộ. Cũng dễ hiểu thôi, bởi chế độ phong kiến ​​đã trải qua những ngày hoàng kim thịnh trị và giờ đã đến lúc nó bộc lộ bản chất thối nát. sự phát triển của chế độ phong kiến ​​không còn phù hợp với sự phát triển nhận thức của giới trí thức đương thời nên sẽ sụp đổ và được thay thế bằng một chế độ khác đầy đủ hơn.

    Bản thân nguyen du là người thông minh, học giỏi, hiểu biết rộng. Sinh ra trong một gia đình quý tộc lớn, cha và anh đều làm quan lớn dưới triều Nguyễn nên đến năm 11 tuổi, Nguyễn Du vẫn sống trong cảnh giàu sang, sung túc. Đây là thời điểm Nguyễn Du chứng kiến ​​cảnh chúa Nguyễn sụp đổ, những cuộc tranh giành, tranh giành chức quan nên ông nhận thức rõ nếp sống, lễ nghi của tầng lớp quý tộc đương thời. càng nhận ra rõ ràng, anh càng ghét nó. Tuy nhiên, sau thời kỳ đó, cuộc đời Nguyễn Du có những thăng trầm, thăng trầm theo những biến động của lịch sử. Năm 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên bà thấu hiểu nỗi đau mất mát của những đứa trẻ bơ vơ không cha không mẹ. Đặc biệt là khoảng thời gian “mười năm sương gió” (1776 – 1786) là quãng thời gian Nguyễn Du sống lang bạt, ăn bám, ở rể. Đây cũng là những năm tháng cơ cực, cực khổ và tủi nhục trong suốt cuộc đời của Nguyễn Du, đói không ăn, rét không mặc. anh bị đày ải, bơ vơ giữa cuộc đời đầy sóng gió. những dòng anh viết trong thời gian này là những day dứt, trăn trở của một người nuôi lòng mình, khi ước nguyện chưa thành, chưa làm được gì vẻ vang mà tóc đã bạc trắng:

    “Mười năm đầy quê hương lưu lạc nơi xứ người tóc đã điểm sương”

    Tuy nhiên, mười năm chìm nổi trên đất Bắc cũng là quãng thời gian anh đi nhiều, tiếp xúc với đủ loại người. Nguyễn du đã sống gần gũi với nhân dân, ông đã chứng kiến ​​cuộc sống cơ cực, khốn khổ của họ dưới sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Anh thấu hiểu và chia sẻ nỗi đau của mười loại chúng sinh, từ những người khôn ngoan, giàu có cho đến những người lao động nhỏ bé bất hạnh. đặc biệt là trẻ em và phụ nữ. Dù họ là ai, khi chết đi, họ chỉ là những tâm hồn cô đơn, bé nhỏ, tội nghiệp. có lẽ mười năm gió bụi là quãng thời gian mang đến cho Nguyễn Du những trải nghiệm hoàn toàn khác với cuộc sống giàu sang phú quý thuở thiếu thời để rồi có cuộc sống phong phú mở lòng với mọi người. Những khó khăn, thăng trầm trong suốt mười năm ấy chỉ là bàn đạp để Nguyễn Du có tầm nhìn vượt qua những cạnh tranh và rào cản trong nhận thức bản thể học của mình để đưa tình yêu vượt lên trên những định kiến ​​hạn hẹp của chế độ. tiếp cận bằng trái tim bao la của một vĩ nhân.

    tường thuật về nhà văn nguyễn du – mẫu 2

    những cảm xúc cũ tưởng rằng tình yêu dẫu có lìa xa vẫn còn tim kẻ nhắm mắt xuôi tay, ai biết ai sẽ khóc trong hậu thế cùng nhân tố?

    (cho huu – kính chào ông nguyễn du)

    Gần ba thế kỷ đã trôi qua, nhưng những vần thơ đẫm nước mắt, đầy tình người của Nguyễn Du vẫn sống mãi. Tác phẩm của nguyễn du thể hiện sự u uất, thổn thức và cảm giác bất an.

    Nguyễn Du được coi là một thiên tài, một danh nhân văn hóa không chỉ của Việt Nam mà của cả nhân loại. nói đến nguyễn du, chúng ta không thể không nói đến một trái tim luôn đau đáu. tất cả những đau đớn, khổ sở của kiếp người cộng hưởng có thể khiến trái tim ấy rỉ máu. Từ đó, Nguyễn Du đã viết nên những dòng thơ xúc động thấm đẫm tình người. trong cuộc đời, ông cũng trải qua nhiều xung đột và biến cố, do đó ông đã bắt đầu viết nên kiệt tác truyện hải ngoại:

    Trải qua một sự cố về những lần chứng kiến ​​đau đớn.

    nguyễn du sinh năm 1765, mất năm 1820, hiệu là nhu, quê ở Tiên. dien, nghi xuan, ha tinh. ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc phong kiến ​​có truyền thống khoa bảng và văn học ở Thăng Long. Năm 1802, ông được cử sang Trung Quốc lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì bị ốm và qua đời. Ông đã để lại cho văn học và đất nước một sự nghiệp văn học vĩ đại, trong đó những câu chuyện hải ngoại xứng đáng là niềm tự hào của dân tộc ta.

    Cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với nhiều biến động lịch sử: chế độ phong kiến ​​lâm vào khủng hoảng trầm trọng, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. ông đã trải qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, sống xa hoa, quyền quý, khi phiêu bạt gió bụi nơi đất khách quê người. nhờ vậy anh đã tích lũy được vốn sống phong phú và học được tiếng của đồng bào. Đó phải chăng là cơ sở của tư tưởng nhân đạo trong thơ Nguyễn Du?

    đọc và tìm hiểu những sáng tác của nguyễn du, ta sẽ thấy ông càng thương những con người trong cảnh dâu bể trước những đổi thay trớ trêu của cuộc đời. Đó là những lúc mà thân phận con người trở nên mong manh, bị lạm dụng và chà đạp. cả xã hội phong kiến ​​và số phận mù quáng đã rủ nhau hành hạ con người. nhưng trong cảnh dâu bể khác, thân phận bi thảm tiêu biểu nhất lại là những người tài hoa. họ như hoa nở trong giông tố, người nổi tiếng cũng trở thành nạn nhân, vàng ngọc cũng bị coi là bùn.

    <3

    người tuổi kim rất ghét những khó khăn tự nhiên, những điều không may mắn, những điều không công bằng.

    (đọc ký tự phụ)

    Ông luôn thể hiện nỗi đau của mình với sự phẫn nộ trước những kiếp người thấp hèn, trước sự thất bại của cái thiện và cái đẹp. trong trái tim bao la của nó, ta thấy rằng phần thân thiết nhất luôn dành cho số phận bi thảm của những người tài sắc vẹn toàn, nhất là những người phụ nữ. họ là những nạn nhân bất hạnh nhất của cuộc đời đầy sói, nhiều biến này.

    đó là dam tien đã “nổi tiếng tài hoa một thời” nhưng phải chịu cảnh “sống kiếp làm vợ thiên hạ” để rồi “giữa thanh xuân đã bẻ cành thiên lý” và Cuối cùng, chỉ còn lại “nấm của đất”. đó là thanh phụ “có trang điểm một chút mà vẫn căm thù: văn chương không có nghĩa là thiêu thân còn vương”. tiêu biểu nhất là thuy kiều, “thành tài thì phải nhờ một tài, song rút phải hai” nhưng lại phải chịu đựng một cuộc đời lao đao và chết chìm, “thanh lau hai lần, thanh hai lần”, muốn thoát khỏi. một cuộc đời ô nhục, cô lại bị chà đạp. càng sâu, càng bế tắc … tất cả những người phụ nữ tài sắc và kém may mắn ấy đều được nguyễn du tóm gọn trong hai câu thơ đẫm máu đúc kết quy luật nham hiểm của cuộc đời:

    Phụ nữ có đau đớn khi biết mình sinh ra ở đâu không?

    (viết nhạc)

    Viết về những con người ấy, Nguyễn Du thể hiện tấm lòng thương dân nhưng đó cũng là tình cảm của những người bạn tri kỉ, những người cùng hội cùng thuyền, cùng bệnh. Nguyễn du tìm thấy mình trong họ, cô ấy tìm thấy họ trong chính mình. nên lời nói của anh ấy là chân thành tận đáy lòng. ông đã truyền tất cả nỗi đau của trái tim mình vào những bài viết của mình để tạo nên “những vần thơ rung động trời đất”.

    tường thuật về nhà văn nguyễn du – văn mẫu 3

    Văn học Việt Nam được sáng tạo bởi nhiều tài năng lớn. trong số đó, Nguyễn Du luôn xứng đáng là tiêu biểu xuất sắc nhất của văn học dân tộc mọi thời đại.

    Nguyễn Du tên tử là Thanh Hiên, quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh nhưng sinh ra ở Thăng Long ngày 25 tháng 11 năm Ất Dậu (3 tháng 11 năm 1765). . Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc lớn, làm quan, nhiều quan văn, cha là Nguyễn Nghiễm, tể tướng nhà Lê, mẹ là Trần Thị Tần, vợ thứ ba của cha. Xuất thân từ một gia đình bình dân ở Bắc Ninh, hát rất hay, Nguyễn Du đã sớm thừa hưởng những truyền thống tốt đẹp của dòng họ.

    cuộc đời nhà thơ nhiều thăng trầm. Sau những năm tháng êm đềm và hạnh phúc của tuổi thơ, năm 10 tuổi, tang tóc bắt đầu ập đến: cha mất, hai năm sau mẹ cũng qua đời. nguyen du phải sống với người anh cùng cha khác mẹ là nguyen khan. Năm 19 tuổi, Nguyễn Dư Thị Hương đỗ Tam trường, rồi làm quan đến chức võ Thái Nguyên. Năm 1789, nhà lê nghĩa sụp đổ, Nguyễn Du trốn về quê vợ ở Thái Bình, rồi về sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. đây là “mười năm gió bụi” của nhà thơ, một cuộc đời rất dài và đau khổ.

    năm 1802 nhà Nguyễn được thành lập, Nguyễn Du miễn cưỡng từ chối và bị ép làm quan. nơi đây từng là tri huyện, phủ ba chính quy và tổng đốc Quảng Bình. Sau đó, năm 1813, ông được thăng chức Tham tri phủ sứ và được cử sang Trung Quốc làm chánh sứ. sau khi về nước được thăng làm Lễ. Năm 1820, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng 8, ông đột ngột qua đời trong một trận dịch lớn.

    Trong cuộc đời đầy biến động của mình, Nguyễn Du đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học vô giá: đồ sộ về số lượng, sâu sắc về nội dung, đặc sắc về nghệ thuật thể hiện. Nguyên du ghép bằng cả chữ Hán và danh mục. thơ han gồm ba tập: thanh hiền thi tập, được thực hiện khi nhà thơ đang sống ở quê vợ, thái bình và nghi xuân; Nam Trung tam kiệt viết thời Nguyễn Du làm quan ở Quảng Bình; bac hanh tap luc là tuyển tập thơ chữ Hán hay nhất, tuyển tập những sáng tác ra đời trong lúc nguyễn du đang đi du lịch Trung Quốc.

    Trong những tập thơ này, có nhiều bài thơ đặc sắc: độc truyện thanh ký, sở xây dựng, long thành cẩm giả ca, thái bình mai ca gia. về thơ văn, nguyễn du đã để lại một kiệt tác truyện kiều và một tác phẩm rất nổi tiếng: “Văn tế thập loại chúng sinh”.

    Những sáng tác của Nguyễn Du trên hết thể hiện khả năng bao quát hiện thực và sự nhạy bén trước những vấn đề lớn lao của con người và thời đại. Hiện thực cuộc sống với bao điều đau thương đã được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực và xúc động. Trên nền tảng suy tư ấy, người đọc cũng có thể thấy được ý thức phản kháng xã hội và đặc biệt là ý thức khẳng định của nhà thơ, ý thức nuôi dưỡng cuộc sống hạnh phúc của con người cho nhà thơ.

    trái tim của đại thi hào luôn thao thức với những nỗi buồn, niềm vui của nhân dân khắp nơi: từ một ca sĩ tài hoa nổi tiếng của đất long thành nay ăn năn trong cảnh chiều tà (long thành cầm thềm. cá); của một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn ngoại quốc sống cuộc đời bất hạnh (truyện kiều); đến người hát rong (thương mại thái bình), đến người ăn mày (sở hành nghề), đến những tâm hồn nghèo khổ phiêu bạt khắp trời đất (văn chương… vạn vật hiện ra). Hơn ai hết, Nguyễn Du là nhà văn học hiện thực và nhân đạo lớn của mọi thời đại với con mắt nhìn thấu sáu nước và tấm lòng suy nghĩ ngàn đời.

    không chỉ vậy, sáng tác của Nguyễn Du còn là bằng chứng của một nghệ thuật đã đạt đến trình độ điêu luyện của một tài năng kiệt xuất. ngôn ngữ văn học, đặc biệt là tiếng Việt, đạt đến đỉnh cao của sự trôi chảy, tinh tế và tự nhiên, có khả năng thể hiện sâu sắc đời sống và nội tâm con người. nó cũng là thứ ngôn ngữ kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ hàn lâm với ngôn ngữ bình dân, tạo ra nhiều cách diễn đạt đa dạng và phong phú.

    nguyen du cũng đặc biệt thành công trong việc xây dựng nhân vật. ông đã để lại nhiều tấm gương nhân vật bất hủ trong nền văn học dân tộc. vươn tới thế giới nội tâm con người với bao biến thái tinh vi, phức tạp dường như mới được khám phá trọn vẹn trong chiều sâu vô tận của nó. Tác phẩm của Nguyễn Du có thể nói đã đạt đến mẫu mực của nghệ thuật tuồng.

    Cuộc đời hơn năm mươi năm sống giữa thiên hạ của Nguyễn Du, dẫu có nhiều bi kịch cay đắng, có lúc mất phương hướng trước những cơn lốc của lịch sử, nhưng trước sau, Nguyễn Du vẫn là một con người có tài, có tâm. người luôn chứa chan tình yêu thương và nỗi buồn vô hạn cho mọi mảnh đời bất hạnh trên thế giới. Nguyễn du là một tài năng, một tâm hồn sáng mãi với thời gian.

    tường thuật về tác giả văn học – nguyễn đình chiểu

    tường thuật về nhà văn nguyễn đình chiểu – văn mẫu 1

    nguyen dinh chieu, auto strong trach, tên chính thức trong phu, hoi trai, sinh ngày 01-07-1822 tại làng tân thời, huyện bình dương, tỉnh gia định, nay thuộc kho, quận 1, thành phố. Hồ Chí Minh thân sinh của nhà thơ là cụ Nguyễn Đình Huy, quê ở xã Bố Điện, huyện Phong Điện, tỉnh Thừa Thiên, tức là Trạng nguyên Lê Văn Quyển. mẹ là truong thi thu, gia dinh.

    Thời niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu đã chứng kiến ​​những bộn bề của xã hội lúc bấy giờ. Triều đình đàn áp các cuộc nổi dậy của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khố ở Gia Định. cuộc nổi dậy này đã gây ra những cơn bão tố khủng khiếp trực tiếp cho gia đình Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Huy trốn vào Huế, bị đuổi việc, rồi trở về Nam đón Nguyễn Đình Chiểu để gửi cho một người bạn học. Tám năm sống ở Huế giúp ông nhận thức rõ hơn sự thối nát, phức tạp của chốn cung đình, đồng thời ông có điều kiện tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc nơi đất Cố đô.

    Năm 1843, ông thi đỗ Trạng nguyên tại trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông về Huế học, chờ kỳ thi năm Kỉ Dậu (1849), chưa kịp thi thì được tin mẹ mất. trên đường về quê chịu tang mẹ, vì quá đau buồn và khóc lóc nên anh bị ốm, mù cả hai mắt.

    Khi về Gia Định, sau khi hết tang mẹ, ông tổ chức dạy học, làm thuốc và làm thơ. Nhờ sống với người dân, anh đã có thể hiểu sâu sắc hơn về con người của mình. Chính trong thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ Lục Vân Tiên đầu tiên. tác phẩm đề cập đến các vấn đề đạo đức trong đời sống thực, mang đậm dấu ấn tự truyện, có sức lan tỏa nhanh chóng. một trong những học trò của ông, Lê tang quynh, kính trọng tài năng và nhân cách của ông và đồng cảm với hoàn cảnh của thầy mình, đã kết hôn với em gái của ông là Lê Thị Điên. Ngày 17 tháng 2 năm 1858, giặc Pháp chiếm thành Gia Định. Anh và gia đình chạy về quê vợ ở làng thanh ba, huyện cần cẩu. cũng chính tại đây, ông đã sáng tác nên tác phẩm văn học bất hủ, văn chương nhân ái, ca ngợi chiến công anh dũng của “dân làng kỳ lân” trong cuộc tấn công đồn Tây, trong đó người bạn cùng lớp của ông là Trinh diao bị giết cùng với 7 nghĩa quân khác. . Tác phẩm “Yết hầu – hà mai” cũng được sáng tác tại đây, dài 3.448 câu thơ với nội dung phê phán âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ thù, lên án những kẻ thờ ơ, vô trách nhiệm trước cảnh nước mất, nhà tan.

    khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng địch chiếm đóng, cụ Nguyễn Đình Chiêu cùng gia đình lên đường về thôn An đức, tổng an ninh, tỉnh vinh long, nay là huyện ba tri. , tỉnh bến tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân, đồng thời giữ mối quan hệ mật thiết với các sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến. Khi biết tin Trương Định mất (ngày 19 tháng 8 năm 1864), nhà thơ đã xúc động, viết bài văn tế và mười hai bài thơ liên tiếp về người anh hùng. Mười bài thơ của bác sĩ binh phan, người hy sinh trong trận đánh gạch (1868), vốn là một nhà sư và một người bạn thân của ông, lời lẽ rất đau thương, có những câu thơ thiết tha như một lời thề khắc trên đá: tinh thần hai chữ hòa sương tuyết, tinh thần ngàn thu núi rừng. khi Phan Thanh giai uống thuốc độc tự tử sau khi mất ba tỉnh miền Tây, ông đã viết thơ về họ với hàm ý ít nhiều phê phán.

    Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những bài thơ bi tráng nhất, tiếc thương đồng bào, bạn bè, đồng chí đã ngã xuống vì sự nghiệp độc lập, tự do của đất nước. làm nổi bật ngòi bút và văn chương của thi hào, các liệt sĩ trận mạc tỉnh sáng. tất cả tâm huyết của nhà thơ dường như dồn hết vào những cụm từ đau lòng: “lòng người hừng hực, giặc bóp mỡ hết tay”. người dân nơi đây kể rằng chính ông là người đã hy sinh cho các liệt sĩ của 6 tỉnh ngay trong chợ ba tri. khi đọc xong điếu văn, nước mắt ông trào ra và ông bất tỉnh.

