Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
403 lượt xem

Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn phần thơ và truyện – HoaTieu.vn

Bạn đang quan tâm đến Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn phần thơ và truyện – HoaTieu.vn phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn phần thơ và truyện – HoaTieu.vn

Tài liệu ôn thi môn Ngữ văn lớp 10: Giúp các em có thêm tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn. Trong bài viết này, hoatieu xin chia sẻ tổng hợp tài liệu ôn thi môn văn vào 10 phần thơ, truyện giúp các em nắm vững hơn kiến ​​thức trọng tâm của bài thi môn văn lớp 10 và làm bài tốt.

Sau đây là nội dung chi tiết tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn văn giúp các bạn ôn thi vào lớp 10 hiệu quả hơn. vui lòng kiểm tra nó.

sách luyện thi vào lớp 10

thị trấn việc làm – kim kỳ lân

phân tích một câu chuyện thị trấn nhỏ của nhà văn kim kỳ lân

i. điều tra chung:

1. tác giả: kim lan

a. tiểu sử nhà văn kim lan

Kim Lân (1920 – 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Do hoàn cảnh khó khăn nên anh chỉ học hết cấp 1, sau đó làm thợ sơn guốc, chạm khắc màn hình và viết văn.

Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, đóng phim, diễn kịch).

Bút danh kim lan của anh được lấy từ tên của nhân vật đồng kim lan trong tuồng sơn hà, một vai diễn mà anh từng đóng.

nǎm 2001, kim lân được giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.

b. sự nghiệp văn học của nhà văn kim lan

Trong cả hai thời kỳ sáng tác (trước và sau năm 1945), tuy viết không nhiều nhưng ở các thời kỳ đều có những tác phẩm hay.

kim uni là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. ông thường viết về nông thôn và người nông dân. có những trang đặc sắc về phong tục và đời sống của người dân: các trò vui chơi, sinh hoạt văn hóa truyền thống của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ, gọi là “thú đồng”, “nông phong”, các lĩnh vực như: chơi núi, thả chim. , đấu vật, chọi gà, v.v.

ông viết bằng sự chân thành và xúc động về cuộc sống và con người nơi thôn quê, những người hiểu sâu sắc về hoàn cảnh và tâm lý của ông: những con người gắn bó sâu nặng với quê hương, với cách mạng. Dù viết về phong tục hay về con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng những nếp sống, con người ở làng quê Việt Nam nghèo khó, thiếu thốn nhưng ta vẫn yêu đời; thực sự, đơn giản nhưng thông minh, hóm hỉnh, tài năng.

Khác với suy nghĩ của các tác giả cùng đề tài, dân văn học kim lan dù có nhân vật đáng thương cũng không bao giờ bị vây quanh bởi những nhân vật thô kệch, xù xì và lộn xộn. Hình ảnh làng quê và người nông dân trong tác phẩm của Kim Lân không hề đen tối, nghèo nàn mà vẫn toát lên những phẩm chất tươi sáng, yêu đời rất đáng trân trọng và ngợi ca.

tác phẩm chính: vợ chồng (tập truyện ngắn năm 1955), con chó xấu xí (tập truyện ngắn năm 1962).

2. hoạt động:

a. hoàn cảnh tạo nên nó:

– “Làng” được viết và đăng trên các tạp chí mỹ thuật vào năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ này, nhân dân theo chủ trương của chính phủ: kêu gọi đồng bào tản cư, đồng bào vùng tạm chiếm ra chiến khu để cùng nhau chiến đấu lâu dài.

– Kim uni cho biết: “Lúc đó gia đình tôi cũng đi sơ tán. trong khu dân cư mới, đồn rằng làng tôi là làng Việt Nam. họ đều nhìn dân làng với ánh mắt chế giễu và khinh thường. Tôi yêu dân tộc tôi và tôi không nghĩ rằng dân tộc tôi có thể theo giặc Pháp. Tôi viết câu chuyện “làng” để khẳng định niềm tin của mình và khẳng định dân tộc mình. ”(Theo“ Văn học lớp 9 không khó như bạn nghĩ ”).

b. bố cục: 3 đoạn văn:

<3<3

– đoạn 3: còn lại: trạng thái tâm hồn của ông. hai khi anh ta nghĩ rằng làng của mình đã tham gia vào kẻ thù.

c. chủ đề: tình yêu quê hương đất nước.

d. tóm tắt văn bản

Ông nội của anh ấy đến từ thị trấn chợ dầu. trong kháng chiến chống Pháp, ông phải cùng gia đình tản cư. ở đây, tôi luôn nhớ thị và luôn theo dõi tin tức của cách mạng. Khi nghe tin đồn thị trấn chợ Dầu đầu quân cho giặc, ông cảm thấy vô cùng đau khổ, xấu hổ và nhục nhã. Anh không đi đâu, không gặp ai, chỉ sợ nghe tin đồn làng anh theo giặc. nỗi buồn ấy càng tăng lên khi có tin người làng cô không được ở vì là làng quê Việt Nam. Nó không biết nói với ai, nó không dám ra ngoài. Vì vậy ông phải nói chuyện với con trai út để vơi đi nỗi buồn, vơi đi nỗi đau khổ về tinh thần. khi nhận được tin sửa, gương mặt rạng rỡ, vui vẻ. ông phân phát quà cho các con và đau đớn thông báo với mọi người rằng ngôi nhà của ông đã bị phương Tây đốt phá và làng của ông không phải là làng Việt Nam. anh ấy yêu và tự hào về con người của mình.

ii – đọc – hiểu văn bản:

1. tình huống câu chuyện:

a. khái niệm tình huống câu chuyện:

– tình huống truyện là tình huống có vấn đề xuất hiện trong tác phẩm. trong hoàn cảnh đó, nhân vật sẽ có hành động rõ ràng và tiêu biểu nhất về bản chất của mình. tính cách của nhân vật sẽ rõ ràng, chủ đề của tác phẩm sẽ được bộc lộ đầy đủ.

b. Tình huống của câu chuyện trong câu chuyện “thị trấn”:

– đó là khi anh nghe tin thị trấn chợ dầu đang theo chân kẻ thù.

= & gt; hoàn cảnh trái ngược với cảm giác tự hào mạnh mẽ của ông. hải ở thị trấn dầu phụng. khác với suy nghĩ của ông về một dân tộc có “tinh thần cách mạng”.

= & gt; vai trò: diễn biến tâm lí, diễn biến sắc nét của nhân vật, bộc lộ sâu sắc tình yêu nhân dân, lòng yêu nước ở ông. ở đó.

Xét về thực tế, chi tiết này rất hợp lý. về mặt nghệ thuật, nó tạo thành một nút thắt trong lịch sử; gây ra xung đột giữa tâm hồn của ông lão đáng thương và đáng kính; tạo điều kiện để bộc lộ tâm trạng, phẩm chất, tính cách nhân vật chân thực, sâu sắc hơn; góp phần giải quyết chủ đề của tác phẩm: phản ánh và ca ngợi tình yêu thương đồng bào, lòng yêu nước chân chất, chất phác của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. diễn biến của câu chuyện sẽ theo tình huống. wow cái này.

2. tâm trạng của bạn:

a. trước khi nghe tin dân chợ dầu đuổi giặc:

– Tôi nhớ làng lắm – Tôi muốn về làng, tôi muốn tham gia kháng chiến.

– Tôi hy vọng mặt trời để mặt trời tắt lịm.

= & gt; yêu thương, ở lại với nhân dân, tự hào và có trách nhiệm với cuộc kháng chiến của nhân dân.

– trong tòa soạn, đã nghe rất nhiều tin tốt – & gt; tin tức về chiến thắng của chúng tôi – & gt; bên trong của anh ấy tiếp tục nhảy múa – & gt; quan tâm một cách nghiêm túc và say mê đến cuộc kháng chiến.

= & gt; Ông. Hải là một người nông dân, tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó với nhân dân, với kháng chiến.

b. tâm trạng của ông. hai khi nghe tin làng theo giặc:

– khi nghe tin dữ, anh ta choáng váng, vừa xấu hổ vừa uất ức: “Ông già bị tắc hết cả cổ, mặt mũi tê dại. Ông lão lặng đi như không thở được, từ trên cao vui sướng, niềm tin của ông rơi xuống vực thẳm của đau đớn, xấu hổ vì cái tin quá bất ngờ, khi bình tĩnh lại một chút, ông cố không tin. . Nhưng sau đó, người di dời nói về nó một cách quá tự do, cho rằng họ đang ở “ngay đó” nên anh ta không thể không tin điều đó. đã trở mặt với anh, anh không chỉ xấu hổ với người thân mà còn cảm thấy mình đã đánh mất hạnh phúc của chính mình, cuộc sống của anh như chết đi sống lại.

– kể từ lúc đó trong đầu anh chỉ toàn tin xấu xâm chiếm, nó trở thành nỗi ám ảnh dày vò. anh ta nghe thấy tiếng chửi bới của người Việt, “anh ta cúi đầu và bỏ đi.” Về đến nhà, ông nằm vật ra giường nhìn các con mà “nước mắt ông cụ vẫn chảy dài”. bao niềm tự hào về đất nước dường như vỡ vụn trong tâm hồn người nông dân vô cùng yêu quê hương đất nước. anh cảm thấy như thể bản thân anh đang mang nỗi hổ thẹn của một người bán nước theo kẻ thù, và những đứa con của anh cũng vậy.

– trong nhiều ngày anh không dám đi đâu. Anh quanh quẩn trong nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông tụ tập, anh cũng để ý, vài tiếng cười nói đằng xa, anh cũng ngập ngừng. anh ta dường như luôn nghĩ rằng mọi người đang chú ý, mọi người đang nói về “thứ đó”. thoáng chốc anh nghe thấy tiếng tây, tiếng việt, tiếng cam – sarong … anh lui vào một ngôi nhà, nín thở. đừng nói về nó nữa! ”

– ông hai rơi vào trạng thái bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ về tương lai. Anh không biết đi đâu, không thể về làng dự thi, vì về làng lúc này đồng nghĩa với việc đi về miền Tây và phản bội kháng chiến. nó không đủ để ở lại, vì bà chủ nhà đã ra tiếng cấm. Tôi đi thi cũng biết đi đâu vì người dân chưa chấp nhận những địa phương gian xảo của chợ dầu. Nếu như trước đây tình yêu phố thị và tình yêu quê hương hòa quyện thì bây giờ anh buộc phải lựa chọn. quê hương và quê hương, bên nào nặng hơn? đó không phải là điều dễ dàng bởi với anh, xóm chợ dầu đã trở thành một phần của cuộc sống, không dễ gì vứt bỏ nó; và cuộc cách mạng đã cứu cánh cho gia đình anh, giúp gia đình anh thoát khỏi kiếp sống nô lệ. cuối cùng, ông quyết định: “dân chúng yêu thật lòng, nhưng dân chúng theo tây phải báo thù”. vì vậy, tình yêu đồng bào dù có nhiệt thành, mãnh liệt đến đâu cũng không thể nào mạnh hơn tình yêu quê. đó là biểu hiện của vẻ đẹp trong tâm hồn người Việt, khi cần thiết họ sẵn sàng gác lại tình cảm riêng tư để hướng đến tình cảm chung của cả cộng đồng.

– để xoa dịu nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng và chắc chắn với quyết định của mình, tác giả đã cho nhân vật nói chuyện với cậu con trai út của mình (cái mông), giúp cậu bày tỏ tình yêu thương sâu sắc của mình với người dân của mình. dau (nhà ta ở xóm chợ đầu), tỏ lòng trung thành với kháng chiến, với cố nhân (có chết cũng không bao giờ dám sai). – & gt; Đó là một cuộc trò chuyện đầy cảm xúc. nỗi nhớ quê hương, tình yêu quê hương đất nước, nỗi đau khi nghe tin quê hương đuổi giặc cứ thế chồng lên trong lòng ông lão. nhưng một niềm tin sắt đá vẫn cháy bỏng trong anh, tin tưởng vào cố nhân, tin vào công cuộc kháng chiến của dân tộc. niềm tin ấy đã phần nào giúp anh có thêm sức mạnh để vượt qua khó khăn này. dường như anh đang tự nói với mình, tin tưởng vào lòng mình và tự nhắc nhở mình: hãy luôn “ủng hộ hồ chí minh”. lòng yêu nước và tinh thần yêu nước sâu sắc và thiêng liêng.

= & gt; Vô cùng đau xót khi nghe tin nhân dân ta tham gia đánh giặc, nhưng tấm lòng trung thành, kiên trung với cuộc kháng chiến vẫn không thay đổi.

c. tâm trạng của mr. hai khi tin rằng người dân của mình đang theo kẻ thù, ông đã sửa mình.

– chỉ khi ông Hai đưa ra quyết định khó khăn đó, tin phản bội của làng chợ dầu đã được cải chính. Hắn càng đau khổ trong mấy ngày qua bao nhiêu thì lúc này sự phấn khích và hạnh phúc của hắn càng lớn bấy nhiêu. Anh “khoe” với mọi người về cái tin làng anh bị “cháy”, nhà anh bị “thiêu rụi”. nội dung những lời “khoe khoang” của ông có vẻ vô lý vì không ai có thể vui mừng khi chứng kiến ​​cảnh làng mạc, quê hương của mình bị kẻ thù tàn phá. nhưng trong hoàn cảnh này có thể dễ dàng hiểu ra sự phi lý: sự mất mát về vật chất chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà bạn đang nhận được. Biên kịch Kim Uni đã rất sâu sắc trong việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật.

= & gt; từ một người nông dân yêu thành phố, mr. Hải trở thành một công dân một lòng kháng chiến. lòng yêu nhân dân, lòng yêu nước hòa làm một trong suy nghĩ, tình cảm và hành động của họ. tình cảm ấy được thống nhất và hòa quyện khi lòng yêu nước được đặt lên cao hơn, rộng hơn là yêu đồng bào. đây là một nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông. hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

iii. tóm tắt:

1. nội dung:

Câu chuyện thể hiện chân thực, sinh động tình yêu đồng bào, yêu đất nước trong nhân vật ông. ở đó.

2. nghệ thuật:

-tác giả tạo ra các tình huống tường thuật căng thẳng và đầy thử thách.

– xây dựng cốt truyện tâm lý (tập trung vào các tình huống nội tâm của nhân vật).

– nghệ thuật thể hiện tâm lý nhân vật một cách tự nhiên nhưng sâu sắc và tinh tế.

– ngôn ngữ truyền miệng đặc biệt, sống động, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân.

công việc thầm lặng sa pa – nguyễn thanh long

phân tích nhân vật anh thanh niên trong yên lặng sa pa

i – thông tin chung:

1. tác giả:

– Nguyễn Thành Long (1925 – 1991), sinh ra tại Duy Xuyên, Quảng Nam.

– Ông là nhà văn từ thời kháng chiến chống Pháp, ông là nhà văn chuyên viết truyện và ký.

– thường viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 60 – 70 của thế kỷ 20.

– Truyện của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường có chất văn và chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình.

– văn của ông thường phản ánh vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc, làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta yêu đời hơn.

– Nguyễn Thanh Long ngoài viết văn còn viết báo, xuất bản và dịch một số tác phẩm nổi tiếng của văn học nước ngoài.

– tác phẩm tiêu biểu: giữa đồng xanh, tranh mùa tỏi, bát cơm manh áo, gió bắc, chuyện nhà máy, trong gió bão, ..

2. hoạt động:

a. hoàn cảnh tạo nên nó:

– “lặng lẽ sapa” được sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác giả tại Lào cai. đây là một truyện ngắn tiêu biểu về đề tài viết về cuộc sống hòa bình mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc.

– in trong tập “giữa trời xanh” (1972) của nguyễn thanh long.

b. bố cục: 3 đoạn:

– đoạn 1: từ đầu… đến… “nhìn kìa, anh chàng đó”: người thanh niên qua lời giới thiệu của người lái xe.