    Vở kịch được viết vào giai đoạn cuối đời với lối viết cổ hơn và niềm tin sâu sắc hơn, đau đớn hơn trước viễn cảnh nước nhà “chìm nổi, rách nát” nhưng không tuyệt vọng.

    Bến tre không phải là nơi sinh của nhà thơ, nhưng đó là nơi danh dự mà ông đã chọn để ở, hoạt động trong 26 năm đầy biến cố phức tạp cuối đời và là nơi ông đã vĩnh viễn nằm lại xương máu. Người ta kể rằng trong ngày tang lễ của ông, toàn bộ Campo de Paz de Oriente, nay là An Đức, quét vôi trắng khăn tang của bạn bè, học trò, con cháu gần xa, những thân chủ đã được ông và nhân dân chữa bệnh. quanh vùng nhớ ơn anh, hay khâm phục và ngưỡng mộ một tâm hồn, một nhân cách cao cả.

    tường thuật về nhà văn nguyễn đình chiểu – văn mẫu 2

    Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có nhà thơ nào tài năng và đức độ như Nguyễn Đình Chiểu. ông là nhà thơ lớn của dân tộc ta với những tác phẩm văn học bất hủ thấm đẫm giá trị văn học Việt Nam.

    Nhà văn nguyễn đình chỉ (còn gọi là già đô đốc) sinh năm 1822 trong một gia đình phong kiến ​​ở làng tân thời, tỉnh gia định và mất năm 1888. Tuy là nhà thơ lớn của dân tộc nhưng cuộc đời của ông đã đầy khó khăn, thăng trầm. Là con trai đầu trong một gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ nên cuộc sống của anh từ nhỏ đã vất vả. Năm 11 tuổi, khi nam kỳ bận rộn, cha anh đã gửi anh đến Huế để ở cùng một người bạn. sau 8 năm tu học ở nơi này, anh trở vào nam lo đèn sách, chờ ngày thơ. năm 1843 ông đỗ tú tài chỉ có 21 năm. Năm 1846, ông về Huế học lễ. Ba năm sau, khi ngày thi đang đến gần, anh cũng nhận được tin mẹ anh đã qua đời. ông lập tức đi về phương nam để chịu tang mẹ, bỏ dở các kỳ thi. Trên đường về nhà, anh ta bị ốm. Do đường xa, trời nắng nóng, bệnh tình của anh ngày càng nặng thêm nỗi đau mất mẹ, khóc quá nhiều nên anh bị mù cả hai mắt. nên ước mơ danh lợi chưa thành, thân tàn ma dại. nghĩ về tương lai, cuộc đời anh đến đây là kết thúc, cánh cửa cuộc đời coi như khép lại. tuy nhiên, anh quyết không đầu hàng số phận, bằng chính nghị lực và ý chí của mình, anh đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ, biến nỗi đau thành động lực để tiếp tục phấn đấu và làm chủ số phận của mình. sau đó trở về Gia Định vừa dạy học vừa bốc thuốc chữa bệnh cho mọi người.

    Cuộc đời của ông là một tấm gương sáng về lòng yêu nước, bất khuất trước kẻ thù. Dù không được nhìn thấy ánh sáng và không được trực tiếp tham gia kháng chiến chống giặc ngoài chiến trường, nhưng ông luôn bàn việc nước với tổng đốc và trao đổi thư từ với Trương Định. Khi tản cư về Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn nói chuyện với các chí sĩ yêu nước và thường sáng tác thơ văn phục vụ kháng chiến, khích lệ tinh thần chiến đấu của các binh sĩ hải ngoại sau khi tan học. dù nhiều lần bị thực dân Pháp dụ dỗ, mua chuộc nhưng ông luôn từ chối và tiếp tục tham gia kháng chiến.

    trước khi ra đi, Người đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm xuất sắc mang đậm tư tưởng đạo đức và bản sắc văn hóa dân tộc. những tác phẩm tiêu biểu như: “Đường tu-hà mau”, “Văn tế”, “Văn tế nghia cần giuộc”, … đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày nay. đặc biệt nhất là tác phẩm “văn tế” là một kiệt tác đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện còn là hình ảnh ẩn dụ của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc đời đầy sóng gió, trắc trở của Lục Vân Tiên cũng chính là cuộc đời của ông ở đời thực. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu, các nhân vật chính, phụ, phản diện hay nhân vật chính diện của truyện đều được ông khắc họa một cách tinh tế, mang những màu sắc rất đa dạng và phong phú. Các tác phẩm của anh truyền tải đến người đọc những giá trị đạo đức và luân lý trong cuộc sống.

    nguyen dinh chieu mãi mãi là nhà thơ lớn của dân tộc ta và những vần thơ của ông sẽ luôn có ảnh hưởng nhất định đối với dân tộc Việt Nam. Ông và những kiệt tác của ông sẽ luôn sống mãi trong lòng mọi người dân Việt Nam.

    tường thuật về nhà văn nguyễn đình chiểu – văn mẫu 3

    Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), hiệu là manh trạch, thực ở phủ. sau khi mù đi, nó còn lấy thêm tên là sám hối. Thân sinh là ông Nguyễn Đình Huy, quê ở Thừa Thiên Huế. mẹ là truong thi thu, gia dinh. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho học, ngay từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu đã được dạy chữ thiêng. Năm 1843, ông đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học để chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới.

    Năm 1849, trước khi vào trường thi, ông nhận được tin mẹ mất, ông phải từ chức để về nam chịu tang. Trên đường về nhà, một phần vì vất vả, một phần vì bệnh tật, một phần vì thương mẹ, anh Nguyễn Đình Chiểu đã khóc rất nhiều khiến anh bị đau nặng ở mắt và bị mù. kiên quyết với số phận bất hạnh của mình, ông đã mở trường dạy học và phát thuốc cho người nghèo; đồng thời sáng tác thơ văn bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm và bè lũ phong kiến ​​bán nước. Nguyễn Đình Chiểu đã giữ vững khí tiết của một nhà Nho chân chính và tấm lòng vì nước, vì dân cho đến hơi thở cuối cùng.

    Nguyên Đình Chiêu gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống cá nhân, thời trẻ, ông từng ôm ấp lý tưởng cao cả là minh quân, đó là phò vua, giúp nước thỏa chí nam nhi. nhưng tai họa ập xuống nặng nề, ngăn cản anh thực hiện lý tưởng đó. Mẹ anh mất, sự nghiệp dang dở, vợ tương lai thất hứa, bản thân anh bị mù … thật khó để một người bình thường có thể đương đầu với quá nhiều sự việc đáng tiếc liên tục xảy ra trong một thời gian ngắn. , nhưng nguyen dinh pm đã vượt qua tất cả bằng nghị lực phi thường, bằng tình yêu cuộc sống mãnh liệt.

    Có thể nói, cuộc đời của nhà thơ mù Đô đốc gắn bó mật thiết với cuộc đời của người dân lao động nghèo. ông vừa dạy chữ vừa dạy đạo lý làm người, đồng thời chữa khỏi bệnh cho thân và tâm của dân chúng. trái tim của Người đã đập theo nhịp tim của nhân dân, thể hiện sự đoàn kết, chia sẻ nỗi đau đớn, tủi nhục của áp bức, nô lệ trong hoàn cảnh đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm. nhờ đó, anh đã phát hiện ra những phẩm chất cao quý tiềm ẩn trong hình hài người lao động. tất cả những điều này tạo ra tầm cao trong suy nghĩ, cảm xúc và sự nghiệp sáng tạo của bạn. Tấm lòng nhân hậu bao dung sâu nặng của Nguyễn Đình Chiểu đã được đáp lại một cách chân thành và nồng hậu. người dân miền Nam dành cho anh một tình yêu thương và sự kính trọng đặc biệt. ngày anh vĩnh biệt tổ tiên, cả cánh đồng phủ khăn tang trắng của hàng nghìn người ngưỡng mộ. Tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu sẽ sống mãi trong lòng nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân cả nước nói chung.

    Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã khắc sâu và làm nổi bật hình ảnh những người dân lao động chân chất, chất phác mà ông hết lòng yêu mến, kính phục. hình ảnh người dân Nam Bộ trọng nghĩa, khinh tài kết tinh trong các nhân vật văn tiên, kiều diễm, hanh thông, tư chất…, trong nhân vật ông. ngu, mr. tieu mà mọi người đều biết. luc van tien anh dũng, hào hiệp: làm ơn, dễ thấy người ta trả ơn. Người đánh cá hết lòng cứu người lúc hoạn nạn: nhân từ, chờ trả ơn. kiều nguy nga là trinh nữ, trinh nữ … đây là những nhân vật tư tưởng của tác giả nhưng cũng là những hình tượng được người dân miền nam thời bấy giờ tôn thờ. Lịch sử thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của cộng đồng là vì lẽ đó. nội dung truyện thấm đẫm tư tưởng nhân văn khiến nó trở thành câu hát thường ngày của người miền nam. Đi đâu tôi cũng thấy hiện tượng người ta thích nghe thơ, kể thơ văn, vì trong đó có nhiều bài học đạo đức sâu sắc. Đằng sau câu chuyện tưởng như minh họa cho những tư tưởng và triết lý của Nho giáo này là những bài học đạo đức bảo vệ tình yêu vợ chồng, tình cha con, bạn bè, tình yêu thương, sự quan tâm, đùm bọc giữa vợ và chồng, giữa người với người. đó là đạo lý truyền thống xuất sắc của dân tộc đã có từ ngàn đời nay.

    tường thuật về tác giả văn học – nguyễn trai

    tường thuật về nhà văn nguyễn trai – mẫu 1

    Nguyên trai trong văn học Việt Nam thường được biết đến là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm thuộc các lĩnh vực khác nhau, nhưng ở lĩnh vực nào ông cũng để lại dấu ấn riêng với nhiều tác phẩm xuất sắc. Đồng thời trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi còn là một nhà chính trị quân sự lỗi lạc, tài ba, với học thức, tầm nhìn xa, lòng yêu nước sâu sắc, Nguyễn Trãi đã tham gia khởi nghĩa. lam con của le loi, trở thành cha đẻ của thế hệ đầu tiên của triều đại le le. Tuy nhiên, bản thân Nguyên trai lập nhiều công lao, đóng góp xây dựng đất nước trong nhiều năm nhưng phải chịu kết cục bi thảm, liên lụy đến tam tộc, điều này vẫn được các nhà sử học bàn luận nhiều lần cho đến ngày nay về sự kiện mang tên án oan này. thành viên. điều vẫn còn nhiều bí ẩn.

    Nguyên trai (1380-1442), hiệu uc trai, nguyên quán ở thôn chi chít, huyện phƣơng sơn, lộ giang (nay là huyện chí linh, tỉnh hải dương), sau đó gia đình dời về đình khê, xã tín, hà nội. Ông xuất thân trong một gia đình danh giá, hai bên gia đình đều có khoa bảng, văn chương, truyền thống yêu nước và nhiều đời làm quan nên ngay từ nhỏ, Trạng nguyên đã được học hành tử tế, làm nền tảng cho sự nghiệp của ông sau này. . Cha của Nguyên trai là Nguyễn Ứng Long (sau đổi là Nguyên phi khanh), ông là một người học giỏi, đỗ Thái học sinh và làm quan dưới triều Trần, mẹ là bà. nhân dân tệ. Tuy nhiên, cuộc đời của nguyễn trai tuy có vẻ trâm anh thế phiệt nhưng thực ra ngay từ nhỏ đã phải chịu nhiều đau thương mất mát, lên 5 tuổi thì mẹ mất, cha không tiếp tục một mình lặng lẽ nuôi con. . Năm 10 tuổi, ông nội Nguyễn Trãi, người thân cận và có nhiều ảnh hưởng trong cuộc đời Nguyễn Trãi cũng qua đời để lại cho ông nhiều tiếc thương. Nhưng chưa dừng lại ở đó, năm 1400 sau khi thi đỗ Thái học sinh dưới triều, hai cha con Nguyên trai lập chí phục vụ triều đại mới thì biến cố xảy ra. năm 1407, vương triều lấy cớ giang hồ chiếm ngôi trái phép, dẫn quân sang đàn áp, hồ đồ sụp đổ, bản thân Nguyên phi khanh bị giặc áp giải về sứ. Nguyễn Trãi muốn tiếp tục báo hiếu nhưng cha ông khuyên ông nên ở lại tìm cách trả thù cho nước và cho cha. Nguyễn Trãi vâng lệnh cha, từ biệt cha tại đèo Nam Quan. Lần chia tay này cũng là lần cuối cùng anh gặp lại cha mình. Nguyễn Trãi về với cha, quan nhà Minh chiêu mộ làm quan, nhưng với tấm lòng yêu nước sâu sắc và lòng tự tôn dân tộc, Nguyễn Trãi kiên quyết không đầu hàng giặc. Việc này khiến vua cha tức giận và định giết Nguyễn Trãi để tránh thêm tai họa, nhưng quan đại thần tiếc của Nguyễn Trãi nên ân xá và giam ông ở Đông Quan 10 năm. Trong suốt thời gian dài đó, không rõ Nguyễn Trãi đã làm được những gì, nhưng tương truyền rằng Nguyễn Trãi luôn canh cánh trong lòng để tìm ra một đội quân phò trợ, dẹp giặc, cứu nước. và có lẽ đã lâu, nghe tiếng lợi hại nên Nguyễn trai tìm cách trốn khỏi thành Đông Quan trở về chỉ huy sứ quân, tham gia nghĩa quân lam sơn, trở thành một nhà quân lược tài ba, giỏi thao lược. , có nhiều đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, cũng như xây dựng vương triều mới – vương triều hậu Lê. Sau chiến thắng vĩ đại trước quân xâm lược cuối năm 1427, đầu năm 1428, Nguyễn Trãi tuân lệnh của Lê Lợi soạn thảo đại cáo, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Đại Việt, có ý nghĩa chính trị sâu sắc. tuyên bố chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn trước 150 vạn đại quân, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự chủ cho đất nước, khẳng định sức mạnh, ý chí chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. tuy nhiên nhà Lê sau này mới thành lập chưa được bao lâu, nền tảng còn chưa vững chắc, khi Lê thái phi mất, triều đình khủng hoảng, nội bộ mâu thuẫn sâu sắc, một số vị tổ khai quốc. ông bị nghi ngờ có ý chuyên quyền, ham danh cao vọng trọng, thất sủng, trong đó có nguyễn trai không được tín nhiệm suốt 10 năm. Điều này làm cho Nguyên trai chán nản và bất đắc dĩ nên xin ở lại phủ con vào năm 1438. Năm 1439, vua Lê Thái Tông muốn mời ông ra giúp nước, Nguyên trai lại được vua tin tưởng. có nhiều công lao phụng sự đất nước, hăng hái tham gia xây dựng và hoàn thiện thể chế triều đình. Nhưng thật không may, sự trở lại này và sự tin tưởng của nhà vua đã đưa gia đình anh đến một kết cục không thể cứu vãn. Trong thời gian Lê Thái Tông đi tuần ở phía đông, Nguyễn Trãi đã mời vua về nghỉ ở ẩn ở Côn Sơn và sai người thiếp là Nguyễn Thị Lộ vào hầu hạ vua. Bất ngờ, vua đột ngột qua đời ở tuổi 21, nguyên trai và nguyễn thị lộ bị buộc tội giết vua và bị kết án tru di tam tộc, ngày nay người ta vẫn gọi đó là vụ án chi viên bi thảm, kết thúc cuộc đời. của một vinh quang nhưng cũng không ít thăng trầm của một danh nhân văn hóa thế giới.

    Ngoài sự nghiệp chính trị và quân sự của mình, Nguyễn Trãi còn được biết đến là một thiên tài, người am hiểu nhiều lĩnh vực và ở mỗi lĩnh vực, ông đều có những tác phẩm đạt đến trình độ xuất sắc. một số đã trở nên mẫu mực, có ý nghĩa tham khảo và nghiên cứu cho các thế hệ mai sau. Về lịch sử, Nguyễn Trãi đã để lại tác phẩm Vĩnh Lăng Thần Đạo Bí, là văn bia về cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ. tác phẩm thứ hai là lam sơn thực lục, kể lại cuộc khởi nghĩa kéo dài hơn 10 năm của nghĩa quân lam sơn. Ngoài ra, Chí Linh Sơn Phủ kể về cuộc hành quân của nghĩa quân Lam Sơn lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422, Băng Hồ Dị Lục viết về cuộc đời của một vị tư nhân là Trần Nguyên Đán. Về địa lý, Nguyễn Trãi còn để lại một cuốn sách địa dư, còn được gọi với các tên khác là Ức trai thiết nam sử địa chí, Lê triều phản pháp. Đây được coi là cuốn sách địa chí cổ nhất của Việt Nam, ghi lại những nét đặc trưng của sản vật và con người Việt Nam thời Trung cổ, mà cho đến ngày nay vẫn là tài liệu tham khảo có giá trị nhất được xác định. về chính trị và quân sự, Nguyễn Trãi có những tác phẩm rất nổi tiếng như bình ngoạ đại cáo, quan trung tạp lục, ngoài ra còn có một số tác phẩm khác bao gồm các bài diễn văn, chiếu chỉ được viết dưới hai triều đại vua chúa. . Trong lĩnh vực văn học, Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tập thơ đặc sắc viết bằng chữ Hán và chữ Nôm như Ức trai thi tập, quốc âm thi tập.

    và trong sự nghiệp thơ ca của mình, nguyễn trai còn được biết đến như một cây bút chính luận lỗi lạc và một nhà thơ trữ tình sâu sắc. trong đó, với tư cách là một nhà văn chính luận kiệt xuất, các tác phẩm của ông chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp chính trị quân sự, trong đó có những tác phẩm bình luận được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai, “thiên cổ hùng văn ngàn đời”, không chỉ nổi trội ở lối hành văn có chiều sâu. và lập luận chặt chẽ, nhưng hơn hết là với giá trị nội dung hiện tại. hai là tập hợp quân từ bộ chỉ huy, trong đó có những bức thư gửi tướng giặc trong cuộc khởi nghĩa lam sơn, có giá trị làm tài liệu, vật phẩm ngoại giao để răn đe tướng sĩ, nâng cao tinh thần quân đội. Ngoài ra, có khoảng 28 buổi biểu diễn và dự kiến ​​khác nhau. với nội dung tư tưởng nhân văn, lòng yêu nước thương dân là sợi dây chung xuyên suốt hầu hết các tác phẩm, kết hợp giữa nghệ thuật lập luận, bố cục chặt chẽ, lập luận linh hoạt, sắc sảo. Chính vì vậy mà những tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi được coi là áng văn chính luận mẫu mực mà người đời sau cần học hỏi.