– đoạn 2: bên cạnh… de… “không có gì cả”: cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa người thanh niên, họa sĩ và kỹ sư.

– đoạn 3: còn lại: lời chia tay đầy cảm động.

c. chủ đề: câu chuyện ca ngợi những con người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

d. tóm tắt văn bản:

Trên chuyến xe Hà Nội – Lào Cai, người họa sĩ già, người lái xe và anh kỹ sư trẻ tình cờ gặp nhau. Người lái xe giới thiệu họa sĩ và kỹ sư với người thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh yên sơn. Trong 30 phút gặp gỡ, chàng trai tặng hoa cô gái, pha trà và tâm sự với mọi người về cuộc sống, công việc của mình. người nghệ sĩ muốn vẽ chân dung của mình. người thanh niên từ chối và giới thiệu anh ta với những người khác mà anh ta cho là xứng đáng hơn mình. những người tình cờ gặp gỡ trở thành bạn thân. Khi chia tay, anh chàng họa sĩ hứa sẽ quay lại, anh kỹ sư cảm thấy phấn khởi và chắc chắn hơn với quyết định đi làm của mình, anh thanh niên đã tặng mọi người một quả trứng.

ii – đọc – hiểu văn bản:

1. tình huống câu chuyện:

– truyện ngắn “lặng lẽ sapa” được xây dựng dựa trên một tình huống truyện khá đơn giản nhưng tự nhiên. đó là cuộc gặp gỡ tình cờ của một số vị khách trên chuyến xe đi sapa với người thanh niên đang làm công việc khí tượng trên đỉnh Yên Sơn.

– Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận lợi để tác giả khắc họa “chân dung” nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung, qua sự quan sát của các nhân vật khác, và qua chính lời nói, hành động của họ. Đồng thời, qua “chân dung” (cả trong cuộc sống và suy nghĩ) của anh thanh niên, qua cảm nhận của các nhân vật khác (chủ yếu là họa sĩ) về anh và những người như anh, tác giả đã làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: Ở vùng núi cao Sa Pa vắng lặng và vắng vẻ, nơi mà nghe tên người ta chỉ nghĩ đến là nghỉ ngơi, vẫn có rất nhiều người đang ngày đêm miệt mài làm việc, tâm huyết với Tổ quốc.

2. cảnh quan thiên nhiên của sapa:

– mặt trời đốt cháy rừng, làm bàng bạc con đèo…

– hoa loa kèn của thung lũng thỉnh thoảng ngẩng đầu bằng hoa tử đinh hương trên màu xanh của rừng.

<3

= & gt; vài nét chấm phá, nghệ thuật nhân hóa, so sánh – & gt; tác giả đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên sapa với vẻ đẹp thuần khiết, thơ mộng đến mê hồn. miêu tả hình ảnh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, từng từ, từng câu đều có đường nét, hình khối, màu sắc. truyện ngắn nhưng giàu nhịp điệu với lời thơ về thiên nhiên đất nước.

3. vẻ đẹp của con người:

a. nhân vật trẻ:

Đây là nhân vật chính của câu chuyện. tuy nhiên, tác giả không để nhân vật xuất hiện ngay từ đầu mà chỉ gián tiếp qua lời giới thiệu ấn tượng của anh tài xế (người là “một trong những kẻ cô độc nhất thế giới”, người có rất nhiều “lòng người” và nếu. người nghệ sĩ đến gặp anh ta, “anh ta thích vẽ”, sau đó anh ta xuất hiện trực tiếp bằng cách gặp gỡ và nói chuyện với các nhân vật khác trong một khoảng thời gian ngắn (ba mươi phút) chỉ 30 phút, nhưng cũng đủ cho những người tiếp xúc để gây ấn tượng: chưa kịp để họa sĩ phác thảo bức chân dung, chưa kịp để anh kỹ sư ngạc nhiên và có chút tri ân với anh, anh đã biến mất vào mây trời bao la và sự tĩnh lặng vĩnh hằng của núi cao sapa, và ai cũng hiểu điều mà người viết muốn nói: trong cái tĩnh lặng của sapa, dưới những cung điện cổ kính của sapa pa, sapa mà chỉ nghe tên thôi là người ta đã nghĩ đến nơi an nghỉ, có người làm việc và vì thế mà lo lắng cho quê hương.

– & gt; Với cách xây dựng câu chuyện như vậy, anh thanh niên đã thể hiện mình qua sự nhìn nhận và đánh giá cao các nhân vật khác: bác tài xế, bác họa sĩ, cô kỹ sư. qua nhận thức và cảm nhận của mỗi người, tính cách của anh thanh niên ngày càng rõ nét và dễ mến.

a.1: tình hình cuộc sống và công việc:

– Lật từng trang viết của Nguyễn Thành Long, chúng ta thấy một chàng trai 27 tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2.600m, làm bạn với mây và cây suốt ngày quanh năm.

– hoạt động trong lĩnh vực khí tượng và địa vật lý. công việc của họ là “đo gió, đo mưa, đo ánh sáng mặt trời, tính toán mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hàng ngày để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. một công việc khó nhưng đòi hỏi sự chính xác, tỉ mỉ và tinh thần trách nhiệm cao. “Nửa đêm, dù trời mưa tuyết, gió rét, đến đúng giờ, chúng tôi phải dậy đi làm.”

– hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn vì sự hấp dẫn, sa mạc; cuộc sống và công việc hơi đơn điệu, đơn giản… đó là một thử thách thực sự đối với những người trẻ đầy nghị lực và khao khát thiên đường và hành động. nhưng điều khó khăn nhất đối với chàng thanh niên đó là vượt qua nỗi cô đơn, sa đọa suốt năm trên núi cao không một bóng người. vừa đến độ “thèm người”, anh chàng đã phải lăn qua gốc cây chặn đường chặn xe khách vượt núi để gặp gỡ nói chuyện.

– và vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp, giản dị nhưng sâu sắc.

a.2. vẻ đẹp trong tính cách của một chàng trai trẻ.

* lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm với công việc:

– Tôi hiểu rằng công việc tôi làm tuy nhỏ nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước và của tất cả mọi người.

– làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có sự giám sát, đã thôi thúc anh ấy phải giữ kỷ luật và tận tâm. trong nhiều năm, ghi chép và báo cáo “op” đúng hạn. đã phải ghi hình và báo cáo về nhà trong cơn mưa cóng, gió lạnh và đêm đen lúc 1h sáng. m., vẫn không do dự.

<3

– anh ấy yêu công việc của mình, nói về nó với niềm đam mê và niềm tự hào. Với anh, công việc là niềm vui và là lý do của cuộc sống. hãy nghe anh tâm sự với nghệ sĩ: “[…] khi làm nghề, chúng ta là một đôi, sao có thể gọi là một mình? hơn nữa để công việc của mình gắn liền với công việc của bao anh chị em ở đó. công việc của anh vất vả quá, nhưng bỏ nó đi, em buồn chết mất “. Qua lời kể của anh và lời tâm sự này, chúng ta hiểu rằng anh đã thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm lặng giữa sapa và sương mù bao phủ.

* biết cách tạo ra cuộc sống văn minh và thơ mộng:

– sống một mình trên núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn nắp: “căn nhà ba gian sạch sẽ, có bàn ghế, sách, biểu đồ, thống kê, máy tính bộ đàm”. cuộc sống riêng tư của anh “thu gọn vào một góc thế giới với chiếc giường nhỏ, bàn học, giá sách”.

– ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà khiến cuộc sống của anh thêm thi vị, giàu có về vật chất và tinh thần.

– cuộc sống của anh không cô đơn và buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn. sách là cầu nối với thế giới bên ngoài nhộn nhịp. (khi người tài xế đưa cho anh gói sách, anh “sướng” như nhặt được vàng)

* chân thành, cởi mở và hiếu khách:

– sống trong hoàn cảnh như vậy, sẽ có người rút dần vào cô độc. nhưng chàng trai trẻ này lại quyến rũ ở “lòng khao khát mọi người”, lòng hiếu khách nồng hậu và sự quan tâm của anh ấy đối với người khác.

– biểu thức:

<3

+ niềm vui sướng điên cuồng khi có khách đến thăm.

+ đón khách niềm nở, chu đáo: chọn một bó hoa đủ sắc màu cho cô gái mà bạn không quen biết: “anh ơi, tự nhiên như với một người bạn thân quen, anh tặng bó hoa cắt cành cho cô gái và tự nhiên Cô ấy đã lấy nó “, pha trà cho nghệ sĩ.

+ trò chuyện cởi mở với họa sĩ và kỹ sư về công việc, cuộc sống và những người bạn của anh ấy tại sapa yên tĩnh.

+ đếm từng phút vì sợ đánh mất ba mươi phút họp quý giá.

+ lưu luyến thân chủ khi chào tạm biệt, xúc động đến mức phải “tái mặt”, ấn vào tay nghệ nhân già quả trứng làm quà, không dám tiễn khách lên xe dù không. Chưa hết thời gian từ “máy bơm”

– & gt; Tất cả những điều này không chỉ thể hiện lòng hiếu khách mà còn là sự cởi mở, chân thành và nhiệt tình đáng quý của anh ấy.

* khiêm tốn, trung thực:

Anh ấy cũng là một người rất khiêm tốn, anh ấy chân thành cảm thấy công việc của người lái xe và những kiến ​​nghị nhiệt tình là không xứng đáng, đóng góp của anh ấy chỉ ở mức trung bình nhỏ, anh ấy còn thua kém cha mình vì anh ấy không thể nhập ngũ, anh ấy đã đi. trực tiếp ra chiến trường đánh địch. Khi người vẽ chân dung từ chối, anh ta lưỡng lự và nhiệt tình giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn anh ta nhiều (kỹ sư vườn cây ăn quả Sapa, người vẽ bản đồ tia chớp …)

= & gt; tóm lại, ít chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong những khoảnh khắc của câu chuyện, tác giả đã phác họa được chân dung nhân vật chính với vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc đời. , về ý nghĩa của công việc. .

= & gt; Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho người dân Sapa, là chân dung của người công nhân mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

b. tính cách của nghệ sĩ:

– Tuy không sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhưng phần lớn ngôi kể đã nhập vào con mắt và suy nghĩ của người nghệ sĩ để quan sát và miêu tả từ khung cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện. từ đó gửi gắm những suy nghĩ về con người và nghệ thuật.

– ngay từ những phút đầu tiên gặp gỡ chàng trai trẻ, với kinh nghiệm nghề nghiệp và khát khao tìm kiếm đối tượng nghệ thuật của người nghệ sĩ, anh đã không khỏi xúc động và bối rối.

– Tôi muốn ghi lại hình ảnh của người đàn ông trẻ với cây bút của mình và “cậu bé đó rất dễ thương nhưng anh ấy quá mệt”. Cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật nghệ sĩ về anh thanh niên và về những điều khác được gợi lên từ câu chuyện của anh ta đã tô điểm thêm bức chân dung của nhân vật chính và tạo ra chiều sâu của suy nghĩ.

c. nhân vật kỹ sư phụ nữ.

– đây là một cô gái dám bỏ Hà Nội, bỏ lại “mối tình đầu buồn tẻ” để lên vùng cao Tây Bắc làm việc. cuộc gặp gỡ bất ngờ với chàng trai trẻ, những điều anh nói, những câu chuyện anh kể về người khác, khiến cô “sốc”, “cô hiểu thêm về cuộc sống dũng cảm cao đẹp của một mình chàng trai trẻ, về thế giới của những người như anh vậy. kể lại”. , và về con đường anh ấy đang đi. nhờ “cú sốc” đó, anh mới nhận ra tình yêu của mình bao lâu nay tẻ nhạt, cuộc sống bình thường và thế giới của anh nhỏ bé biết bao. giây phút bàng hoàng đó là sự thức tỉnh của những tình cảm lớn lao và cao cả khi một người gặp được ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống, từ tâm hồn của người khác.

– cùng với cú sốc đó là “một ấn tượng khó tả về lòng biết ơn trong lòng cô gái. không chỉ bởi vì bó hoa khổng lồ sẽ theo cô trong chuyến đi đầu tiên của cô được sinh ra. nhưng với một bó hoa khác, một bó hoa của những hy vọng và ước mơ ngẫu nhiên mà anh đã trao tặng cho cô “. vẻ đẹp và ảnh hưởng của tính cách của chàng trai trẻ.

d, bộ điều khiển:

– người lái xe là nhân vật kể từ đầu truyện, nhưng nó cũng thể hiện vẻ đẹp của nhân cách anh ta. Ông là một người rất yêu công việc, đã 30 năm trong nghề lái xe, nhưng ông vẫn là người cởi mở, có trách nhiệm với công việc, nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. người lái xe là cầu nối giữa người trẻ và cuộc đời của anh ta (mua cho anh ta một cuốn sách, dừng lại dưới chân đồi để nói chuyện, giới thiệu anh ta với những người bạn mới). nhạc trưởng cũng là người chỉ đạo câu chuyện, kích thích trí tò mò của nghệ sĩ và kỹ sư đối với chàng trai trẻ, con người cô độc nhất thế giới, có rất nhiều “nỗi nhớ người”

= & gt; qua tình cảm, suy nghĩ và thái độ trìu mến của người lái xe, người kỹ sư, người họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện lên rõ nét và đẹp đẽ hơn. chủ đề của tác phẩm mở rộng và gợi nhiều ý nghĩa hơn. bức chân dung của nhân vật chính dường như được chiếu sáng bằng nhiều tia sáng, khiến bức chân dung trở nên rạng rỡ và nhiều màu sắc hơn.

e. trong vở kịch còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp nhưng gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của vở kịch. tức là:

– người đồng nghiệp của anh đã âm thầm cống hiến hết mình để lên đỉnh phansipan cao 3142 mét.

– kỹ sư của vườn sapa luôn tận tâm với công việc của mình. kiên trì, bền bỉ, âm thầm lặng lẽ làm việc “ngày này qua ngày khác”. anh ngồi thẫn thờ trong vườn su hào và nhìn đàn ong lấy phấn thụ phấn cho hoa su hào. và đi thụ phấn cho từng cây rutabaga để củ rutabaga ở khắp miền bắc có thể ăn to và ngọt hơn. Cô kỹ sư đã khiến chàng trai trẻ cảm thấy cuộc đời thật tươi đẹp! Công việc thầm lặng mà chỉ những người dân ở vùng đất sapa mới có thể hiểu hết được ý nghĩa của nó.

– là một nhà nghiên cứu bản đồ tia. anh luôn trong tư thế sẵn sàng cả ngày chờ sét “nửa đêm mưa gió, rét lắm anh mặc sức, chỉ cần nghe tiếng sét là anh choáng váng rồi bỏ chạy”. anh đã hy sinh hạnh phúc cá nhân vì đam mê công việc để khai thác “vực sâu, chìm sâu” dưới lòng đất để làm giàu cho đất nước.

– bố của chàng thanh niên xung phong lên đường nhập ngũ.

– & gt; Tuy không trực tiếp xuất hiện trong truyện nhưng gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, họ hiện lên với những nét đẹp trong tâm hồn và cách sống. họ đam mê công việc của họ. vì mục tiêu làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hy sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. cuộc sống của họ bình lặng và tử tế biết bao.

iii. tóm tắt:

1. nội dung: truyện ngắn “lặng lẽ sapa” đã khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động bình thường, điển hình là anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, câu chuyện khẳng định vẻ đẹp của những con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.

2. nghệ thuật:

– Cốt truyện đơn giản, xoay quanh một tình huống có cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa một họa sĩ già, một kỹ sư trẻ và một thanh niên làm việc trong ngành khí tượng. cuộc gặp gỡ chỉ kéo dài trong chốc lát nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc và dẫn đến những nhân vật mới: kỹ sư vườn cây ăn quả, nhà điều tra sét.