    Là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, trong cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã viết nên nhiều tác phẩm có giá trị, tuy nhiên do oan trái mà phần lớn bị đốt bỏ, đòi lại nhưng số tiền thu được chỉ là một phần nhỏ may mắn còn lại. Tuy nhiên, với ngần ấy tác phẩm cũng đủ thấy tài năng xuất chúng của Nguyễn Trãi trong lĩnh vực thơ ca với những sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. trong đó, sáng tác chữ Hán vẫn có tập thơ viết bằng tiếng Việt, tập thơ viết bằng tiếng Việt, tập thơ viết bằng tiếng Việt. Nhìn chung, các sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi đều tập trung thể hiện một nội dung chủ yếu là con người Nguyễn Trãi với hình tượng người anh hùng hào kiệt, con người trần thế. chủ nghĩa anh hùng được thể hiện trong tư tưởng xuyên suốt trong nhiều tác phẩm là lí tưởng yêu nước, thương dân, tấm lòng nhân hậu, chí khí của một đấng trượng phu qua những hình ảnh tượng trưng: tùng, cúc, trúc, mai. con người trần thế thể hiện qua những cung bậc cảm xúc của nhà thơ như nỗi đau, nỗi buồn trước nghịch cảnh của đất nước, những trò xấu xa đầy cám dỗ của xã hội, hay tình yêu thiên nhiên, niềm vui sống thanh tao, giản dị, tình cảm bạn bè, tình cảm của mình. vua, cha con sâu nặng, …

    tường thuật về nhà văn nguyễn trai – mẫu 2

    Theo các nhà sử học, dân tộc Việt Nam đã có cả ba bản tuyên ngôn độc lập trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là bài thơ Nam quốc sơn hà (năm 891), bình ngô đồng (năm 1428) và bản tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình. Trong đó phải kể đến bài văn tế cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428. Không chỉ xuất sắc trong sự nghiệp thơ văn, Nguyễn Trãi còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp. sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.

    Nguyên trai tên gọi là Ức trai, sinh ra tại xã Chí Ổ, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó chuyển đến xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Thân sinh là Nguyễn Phi Khanh, một học sinh nghèo, học giỏi, được phê chuẩn là Thái học sinh (Tiến sĩ) thế giới. mẹ là Trần thị thai, con của quan tư là Trần Nguyên Đán, một quý tộc thế tục.

    khi lên sáu tuổi, anh mất mẹ; Khi ông được mười tuổi, ông nội của ông qua đời. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông thi đỗ đại học và nối nghiệp cha làm quan nhà Hồ. Năm 1407, quân xâm lược cướp phá nước ta, Nguyên phi khanh bị bắt giải về Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em vào chăm sóc cha. Khi đến biên giới, nghe lời khuyên của cha, anh trở về tìm cách “báo thù cho cha, rửa hận cho tổ quốc”, nhưng sau đó bị giặc bắt. sau đó, anh đã có thể trốn thoát và đi nhiều nơi để tìm chủ nhân thích hợp để hợp lực và tiêu diệt kẻ thù. tham gia cuộc khởi nghĩa lam sơn do le loi khởi xướng, dâng hiến “sách ngô đồng” (sách lược đánh quân minh) và trở thành trợ thủ đắc lực cho binh dinh vạn trạng suốt mười năm chinh chiến. ông được phong làm Đại học sĩ xe cộ, thường tham gia mưu lược rèm cửa. về sau được phong đại phu để kiểm nội, kiêm thượng thư bộ thượng thư, khu mật viện. Với tư cách là cố vấn của lãnh tụ le loi, ông đã một tay soạn thảo những lá thư, mệnh lệnh trong quân đội đã trở thành những áng văn chiến đấu bất hủ, góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

    XEM THÊM:  Nhà thơ Trương Nam Hương &aposthương hết nỗi xa xanh&apos với cuộc đời

    Đầu năm 1428, sau khi diệt giặc giành lại độc lập, Nguyễn Trãi hăng hái bắt tay vào xây dựng lại đất nước, nhưng bất ngờ bị nghi oan và bị bắt giam. anh ta sau đó đã được trả tự do, nhưng không còn đáng tin cậy như trước. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, Lê Thái Tông lên ngôi khi còn trẻ, các đại thần vốn ghét Nguyễn Trãi vì ông quá ngay thẳng, thật thà, thường xuyên vạch trần lỗi lầm nên bị Nguyễn Trãi ghét bỏ. anh nhiều lần suýt mang tai họa vào thân. buồn bã, ông xin quan cho ẩn cư con trai (khoảng năm 1437, 1438). Năm 1440, Lê Thái Tông tổ chức lại triều đình, loại bỏ các thế lực bỉ ổi, mời Nguyễn Trãi về phục quốc, giao cho ông nhiều công việc quan trọng. chàng đang nhiệt tình giúp đỡ nhà vua, thực hiện hoài bão bảo vệ dân chúng thì bất ngờ xảy ra chuyện. năm 1442, Lê thái tông đi duyệt binh ở Chí Linh, trên đường có ghé thăm Nguyên trai (lúc đó ở Côn Sơn), trên đường về có ghé nghỉ đêm ở trại vải (Lệ chi viên, bắc ninh. ), chết đột ngột. . Những kẻ gian ác tại triều đình, vốn có thù oán với Nguyễn Trãi, liền vu cáo ông âm mưu giết vua, vu cáo ông lừa ba …

    tường thuật về nhà văn nguyễn trai – mẫu 3

    Nguyên trai là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng văn hóa lớn, nhà thơ, nhà văn có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn học, tư tưởng Việt Nam.

    nguyen trai, sinh ra tại thang long trong gia đình có ông ngoại là đại tu nguyên đẳng. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long, tức Tục Trai (tức Nguyễn Phi Khanh). mẹ cô là Trần Thị thai, con gái của Trần Nguyên Dân.

    Khi Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng qua đời. anh trở về sống với cha ở quê ngoại ở làng Nhị khe.

    Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến ​​đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quy Lý đã hạ chiếu và tiếp tục thực hiện các cải cách như chính sách nông nô, hạn điền, chấn chỉnh giáo dục, thi cử, khoa cử. và chăm sóc y tế.

    cũng vào năm 1400, sau khi lên ngôi, ho quy lý mở khoa thi. nguyễn trai đi thi, đỗ Thái học sinh (phd) năm 20 tuổi. Hồ quy lý bổ nhiệm ông làm thứ sử. còn cha là Nguyên phi khanh, thụy hiệu từ năm 1374, được Hộ lý phong làm Trung thư đại thần kiêm Hàn lâm viện khoa bảng.

    năm 1406, minh thành an lệnh cho thuộc hạ đem quân sang xâm lược Việt Nam. hồ đem quân chống cự nhưng đều bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số cận thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, bị bắt giải về Trung Quốc.

    Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng anh trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha đến cửa ải Nam Quan với ý định đi qua biên giới để phụng dưỡng cha già, trong khi bị giam cầm.

    trong giây phút tĩnh lặng, nguyen phi khanh bao nguyen trai:

    – Ta là người có học, có tài nên tìm cách rửa hận cho nước, trả thù cho cha. như vậy là đại hiếu. con có phải theo cha và khóc như một người phụ nữ để có hiếu không?

    Nguyên trai nghe lời cha, trở về tìm đường đánh giặc cứu nước.

    Khi đến thang dài, anh ta bị quân đội bắt. Tể tướng triều Minh biết Nguyễn Trãi là người có tài tìm cách dụ dỗ nhưng nhất quyết không theo giặc.

    Sau một thời gian bị quản thúc ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyên trai đã vượt qua được vòng vây của kẻ thù và tiến vào Thanh Hoa theo đường lê lết. gặp thủ lĩnh nghĩa quân lam sơn ở sai giang. ông đã cho Lê Lợi chép chiến lược đánh đuổi quân Minh, mà sử sách Việt Nam gọi là thiên sách.

    Trong lời nói đầu của tuyển tập, Ngô Thế Vinh cho rằng cuốn sách “góp trước việc lớn không phải là đánh thành, mà là nói khôn về việc đánh lòng người”.

    lei loi và chiến lược của nguyen trai là đúng. và sử dụng chiến lược này để chiến đấu chống lại các đồng minh. Từ đó về sau, ông thường để Nguyễn Trãi ở gần mình để bàn kế hoạch đánh quân.

    Cuối năm 1426, Lê Lợi lập đại bản doanh tại Bờ đê Quay (Gia Lâm). Tại đây, ông đã dựng một cái lán cao bằng tháp Báo Trời ở Đông Quan. le loi ngồi lầu 1, nguyễn trai ngồi lầu hai. hai nhân vật luôn trao đổi ý kiến.

    Trong cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào dân để đánh giặc, cứu nước. kháng chiến thắng lợi, Bác cũng thấy phải lo cho dân dựng nước. trong lời cảm ơn vì đã được bổ nhiệm làm quan đại thần, ông viết: “thậm chí điều mà ông cố muốn: lo cho mọi người, tôi lo cho những gì mọi người phải lo”.

    tường thuật về tác giả văn học – cao nhân

    tường thuật về nam nhà văn cao – người mẫu 1

    Nam cao (1915 – 1951) là nhà văn Việt Nam, đại diện tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn phát triển cuối cùng (1940 – 1945), một trong những nhà văn nổi tiếng thế giới tiêu biểu cho nền văn xuôi Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

    Tên khai sinh của ông là trần huu tri, quê quán đại hoàng, phủ lý nhân (nay là xã hoa hâu, huyện lý nhân), tỉnh hà nam. ông được coi là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng tháng Tám, với những truyện ngắn hiện thực và truyện dài kể về những người nông dân nghèo khổ bị ngược đãi và những người trí thức nghèo đang sống mòn mỏi, trì trệ trong xã hội. Sau cách mạng, cao nhân trở nên trong sạch và cống hiến hết mình cho việc sáng tác phục vụ kháng chiến. anh hy sinh trên đường đi công tác ở vùng sau lưng địch, để lại tấm gương cao đẹp của một nhà văn – chiến sĩ.

    quan niệm nghệ thuật của con người là: “art for the good of human” (tức là nghệ thuật nên viết về con người và hướng tới những điều tốt đẹp của con người); phê phán quan điểm “nghệ thuật vì lợi ích của nghệ thuật”. Nhà văn đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự hoàn thiện của truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam về quá trình hiện đại hóa nửa đầu thế kỷ XX. anh ấy luôn suy nghĩ về vấn đề và rất ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình.

    về phong cách nghệ thuật, nam trung học đề cao tư tưởng con người, đặc biệt chú ý đến hoạt động bên trong của con người, coi họ là nguyên nhân của hoạt động bên ngoài; đây là một phong cách độc đáo của những người đàn ông cao. ông quan tâm đến đời sống tinh thần của mọi người, luôn quan tâm đến việc khám phá “người trong người”. tâm lý nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, đối tượng trực tiếp của ngòi bút nam tính thanh cao. ông thường viết về những điều tầm thường vụn vặt. Từ sự tầm thường quen thuộc trong cuộc sống đời thường của “những câu chuyện bạn không muốn viết”, tác phẩm của nam cao đã nêu bật một vấn đề xã hội trọng đại, một triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. giọng nói của chính mình, thường với một giọng buồn và chua. có phong cách nghệ thuật triết lý trữ tình lạnh lùng.

    Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao được chia thành hai thời kỳ: trước cách mạng và sau cách mạng. một số tác phẩm trước cách mạng như chí phèo, trăng sáng, sống thêm, sống lâu. hàng loạt tác phẩm thời hậu cách mạng như Chuyện đôi mắt, Nhật ký trong rừng …

    trong số đó có câu chuyện về lão hạc. Đây là một trong những truyện ngắn của Huấn Cao viết về người nông dân, xuất bản lần đầu năm 1943. Tác phẩm được coi là một trong những truyện ngắn tiêu biểu trong dòng văn học hiện thực phản ánh hiện trạng xã hội Việt Nam giai đoạn trước đến tháng Tám. Cuộc cách mạng. câu chuyện kể về một lão hạc có một cậu con trai, một khu vườn và một con chó vàng. Con trai ông Cẩu đi làm rẫy cao su, chỉ còn lại một mình với “cậu vàng”. Vì muốn để lại mảnh vườn cho các con, ông đành phải bán con chó, mặc dù rất buồn và đau đớn. Ông lão đem số tiền tiết kiệm được gửi cho cô giáo và nhờ cô chăm sóc khu vườn. cuộc sống mỗi ngày một khó khăn hơn, anh ăn được gì thì bị cảm lạnh kinh hoàng. ông lão từ chối mọi thứ mà ông giáo giúp đỡ. một hôm ông già xin quan quân một ít mồi chó, nói là giết chó hoặc về vườn, xẻ thịt và mời tư nhân uống rượu. ông giáo đã rất buồn cho anh ta khi anh ta nghe rằng tư nhân nói với anh ta. chết đột ngột – chết dữ dội. tất cả mọi người đều không hiểu tại sao ông chết, ngoại trừ những người lính bình thường và giáo viên. cái chết đau đớn và dữ dội của ông lão gây cho người đọc nhiều xúc động và xót xa. câu chuyện được thể hiện qua lời kể của nhân vật tôi – cô giáo, và dường như đâu đó ở nhân vật này ta thấy được giọng đọc của tác giả.

    Tác phẩm của nam cao rất chân thực và có ý nghĩa triết lý, ý nghĩa khái quát sâu sắc. ngòi bút hiện thực tỉnh táo, chặt chẽ, lạnh lùng, sôi nổi, trữ tình tha thiết. nhà văn đã thể hiện sở trường miêu tả tâm lí con người, nhất là khi đưa ra những diễn biến tâm lí tinh tế, phức tạp. Có thể nói, về nhiều phương diện, tác phẩm của Nam Cao đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển văn xuôi của chữ quốc ngữ Việt Nam, trải qua hơn nửa thế kỷ nhưng đang hiện đại hóa với tốc độ rất nhanh.

    Có thể nói, nam văn sĩ họ Cao đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả yêu thích văn học hiện thực. những tác phẩm của anh sẽ còn sống mãi với thời gian.

    tường thuật về nam nhà văn cao – người mẫu 2

    Nam cao (1915 – 1951) là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. những sáng tác của anh đã đứng trước thử thách của thời gian, càng thử thách càng sáng. Thời gian càng trôi đi, các tác phẩm của ông càng bộc lộ chủ nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo, nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo.

    Nam cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là người có cảm nhận sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. ông đã phê phán khá đầy đủ và toàn diện bản chất thoát ly và tiêu cực của văn học lãng mạn đương thời, coi đó là một “trò lừa bịp”. đồng thời, nghệ thuật chân chính cần phải đi vào cuộc sống, nhìn thẳng vào sự thật và nói lên nỗi khổ của hàng triệu người dân lao động.

    xuất hiện trong văn học khi trào lưu văn học hiện thực đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, vị cao nhân ý thức sâu sắc rằng: “văn học không cần những người thợ khéo tay, làm theo khuôn mẫu mà văn học chỉ chấp nhận những người biết đào sâu tìm tòi. , khơi nguồn cảm hứng từ những nguồn chưa được khám phá, và tạo ra những gì chưa được tạo ra ”(leader, 1943). và nam cao đã thực sự tìm ra cách tiếp cận và phản ánh hiện thực của riêng mình. si nguyen cong hoan, vu trong phung, ngo tat to, những nhà văn hiện thực xuất sắc của thời kỳ mặt trận dân chủ (1936 – 1939), đều tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội, thì sáng tác của Vecni cao – đại diện tiêu biểu nhất của phong trào hiện thực giai đoạn cuối (1940 – 1945), ngoại trừ truyện chí phèo (theo tôi là tàn dư của giai đoạn 1936 – 1939) trực tiếp tiếp tục giải quyết mâu thuẫn giai cấp, còn ot tác phẩm ras tập trung vào việc thể hiện mâu thuẫn trong thế giới nội tâm của các nhân vật. Hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ chưa tạo điều kiện để các bậc cao tăng nêu trực tiếp những vấn đề cấp bách nhất của xã hội, cũng như không trực tiếp miêu tả những sự kiện có ý nghĩa lịch sử xã hội to lớn. Nhiều tác phẩm của ông được thêu dệt bằng những “chuyện đời thường” chủ yếu liên quan đến đời tư của các nhân vật, những chuyện vụn vặt, vụn vặt, vụn vặt mà nhà văn gọi là “những câu chuyện vô nghĩa” mà ông muốn viết ”. Những chuyện vặt vãnh hàng ngày chưa bao giờ có một sức mạnh ghê gớm như trong các sáng tác của người thanh cao. chỉ cần tiếng khóc của trẻ thơ, giọng nói của người vợ gắt gỏng cũng đủ lôi cuốn nhà văn tảo tần, phiêu lãng trên chín tầng mây với ánh trăng như “bầu vú đầy đặn, mềm mại” xuống đất với bao nỗi nhọc nhằn, muộn phiền. ). cơm áo gạo tiền hàng ngày cùng với xích mích vụn vặt, ghen tuông vụn vặt cũng đủ sức khống chế, giam cầm một vài người thầy chăm chỉ trong cái ao tù ngột ngạt suốt đời. cả lí tưởng nhân đạo cao cả và những hoài bão nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ lụi tàn dưới sự tấn công quyết liệt, dai dẳng và tàn bạo của “lãnh tụ”… từ những điều tầm thường của đời thường, nam nữ. những câu hỏi sâu sắc về cuộc sống, về thân phận con người, về cải cách xã hội, về tương lai của dân tộc và nhân loại. những bi kịch đời thường, những chuyện vụn vặt đời thường, qua ngòi bút tài hoa của con người thanh cao đã trở thành những bi kịch muôn thuở.

    nam cao là nhà văn hiện thực tâm lý. điều đó liên quan mật thiết đến quan niệm của ông về con người. Nam Cao đã từng viết trong tác phẩm “Sống có nghĩa là cảm nhận và suy nghĩ. Sống cũng là hành động, nhưng hành động chỉ là sản phẩm phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động.” Người đàn ông thành thạo các thủ pháp tâm lý hiện thực của con người cao siêu, sự chú ý đặc biệt đến thế giới nội tâm của con người thường hạn chế sự quan tâm nghệ thuật ngày càng tăng của nhà văn đối với bản chất có mục đích của nhân cách con người, động cơ nội tại của hành vi của nhân vật, và mối quan hệ phức tạp của anh ta với thực tế xung quanh.