– Khi xây dựng nhân vật chân dung, nhân vật được đăng ký được đánh giá qua cảm nhận trực tiếp nhưng không bị mờ vì được khắc họa qua nhiều điểm nhìn và cách miêu tả tinh tế.

– Đoạn thơ “trầm lặng sapa” cũng hỗ trợ đắc lực cho bài ca dao, ngợi ca những con người bình dị mà cao cả: trong trữ tình, trong hình ảnh thiên nhiên, trong lời thoại, nhưng điều quan trọng nhất là tâm tư, tình cảm của những người trong và cùng vẻ đẹp thơ mộng, hoa mỹ và âm nhạc của lối sống do nhân vật chính gợi ý.

Chiếc lược ngà – nguyễn quang sáng

phân tích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sang

i – thông tin chung:

1. tác giả:

– Nguyễn Quang Sáng, sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

– Trong kháng chiến chống Pháp, ông nhập ngũ và hoạt động trên chiến trường miền Nam.

– từ năm 1954, gặp gỡ ở miền bắc, nguyễn quang sáng bắt đầu viết …

– những năm chống Mỹ cứu nước, ông trở lại miền nam tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.

– Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người miền Nam trong hai cuộc kháng chiến và sau hoà bình lập lại.

p>

– Năm 2000, Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. công việc:

a. hoàn cảnh tạo nên nó:

– Truyện “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966, khi tác giả đang hoạt động trên chiến trường miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. uu. và được đưa vào tuyển tập truyện ngắn cùng tên.

– nói về hoàn cảnh sáng tác truyện “Chiếc lược ngà”, bạn nguyễn quang sáng tâm sự:

“Năm 1966, tôi từ Bắc vào Nam trở về. Đồng Tháp Mười là một vùng nước trắng mênh mông. Tôi đi thuyền vào sâu trong rừng và sống trong một ngôi nhà sàn treo trên ngọn cây. lúc đó đoàn xe toàn là nữ. Tôi rất ấn tượng về câu chuyện người đưa tin với chiếc lược trắng ngà. Sau khi nghe câu chuyện của anh ấy, tôi đã ngồi viết một ngày, một đêm để hoàn thành tác phẩm này. ”

(môn văn ở lớp 9 không khó như bạn nghĩ)

– văn bản của sách giáo khoa là một đoạn trích từ một nửa của câu chuyện.

b. bố cục: 2 đoạn:

– đoạn 1: từ… đến… “anh ấy nói với những tiếng nấc, chậm rãi khi nói”. – & gt; Mối quan hệ cha con giữa Thu và ông ngoại là sáu trong ba ngày khi ông ấy nghỉ ốm.

– đoạn 2: còn lại – & gt; trên cơ sở, mr. sáu người đã làm một chiếc lược ngà cho các con của mình.

c. chủ đề: miêu tả cảm động về tình cha con sâu nặng giữa hai cha con trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh.

d. tóm tắt văn bản:

xa nhà để ra trận. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, chị mới có dịp về quê thăm con. Thu không nhận ra cha mình vì vết sẹo trên mặt khiến cô bé không giống người cha trong bức ảnh mà cô biết. Tôi đối xử với bố tôi như một người xa lạ. khi nhận ra cha, tình cha con được đánh thức mạnh mẽ trong anh, cũng là lúc anh phải trở về căn cứ. Tại gốc đa, người cha đã dồn hết tình cảm yêu thương cho con trai mình để làm nên chiếc lược ngà để tặng con trai. trong một trận đánh, anh hy sinh sáu tên. trước khi ra đi mãi mãi, ông đã kịp đưa chiếc lược cho người chú, nhờ ông truyền lại cho con gái.

ii – đọc – hiểu văn bản:

1. tình huống câu chuyện: câu chuyện được xây dựng dựa trên hai tình huống cơ bản:

– tình huống 1: đó là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau sáu năm xa cách, nhưng trớ trêu thay, bé Thu lại không nhận ra cha mình, đến khi nhận ra và bày tỏ tình cảm thì sáu người lại phải ra đi.

p>

– tình huống 2: ở gốc đa, bà đặt hết tình yêu thương và mong mỏi của con trai, làm chiếc lược ngà để tặng cho con, nhưng bà đã hy sinh bản thân mình trước khi có thể trao món quà đó cho con gái.

= & gt; như vậy, nếu ở tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của cậu bé đối với người cha của mình thì tình huống thứ hai lại thể hiện tình cảm sâu nặng, thắm thiết của ông dành cho con trai. tình huống truyện ở đây đầy kịch tính với nhiều yếu tố bất ngờ. đó là những tình huống ngẫu nhiên nhưng rất phổ biến, những tình huống rắc rối mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh. nhưng khi đặt các nhân vật của mình vào những tình huống này, nhà văn muốn khẳng định và đề cao: tình phụ tử thiêng liêng và sâu sắc như một giá trị nhân văn sâu sắc. tình cảm đó càng đẹp hơn trong hoàn cảnh chiến tranh.

2. sự phát triển tâm lý và tình cảm của trẻ.

a. trước khi nhận ra cha mình:

– hãy yêu bố của bạn như thế này. Những tưởng khi gặp bố, chị sẽ bồi hồi, hạnh phúc và nhào vào lòng bố để ôm bố với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết. nhưng không, đó là cách người đọc ngạc nhiên trước hành động quyết liệt từ chối nhận nó là sáu hoặc ba. “Nghe gọi, cô ấy giật mình, tròn mắt… ngơ ngác, lạ lùng…”. Khi đứa trẻ sáu tuổi đến gần, giọng anh run run và anh lặp lại: “Tôi đây, con trai! Bố đến rồi, “rồi” con bé thấy lạ quá, mặt mày tái mét rồi bỏ chạy la hét mẹ ơi! Mẹ ơi! ”

– ba ngày nay anh không đi đâu xa, anh muốn ở bên con an ủi, chăm sóc và bù đắp tình cảm thiếu thốn. tuy nhiên, càng đến gần, anh chàng càng cố tránh xa, nhất định không la lên “bố ơi”.

<3 "Cơm đã sẵn sàng!"; “Tôi đã gọi, nhưng người dân không nghe máy”. hai chữ "người ta" khiến anh đau đến không thể khóc, chỉ biết lắc đầu cười.

+ Đến bữa sau, mẹ giao nhiệm vụ cho cô ở nhà lo nồi cơm, cô không thể tự xả nước được. dường như cậu bé phải nhờ người lớn giúp đỡ, gọi “bố ơi”. nhưng quyết định không, nó vẫn báo “cơm sôi rồi, chắt nước đi!”. chú mở đường cho nó, nhưng nó không để ý, nó bảo “cơm sôi rồi, sũng nước rồi!”. anh vẫn ngồi yên. và anh ấy đã tự mình làm công việc nguy hiểm và khó khăn, và anh ấy không chịu nhúc nhích, và anh ấy từ chối nói lên tiếng nói mà cha anh ấy mong đợi.

+ cao trào của màn kịch: cậu bé ném cái trứng cá mà ông ngoại nhặt được cho cậu, làm tung tóe cơm. Ông. sáu không chịu nổi thái độ lạnh lùng của người con gái mà anh hết mực yêu thương, anh tức giận đến không kịp suy nghĩ đã vung tay đánh vào mông cô một cái. cháu bị ông nội đánh sáu, không khóc, cầm roi chạy sang nhà bà ngoại, trong khi vẫn cố tình vùng vẫy dây và la hét ầm ĩ.

– những chi tiết thô nhưng tinh tế này cho thấy nhà văn rất hiểu tâm lý trẻ thơ. Con trai vốn dĩ rất ngây thơ nhưng cũng đầy bướng bỉnh, nhất là khi có hiểu lầm thì kiên quyết từ chối tình cảm của người khác một cách không cân nhắc, nhất là với một cô gái cá tính, bướng bỉnh như thu. . độc giả thường giận tôi, tôi thấy tội nghiệp cho anh ấy. nhưng tôi vẫn là một cô gái xinh đẹp. bởi vì gốc rễ của sự từ chối đó vẫn là tình yêu. tình yêu thương, sự trung thành tuyệt đối với cha trong bức ảnh chụp cùng mẹ – người cha có gương mặt không vết sẹo dài.

b. khi anh ấy nhận ra cha mình:

– tình yêu trong mùa thu của ba đứa trẻ trỗi dậy mạnh mẽ vào thời điểm bất ngờ nhất, khoảnh khắc ông ra đi trong đau đớn vì không được con chấp nhận.

– qua sự quan sát kỹ lưỡng, chú ba là người đầu tiên nhận thấy sự thay đổi của Thu về “nét mặt buồn”, “đôi mắt như to hơn, nhìn có vẻ trầm tư”. điều đó cho thấy trong trái tim của cậu bé nhạy cảm như thu đã có cảm giác xa cách, lúc này cậu muốn thể hiện tình yêu của mình với cha hơn tất cả, nhưng sự ân hận về những gì mình đã gây ra cho cha khiến cậu rất buồn. không dám bày tỏ. rồi tình yêu của bố trào dâng trong tôi khi ông nhìn tôi bằng ánh mắt quan tâm, giọng nói ấm áp nói với tôi: “Thôi, nghe con!”. ngay tại thời điểm mà không ai mong đợi, kể cả ông. sáu, thu kêu lên “ba … a … a … ba!”. “Tiếng hét của cô ấy như một giọt nước mắt, xé tan sự im lặng, ruột gan ai cũng xót xa. đó là tiếng “ba” mà hắn cố nén bao nhiêu năm, tiếng “ba” như muốn vỡ ra từ tận đáy lòng. tiếng gọi thân thương ấy, đứa con nào cũng gọi thành phố, nhưng với cha con, đó là niềm mong mỏi suốt 8 năm xa cách. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong trái tim cậu bé 8 tuổi khao khát giây phút được gặp bố.

– đi liền với cái gọi là cử chỉ chộp giật, điên cuồng trong tiếng khóc mùa thu: chạy tới trước, nhảy chồm chồm, vươn hai tay ôm cổ bố, hôn khắp người, hôn tóc, hôn cổ, hôn bố. khoác vai, hôn lên vết sẹo dài trên má, khóc nức nở, kiên quyết không cho bố đi… cảnh đó càng làm sâu sắc thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao và mong mỏi của bố. Khoảnh khắc đó khiến mọi người xung quanh rơi nước mắt và chú Ba “chợt thấy khó thở như có bàn tay ai bóp chặt trái tim mình”.

– Dường như nhà văn nguyễn quang hát cũng muốn kéo dài giây phút xa cách giữa hai cha con trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để người chú nghe bà nội kể lại cuộc đời mình. giữa hai bạn đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho chúng ta thấy thái độ ngoan cố không chịu nhận của đứa trẻ ba ngày trước và sự thay đổi trong hành vi của trẻ hôm nay. vì vậy, trong trái tim anh, tình yêu đối với cha luôn là một tình cảm thống nhất và mãnh liệt. Mặc dù cách thể hiện tình yêu thương ấy ở hai hoàn cảnh rất khác nhau, nhưng nó vẫn xuất phát từ một cội nguồn trong trái tim người con luôn khao khát tình yêu thương của cha mẹ. Tuy nhiên, trước sau gì cô vẫn là một đứa trẻ ngây thơ, cô đã đồng ý để cha mình đi để ông mua một chiếc lược, một món quà nhỏ mà bất cứ cô gái nào cũng muốn. Từ chi tiết này, chiếc lược ngà đi vào lịch sử, trở thành nhân chứng thầm lặng của tình phụ tử thiêng liêng, bất tử.

= & gt; Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của Thu, người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng dứt khoát, rõ ràng của Thu. bướng bỉnh, tỏ ra cố chấp trong mùa thu là biểu hiện của tính cách mạnh mẽ (cơ sở để sau này trở thành người giao tiếp thông minh và dũng cảm). tuy nhiên, cách thể hiện tình cảm của tôi vẫn rất hồn nhiên và trong sáng.

= & gt; Qua những diễn biến tâm lí của mùa thu, chúng ta có thể thấy tác giả đã thể hiện rất cao kiến ​​thức về tâm lí của trẻ thơ và thể hiện mình rất sinh động với tấm lòng yêu thương và trân trọng tình cảm của trẻ thơ.

3. tình cảm cha con sâu sắc và đẹp đẽ thứ sáu của anh ấy:

– mong gặp lại bạn sau tám năm xa cách.

+ khi gặp lại người con trai của mình, không cần đợi thuyền cập bến ”, anh ta đứng dậy, đẩy chiếc ca nô, bước vội những bước dài rồi dừng lại và hét lên:“ Thằng nhóc ”nó vừa đi vào vừa anh. cúi xuống đợi con… anh không kìm được cảm xúc….

+ Khi đứa bé sợ hãi bỏ chạy, anh ở lại nhìn đứa trẻ, nỗi đau khiến khuôn mặt của nó trông đáng thương và đôi tay như bị gãy.

– đau khổ và vui sướng trong ba ngày về thăm nhà.

+ trước thái độ lạnh nhạt, anh đau khổ và cảm thấy bất lực: cả ngày không đi đâu xa, lúc nào cũng vuốt ve con trai. nhưng càng vuốt thì anh ấy càng đẩy. cô khao khát được nghe thấy giọng nói của cha cô, nhưng cô không bao giờ gọi. Anh đau khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con và khẽ lắc đầu cười” vì anh “xót xa đến mức không khóc được”.

+ ngày chia tay, thấy con trai đứng ở góc nhà muốn ôm hôn nhưng “sợ con giật bắn mình bỏ chạy” nên “nhìn con đầy trìu mến và buồn. “… cho đến khi gọi bố, xúc động đến phát khóc” không muốn cho con khóc, anh sáu một tay ôm cháu, một tay lấy khăn lau khô nước mắt rồi hôn lên tóc cháu. “-> đó là những giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, người cán bộ kháng chiến.

– tình yêu nhiệt thành của anh ấy dành cho trẻ em cũng được thể hiện rất sâu sắc khi anh ấy ở trên cơ sở:

+ xa bạn, anh ấy luôn nhớ bạn day dứt và ân hận vì lỡ tay đánh bạn.

+ lời khuyên của cha tôi khi sa thải tôi đã biến tôi thành một chiếc lược.

+ tác giả miêu tả cảm nghĩ của mình về việc anh ấy làm một chiếc lược:

_ anh ta tìm được một khúc ngà voi, anh ta vui mừng như một đứa trẻ được quà: “từ con đường mòn trong rừng sâu, anh ta nhanh chóng chạy lại, cầm chiếc ngà voi cho tôi xem. mặt anh ấy vui mừng như một đứa trẻ khi nhận được quà. ”

_ rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm ra chiếc lược: “Ông thấy từng chiếc lược, cẩn thận, tỉ mỉ và cần mẫn như một người thợ bạc”. trên lưng chiếc lược, ông còng lưng, tỉ mẩn khắc từng nét chữ: “thương nhớ, tặng, thu của cha của con”. Anh ấy đã gửi tất cả tình yêu và niềm mong mỏi của mình.

_ làm tôi nhớ đến chuyện “anh ấy lấy lược ra xem rồi chuốt tóc để chiếc lược bóng và mượt hơn”. Bạn không muốn con mình tự làm đau mình khi chải đầu. Anh yêu em, anh yêu từng mái tóc của em – & gt; Chiếc lược đã trở thành vật thiêng liêng đối với ông, làm vơi đi bao nỗi niềm, chứa đựng bao tình cảm yêu thương, nhớ nhung, mong mỏi của người cha với đứa con trai bị ghẻ lạnh. chiếc lược ngà là kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng.