    Đối với những người đàn ông tự cao, điều quan trọng nhất trong nhiệm vụ phản ánh trung thực cuộc sống là sự thật về tư tưởng và nội tâm của tính cách. cuối cùng, điều quan trọng nhất trong vở kịch không phải là bản thân sự kiện, sự kiện mà chính là con người trước sự việc, sự kiện đó. do đó, trong các sáng tác cao nam tính, quan tâm đến chi tiết tâm lý thường thay thế quan tâm đến các sự kiện và bản thân các sự kiện. do đó nguyên tắc sự kiện, sự việc, hoàn cảnh chỉ có vai trò “khơi gợi” cho nhân vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách. do đó, trong tác phẩm “Mua nhà”, nam cao không tập trung miêu tả việc mua được căn nhà gỗ giá rẻ mà tập trung đi sâu vào những suy nghĩ, dằn vặt, ân hận, day dứt của nhân vật người kể chuyện. trạng thái “hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp, một người co lại thì người kia sẽ lộ ra.” “Đời thừa” cũng không nhằm miêu tả nỗi khổ của cơm áo gạo tiền mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng cơm áo gạo tiền làm hao mòn tài năng và bào mòn nhân cách. do đó, trước khi bán một con chó, lão Hạc đã phải trải qua bao lo lắng, day dứt, dằn vặt và khi buộc phải bán nó, lão hối hận vô cùng, về già vô cùng đau đớn, khóc lóc. chi phèo: vu dai làng ma quỷ ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đánh vào đầu, rạch mặt, chửi bới, đe dọa trong lúc say, như một con vật sống trong vô thức, nhưng sau khi gặp chợ phồn hoa bên bờ sông, “nghĩ. mãi mãi”. Còn với thị, người đàn bà nhẫn tâm có thói quen bỗng dưng muốn ngủ không thể chữa khỏi, lên giường muốn ngủ hẳn nhưng vẫn không ngủ được, cứ “vào ra đi vào”. cao nam cao không chỉ miêu tả sinh động những chi tiết nhỏ nhất và những biểu hiện tâm lý mà còn truy tìm và phân tích quá trình tích lũy của chúng dẫn đến sự xuất hiện những phẩm chất mới trong tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, cao nam đã khắc họa thành công diễn biến tâm lý của nhân vật. ngòi bút của ông tỏ ra có tài miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, lưỡng tính, nửa say, nửa tỉnh, nửa cười, ranh giới giữa thiện và ác, giữa thiện và ác, giữa con người và động vật … và nhân vật đơn phương khi miêu tả tâm lý nhân vật. Qua ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện vô cùng phong phú với nhiều sắc thái tinh tế.

    Trong các sáng tác nam cao, tâm hồn con người là cảnh bi kịch và hài kịch của những xung đột về ý tưởng và ý tưởng. Chủ nghĩa hiện thực tâm lý trong thơ ca của nam cao thích ứng với việc nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm lý nhân vật hơn là phân tích và miêu tả các sự kiện, xung đột chân thực của bản thân đời sống xã hội. đối với nam cao, phân tích tâm lý gần như là điều kiện cơ bản nhất để thể hiện con người theo phương pháp hiện thực sâu sắc của họ. cao nam đã lấy thế giới nội tâm của nhân vật làm đối tượng chính của miêu tả. ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người miêu tả và phân tích từng chiều sâu, từng biến động trong thế giới tinh thần của nhân vật. do đó, đối với ông, việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó cố gắng thể hiện và làm nổi bật bộ mặt tinh thần của nhân vật. cảnh thiên nhiên cũng chỉ có lí do tồn tại khi gắn liền với tâm trạng con người. Giữa những bức tranh phong cảnh thoạt nhìn tưởng như hoàn toàn là cảnh thiên nhiên, nhà văn đã khéo léo treo những mảnh ghép tâm hồn của nhân vật.

    Mong muốn của con người trong việc khai thác các vấn đề của cuộc sống không phải ở bề rộng mà là ở chiều sâu. ngoài cách nói một chút về mọi thứ, anh ấy tập trung viết vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Nam cao hiện thực đã mở rộng sự phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tinh thần của con người. qua ngòi bút của ông, thế giới nội tâm của con người, kể cả những “con người nhỏ bé”, dù là khốn nạn nhất như chí phèo, thị hà là cả một vũ trụ bao la! đối với nam cao, việc phân tích tâm lý nhân vật không tách rời việc phân tích đời sống xã hội nói chung. Thông qua miêu tả và phân tích tâm lí để thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một luồng phân tích mới cho phương pháp hiện thực trong văn học Việt Nam. Cảm hứng phân tích phê phán có thể nói là thấm nhuần trong mọi sáng tác của Nam Cao. là một đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn”, “cốt lõi” của tính hiện thực của nam cao.

    Cái gốc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của những con người cao cả là chủ nghĩa nhân văn. Trong câu chuyện “lãnh đạo”, nam cao khẳng định: “một tác phẩm có giá trị hiện thực, nó phải vượt lên trên mọi giới hạn và giới hạn, nó phải là một tác phẩm chung cho cuộc đời của một con người. Nó tôn vinh lòng nhân từ, bác ái, công lý … nó đưa con người đến gần con người hơn. “Vì vậy, theo quan niệm của các bậc cao nhân, chủ nghĩa nhân đạo được đề ra như một yêu cầu tất yếu đối với những tác phẩm” thực sự có giá trị “.

    Trên mỗi trang viết của nam cao đều bộc lộ trái tim của một người đàn ông đau khổ và vô cùng yêu cuộc sống. người đàn ông cao yêu người bị cuộc đời dày vò. xã hội cũ khiến anh đau buồn khi hầu hết các nhân vật của anh đều bị đẩy vào cảnh nghèo khó, họ không đạt được thành tựu gì trong cuộc sống, không có đủ điều kiện để phát triển tiềm năng cao hơn của mình. .

    là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh, nhà văn của những con người khốn khổ và tủi nhục nhất của xã hội thực dân phong kiến. tấm lòng nhân đạo và nhãn quan nhạy bén của ông đã thấu hiểu những hoàn cảnh phi nhân khiến con người xa lánh. viết về những con người dưới đáy xã hội, con người cao cả đã thể hiện sự đồng cảm hiếm có của một tấm lòng nhân đạo cao cả. thế giới, cuộc sống của con người, mối quan hệ giữa con người với nhau được nhìn tận mắt. trong những đánh giá, nhận xét của mình nhà văn đã xuất phát từ quyền lợi, đòi hỏi của những người khốn khổ nhất, không có quyền, bị xã hội áp bức, chà đạp xuống bùn đen. đã bênh vực, bênh vực, minh oan và “khuyên nhủ” những người thấp cổ bé họng, bị người đời chối bỏ, khinh bỉ, khinh bỉ. với trái tim yêu thương, anh tin rằng trong tâm hồn những người không còn là con người, những kẻ bề ngoài là động vật vẫn là con người, vẫn còn đó những khát khao của con người. anh nhận ra rằng đằng sau những bộ mặt xấu xí “ma chê quỷ hờn” của đứa con rận (nửa đêm) mẹ vợ (chi phèo)… vẫn còn đó một con người, một con người. thực ra, cũng khao khát tình yêu. và được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình yêu, những tâm hồn dường như vô sinh và khô héo ấy cũng tỏa sáng với những vẻ đẹp với những rung động, niềm vui, những cái nhìn, những cái vuốt ve và cả sự e thẹn, họ làm tình theo cách riêng của họ. thậm chí, trong sâu thẳm tâm hồn đen tối của một kẻ vũ phu, tẻ nhạt như địa ngục – một kẻ bị cuộc đời tàn phá, hủy hoại từ nhân tính sang nhân loại – nhà văn vẫn thấy rung động thực sự về tình yêu của những khát khao được trở về làm người lương thiện. người đàn ông. . Có thể nói, cùng với việc lên án gay gắt định kiến, định kiến ​​xấu và xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người, đó là việc phát hiện ra thân phận còn lại của một kẻ ức hiếp đáng kính. Tiêu biểu cho những rung động thuần khiết của những tâm hồn tưởng như cằn cỗi bị cuộc đời làm cho thui chột đã khiến Huấn Cao trở thành một trong những nhà văn nhân đạo vĩ đại nhất thế giới. Văn học hiện đại Việt Nam.

    nam cao là một nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “sống” có hoài bão, nhiệt huyết, tài năng, muốn vươn lên nhưng lại bị lịch sử tâm phục khẩu phục. Nếu mỗi tác phẩm viết về đề tài nông dân của nam cao là sự đền đáp ân tình, nghĩa tình với người nghèo, thì mỗi trang viết về đề tài trí thức đều chứa đựng những tâm sự, nỗi đau và niềm khao khát, khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.

    tương tự như xuan dieu, thach lam ở chỗ nó đã đánh thức sâu sắc ý thức cá nhân và sự tồn tại đáng kể của ý thức cá nhân trong thế giới. họ rất nhạy cảm với những mảnh đời nhỏ bé và khốn khổ, mòn mỏi, chao đảo, quay cuồng, bế tắc. người không biết sống hạnh phúc thì không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. đến trong mơ mà lòng vẫn loanh quanh không biết mơ gì hơn là chuyến tàu đêm đi qua con đường ở xóm nghèo (thach lam, hai me con). xuân sắc không thể chịu nổi “nỗi buồn bể phẳng đời người” (tỏa hương đôi ngả) và nỗi nhớ mong: “đẹp hơn một phút huy hoàng rồi chợt tối / còn hơn lung linh trăm năm” (bức xúc). nhưng có lẽ, không ai trong số họ thường trực đau đớn và phẫn nộ như những người đàn ông cao lớn trước tình cảnh mà con người không thể thoát khỏi trạng thái của cuộc đời. trước cách mạng, không có nhà văn nào có cái nhìn sâu sắc, triết lý và khái quát về tình trạng hấp hối của con người như một nhà văn nam vĩ đại. mỗi nhân vật của ông là một dạng sống thừa, dạng sống mòn, dạng chết. một cuộc sống không có ý nghĩa, vô ích, vô nghĩa, “chết mà không làm được gì”, “chết sống”, “chết không cần sống”. những người đàn ông cao không chấp nhận cuộc sống của con người là sự tồn tại sinh học duy nhất. Anh cho rằng đó không phải là một kiếp người đáng sống: “một dạng sống bị xiềng xích với mình thì có gì thú vị, một dạng sống quá thú tính, còn biết gì hơn là lấy thức ăn đổ vào bụng?” . một cuộc sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của các bậc cao nhân là có một đời sống tinh thần cao đẹp, sống đúng với giá trị của cuộc sống. Từ suy nghĩ sâu xa ấy, con người cao cả vô cùng thương xót và day dứt khôn nguôi cho bi kịch của những con người muốn sống có ý nghĩa với sự cống hiến của mình nhưng cuối cùng lại sống như một kẻ vô dụng, một “kẻ thừa”. “còn gì đau khổ hơn một người vẫn khao khát được làm một điều gì đó làm tăng giá trị cuộc sống của mình, nhưng cuối cùng lại chẳng làm được gì, chỉ quan tâm đến miếng ăn mà đã đủ mệt mỏi?” (cuộc sống thêm).

    Thông qua những nhân vật trí thức đầy nhiệt huyết, những con người, những ngôi nhà, những vật dụng …, con người cao cả thể hiện khát vọng, lí do sống lớn lao, khát khao sống một cách sâu sắc, có ích và có ý nghĩa. trong “cuộc đời lãnh đạo”, hãy luôn nhớ rằng: “Kẻ mạnh không phải là kẻ trèo lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. kẻ mạnh là người giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình ”và ước mơ viết nên“ một tác phẩm thực sự có giá trị mang con người đến gần hơn với con người ”. một người đến từ “sống xa” “thích làm một cái gì đó sẽ có ảnh hưởng ngay lập tức đến xã hội” và muốn mang lại “những thay đổi lớn cho đất nước của mình”. Tôi mơ ước hơn một lần: “Tôi cũng là một vĩ nhân, một anh hùng, người vượt ra khỏi sự tầm thường để chỉ nghĩ đến điều gì đó vĩ đại. nghĩ cách xoay chuyển tình thế, đồng thời thu xếp để mọi người thoải mái hơn “. những người có hoài bão cao, đối mặt với cuộc đời, nếm trải bao cay đắng, đau đớn, rơi vào trạng thái” kiệt quệ “nhưng dù họ vẫn” thẳng tay. ” tâm phục khẩu phục, tuy đã “xuống sắc” nhưng họ vẫn chưa hết niềm tin và hy vọng, vẫn khao khát được sống, cống hiến, phát triển, vẫn mong mỏi mỗi cá nhân phát triển “tới mức” để góp phần làm nên sự “tiến bộ chung” của nhân loại. lí tưởng nhân văn cao đẹp của con người cao cả như thế nào được gửi gắm qua những dòng suy ngẫm của nhân vật về cuộc đời: “còn không chịu nổi cuộc đời chỉ còn cách làm cho vợ chồng con cái. Tôi có thức ăn để ăn và quần áo để mặc. sống là làm điều gì đó đẹp đẽ hơn, cao cả hơn rất nhiều. Làm thế nào để mỗi sinh vật phát triển đến mức mà năng lực của con người được chứa đựng trong đó? họ phải đóng góp sức mình vào công việc vì sự tiến bộ chung. mỗi người chết đi phải để lại một điều gì đó cho nhân loại. ”

    Có thể nói, tư tưởng nhân đạo được thấm nhuần trong các sáng tác của cao nam. ông là nhà văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng phát huy hết tài năng của con người. Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, phong phú và sâu sắc này cho thấy nhà văn không chỉ dừng lại ở việc tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người mà còn đòi hỏi xã hội phải tạo điều kiện cho con người được sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

    tường thuật về nam nhà văn cao – người mẫu 3

    Nam cao là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu trong giai đoạn 1930 – 1945, là nhà văn viết về một người nông dân lương thiện, góp phần to lớn vào thành công của văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

    >

    tên khai sinh của ông là Trần tri, sinh năm 1917, mất năm 1951. quê quán tại làng đại hoàng, phú lý, tỉnh hà nam. nam cao là một nhà văn luôn trăn trở, nghiên cứu để “khơi những nguồn chưa mở, sáng tạo những gì chưa có”. do đó, tuy chủ đề không mới nhưng tác phẩm vẫn mang đặc điểm tâm lý. Các tác phẩm của nam cao chủ yếu xoay quanh hai chủ đề chính: nông dân và trí thức tiểu tư sản nghèo, về chủ đề trí thức tiểu tư sản có các tác phẩm: “trăng sáng, sống thêm, mua nhà, nước mắt …” và những câu chuyện đặc sắc . khi ông viết về người nông dân như: “lão hạc, chi phèo, bữa no, rận…”. Có thể nói, dù viết về người trí thức nghèo hay người nông dân nghèo, cao nhân vẫn day dứt trước tình cảnh của những con người đang bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí hủy hoại nhân tính trong một xã hội bất công và nhân đạo đương thời. Nam Cao là người có tinh thần trách nhiệm lớn nhất với ngòi bút của mình, trong suốt cuộc đời sáng tác văn học, nhà văn luôn tâm niệm sống và viết.

    Trong nền văn xuôi hiện đại nước ta, nam cao là một nhà văn có tài năng xuất sắc và một phong cách độc đáo. lông của con đực cao là cảnh giác, sắc sảo, và đầy suy nghĩ và tình yêu. Nhà văn cao nam rất trung thực, coi sự thật là trên hết, không gì có thể ngăn cản được nhà văn vươn tới chân lí, thấm đẫm ý nghĩa triết lí và trữ tình. ông có một khả năng đặc biệt để mô tả và phân tích tâm lý con người. ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông sinh động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Với tài năng và sức sáng tạo tuyệt vời, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại.

    Tác phẩm của con người chủ yếu là truyện, trong số những truyện viết về người nông dân, “lão hạc” là một truyện xuất sắc và tiêu biểu.

    Truyện ngắn “Lão Hạc” xuất bản lần đầu năm 1943. Truyện kể về nhân vật chính: Lão Hạc, một người nông dân nghèo có phẩm chất trong sáng, vợ lão Hạc mất sớm, để lại hai vợ chồng. , trong nhà, tài sản duy nhất của hai cha con là mảnh vườn và “chú vàng”, con chó mà con trai ông mua. Không có đủ tiền để cưới, con trai ông chán nản và đòi ra mộ đồn điền cao su, để ông ở nhà một mình với người chú vàng của mình. lão hạc rất yêu thương con trai, chăm sóc vườn tược và dành dụm tiền bạc để khi nó trở về sẽ gả con trai cho lão. tuy nhiên, sau một trận ốm nặng, dù dành dụm được bao nhiêu tiền nhưng sức khỏe ngày một yếu đi, vườn tược không có gì để bán, đàn hạc ngày càng đói, phải lo từng bữa ăn. ông lão đã hối hận khi quyết định bán cậu vàng, người bạn thân của mình. ông lão gửi tiền và mảnh vườn cho ông giáo và xin bả chó của những người lính chung để kết thúc cuộc đời khốn khổ của mình. chết một cái chết đau đớn, nhưng cái chết đã làm nổi bật phẩm chất thuần khiết của loài hạc.

    Qua số phận và cái chết của lão Hạc, nam cao đã thể hiện một thái độ trân trọng và một cái nhìn nhân văn đối với lão Hạc nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung: những người tuy nghèo khổ nhưng sống trong sạch thà chết trước khi sinh. . mang tiếng xấu hổ, làm những việc trái với lương tâm cao cả của mình. Nam Cao cũng đưa ra một triết lý sống rằng: con người chỉ đáng mang danh là con người khi biết trân trọng, biết chia sẻ và biết trân trọng những điều đáng quý, đáng thương ở con người. Đồng cảm với những số phận bất hạnh, thanh cao đã nói qua tác phẩm như một tiếng nói lên án xã hội đương thời thối nát, bất công, không cho những con người có nhân cách cao đẹp như ông được sống. tác phẩm “lão hạc” còn có giá trị nghệ thuật sâu sắc, thể hiện phong cách độc đáo của nhà văn nam cao.

    Tóm lại, nam văn sĩ họ Cao đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam. những tác phẩm của ông đã để lại nhiều giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc.

    tường thuật về nam nhà văn cao – mẫu 4

    Nam Cao tên khai sinh là Trần Huy Trí. sinh năm 1917, trong một gia đình nông dân tại thôn đại hoàng, tổng cao đà, huyện nam sang, lý nhân phủ, tỉnh hán nam (nay thuộc xã hòa hoa, huyện lý nhân, hà nam). làng đại hoàng nằm ở vùng chiêm trũng, quanh năm nông dân nghèo khó nhưng kẻ mạnh lại ức hiếp, ngược đãi họ.

    người đàn ông cao lớn là người duy nhất trong một gia đình đông con được học hành tử tế. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, anh vào Sài Gòn giúp việc cho một thợ may. thời kỳ này, ông bắt đầu sáng tác và mơ ước đi xa, mở mang kiến ​​thức, trau dồi tài năng, xây dựng sự nghiệp văn chương hữu ích. Nhưng sau đó, vì bệnh tật, người đàn ông cao lớn trở về quê hương và mất việc làm. Sau đó, anh ra Hà Nội dạy học tại một trường tiểu học dân lập. nhưng cuộc sống của “trường học sĩ” đó cũng không hề yên bình: người Nhật vào indochina, trường của họ phải đóng cửa để xây chuồng cho lính Nhật. nhà văn – lại thất nghiệp, chật vật với nghề viết lách và dạy thêm, trong khi gia đình ở quê ngày càng khó khăn hơn. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Tháng 11 năm 1951, trên đường đi công tác ở vùng sau lưng địch ở Khu đệm III, Nam Cao bị địch phục kích bắt và bắn chết gần Hoàng Đan (tỉnh Ninh Bình lúc bấy giờ). nhà văn đã ngã xuống khi bước vào thời kỳ mới “chín” về tư tưởng và tài năng, hứa hẹn những tác phẩm lớn của một thời đại mới.