– ông sáu anh hy sinh trong trận càn lớn của quân Mỹ và ngụy trước khi anh kịp trao chiếc lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng anh không còn sức để để lại bất cứ thứ gì, dường như chỉ có hai cha con là không thể chết”, sức lực cuối cùng anh còn lại để làm là “đút tay vào túi, móc chiếc lược” đưa cho một người bạn. cuộc tranh cãi. đó là lời nói cuối cùng không lời, nhưng nó thiêng liêng hơn lời của cơ nghiệp. đó là sự tin tưởng, là nguyện vọng cuối cùng, ước nguyện của bậc làm cha. và từ lúc đó, mối quan hệ làm cha đã biến người bạn đời sáu của anh thành người cha thứ hai cho đứa bé.

= & gt; thông qua nhân vật của mr. sáu, người đọc không chỉ cảm nhận được tình yêu thương sâu sắc của người cha chiến sĩ mà còn thấu hiểu nỗi đau mất mát của con cái và gia đình. tình yêu thương con của ông vẫn là một lời khẳng định: bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt sự sống của con người, nhưng tình người, tình phụ tử thiêng liêng thì không thể bị bom đạn hủy diệt.

iii – tóm tắt:

1. nội dung:

– Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện tình cảm cha con sâu nặng, cao đẹp trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh.

– câu chuyện cũng mời bạn đọc suy ngẫm và thấm thía những mất mát đau thương mà chiến tranh đã gây ra cho biết bao cá nhân và gia đình.

2. nghệ thuật:

– tạo tình huống câu chuyện bất ngờ, tự nhiên và hợp lý

– xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật người dẫn chuyện phù hợp. Câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, với nhân vật là chú ba, người bạn của chú từ trận thứ sáu và cũng là một nhân chứng, tham gia vào câu chuyện. Với người kể chuyện này, người kể chuyện xen vào nhận xét, suy nghĩ, đồng cảm, chia sẻ với nhân vật và câu chuyện vẫn khách quan.

– miêu tả diễn biến tâm lý sâu sắc và tinh tế của nhân vật, đặc biệt là đối với nhân vật nhỏ tuổi.

– ngôn ngữ truyện mang đậm chất nam bộ.

những ngôi sao xa xôi – lê minh khê

phân tích những ngôi sao xa xôi của lê minh khê

* giới thiệu bài:

Đường sơn dài: nắng đông, mưa tây; chỉ một cái tên thôi cũng gợi cho ta nhớ đến một thời hoa lửa, hình ảnh đoàn quân cha đi trước hát vang khúc quân hành, cùng những đoàn xe ra trận vì miền nam thân yêu. viết về những con đường trường kỳ trong những năm tháng chống nước thống nhất, không chỉ có những bài thơ, bài hát ca ngợi những người lính lái xe hay những cô gái mở đường trên trang thơ lam thi my da, mà là cũng có đầy đủ các câu chuyện. những nữ thanh niên xung phong, trinh sát đường, những cô gái chuyên đặt bom nổ chậm mở đường cho ô tô đi qua. Những thiếu nữ này đã được Lê minh khê (một nhà văn xuất sắc của đất Thanh Hóa) kể lại và khắc họa tâm hồn, tính cách của cô. ba chàng trai trẻ là những ngôi sao xa xôi trên đỉnh núi.

i. điều tra chung:

1. tác giả:

a. tiểu sử tác giả lê minh khê

Lê minh khê sinh ngày 6 tháng 12 năm 1949 tại trại lan châu, nông công, tỉnh thanh hóa. Bố mẹ mất sớm, cô lớn lên trong một gia đình có dì, chú, bác ruột đều là giáo viên cấp 3.

năm 1965, Lê minh khê tham gia lực lượng thanh niên xung phong chống lại ta. uu. năm 1967 ông xuất bản những bài báo đầu tiên của mình và năm 1969 ông bắt đầu viết. Ngoài viết văn, Lê Minh Khuê từng là phóng viên báo đầu ngành, phóng viên Đài Giải phóng (mất B, ông về Đà Nẵng năm 1975 cùng đơn vị quân đội), phóng viên Đài Truyền hình Việt Nam, biên tập viên. của Hiệp hội Nhà xuất bản Nhà văn từ năm 1978 cho đến khi ông nghỉ hưu.

b. sự nghiệp văn học của lê minh khê

Đề tài chính về thời kỳ chiến tranh trong các tác phẩm của ông là cuộc sống chiến tranh, máu lửa nhưng con người đoàn kết với nhau bằng một tinh thần lạc quan, cuộc sống đấu tranh của tuổi trẻ trên chặng đường dài.

Câu chuyện của cô ấy đã thay đổi chủ đề vào năm 1984 vì theo cô ấy, người Việt Nam đã thay đổi vào năm 1975, khi chiến tranh kết thúc, nên họ không còn viết như cũ nữa. tác phẩm của nhà văn trong thời kỳ này đã bám sát những chuyển biến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới.

le minh khue chuyên viết truyện ngắn và vừa. Truyện của anh đã được dịch và xuất bản ở Hoa Kỳ, Đức, Thụy Điển, Ý và Hàn Quốc.

phong cách nghệ thuật: viết truyện bằng ngòi bút nữ tính, miêu tả tinh tế, độc đáo (đặc biệt là nhân vật nữ).

Với lối viết nhẹ nhàng nhưng đầy háo hức, những dòng văn của Lê minh khê tuy đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều đoạn văn hay.

2. hoạt động:

a. hoàn cảnh tạo nên nó:

– Truyện “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm sớm nhất của Lê Minh Khuê, được viết vào năm 1971, khi cuộc Kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang lừng lẫy. văn bản trong sách giáo khoa còn thiếu một số đoạn văn.

– những câu chuyện nằm trong tuyển tập “nghệ thuật truyện ngắn thế giới” được xuất bản tại Hoa Kỳ

b. tóm tắt văn bản:

“Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống chật vật của ba thanh niên xung phong, đội trinh sát mặt đường, phuong dinh, nho va thao. họ sống trong hang đá, trên một điểm cao ở khu vực trọng yếu trên con đường mòn sơn son trong những năm chống Mỹ. Công việc của bạn là quan sát máy bay địch thả bom, đo khối lượng đất đá để lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu bom chưa nổ, tiến hành phá bom. công việc nguy hiểm, luôn đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những phút giây thanh nhàn, thơ mộng. Họ rất thân thiết, họ yêu nhau mặc dù mỗi người một tính cách. trong một lần gỡ bom, nho bị thương, hai người đồng đội đã hết lòng chăm sóc, lo lắng cho nho. một trận mưa đá đến rồi đi, để lại trong lòng phuong dinh nỗi nhớ nhung, mong mỏi.

c. chủ đề: ca ngợi cuộc sống và cuộc chiến đấu của các thanh niên xung phong trên tuyến đường trường sơn.

d. người kể chuyện:

– câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhất.

– hiệu ứng:

+ tạo ra một điểm nhìn đúng đắn, dễ dàng tái hiện lại hiện thực khốc liệt của chiến tranh.

+ thể hiện tâm hồn, tình cảm và suy nghĩ của nhân vật một cách thuyết phục.

+ thể hiện vẻ đẹp của con người trong chiến tranh.

ii. đọc – hiểu văn bản:

1. hoàn cảnh sống và cuộc đấu tranh:

– 3 cô gái trong hang đá dưới chân đỉnh núi, giữa địa bàn trọng điểm trên tuyến đường sơn cước, nơi tập trung bom đạn, hiểm nguy, ác liệt mà họ phải đối mặt từng ngày, từng giờ . có bom rơi, đạn nổ. có nhiều người bị thương do bom đạn của kẻ thù: “Đường tan, màu đất xen lẫn trắng đỏ. hai bên đường không có lá xanh. chỉ có thân cây bị tước và đốt cháy. Cây nhiều rễ ngoài kia. những tảng đá lớn, một số bình xăng bị hư hỏng và rỉ sét hoặc thành xe nằm trên mặt đất ”. Đó là một hiện thực đầy mùi chiến tranh, không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy cái chết luôn rình rập.

– công việc của bạn đặc biệt nguy hiểm. họ phải chạy trên những đỉnh núi cao giữa thanh thiên bạch nhật, phơi mình vào trung tâm vùng bắn phá của địch để đo đạc, ước tính khối lượng đất đá lấp hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì tiêu hủy. nhiệm vụ quan trọng nhưng cũng rất gian khổ, hy sinh, liều chết, lúc nào cũng hồi hộp, đòi hỏi rất nhiều can đảm và bình tĩnh.

2. vẻ đẹp tâm hồn của ba nữ thanh niên xung phong và cũng là của thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:

a. đặc điểm chung:

Họ là những cô gái còn rất trẻ, mới mười tám, đôi mươi. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ rời xa gia đình, xa mái trường, họ nguyện vào nơi mất mát Cách nhau vài tấc họ đã hy sinh tuổi thanh xuân không tiếc máu xương, hiện thực hóa lý tưởng cao cả: “đốn núi cứu Tổ quốc / mà lòng phơi phới tương lai”.

– qua thực tế chiến đấu, ba cô gái có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, dũng cảm và dám làm:

+ Tuy tuổi đời còn rất trẻ, luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ, có thể chết bất cứ lúc nào, nhưng để con đường đi dễ dàng, họ luôn sẵn sàng xông pha trận mạc. ra lệnh để đi bất kể tình huống. Họ làm việc một cách tự nguyện, luôn mặc định khó khăn và nguy hiểm về mình: “Tôi là quả bom trên đồi. hai cây nho dưới lòng đường. Tôi đã có một cái dưới hầm ba-ri-e ngày xưa. “Trước nguy hiểm, họ cũng nghĩ đến cái chết, nhưng đó là” cái chết mơ hồ không cụ thể “, điều quan trọng là” mìn có nổ không, liệu bom có ​​nổ không? “. họ đặt công việc lên trên cuộc sống của mình.

+ họ bình tĩnh, can đảm và có tinh thần dũng cảm. trong những lúc căng thẳng nhất, anh ấy đã lấy một chiếc bánh quy trong túi ra và nhai nó. họ nói về công việc xử lý bom với một giọng điệu bình tĩnh: “Làm quen với nó. chúng tôi cho nổ bom năm lần một ngày. Ngày nào ít – ba lần “. tháo bom, tiến về phía bom chưa nổ, không cúi rạp người mà bước cao, thẳng. và được tính toán chính xác.

– họ cũng có tình đồng chí, sự thân thiết và gần gũi: hiểu tính tình và sở thích của nhau, chăm sóc nhau rất chu đáo. phuong dinh vừa bồn chồn vừa lo lắng khi chờ chị gái đi khám phá đỉnh. khi nho bị thương, phuong dinh và thao thao bất tuyệt, họ băng bó, chăm sóc nho cẩn thận với lòng thương hại như anh em, thấy “đau hơn người bị thương”.

– cuộc chiến giành giật sự sống nơi chiến trường gian khổ, nguy hiểm nhưng họ luôn lạc quan, yêu đời. có đời sống nội tâm phong phú, quyến rũ, giàu cảm xúc và mơ mộng. họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình ngay cả trong những hoàn cảnh chiến trường khốc liệt. nho thích thêu thùa, thao thao bất tuyệt chép ca, phuong dinh thích soi mình trong gương, ngồi bó gối mơ màng ca hát… họ hồn nhiên như những đứa trẻ trong mưa đá. và mưa đã trở thành nỗi nhớ, sự nối tiếp quá khứ của ngày hôm qua và là khát vọng cho tương lai. những kỉ niệm sống lại như nhẹ trong tâm hồn, những cảm xúc hồn nhiên như nguồn sống, là chỗ dựa, giúp các em vững vàng, mạnh mẽ hơn để vượt qua khó khăn, hiểm nguy.

– & gt; thực tế, đây là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng chừng như không thể cùng tồn tại, vô cùng dũng cảm, anh dũng trong chiến đấu nhưng cũng hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống đời thường.

b, duy nhất:

– nho là một cô gái trẻ trung và xinh xắn, “trông nhẹ nhàng và tươi như kem trắng”, “cổ áo tròn và hàng cúc nhỏ” của cô ấy dễ thương đến nỗi phuong dinh “muốn cầm trên tay”. nho rất hồn nhiên – hồn nhiên trẻ thơ: “vừa tắm suối, còn ướt áo, nho ngồi, xin kẹo”; khi bị thương nằm trong hang, anh vẫn vùng dậy, đưa tay xin mưa dầm. nhưng trong trận chiến, cô rất dũng cảm, cô đã hành động nhanh: “cuộn tròn cái gối, cho nhanh vào túi”, “quay lưng lại với chúng tôi, đội mũ sắt lên đầu …” và trong một quả bom. , cô ấy đã gục ngã trong đường hầm, đầy bùn đất. Mặc dù vết thương của anh ấy rất đau nhưng anh ấy không la hét và không muốn đồng đội của mình lo lắng.

– chị thao, trưởng nhóm, ít nhiều cũng có kinh nghiệm, những ước mơ và dự tính về tương lai có vẻ thiết thực hơn, nhưng khát vọng và rung cảm tuổi trẻ cũng không thiếu. “Áo lót của anh đều được thêu bằng chỉ màu.” anh thường tỉa lông mày, tỉa nhỏ như đầu tăm. nhưng trong công việc, mọi người đều ghen tị với cô ấy vì sự quyết tâm và không sợ hãi của cô ấy. nhất là sự “bình tĩnh đến bực mình”: máy bay địch đến nhưng chị vẫn “móc bánh quy trong túi, thản nhiên nhai”. Ai ngờ một người dày dạn kinh nghiệm sinh tử lại sợ máu, sợ bóp: “hễ thấy máu là nhắm mắt, mặt tái mét”. và không ai có thể quên được giọng hát của cô: sai nhạc, giọng chua, cô chăm hát dù không biết nhạc, giọng chua, hát không trôi chảy bài nào, nhưng cô có ba. những quyển vở dày cộp để chép bài. khi anh ấy hát và có thời gian rảnh, anh ấy sẽ viết các bài hát.

– phuong dinh trẻ như một quả nho, cô là một học sinh thành phố nhạy cảm và hồn nhiên, cô thích mơ mộng và sống với những kỉ niệm tuổi thanh xuân vô tư về gia đình và thành phố của mình. Kết thúc câu chuyện, sau khi cơn mưa đá dứt, dòng ký ức về gia đình và thành phố trào dâng, cuộn trào như những con sóng trong tâm trí cô gái. Có thể nói, đây là những nét riêng của những thiếu nữ Hà Nội khi vào chiến trường đánh giặc, dù gian khổ nhưng vẫn giữ được phong thái riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đằm thắm.

= & gt; mỗi người một cá tính riêng nhưng ở họ đều tỏa sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng và tuổi trẻ Việt Nam. viết về ba cô thanh niên xung phong, lê minh khuê không tô vẽ, không hoa mỹ nhưng lại miêu tả rất cụ thể và chân thực bằng cách nhân vật hóa nhân vật bằng những hình ảnh rất đời thường. họ đã bước vào những trang sách của cuộc đời, trở thành những anh hùng: những vì sao trên bầu trời.

3. ký tự phương thức:

a. phuong dinh là một cô gái có tâm hồn trong sáng:

* nhạy cảm, mơ mộng:

– Cô ấy là một cô gái trẻ đến từ Hà Nội, từng là một học sinh vô tư.

– hay nhớ lại ký ức (ký ức luôn sống lại trong cô ngay giữa trận chiến ác liệt; chỉ một trận mưa đá đi qua cũng đánh thức ký ức …) vừa là mong ước vừa là liều thuốc tinh thần động viên cô trong hàng lửa.

– nhạy cảm, thường quan tâm đến ngoại hình (tự đánh giá mình là một cô gái xinh đẹp …); Biết có nhiều người chú ý đến mình, tôi cảm thấy tự hào nhưng không vội vàng mà giả vờ