    Trước cách mạng, những người đàn ông cao thường có trái tim nặng trĩu u uất và thiếu ý chí. Đó không chỉ là sự tự tin của người nghệ sĩ “tài cao, bạc mệnh” (hơn da là thơ) mà còn là sự căm phẫn sâu sắc của một trí thức say mê trước cái xã hội đau khổ bóp nghẹt cuộc sống của những đứa trẻ thời bấy giờ. nhưng cao nhân không trở nên khinh người vì bất mãn cá nhân, ngược lại còn có một trái tim rất nhân hậu, chan chứa tình yêu thương. Đặc biệt, tình cảm gắn bó với những người nông dân nghèo quê hương là đặc điểm nổi bật ở những người đàn ông cao cả. Chính tình yêu và sự gắn bó đó là một sức mạnh nội tại của nhà văn, giúp ông vượt qua những cám dỗ của lối sống thoát ly, sẵn sàng và trung thành tìm “nhân tâm” trên con đường nghệ thuật hiện thực. sinh “.

    những người đàn ông cao lớn, trời sinh bình thường, thường hối hận và ân hận về những sai lầm của mình, đôi khi chỉ là trong suy nghĩ của họ. người trí thức “lương thiện không ngừng” ấy luôn nghiêm khắc phấn đấu vươn lên vượt lên chính mình, cố gắng thoát khỏi lối sống nhỏ nhen, nhỏ nhen, khát vọng vươn tới “một tâm hồn trong sáng và ước mơ về những cảnh đời, những con người đẹp đẽ” (nhật kí của một đấng cao minh. , ngày 31 tháng 8 năm 1950). Có thể nói, giá trị to lớn trong sự nghiệp văn học của Cao man gắn liền với cuộc đấu tranh trung thực và dũng cảm của ông trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn.

    cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng cách mạng và sự hy sinh anh dũng của con người cao cả sẽ mãi là tấm gương sáng cao đẹp của một nhà văn – chiến sĩ. Trong cuộc đời cầm bút của mình, nam cao luôn tâm niệm “sống và viết”. ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của trào lưu lãng mạn đương thời, ông làm thơ, truyện ngôn tình dễ dãi. nhưng dần dần ông nhận ra rằng loại hình văn học này rất xa lạ với cuộc sống khốn khó của quần chúng nghèo khổ xung quanh. và anh chia tay cô để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực “nhân sinh quan”. trong truyện ngắn “ánh trăng” (1943), được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật mạnh mẽ và xúc động, ông đã viết: “Chà! nghệ thuật không nhất thiết phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ đơn giản là tiếng lòng đau khổ, thoát ra từ những mảnh đời bất hạnh. Theo nam cao, nhà văn không được “trốn tránh” sự thật, mà phải “đơn giản là lao vào lao động, mở rộng tâm hồn để đón nhận mọi rung động của cuộc đời …”

    lên án văn học thoát ly, nam cao không tán thành loại tác phẩm “chỉ có thể miêu tả bề nổi của xã hội.” Trong truyện ngắn “Lãnh tụ” (1943), Nam Cao cho rằng một tác phẩm “có giá trị hiện thực” phải có nội dung nhân đạo sâu sắc: “nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ và đồng thời cũng đau đớn”. nó đề cao lòng nhân hậu, bác ái, công lý … nó đưa con người đến gần con người hơn “. Đồng thời, đòi hỏi người viết phải có sự tìm tòi sáng tạo cao trong nghề văn và lương tâm của người cầm bút.” Văn chương không cần những người thợ giỏi, theo một mô hình đã định “, ông viết. Văn chương chỉ có thể chứa được những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa được khai phá và tạo ra những gì chưa được” (lãnh đạo). Ông coi cái cẩu thả trong nghề văn không chỉ ” Sau cách mạng, Nam Cao hăng say, tận tụy trong mọi công việc kháng chiến được giao, không phân biệt việc lớn hay việc nhỏ, với ý nghĩa cuối cùng: lợi ích cách mạng, lợi ích dân tộc là trên hết.

    Các tác phẩm của Nam Cao được xuất bản từ năm 1936, nhưng sự nghiệp văn học của ông chỉ thực sự bắt đầu với truyện ngắn Chí Phèo (1941), tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai chủ đề chính: cuộc sống của người tiểu tư sản nghèo khổ. trí thức và cuộc sống của người nông dân quê hương. Về đề tài trí thức tiểu tư sản, truyện nổi bật: truyện không muốn viết, mặt trăng tỏa sáng, chuyện mua nhà, chuyện tình quên đo, tiếng cười, nước mắt, cuộc đời ngang trái … và tuổi thọ. tiểu thuyết (1944). Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả rất chân thực cuộc sống nghèo khổ, sống dở chết dở của những “sĩ phu tư trường”, văn nhân nghèo, quan quèn,… xoáy sâu vào những bi kịch của tâm hồn họ, từ đó nảy sinh vấn đề. có tầm quan trọng xã hội to lớn, ngoài phạm vi đối tượng. là bi kịch dai dẳng, thầm lặng nhưng đau đớn của một trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị cuộc sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn lao về sự nghiệp tinh thần, nhưng bị cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt khiến anh “chết”. , phải sống “cuộc sống thừa”. Những tác phẩm này đã phê phán sâu sắc xã hội vô nhân đạo bóp nghẹt cuộc sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời thể hiện cuộc đấu tranh nội tâm của người trí thức tiểu tư sản lương thiện cố gắng vươn tới một cuộc sống cao đẹp, thực sự có ý nghĩa, xứng đáng với cuộc sống con người.

    nam cao để lại một điểm truyện viết về cuộc đời tăm tối và bi thảm của những người nông dân đương thời. truyện nổi bật là: chí phèo, trai không được ăn thịt chó, mua danh lợi, tập cách cư xử, điệu van, bữa ăn no, lão hạc, đám cưới, con rận lang thang, cô gái nóng bỏng, nửa đêm … về chủ đề này , đàn ông thường quan tâm đến tầng lớp cuối cùng, những số phận đen tối nhất, những kẻ đáng sợ nhất. họ càng tử tế và kiên nhẫn, họ sẽ càng bị chà đạp tàn bạo hơn. nó đặc biệt đi sâu vào những trường hợp con người bị sỉ nhục một cách tàn nhẫn và bất công, mà cuối cùng chỉ đơn giản là vì họ nghèo và khốn khổ. tuy giọng điệu đôi khi lạnh lùng nhưng thực chất giọng nam cao đã dứt khoát bảo vệ quyền sống, nhân phẩm của những con người bất hạnh, bị xã hội đẩy vào hoàn cảnh tủi nhục ấy (chí phèo, bữa no, đìa, pico, rận). viết về những người nông dân bị đày đọa, nhà văn đã lên án sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn của người nông dân lao động, đồng thời vẫn phát hiện và khẳng định bản chất của những người nông dân, sự lương thiện của họ, sự trung thực của họ. xinh đẹp, ngay cả khi họ bị đánh đập đến mức mất đi hình dáng con người, nhân tính của họ. nhà văn đã đặt ra vấn đề xác định “đôi mắt” thích hợp để nhìn bao quát quần chúng. ông luôn ý thức “cố hiểu” rằng “bản chất tốt đẹp” của những người nông dân nghèo thường bị “che giấu” và bị lạm dụng. Trong nhiều tác phẩm, nam cao không chỉ miêu tả nỗi khổ cực của người nông dân mà còn thể hiện bản chất cao đẹp trong tâm hồn họ (lão Hạc, đám cưới, người cô tốt bụng, v.v.).

    có thể nói, dù viết về người trí thức nghèo hay người nông dân nghèo, thì điều làm khổ những người đàn ông cao cả là tình trạng nhân phẩm bị xói mòn, thậm chí hủy hoại nhân tính trong xã hội bất nhân đương thời.

    p>

    Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, các cao nhân không nhìn thấy khả năng thay đổi cuộc sống của những người nghèo khổ và triển vọng của xã hội. tuy nhiên, trong truyện “Điều van” (1944), ông đã viết nên những lời tiên đoán đầy thú vị: “Cuộc đời không thể mãi đen tối như thế này. Tương lai phải tươi sáng hơn. Một bình minh đã báo trước!”. đó là một sự chào đón nồng nhiệt trong ánh bình minh mà lúc bấy giờ đã đánh dấu trên đường chân trời. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nam cao phát động vào tất cả các cuộc cách mạng và kháng chiến. Truyện Đôi mắt (1948) là một thành công nổi bật của nghệ thuật kháng chiến lúc bấy giờ. để ý đến hình ảnh một trí thức lão thành bị kháng chiến nhưng vẫn giữ nếp sống tiểu tư sản, “con mắt” khinh miệt, khinh thường quần chúng – hình ảnh lạc lõng giữa cuộc sống lành mạnh sôi nổi của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. những trí thức đi theo cách mạng nhất quyết rũ bỏ thân phận cũ, xuôi dòng sông cũ, lên đường “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa đời thường”, trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. “Nhật ký trong rừng” (1948) viết trong thời kỳ nhà văn đi công tác ở vùng sâu, vùng xa và tập nhật ký “Chuyện biên cương” (1950) viết khi đi chiến dịch ở vùng cao đều là những tác phẩm có giá trị. thì văn xuôi mới ra đời. nhà văn hy sinh bản thân mình vào thời điểm ý tưởng và tài năng được phát triển mạnh mẽ nhất trong một kỷ nguyên mới và đầy hứa hẹn.

    bộ lông nam tính cao lớn đồng thời lanh lợi, sắc sảo, đầy suy nghĩ và lòng nhân ái. Nam cao của nhà văn rất trung thực, coi sự thật là trên hết, không gì có thể ngăn cản nhà văn vươn tới chân lý, thấm nhuần chất triết lí trữ tình. anh có sở trường miêu tả và phân tích tâm lý con người. ngôn ngữ của bài văn sinh động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân.

    Rất tài năng, giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại.

    tường thuật về tác giả văn học – Hồ Chí Minh

    thuyết minh về chủ tịch thành phố Hồ Chí Minh – mẫu 1

    Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc đời trong sáng, cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế kiệt xuất, chiến đấu không mệt mỏi, trọn đời cống hiến vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập và tự do của tất cả các quốc gia, vì hòa bình và công lý trên thế giới.

    chủ tịch thành phố Hồ Chí Minh (thuở nhỏ là nguyễn sinh cung, thời đi học là nguyễn tất thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là nguyễn ái quốc và nhiều tên khác bí danh và bút danh) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại huyện Kim Liên Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội.

    sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, lớn lên ở một thị trấn có truyền thống yêu nước anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, tuổi thơ và tuổi trẻ của Người đã chứng kiến ​​nỗi thống khổ của đồng bào và những cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược. người sớm có ý chí đánh đuổi thực dân, giành độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

    Với lòng yêu nước thương dân vô bờ bến, năm 1911 đồng bào đã bỏ nước theo Tây tìm đường giải phóng dân tộc.

    Từ năm 1912 đến năm 917, Nguyễn Tất Thành đã đi nhiều nước Á, Âu, Mỹ, Phi, sống chan hòa với nhân dân lao động, đồng cảm sâu sắc với cuộc sống khốn khó của người lao động và các dân tộc thuộc địa, cũng như với khát vọng tinh thần của họ. . . Người đã sớm nhận thức rằng, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung của các dân tộc trên thế giới. người đã tích cực làm việc để đoàn kết nhân dân tất cả các quốc gia vì tự do và độc lập.

    Cuối năm 1917, những người từ Anh trở lại Pháp tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. năm 1919, lấy tên là nguyễn ái quốc, thay mặt những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, Người gửi yêu sách đến hội nghị Versailles đòi tự do cho nhân dân việt nam và cũng là tự do cho nhân dân các nước thuộc nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam. .location.

    dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng Nga vào tháng 10 năm 1917 và luận án của lenin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, vào tháng 12 năm 1920, nguyễn ái quốc tham dự đại hội xviii của đảng xã hội chủ nghĩa Pháp và những người theo chủ nghĩa bãi nô đã bỏ phiếu ủng hộ đảng tham gia quốc tế iii, quốc tế cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập đảng cộng sản Pháp. từ người yêu nước trở thành người cộng sản, người khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời kỳ mới là con đường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

    năm 1921, cùng với một số người yêu nước từ các thuộc địa của Pháp, nguyễn ái quốc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa. Tháng 4 năm 1922, Hội xuất bản tờ báo “người nghèo” (le pariah) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài báo của ông được đưa vào Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản năm 1925.

    Đây là công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh và khuyến khích nhân dân các nước thuộc địa tự vệ. Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Tháng 10 năm 1923, tại hội nghị quốc tế nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc được bầu vào hội đồng quốc tế nông dân. là đại biểu nông dân thuộc địa duy nhất được cử vào đoàn chủ tịch của hội đồng. đại biểu quốc tế cộng sản lần thứ V, đại hội quốc tế cộng sản thanh niên lần thứ IV và đại hội công hội đỏ quốc tế. người kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng v.i. lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người hướng sự quan tâm của quốc tế cộng sản vào phong trào giải phóng dân tộc. Nguyễn ái quốc là ủy viên thường vụ bộ miền đông, trực tiếp phụ trách bộ phía nam bộ quốc tế cộng sản.

    Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc trở về Quảng Châu (Trung Quốc) và chọn một số thanh niên yêu nước Việt Nam sống ở Quảng Châu, trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ Việt Nam, bài giảng được sưu tầm và in thành sách “Đường khách mang ”- văn kiện lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng của đường lối cách mạng Việt Nam. Năm 1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xuất bản tờ báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên ở Việt Nam truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

    bài tường thuật về chủ tịch thành phố Hồ Chí Minh – mẫu 2

    Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nho học, xuất thân nông dân, tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường. chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến. hoàn cảnh xã hội và sự nuôi dạy của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến anh ấy từ khi còn nhỏ.

    Với lòng yêu nước nồng nàn, yêu nhân dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người bắt đầu suy nghĩ về nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm tìm đường cứu dân, cứu nước.

    Tháng 6 năm 1911, ông ra nước ngoài, trong 30 năm hoạt động, ông đã đến thăm Pháp và nhiều nước Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ. người hòa mình vào phong trào công nhân và bình dân của các dân tộc thuộc địa, lao động để sinh sống, học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu lý luận cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa nhân dân đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Từ đó, anh nhận ra rằng đây là con đường đúng đắn duy nhất để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.

    Năm 1919, ông gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động tích cực trong phong trào công nhân hợp pháp. Tháng 6-1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) bản kiến ​​nghị của nhân dân An Nam, yêu cầu chính phủ Pháp công nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. .

    Tháng 12 năm 1920, tại đại hội lần thứ 18 của đảng xã hội chủ nghĩa Pháp ở thành phố du lịch, nhân dân đã bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập đảng cộng sản Pháp. sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa cộng sản.

    vào năm 1921, tại Pháp, những người tham gia đã thành lập liên minh các dân tộc thuộc địa, để truyền bá cách mạng giữa các dân tộc thuộc địa. người viết nhiều bài trên các báo “dân nghèo”, “đời sống công nhân”,… đặc biệt, người viết vở kịch “xử án chế độ thực dân Pháp” đã lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước. của các dân tộc thuộc các nước thuộc địa. tất cả các bài viết của ông đã được bí mật chuyển về trong nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân.

    Ngày 30 tháng 6 năm 1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu thời kỳ hoạt động, học tập, nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lê-nin và chế độ xã hội chủ nghĩa của đất nước theo chủ nghĩa Lê-nin vĩ đại. Tại Đại hội Quốc tế nông dân lần thứ I (tháng 10 năm 1923), đồng chí được bầu vào đoàn chủ tịch Quốc tế nông dân. năm 1924, đi dự đại hội lần thứ V của quốc tế cộng sản, được cử làm cán bộ miền đông của quốc tế cộng sản, đồng thời là ủy viên đoàn chủ tịch quốc tế nông dân, cụ Nguyễn Ái Quốc được giao nhiệm vụ theo dõi và lãnh đạo các phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á.

    Năm 1925, tại Quảng Châu, Trung Quốc, một người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Đông Á, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, xuất bản tờ báo thanh niên để truyền tin. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin về nước, đồng thời mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

    ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người kêu gọi hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong cả nước, thống nhất thành đảng cộng sản Việt Nam.

    Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia hoạt động cộng sản quốc tế ở nước ngoài, đồng thời theo sát phong trào cách mạng trong nước và đưa ra những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta. .

    tường thuật về chủ tịch thành phố Hồ Chí Minh – mẫu 3

    Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. cuộc đời ông là cuộc đời trong sáng và cao cả của một anh hùng dân tộc, một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc. người đã cống hiến cuộc đời mình cho đất nước và nhân dân.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại Làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. tên khai sinh của cô ấy là nguyen sinh cung. Ông mất ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội. trong suốt cuộc đời của mình, ông đã mang nhiều tên gọi, mỗi tên đều gắn với thời kỳ hoạt động cách mạng và hoàn cảnh riêng.

    người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, quê hương có truyền thống anh hùng chống giặc ngoại xâm. Sinh ra trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than dưới ách đô hộ của thực dân Pháp đã làm cho lòng yêu nước ngày càng lớn mạnh và nung nấu ý chí đuổi dân lập nghiệp từ khi còn rất nhỏ. Đồng thời, Bác đã chứng kiến ​​nỗi thống khổ của nhiều người và cuộc đấu tranh chống thực dân của dân tộc bị thất bại và đi vào bế tắc. Khi ấy, người thanh niên Nguyễn Sinh Cung quyết định ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Bác Hồ đã sang các nước phương Tây và sống chan hòa với nhân dân lao động. Trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, Người đã đi nhiều nước, học tập, hoạt động cách mạng, nghiên cứu tìm đường cứu nước.

    XEM THÊM:  Nhà thơ Kim Tuấn - &quotchiều đông nào nhung nhớ.&quot - Những ký ức về Pleiku ngày cũ

    Năm 1917, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, mọi người đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. từ đây, người ta nhận ra con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. năm 1919, chú gia nhập đảng xã hội chủ nghĩa Pháp và hoạt động đòi tự do, bình đẳng cho dân tộc … 30 năm bôn ba ở nước ngoài, chú về nước lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi, đặc biệt là thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 … khi hòa bình lập lại, Bác Hồ lên nắm quyền lãnh đạo đất nước. Người đưa ra nhiều chính sách, phát động nhiều phong trào, tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng miền nam thống nhất đất nước.

    bạn có thể thấy Hồ Chí Minh là một người yêu nước nồng nàn. một nhà lãnh đạo tài năng và can đảm. Ngoài ra, ông còn được thế giới biết đến như một nhà thơ lớn. Tuy không dành nhiều thời gian cho thơ nhưng ông là người có tâm hồn thơ nhạy cảm, lãng mạn, phong thái ung dung tự tại nên ông đã có nhiều bài thơ gắn liền với hoàn cảnh đấu tranh cũng như hoạt động cách mạng của mỗi dân tộc.

    khi nó hoạt động ở Trung Quốc, người ta cho rằng chính phủ đã bỏ tù chú ho. Đồng thời, ông đã viết một tập thơ có giá trị và được nhiều người biết đến là Nhật ký trong tù. bạn có thể thấy rằng dù trong hoàn cảnh nào, con người vẫn rất tự do, vẫn rất nhạy cảm với thiên nhiên, vẫn đi trước thời đại. thơ ông là sự kết hợp tinh túy giữa tinh hoa dân tộc và văn hóa đương thời.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã trở thành tấm gương về nhiều mặt cho nhiều thế hệ sau. rằng anh không chỉ tài năng, dũng cảm, quyết đoán mà còn có nhiều phẩm chất đạo đức tốt. một người là chủ tịch của cả một đất nước nhưng rất giản dị. sự giản dị của nó đã được pham van dong ghi rõ trong bài “đức tính giản dị của chú ho”. đơn giản từ trang phục, sinh hoạt đến lời nói, cử chỉ. Những chiếc áo nâu cũ kỹ, đôi dép cao su đã đồng hành cùng anh từ những ngày ở chiến khu cho đến khi về thủ đô. Tôi đã theo bạn khắp mọi nơi. và sau đó là những bữa cơm đơn sơ, nơi ở là một ngôi nhà sàn nhỏ bé đơn sơ. các cô chú luôn có thái độ gần gũi với mọi người, yêu thương, quan tâm đến cuộc sống của mọi người và cuộc sống của các cháu. mỗi câu chuyện về anh đều mang đến những cảm xúc xúc động, những bài học để chúng ta noi theo. Chính vì vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân kính yêu gọi bằng cái tên rất đỗi thân thương và kính trọng: Bác Hồ, vị cha già của dân tộc.

    tường thuật về tác giả văn học – xuan dieu

    bài tường thuật về nhà thơ xuân điều – mẫu 1

    xuan dieu là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, một nhà thơ xuất sắc đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp hiện đại hóa nền thơ Việt Nam. anh ấy là một người đàn ông với tất cả trái tim, tất cả tâm trí, tất cả tâm hồn, người nhiệt thành cống hiến cuộc đời mình cho thơ ca, chạy đua với thời gian để giành lấy mọi khoảnh khắc của cuộc sống.

    Nói đến xuân sắc (1916-1985), trước hết phải nói đến cuộc đời của nhà thơ. xuan dieu là bút danh, tên thật là ngo xuan dieu. cha là người ngoài xuân thọ, quê ở xã giao nha, nay là thị trấn, huyện can lộc, tỉnh hà tĩnh, đỗ đôi trung học phổ thông, về bình định dạy học, lấy chồng, sinh ra nguyễn thị hiep.xuan dieu in mo boi, tuy phuoc district, Binh Dinh province. Xuân Diệu ở quê mẹ khi còn nhỏ, lên mười tuổi thì sống với cha.

    xuan dieu được đào tạo thường xuyên. Khi còn nhỏ, tôi học chữ thảo và chữ quốc ngữ với cha, sau đó tôi học trường Bưởi (Hà Nội) và trường Khải Định (Huế).

    Năm 1940, Xuân Diệu đậu tư vấn ở Ty Thương chính rồi làm việc ở Ty Thương chính Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Sau 4 năm làm công chức, anh xin nghỉ việc và chuyển đến Hà Nội kiếm sống bằng nghề viết văn. xuan dieu là người đứng thứ hai sau tan da, một người dám sống hết mình với sự nghiệp văn chương cao đẹp.

    Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu hăng hái tham gia các hoạt động văn nghệ phục vụ hai cuộc kháng chiến. Năm 1948, Xuân Diệu được bầu vào ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Sau đó, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 1, 2, 3 (1957-1985). Ông được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ báo chí (1983). xuan dieu được nhận giải thưởng văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh (đợt i – 1996). Sự thành công của xuân khảo được quyết định bởi nhiều yếu tố, nhưng không thể không kể đến ảnh hưởng to lớn của nhà thơ đối với sự nghiệp văn chương của ông.

    Xuân Diệu là một người có tinh thần lao động nghệ thuật say mê và bền bỉ từ nhỏ “cha ngoài, mẹ trong – cô thợ quàng khăn đỏ”. Xuân Diệu trước hết học được ở người cha, người thợ thủ công đức tính cần cù, nhẫn nại trong học tập, rèn luyện thành tài và lao động nghệ thuật. vào mùa xuân, học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo đồng thời là cam kết khắc khổ, là lý do sống và đam mê lớn.

    người lu từng nhận xét về xuan dieu: “một tâm hồn đa tình và rất tình cảm”. sinh ra và lớn lên trên quê hương, sống giữa thiên nhiên phóng khoáng với sóng gió biển khơi đã ảnh hưởng đến tâm hồn thơ nồng nàn, sôi nổi của anh. anh phải sống trong hoàn cảnh khó khăn, lại là con của vợ lẽ, từ nhỏ đã phải xa mẹ và nhiều lần bị từ chối. Chính vì lẽ đó, thơ ông luôn thể hiện khát vọng tri âm của tâm hồn, khát vọng giao cảm mãnh liệt, sâu sắc với cuộc đời. trung thành với ý kiến ​​của một nhà phê bình đã đánh giá cao: “xuuuuu là nhà thơ của khát vọng giao cảm với cuộc đời.”

    Về quá trình rèn luyện: Một mặt tiếp thu, học hỏi văn hóa phương Đông từ cha ông là một nhà Nho, tích cực tìm tòi kiến ​​thức cổ và văn hóa truyền thống. Mặt khác, Xuân Diệu là một học giả phương Tây đã tiếp thu một cách có hệ thống ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là các nhà văn Pháp và tượng trưng. do đó, có thể tìm thấy ở nhà thơ sự kết hợp giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại đông và tây trong tư tưởng và cảm nhận thẩm mỹ. trong đó yếu tố phương Tây hiện có ảnh hưởng sâu rộng hơn.

    bài tường thuật về nhà thơ xuân điều – mẫu 2

    Cuộc đời của một nghệ sĩ gắn liền với những thăng trầm, có lúc được yêu, có lúc bị ghét. nhưng trên hết, nghệ thuật của họ vẫn trường tồn với thế giới qua hàng nghìn năm, người ta vẫn sẽ nhắc đến những nghệ sĩ đó để ngưỡng mộ và tri ân. Chúng ta sẽ không thể không nhắc đến Xuân Diệu như một nghệ sĩ lớn của dân tộc, người đã dìu dắt thơ ca qua bao thăng trầm!

    xuan dieu sinh năm 1916, mất năm 1985, tên thật là ngo xuan dieu, thỉnh lấy bút danh là trạo nha, là tên làng quê anh. Cha ông là người Hà Tĩnh, nhưng ông lớn lên trên mảnh đất Quy Nhơn. bởi vậy, trong đó, là sự cần cù của người dân Hà Tĩnh, nắng gió miền biển lệ. chính quê hương đã trở thành nhân tố quan trọng tạo nên hồn thơ xuân. ông là con của một nhà Nho, ông được giáo dục trong bầu không khí của văn hóa Pháp. Vì vậy, thơ ông vẫn giữ được nét cổ điển của Việt Nam ngàn năm, nhưng mang đậm làn gió tây mới. đây chính là bàn đạp để xuân điệu trở thành ‘nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới’. chính anh cũng phải thừa nhận:

    “Tôi nhớ rimbaud với các nhà thơ say rượu verlainehai”

    xuan yao phát triển sự nghiệp rực rỡ nhất vào những năm 30-45 của thế kỷ 20. Chính lúc đó thơ ca bước vào quá trình đổi mới, cái tôi cá nhân được nâng cao hơn bao giờ hết. Với hai tập thơ “Thả hương cho gió”, Xuân Diệu đã trở thành một nhà thơ trữ tình lớn, được giới hoài niệm trìu mến gọi là “tác phẩm mới nhất trong các nhà thơ mới”. Tham gia vào Tự lực văn đoàn, Xuân Diệu với tư cách là thủ lĩnh của phong trào thơ mới. Sự nghiệp của ông còn được đánh dấu bằng truyện “son phấn”, tác phẩm “thơ dài” và hàng loạt bài phê bình văn học. Để lại một kho tàng văn học đồ sộ, Xuân Diệu dấn thân vào sự vĩnh hằng của thời gian. Cách mạng bùng nổ, Xuân Diệu lại làm nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia kháng chiến, giữ nhiều chức vụ quan trọng. Thành tích của anh đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật ghi nhận, đó là sự khẳng định tài năng lớn.

    Nói đến thơ của xuân khảo, trần đăng khoa đã dùng ba từ “tài hoa, tinh xảo, sang trọng”. thơ ông chịu nhiều ảnh hưởng của văn học phương Tây, đặc biệt là tiếng Pháp, cả từ nội dung truyền cảm đến hình thức thơ. đó là lý do xuân điệu thường có những khám phá mới trong thơ mình. anh ta thường quan niệm rằng, theo thời gian tuyến tính, anh ta ra đi không trở lại. vì vậy, anh luôn tiếc nuối về quãng thời gian, tuổi trẻ của mình đã trôi qua. có một nhà thơ dừng chân giữa mùa xuân với bao nỗi niềm:

    xuân đến nghĩa là xuân đi qua, xuân trẻ nghĩa xuân sẽ già

    Không chỉ thời tiết, điều anh ấy tiếc nuối nhất chính là tuổi trẻ. với anh, con người trong lành, xanh tươi là đẹp nhất, đáng sống nhất. cái chết của tuổi trẻ có nghĩa là sự sống của con người không còn nữa:

    làm sao tôi có thể nói rằng thanh xuân vẫn tiếp tục tuần hoàn nếu tuổi trẻ không hai lần trở lại

    Quan niệm này bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng phương Tây: “ôi đau đớn, thời gian ăn đứt cuộc sống”.

    Không giống như các nhà thơ cùng thời trốn tránh thực tại, xuân điều yêu mến đất trời, tìm vẻ đẹp xanh tươi của thế giới này. mà nhà thơ luôn khao khát được sống để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống:

    Tôi ôm cánh tay của mình và biến chúng thành rắn, làm cho sợi dây da quấn quanh người. mùa xuân không muốn rời xa, mãi trong vườn chân đất bén rễ hút mùa dưới lòng đất

    có lẽ chỉ đến mùa xuân, chúng ta mới có thể tận hưởng một đôi mắt xanh nhìn đời. không chỉ yêu đời, nhà thơ luôn muốn đắm mình trong tình yêu, khao khát tình yêu được đáp lại. không ngoa khi người ta gọi xuan dieu là “ông hoàng thơ tình”:

    <3

    Nói đến những nét đặc sắc về nghệ thuật của thơ Xuân điệu, ta không thể không nhắc đến tính truyền miệng đầy sáng tạo của ông. chịu ảnh hưởng của văn hóa phương tây nên nó thường có những từ mới như “suối rung lá lay”. thơ ông thường là sự tương tác mạnh mẽ giữa các giác quan “oái oăm hồng, anh muốn cắn em”. Nhà thơ Xuân Diệu đã thực sự thổi một luồng gió mới, trong lành và tươi sáng hơn vào thơ ca Việt Nam.

    bài tường thuật về nhà thơ xuân điều – mẫu 3

    Nhà thơ Xuân Diệu đã để lại một sự nghiệp thơ ca, có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam. đã mang đến cho nền thơ đương đại một luồng sinh khí mới, thể hiện một quan niệm sống mới cùng với những sáng tạo nghệ thuật đầy sáng tạo.

    nhà thơ của tình yêu mùa xuân sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại tỉnh Bình Định. sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Hà Tĩnh. xuan dieu đã xếp hạng nổi tiếng thứ 79876 trên thế giới và thứ ba trong danh sách Nhà thơ tình nổi tiếng.

    Sau khi tốt nghiệp cấp 3, ông ra trường tư thục và làm công chức tại Mỹ Thọ (nay là Tiền Giang), sau đó chuyển lên Hà Nội viết văn kiếm sống. Năm 1943, ông tốt nghiệp cử nhân luật và trở về làm công việc tư vấn kinh doanh tại Mỹ. uu.

    Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, Đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, sau đó gia nhập Đảng Cộng sản. sau cách mạng tháng 8, ông làm việc ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí tiền phong của hội. Sau đó, ông công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, làm thư ký cho một tạp chí văn học ở Việt Bắc.

    Xuân Diệu tham gia Ban chấp hành và là ủy viên thường trực Hội Nhà văn Việt Nam trong nhiều năm.

    nhà thơ xuan dieu được mệnh danh là “ông hoàng của những bài thơ tình”. là một cây đại thụ của lĩnh vực thơ ca, chúng ta cùng tìm hiểu qua hai thời kỳ chính là trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. tác phẩm chính: tập thơ “thơ” (1938) và “gửi hương cho gió” (1945). nội dung của thơ xuân sắc giai đoạn này là: say mê thế giới bên ngoài, bộc trực, cháy bỏng, mãnh liệt khát khao giao tiếp với cuộc đời “vội vàng”, “khẩn trương”. nỗi cô đơn choáng ngợp của cái tôi nhỏ bé trong dòng thời gian không có giới hạn, trong không gian không có điểm kết thúc (lời của cô gái điếm). nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lí sống: lí do sống vội “vội vàng”. khát khao cháy bỏng được hòa mình trọn vẹn vào cuộc sống đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau, nỗi niềm trong nỗi nhớ mong được lãng quên thật phũ phàng khi đối mặt với kiếp “dại dột”, “nước đổ lá khoai”

    sau cách mạng, thơ thần kì mùa xuân vươn tới những chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi nhỏ bé đến cái tôi chung của mọi người” (p.eluya). Xuân Diệu nay đã trở thành một nhà thơ hoạt động cách mạng đầy nhiệt huyết và tích cực, ông đã có những vần thơ hay trong giai đoạn đầu của mình. Xuân Diệu đón nhận cách mạng với “lá quốc kỳ” (1945) và “hội nghị miền núi” (1946) với tấm lòng tràn đầy niềm vui vì sự nghiệp lớn của cuộc đời, niềm vui lớn của cách mạng.

    cùng với sự đổi mới của đất nước, điệu xuân đã có nhiều đổi thay trong hồn thơ

    ý thức về cái tôi của công dân, của một nghệ sĩ, của một trí thức yêu nước trước hiện thực cuộc sống. đất nước đã truyền cho anh những nguồn cảm hứng mới. nhà thơ hăng hái viết về Đảng, Bác Hồ, quê hương đất nước Việt Nam, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thống nhất đất nước. tác phẩm tiêu biểu: tập “riêng và chung” (1960), “hai làn sóng” (1967), tập “hồn tôi có cánh” (1976) …

    Từ những năm 1960 trở đi, Xuân Diệu tiếp tục làm thơ tình. thơ tình xuân tuyệt vời lúc này không hề cạn kiệt mà có thêm nguồn cảm hứng mới. trước cách mạng, tình yêu trong thơ của họ đa phần là xa cách, lẻ loi, chia lìa, tan vỡ… nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không còn là hai vũ trụ nhỏ nữa mà hòa đồng với mọi người. tình yêu lứa đôi hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước. xuan dieu nhắc đến nhiều tình cảm gắn bó thủy chung, hạnh phúc, sum họp, không cô đơn lẻ bóng (dấu ẩn), “biển”, “giọng”, “đứng vì em”).

    tường thuật về tác giả văn học – nguyễn bình minh

    bướng bỉnh nguyen tóm tắt tường thuật

    1. mở đầu

    nguyen tinh khiem là một nhà Nho tài năng và ngay thẳng, người có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam.

    2. nội dung bài đăng

    2.1. tiểu sử – cuộc đời

    – Nguyễn Tính Khiêm (1491-1585) quê ở làng Trung Am, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng.

    – năm 1535, ông đỗ trạng nguyên và trở thành quan của triều đình.

    – Khi làm quan, ông dâng sớ xin chém đầu mười tám công thần, nhưng vua không nghe.

    – sau đó về quê, lập tiệm trung tân, lập bach van am, lấy hiệu là cư sĩ bach van.

    – Ông dạy học, học trò của ông có nhiều người nổi tiếng, nên được người đời tôn xưng là tuyet giang phu tử (bậc thầy của dòng sông tuyết).

    – nguyễn ngoan cố là người có học thức uyên thâm. Vua Mộ cũng như các chúa Trịnh, chúa Nguyễn có những việc quan trọng phải hỏi ý kiến ​​ông và ông đã có cách bí mật dặn dò họ để hạn chế chiến tranh và chết chóc.

    – tuy ở ẩn nhưng ông vẫn tham khảo ý kiến ​​của triều đình. ông được phong là phục quốc hầu tước bang nên được gọi là trạng.

    2.2. sự nghiệp văn học

    a. công việc chính:

    * thơ chữ Hán

    – về thơ chữ Hán, anh có tuyển tập thơ lục bát, anh nói có khoảng một nghìn bài thơ, hiện nay còn khoảng 800 bài.

    – trong lời tựa cho tuyển tập thơ chữ Hán của mình, ông viết: “… tuy nhiên, căn bệnh mê thơ lâu năm vẫn chưa chữa khỏi, lúc nào thảnh thơi, tôi tỉnh lại và ngâm vịnh. , dù ca ngợi vẻ đẹp của núi non nước, hay vẽ những nét thanh tú của hoa tre, hoặc cảnh vật, câu chuyện được kể lại, tất cả đều được ghi lại trong thơ ca, với hàng nghìn bài báo, đã được biên tập. trong sách, đồng âm là tuyển tập thơ am bach văn “(bach văn am thi thu tiền).

    * thơ du mục

    – Về thơ chữ nôm, có bach văn quốc ngữ (hay còn gọi là quốc ngữ văn chương), chính anh đã viết sáng tác của mình từ khi về quê, nhưng không nói rõ là như thế nào. rất nhiều bài hát, hiện còn khoảng 180 bài.

    – Thơ văn của cụ Nguyễn theo thể thơ thất ngôn bát cú xen lục ngôn, nhưng thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài thơ mà các nhà biên soạn sau này làm. Theo gia phả (bach van am cư sĩ nguyễn văn ký) của vu kham lan, nguyên binh khiem cũng có một bài phú của quốc ngữ, nhưng nay đã thất truyền.

    * các thể loại khác

    – Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ Nôm) còn lưu giữ đến ngày nay, Trạng nguyên bình minh còn để lại nhiều bài văn bia nổi tiếng như trung tân quan bi ký. kỷ, đài khánh ký, tượng tam giao bi minh … hầu hết các tấm bia do ông tạc trong thời gian sinh hoạt của mình đã bị thất lạc, hư hỏng qua nhiều thế kỷ, nhưng nhiều văn bia do người đương thời sao chép nhưng vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Một số văn bia do nguyễn phùng lập và khắc trên đá được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện quynh phú tỉnh thái bình (nằm cạnh huyện vinh bảo hải phòng bên kia sông hòa).

    – Nhiều câu chuyện thần thoại được lưu truyền trong dân gian. Sách oracle nom thường có tên trạng (sấm ký) và đa số được viết theo thể lục bát, chẳng hạn như bang sấm, trạng nguyên của chữ quốc ngữ. sấm sét là một hiện tượng văn học cần được điều tra và xác minh thêm.

    b. giá trị văn hóa và tư tưởng

    – Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Sinh Khiêm được ghi nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc.

    – ông là một chính khách, một học giả, một nhà tiên tri … có uy tín, ngoài ra ông còn là một tác gia lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền văn học dân tộc.

    – Các sáng tác của nguyen beng khiem rất phong phú, bao gồm cả chữ Hán và chữ Hán. Nguyễn bướng bỉnh là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ 16.

    – Những tác phẩm của ông có sức ảnh hưởng xuyên suốt, tác động tích cực đến đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy tiến trình văn học dân tộc phát triển.

    – Nguyễn Thanh khiêm được coi là người kế thừa và phát triển xứng đáng của truyền thống thơ dân tộc từ thời đại nguyên niên, giúp văn thơ đạt đến trình độ hoàn thiện cao dưới các triều đại nguyễn du, đồng thời bổ sung cho đậm đặc hơn cả những phẩm chất triết học, suy tư và giáo huấn, để thơ ca trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh sâu sắc hiện thực cuộc sống và hiện thực trạng thái, tầm nhìn chung của một triết gia, trong đó có những trải nghiệm của bản thân. giàu trí tuệ, thơ ông là khát vọng khám phá những quy luật của tự nhiên, của xã hội và của toàn thể con người, thoát ra khỏi sự trì trệ của một thời và có ảnh hưởng sâu rộng cho đến ngày nay. của thơ vừa về tầm vóc văn hoá, vừa về nhân cách của một nhà thơ được thể hiện rõ nét nhất qua khổ thơ khiêm tốn. học giả như gs. nguyễn huệ chi – giáo sư viện văn học) và pgs.ts. Trần Nguyên Việt – Viện Triết học, có chung nhận định rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người mở đầu cho tư tưởng biện chứng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam dưới nhãn quan triết học được thể hiện trong thơ ông.

    – Ngoài những sáng tác văn thơ còn lưu truyền, những văn bia do Nguyễn Phong soạn và khắc trên đá không chỉ có giá trị về mặt lịch sử, khảo cổ học mà còn chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, như quan điểm của họ. trong cuộc sống.

    3. kết thúc

    – Cụ nguyễn là tấm gương sáng về tài năng và nhân cách. tấm gương đó vẫn sáng cho ngày hôm nay và trong tương lai.

    Sau phần nội dung về dàn ý thuyết trình về nguyễn thanh khiem, các em sẽ được đọc tài liệu chia sẻ về một bài văn mẫu để các em tham khảo cách viết bài.

    nh minh nguyen tường thuật – mô hình 1

    Nguyên thang khiem sinh năm 1491, mất năm 1585 tại làng trung xá, huyện vinh lai (nay là xã co am, huyện vinh bảo, ngoại thành hải phòng). Sinh ra trong một gia đình dòng tộc Vọng (cháu nội Thượng thư Như Văn Lan), có học thức, mẹ đều là người tài giỏi nên ngay từ nhỏ Nguyễn đã thấm nhuần truyền thống kỷ cương, nề nếp. . Đặc biệt là cha của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông được cho là một người có tài về văn chương và rất thông thạo về địa lý và thuật số. Ngay từ khi bà Nguyễn bướng bỉnh khóc khi thấy con có hình hài khác thường, bà đã dốc hết tâm sức rèn luyện cho con thành tài để giúp nước, cứu đời. Sự thôi thúc ấy đã khiến Nguyễn bướng bỉnh khiêm tốn sớm tìm được người thầy có đạo đức cao, người xưa với Long nhãn Lương Đắc Bằng. với đầu óc nhạy bén, thông minh ngay từ nhỏ, gặp thầy giỏi thì như rồng gặp mây. nguyen bướng bỉnh sớm trở thành một tài năng nổi tiếng. và sau này, tài năng học thức uyên thâm của ông đã vượt qua cả người thầy của mình. Theo truyền thuyết, Lương Đắc Bằng là người giỏi Vật lý, đã dạy cho học trò cuốn Thái Ất thần kinh, nhưng có những điều trong sách đó Lương Đắc Bằng không hiểu, mà sau này chỉ có họ Nguyễn ngoan cố mới hiểu được.

    Lớn lên trong một thời kỳ lịch sử suy thoái, các phe phái trong triều đình ghen ghét và giết hại lẫn nhau. Năm 1572, Mộ Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập triều đại mới. Vì vậy, suốt đời chàng trai họ Nguyễn phải sống ẩn dật, không thể hiện được tài năng của mình. mãi đến năm 1535, lúc này ông đã 45 tuổi, ông mới đi thi. ba lần thi hương, thi hội và thi dinh ong đỗ đầu, đỗ trạng nguyên. Từ đó ông làm quan đến chức Tân triều, phong tước Thị lang (hạng ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc yêu mến chúa Nguyễn ngoan cố. ông hy vọng rằng triều đại Mao có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mộ Đăng Doanh và truy phong làm hoàng đế. Doanh nhân là người có chí cầu tiến. nguyễn kiệt, một học giả uyên thâm, một trí thức quốc gia đã thấy. và hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể dẫn dắt đất nước thoát khỏi tình trạng hỗn loạn do các vị vua của triều đại pera và các tập đoàn phong kiến ​​trước đây gây ra.

    nhưng sự tự tin đó đã bị thất vọng. là người uyên bác, học rộng, trong thơ ông thường nhắc đến những thăng trầm “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến thành phu thê) của đất trời, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như “phù vân. “. “. đồng cảm với” vận mệnh “của dân tộc và đồng cảm sâu sắc với cảnh ngộ của những” dân đen “,” những đứa trẻ đỏ “. Ông rất mong muốn đất nước được thịnh vượng và thái bình. Theo truyền thuyết, dường như điều đó tránh khói lửa chiến tranh, lòng dân bất hòa và dự báo về thời thế, vận mệnh đất nước trong hoàn cảnh đó chưa thể có lực lượng đủ sức đảm đương việc thống nhất đất nước nên khi các tập đoàn phong kiến ​​đến xin. một kế hoạch, họ đưa ra các phương pháp khác nhau để giữ vững vị trí “chân vạc”. năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy chính Nguyên uông đã bị cảnh sát giết, lo lắng cho “số phận”, nên ông đã bí mật cho người sau hỏi về. an nguy của mình, nguyễn hiên ngang: “hoàng sơn nhất địa, vạn đại dung thân” ý nói: tựa vào dải núi ngang có thể lập nghiệp lâu dài). Vì vậy, Nguyễn Hoàng liền sai em rể là Trịnh Kiên cho vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa (từ Đèo Qua).

    Ở thang long, lúc đó chúa trinh cũng định uy hiếp vua chúa và muốn phế truất ông nên đã hỏi ý kiến ​​của nguyễn. Ông ta không đáp mà lặng lẽ đưa sứ giả vào thăm chùa và nói với nhà sư “nếu giữ chùa thờ phật thì ăn tiền”, ngụ ý muốn khuyên nhà vua phải tôn trọng nhà lê, nên thế. sức mạnh của anh ta sẽ được bảo toàn. nếu tự ý bãi bỏ sẽ dẫn đến tàn quân. Về phần mo triều, sau những cuộc chiến tranh liên miên, ông phải chạy trốn lên đỉnh cao với tư thế phòng thủ, nên nhà vua sai người đến hỏi ý kiến ​​của ông, và ông trả lời: “Người cao như người nhỏ, thể chất được.” (cao bằng mặt đất thì hẹp nhưng có thể duy trì được vài đời). Tất nhiên, phải đến năm 1688, sau ba thế hệ giữ đất ở mức cao, ngôi nhà sàn này mới bị phá hủy. Những truyền thuyết trên muốn chứng minh rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo lường, am hiểu bí mật của sách Thái giám thần kinh. và còn có truyền thuyết về công trạng với tiên nhân bang. Tương truyền, trong cuốn sách đó ông đã tiên tri và tiên đoán những sự kiện của thế giới, thời điểm sẽ xảy ra “năm trăm năm sau”. Đúng hay sai vẫn còn là vấn đề cần nghiên cứu sự khẳng định hay phủ nhận của các học giả Việt Nam sau này để khôi phục lại giá trị xứng đáng cho Trạng Trình. tất nhiên cần phải khẳng định một điều: nguyễn binh khiêm thực sự là một học giả về “thiên văn, địa lý, nhân minh” (thiên văn trên trời, địa lý dưới đất, giữa con người).

    Nguyễn Thanh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn học, thơ ca có giá trị như: tập thơ lục bát (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn sót lại) và hai tập: trình quốc công văn thi tập và quốc ngữ nguyễn. cuong khiem thi tap, hay còn gọi là bach văn quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ bằng chữ Nôm). Thơ Nguyễn giàu chất hiện thực và truyền tải triết lý sâu sắc của thời đại. ông phê phán gay gắt những kẻ tham ô dù để hút máu, mủ của người ta. thơ ông còn truyền tải đến thiên hạ những đạo lý đối nhân xử thế, đạo lý vua tôi, tình cha con, tình bạn bè làng xóm. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho đất nước, yêu thiên hạ, yêu đồng bào, một tâm hồn thủy chung son sắt với đạo lý: “thiên hạ vui vẻ, nhi đồng hạnh phúc”. (lo) trước sự quan tâm của thế giới, sau niềm vui của thế giới). vì vậy, khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo được những nhân tài “kinh thiên động địa” cho đời. một số học trò của ông cũng trở thành những danh tướng, trạng nguyên như: phùng tướng quân, hào kiệt, nguyễn lệ …

    Có thể nói, vào thế kỷ XVI, Nguyễn Binh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. tư tưởng triết học của ông “không bận tâm đi sâu vào hiện tại duy lý… để tìm kiếm các khái niệm bản thể học như lão tử, chẳng hạn như triết học phật giáo hoặc một số phương án khác nhằm ngụy biện cho chuang tzu. ông hiểu triết lý sâu sắc, nhưng không đi vào những điều tầm thường, không giải thích lý do quá sâu, đôi khi khó hiểu hoặc chia tóc thành từng phần để tìm hiểu và giải thích nhiều điều mơ hồ và khó hiểu về mặt khái niệm. với trí tuệ vốn có của mình, triều đình mo và học giả đương thời đã phong cho ông là Hầu tước tuấn tú, tức là một hầu tước đã khởi xướng dòng triết học hiện nay của ông – hai triết gia đã khám phá ra phái dương thế của tông giáo), hay người đời còn gọi ông là Tuy nhiên, triết học của ông là một triết học đã được hồi sinh, được thể hiện trong thơ ca như một gợi ý chắt lọc từ ý thức triết học đã tập hợp những biện chứng có vẻ thô sơ để ứng phó với nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội. thiền định xung quanh bạn. Trong thơ ông, ngoài triết lý sống, nổi bật lên những tư tưởng chiêm nghiệm, truy tìm như muốn khái quát “quy luật” của cuộc đời qua các phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông thường sử dụng các cặp phạm trù đối lập như: đen – trắng, tốt – xấu, đầy – rỗng, sinh – tử, vuông – tròn để giải thích triết lý sống của mình.

    tuy nhiên, “một hạn chế dễ thấy trong tư tưởng triết học của nguyễn binh minh là mặc dù hiểu phép biện chứng nhưng ông vẫn có một chủ nghĩa duy tâm mạnh mẽ. vòng tuần hoàn … mà ông đã tiếp thu được trong nền giáo dục Nho học đương thời, ngoài một phép biện chứng thô sơ. Đây cũng là hạn chế tự nhiên của nhiều triết gia cổ đại “(đạo đức kinh).

    Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con người thế kỷ 16, Nguyễn Bính Khiêm xứng đáng là “cây đại thụ”, học giả, triết gia của thế kỷ.

    nh minh nguyen tường thuật – mô hình 2

    Nguyên tinh khiem (1491 – 1585), hiệu là Nguyễn Văn Dật, hiệu là hanh phu, biệt hiệu là Bách văn cư sĩ, được các đệ tử tôn là tuyet giang phu tử, là một trong những bậc danh nhân. có tầm ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử và văn hóa Việt Nam thế kỷ 16. Ông được nhiều người biết đến với tư cách đạo đức, tài làm thơ của một nhà giáo nổi tiếng trong các triều đại nam – bắc triều (le – mo’s war), cũng như khả năng tiên tri những diễn biến của lịch sử Việt Nam. sau khi thi đỗ trạng nguyên khoa Ất Mùi (1535) và làm quan trong triều, ông được ban tước phục, sau thăng lên chức Quốc công, dân gian quen gọi là Trạng nguyên. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và tôn ông là Thanh Sơn Đạo Tổ hay Thanh Sơn Chân Nhân. Người ta coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam và ông truyền lại nhiều lời tích được cho là có nguồn gốc từ ông và được gọi chung là thần tích. Cụ Trạng Nguyên cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức hơn qua các tác phẩm của mình còn tồn tại cho đến ngày nay.

    Nguyên thang khiem tên khai sinh là Nguyễn Văn Dữ, sinh năm Quý Hợi, năm Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thanh Tông (1491), vào thời điểm được coi là thịnh vượng nhất của triều Lê. Ông sinh ra tại làng Trung Am, tổng Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, thành phố Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Cha là sinh viên trường Nguyễn Văn Định, tên là cu xuyen, nổi tiếng hay chữ, nhưng chưa trúng tuyển đại học. mẹ anh ấy là bà. Nhữ Thị Thục, con gái út của Tiến sĩ khoa bảng nhà Lan triều Lê Thánh Tông, là một người phụ nữ dũng cảm khác thường, học giỏi, giỏi tướng số nên muốn chọn cho mình một người chồng tài giỏi. . Sinh được một người con trai sau này có thể làm nên sự nghiệp, nhưng đòi hỏi mãi đến khi lớn tuổi mới nghe lời cha lấy vợ là anh Nguyễn Văn Định (ngụ huyện Vĩnh Lại), người có quý tử.

    Quê quán họ Nguyễn ở Thị trấn An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thị trấn Nam Từ, xã Kiền Kiền, huyện Tiên Lãng, TP.Hải Phòng). hai bên thuộc hai phủ, nhưng bên này có thể thấy rõ cây đa đầu làng, ngay bên kia sông han (tuyền giang) nối hai bờ. Về hành vi của Mrs. Như thị thực, các tài liệu nghiên cứu cho đến nay vẫn chưa thống nhất được tính xác thực của những giai thoại phổ biến mà bà đã phê bình bà. Nguyễn Văn Định vì không biết cách nuôi dạy con cái nên đã bỏ nhà cha mẹ vào làng an tự hà (vì có tài về thuật số, bà. Thi thư dự đoán rằng 40 năm sau triều đại của Lê Thanh Tông. triều đại sẽ suy tàn, vì vậy ông muốn dạy cho Nguyễn Văn Dữ học cách làm vua để sau này giành được ngai vàng, điều này trái với pháp quyền, với lời ông Nguyễn Văn Đạt. Nhiều nguồn sử liệu khẳng định rằng sau khi rời khỏi nhà cha mẹ đẻ, nàng đã vượt qua những lễ giáo phong kiến ​​và đi lại, sau đó sinh ra một đốt phò ngạnh (làng bùng nổ, xã phung xã, huyện thạnh). Thừa, Thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ). nhưng nhiều nghiên cứu hiện tại cho thấy điều này rất khó xảy ra vì bà. Nhữ Thị Thục sinh Nguyễn Văn Đạt khi lớn hơn (hơn 20 tuổi) trong khi Phùng Khắc Khoan sinh Nguyễn Tính Khiêm (Nguyễn văn Đạt) đến năm 37 tuổi. một điều nữa là sau khi mất, bà được an táng tại nhà cha mẹ đẻ ở làng an hà, không phải ở làng trung xá với gia đình chồng như quan niệm truyền thống.

    nguyễn ngoan cường được giáo dục từ rất nhỏ trong một gia đình nề nếp. Hầu hết các nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Sinh Khiêm đều nhận thấy ảnh hưởng to lớn của dòng họ mẹ trong việc hình thành nhân cách và tài năng của ông. trong gia phả của dòng họ Nguyễn (thuộc dòng dõi đời thứ bảy của cụ Nguyễn Tinh Khiêm) ở làng an tự hà còn ghi: “Bà cụ hiếu tự hà, cậy cha nuôi đất. nhi tam tue ”, cho thấy mẹ của Nhu thi thuc và ông nội của Nhu van lan đã có công lớn trong việc nuôi nấng Nguyễn Văn Đạt khi anh còn nhỏ. Khi đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng đờn ca tài tử ở làng Lạch Triêu (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi tiếng đương thời, cụ Nguyễn kiên cường lên đất Thanh tìm thầy. tôn giáo. Lương Đắc Bằng từng là Thượng thư, giữ chức Thượng thư dưới triều Lê, nhưng sau khi vua Lê không thực hiện được kế sách ổn định chính quyền, Lương Đắc Bằng đã cử một quan về quê để dạy học. nghiên cứu cuộc sống (1509). Nguyên ngoan cố, thông minh, siêng năng học hành nên sớm trở thành học trò cưng của thầy. đó là lý do tại sao trước khi mất, thần long nhãn đã tặng cho Nguyễn binh minh một bộ sách quý về dịch tễ học (chu dịch) tức là thần kinh tại thế và giao con trai của mình là thụy khanh cho nguyễn binh để dạy dỗ nó một cách khiêm nhường. .

    Lớn lên trong thời đại loạn lạc (thời kỳ đầu triều đại lâm vào khủng hoảng và suy tàn), anh không muốn quay lại vết xe đổ của vị đại thiếu gia xưa kia, nên từ khi trưởng thành cho đến khi nộp đơn đi thi ( 1535), trong hơn 20 năm, Nguyễn Sinh Khiêm đã trượt tới 9 kỳ thi (trong đó có 6 kỳ thi dưới thời Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mộ thay thế nhà Lê Nữ (1527), xã hội dần ổn định, nhưng nhà Nguyễn vẫn ngoan cố, không vội vàng nộp đơn đi thi (ông đã không tham dự 2 kỳ thi đầu tiên dưới thời nhà Môn). Mãi đến năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), người trị vì nước Môn, ông mới quyết định đi thi và đỗ Trạng nguyên. lúc đó anh 45 tuổi. ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông các thư viện (chuyên soạn thảo và biên tập các văn bản triều đình) rồi được bổ làm nhiều chức khác nhau như tả thị lang đến hình bộ, tả thị lang bộ Lại. – Cao đẳng kiêm nhiệm của trường đại học. Nhưng cái chết đột ngột của Mộ Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 ở tuổi 41 (1540) đã chấm dứt thời kỳ được coi là thịnh vượng nhất dưới triều đại nhà Môn, đồng thời nhà Nguyên cũng bị thất thế. một chỗ đứng. dấu hiệu. thực hiện tham vọng quốc gia của họ. Do rối loạn chính trị, giáo phái chia thành các phe phái vì mo hiền tông (mac phuc hai) còn trẻ thay cha, chưa đủ khả năng điều hành chính quyền, nguyễn khiem đã đề nghị trừng trị 18 gian thần (trong đó có con của ông. -in-law es pham dao làm tổng đốc sơn nam) nhưng không được vua chấp thuận. do đó, vào năm 1542, ông xin trở về quê hương sau 8 năm làm quan trong triều.

    sau hai năm dân trí, năm Giáp Tý (1544), vua truy phong ông trả lại tước hầu cho ông, rồi phong ông làm Thượng thư. lại là thứ trưởng, và bị tước quốc tịch. đó là lý do tại sao người ta quen gọi nó là trạng thái. Một số người viết tiểu sử của Nguyễn Bình Minh cho rằng nguồn gốc của tên tuyen tuyen (gắn với chức danh tuyen hou và dang duc) của ông là bắt nguồn từ địa danh của làng trung xá trước đó, không phải bắt nguồn từ họ của người trong. nghĩa là “nguyễn beng khiem là người hiểu rõ ngọn nguồn lý luận của mình trong quá trình sống ở Trung Quốc.”

    gần hai mươi năm từ 53 tuổi đến 73 tuổi, tuy không khá ở kinh đô, nhưng Nguyễn tính khiêm vẫn đảm đương nhiều việc chính sự, có khi bàn việc quốc gia, có khi theo giá vua dẹp loạn, vua của. sa mạc, tôn kính ông như một học giả. nhà vua thường sai sứ đến hỏi han (trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào lịch sử: càng cao càng nhỏ, càng có năng lực), thỉnh thoảng lại đón ông vào kinh đô để bàn việc, rồi ông được. hoàn thành. đến thôn trung xá. Năm 73 tuổi, ông chính thức treo ấn Thượng thư, về quê ở ẩn. Trạng nguyên, để khê hạp, một người bạn cũ của Trạng nguyên, đã làm thơ ca ngợi tài năng và công lao của ông đối với triều đình, trong đó có những câu như “lực bất tòng tâm, trụ trời” (khả năng chống đỡ vua như cột nhà. mà đỡ trời) hay “tứ triều trung đạo” (một tay làm thầy của bốn triều).

    Trong những năm tháng trí thức, cũng như thời gian ở ẩn tại quê hương, ông đã xây dựng một đạo tràng, lấy hiệu là bạch văn cư sĩ, lập tiệm trung tân, xây cầu nghinh phong, và sinh ra Người cho người đỗ đạt thuận lợi và mở trường dạy học dọc sông Tuyết (còn gọi là sông Hàn). chính vì vậy mà sau này, các đệ tử tôn ông là “tuyet giang phú”. các học trò của ông đã có nhiều thành tựu về sau như phùng khốc liệt, ngũ bá khanh, trường thiều niên, đình trung liệt sĩ, hán giang cư sĩ nguyễn văn chinh (con trai cả của ông) … nhiều tài liệu văn học sử chép rằng cụ nguyễn. du (tác giả của truyen ky man luc) cũng là học trò và là chủ nhân của tác phẩm nên truyen ky man luc đã trở thành một truyện cổ tích được vu kham lan truyền tụng. Tuy nhiên, cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Đăng không hề là học trò của Nguyễn Khiêm mà chỉ là một người sống cùng thời với Nguyễn Khiêm. Về chủ đề này, vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu văn học và lịch sử.

    Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585), ông mất tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi, đây là một tuổi thọ hiếm có vào thời bấy giờ. trước khi chết, ông còn dâng lời nhắn nhủ với vua sa mạc: “… thần tài thấy lộc nước suy, lộc nhà phục, ý trời định, sức người đã khó, nếu thuận theo ý trời, xin vua hết lòng tu dưỡng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc, lấy nước làm hàng đầu, trong việc tu bổ văn hoá, ngoài việc tinh tấn võ nghệ, nếu có thể bảo tồn được di sản của tổ tiên, thần chết cũng mãn nguyện ”. Khi đó, hoàng đế Mộ Mao triệu Tể tướng Ung Vương Mộc Đôn Nhượng và Văn Võ Bá Quân đến dự lễ tang để tỏ lòng thành kính. Việc nhà vua cử người mà vua coi là cha của mình đến dự tang lễ một cách ngoan cố thể hiện sự coi trọng của triều đình đối với chúa Nguyễn. triều đình lại sai làm ruộng rộng trăm mẫu, đồng thời cấp cho 3 vạn quan để xây đền thờ Ngài tại quê nhà, vua đích thân cho khắc chữ trên tấm biển trước đền là “Tháng Chạp ngự sử”. . thủ tướng trạng nguyên của “.

    Theo gia phả (bach van am lay nguyen cong van dat pha ky) do dinh lang vu kham lan biên soạn năm 1743, cụ Trạng nguyên có tổng cộng ba vợ và 12 con, trong đó có 7 người. Cũng giống như cha, hầu hết những người con của họ Nguyễn đều theo sự hỗ trợ của gia đình họ Mơ. do đó, sau khi nhà mo sụp đổ dưới tay chúa Lê (1592), con cháu họ phải đổi tên, đổi họ, ly tán. một dòng họ do con trai cả của ông là han giang hạc nguyễn văn chinh, di cư đến khu vực trường yên thuộc hoa lu, ninh bình ngày nay và chuyển từ họ nguyễn sang họ giang để tránh sự trả thù của gia đình. .le trinh. Khi còn sống, cụ Nguyễn sinh khiêm cử người con trai thứ bảy (út) dẫn cháu trai mang bát hương về quê ngoại, xã xây dựng quê mẹ để lo việc mồ mả, thờ cúng. Ông bà ngoại của Lan cùng với mẹ là Nhữ Thị Thục sau này lập nên dòng họ Nguyễn, con cháu hiện trạng ở đất Tiên Lãng.

    si nguyen trai đã đọc “pháp bảo đàn kinh” nhiều lần (tác giả từng viết “nhất tông môn của phái cao khuyển thụ”, “phi ngữ phật môn phi truyền thống” – “du nam hoa tu”) ;

    Sau này, nguyen du viết “kim cương chi kinh” (đọc thuộc “kinh kim cương” hơn một nghìn lần) (“hoàng tử thuyết minh mổ xẻ kinh thach đại”), sau đó nguyễn ngoan cố đăng một bài. “phật độc thân đa cảm”. ông đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo trong cuộc sống và các sáng tác của mình.

    nguyễn ngoan cố là một nhà Nho có cái nhìn sâu sắc và độc đáo về thời cuộc. anh ta đã học được kiến ​​thức về thuyết quả báo từ luồng đặc quyền (thuộc môn phái số học của thuyết tông độ). các học trò của ông tôn trọng ông là con trai của tuyết-giang fuji-một chân nho.

    Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thấy mình có một thái độ sống không mấy lạc quan. nguyễn thang khiem viết những cụm từ tương tự như làm phú, nguyễn trai: “quan tự tin, tự đắc, ngộ ngộ” (biết rằng “mũ tri kỷ” đã mắc nhiều lỗi thân – “hứng, 3”, “bài văn thi tập am “). Nguyễn hiên ngang làm quan với nhà nhưng cũng từ bên trong nhìn ra cảnh điêu tàn. đã làm một nhiệm vụ chống tham nhũng. Về trí thức, Ngài lấy hiệu là Bạch văn Cư sĩ là tín đồ của đạo Phật. (Cha anh, van dinh, dung cu xuyen).

    khi về quê, ông tích cực xây dựng chùa chiền, mở trường học. Mỗi ngày, ông cùng với một số nhà sư và một số bạn bè đi dạo qua những địa điểm đẹp như tranh vẽ, trong đó có núi Yên Tử, trung tâm thiền của Việt Nam. khi nguyen thang khiem chơi ở chùa phò minh (ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà trần), ông đã so sánh pháp giới của nhà phật với quan niệm của thiên hạ: “pháp giới đồng trần quảng đại” cõi trời bao la). chùa du quang ”). điều này chứng tỏ rằng ông đã nhận thức được ý tưởng về “hầu hết các pháp của thế giới và các pháp không phải của Phật giáo” trong “kinh điển kim cương” [7, 56]. Sang đến thời Trung Nguyên, họ Nguyễn hiên ngang hy vọng vào một tình yêu lớn lao: “lòng nhân ái, ta muốn cứu nhiều người bị oan” (“Tục ngữ Trung Nguyên” – bản dịch của Đinh Gia Khánh). Nhà thơ rất hứng khởi khi đọc kinh Phật (“Kinh Phật Cảm Thông”). ông thích triết lý về màu sắc và sự trống rỗng: “xuân hoa, nguyệt hoa không có sắc” (“tân quan là hứng, 12”). đây là hình thức nổi bật “không có nghĩa là không, có nghĩa là không có hình thức” của “kinh bát nhã” Tư tưởng thiền có lẽ đã gây chấn động trong nhận thức của tác giả: “na tri phật không có hình tướng, thiền đạo phương thức thức lai ký nguyên (co ) “(chưa có vị phật hay hình thức không tồn tại, chỉ có thiền mới biết được nguyên lai -” tân chiêm ngưỡng cảm hứng, 18 “). tư tưởng này được tìm thấy trong “kinh Kim Cang”. khi đức Phật nói với tu-bồ-đề: “Mọi vật có sắc tướng đều là ảo ảnh. Nếu bạn thấy tất cả các pháp (dấu hiệu) là huyễn và không thật (không có chữ ký), nghĩa là bạn có thể thấy được các pháp vô tướng (các dấu hiệu thực).) ”[7, 41]. tư tưởng này cũng được tiếp tục trong “pháp bảo đàn kinh”. tác giả nói rằng “bản lai diện mục” trong trường hợp này cũng không phải là ngoại lệ đối với mệnh đề “bản lai diện mục vô song” (“pháp báu đàn kinh”). Khái niệm “căn cứ” ở cuối câu có thể được bắt nguồn từ ký hiệu số học, là pháo đài của Nguyễn Bình Minh. Chính tư tưởng thiền học và kinh Phật đã làm phong phú và nâng cao tinh thần nho học, bản sắc trí tuệ trong thơ văn và cuộc đời họ Nguyễn.

    Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Trạng nguyên được ghi nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. ông là một chính khách, một học giả, một nhà tiên tri … có uy tín mà ông còn là một tác gia lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền văn học dân tộc. Tác phẩm của Nguyễn rất phong phú và bao gồm cả chữ Hán và chữ Hán.

    nguyễn tắc là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Những tác phẩm của ông có tác dụng xuyên suốt, tác động tích cực đến đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần phát triển tiến trình văn học dân tộc. về thơ chữ Hán, ông có tuyển tập thơ lục bát. theo ông có khoảng một nghìn bài thơ, nay còn lại khoảng 800 bài. trong lời tựa cho tuyển tập thơ chữ Hán của mình, ông viết: “… tuy nhiên, căn bệnh mê thơ đã tích tụ lâu ngày không chữa được. Lúc nào thảnh thơi, tôi dậy hứng đọc lại”. . , hoặc ca ngợi cảnh đẹp của núi non sông nước, hoặc vẽ nên nét thanh tú của hoa tre, hoặc cảnh ngụ ý, hoặc những điều kể lại, mọi việc đều được ghi thành thơ về ý muốn, điều này ai cũng hiểu. hàng nghìn bài báo, được biên tập thành sách, đồng âm với tuyển tập thơ am bach văn “(bach van am thi thu tien).

    về bài thơ chữ nôm, ông có bài văn tế quốc ngữ (hay còn gọi là bài văn tế quốc ngữ), bản thân ông cho biết là ông sáng tác từ khi về quê, nhưng ông không nói là ông. đã viết nó bao nhiêu bài, còn lại khoảng 180 bài. Thơ văn của Nguyễn được viết theo thể Đường luật và Đường luật lục bát, nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài thơ, mà việc đó do các nhà biên soạn sau này thực hiện. Theo gia phả (bach van am cư sĩ nguyễn văn ký) của vu kham lan, nguyên binh khiem cũng có một bài phú của quốc ngữ, nhưng nay đã thất truyền.

    trên trang dinh hau vu kham lan, trong bài viết bach van am cư sĩ nguyễn văn ký, sáng tác năm 1743, ông có đôi dòng nhận xét về di sản thơ văn của nguyễn binh khiem: “không cần thanh sắc mà tự nhiên, giản dị mà uyển chuyển, thanh đạm mà đầy hương sắc… như gió mát trăng thanh mà ngàn năm sau vẫn tưởng thấy được ”. Nhà thơ triều Nguyễn nổi tiếng Phan Huy Chú trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí trong phần văn học, cũng có quan điểm như Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ trạng nguyên. của các chủ đề: “thanh tao, tao nhã, tốt bụng, tao nhã, với một sở thích tự nhiên.”

    dưới dạng pgs.ts. Trần thị bang thanh (viện văn học) đã đánh giá Nguyễn binh khiem là nhà thơ viết nhiều nhất trong 5 thế kỷ đầu của văn học viết Việt Nam.

    Về số lượng, nguyễn ngoan cố là vô địch. tuy nhiên, vấn đề không chỉ là số lượng. Nguyễn bướng bỉnh có một phong cách thơ không lẫn vào đâu được. Ai cũng biết rằng một nguyên tắc thẩm mỹ quan trọng của thơ ca trung đại là “thơ chí”, một nguyên tắc thường được các học giả hiện đại coi là hạn chế tính thẩm mỹ của thơ ca mà ngay cả các nhà thơ cổ đại cũng không được đồng nhất tuân theo. tuy nhiên, nguyen ngoan cố tuân thủ một cách “trọn vẹn” và với cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ. đối với ông, văn xuôi, tự sự, tự truyện phải có ý chí, và phong cách riêng của ông cũng được định đoạt từ những câu thơ ấy. thơ văn của ông thể hiện tính ưu việt của thời đại, giàu tính triết lý, giáo huấn mà vẫn gần gũi, dễ tiếp thu.

    theo gs. Nguyễn Huệ Chi trong tiểu luận “Bước đầu nghĩ về văn học mac”, thơ Nguyễn binh minh đã đánh dấu sự khởi đầu của một lối tư duy mới trong quá trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. đó là suy nghĩ thế gian. thơ vẫn trữ tình nhưng là “trữ tình có lý”. nó mang hình thức không phải của tư duy cảm tính mà là tư duy lý trí, nhìn thẳng vào xã hội, nên được gọi là tư duy thế gian. vì vậy, đoạn thơ có sức phát hiện và tính hiện thực đáng chú ý. Nguyễn kiên cường nhìn vào những ngóc ngách của xã hội để thấy được bức tranh xã hội phức tạp phát triển tự nhiên vì đó là bức tranh xã hội hiện thực. bởi vì nó là tư duy thế gian, nó cũng nhìn sâu vào tâm lý con người. trong khi ở thời trước (điển hình là vào thời Lê Thanh Tông), mọi thứ trong xã hội đều được quy ước hóa, xây dựng và tôn tạo thành một xã hội chung, ở mọi nơi đều giống nhau.

    Nguyễn Thanh khiêm được coi là người kế thừa sự phát triển, chắt lọc của thơ ca dân tộc từ thời Nguyễn Trãi, đồng thời bổ sung thêm chất triết lý, chiêm nghiệm, giáo huấn đậm đặc hơn, đưa thơ ca trở thành công cụ hữu ích, phục vụ nhân dân. , phản ánh hiện thực cuộc sống và tâm trạng một cách sâu sắc, có cái nhìn khái quát về một triết gia, trong đó có những trải nghiệm của bản thân. giàu trí tuệ, thơ ông là khát vọng khám phá những quy luật của tự nhiên, của xã hội và của cả con người, thoát ra khỏi sự trì trệ của một thời và có ảnh hưởng sâu rộng cho đến ngày nay. của thơ, cả về tầm vóc văn hoá và nhân cách của một nhà thơ, được thể hiện rõ nét nhất qua khổ thơ khiêm tốn. học giả như gs. nguyễn huệ chi (viện văn học) và pgs.ts. Trần Nguyên Việt (Viện triết học) có cùng quan điểm khi cho rằng Nguyễn binh khiem là người mở đầu cho tư tưởng biện chứng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam dưới nhãn quan triết học được thể hiện trong thơ ông.

    Ngoài di sản văn học hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ Nôm) còn lưu giữ đến ngày nay, Nguyễn Bình Minh còn để lại nhiều văn bia nổi tiếng như Trung Tân Quán Bí Ký, Thạch Khánh Ký, Tâm Tượng Gio. De bi minh … hầu hết các tấm bia ông tạc trong suốt cuộc đời của mình đã bị thất lạc, hư hỏng qua nhiều thế kỷ, nhưng nhiều tấm bia đã được người đương thời sao chép nhưng vẫn còn tồn tại. Một số văn bia do Nguyễn Phương soạn và khắc trên đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (nằm cạnh huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng bên kia sông Hóa). Những văn bia đó không chỉ có giá trị lịch sử, khảo cổ học mà còn chứa đựng nhiều giá trị về tư tưởng, nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm. trong đó có giá trị nhất là văn bia ở nhà hàng trung tân do khiêm tốn Nguyễn phường soạn với nội dung như sau: “… Tôi viết một tấm biển đề tên nhà hàng trung tân. Có người hỏi tôi: tên nhà hàng. là trung tân. nghĩa là gì tôi trả lời rằng: trung tân là trung đạo, duy trì sự hoàn hảo là trung, nếu không thì không phải là trung, và bến đỗ cũng vậy, biết rằng bến chính xác là bến chính, nếu đỗ nhầm là ben em… nghĩa là chữ trung ở chỗ thiện lương… xin ghi trên đá để ở lâu la liệt (1535) thi lang, đồng tư nhân chép lại. đại học sĩ, chinh khanh trung am và nguyễn beng khiem ”(sử gia ngo dang loi dịch). Thông qua bài văn bia này, ông không chủ trương trung thành với một cá nhân dù là vua, nhưng với lẽ phải, sự thật, điều thiện và nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.

    Trong dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện thần thoại. Sách du ký thường có tên trạng (sấm ký) và đa số được viết theo thể lục bát như thể trạng sấm, trạng nguyên của chữ quốc ngữ. sấm sét là một hiện tượng văn học cần được điều tra và xác minh thêm.

    Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Thuyết minh về một nhà văn nhà thơ. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

    Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

    Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

    Chúng tôi Xin cám ơn!

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *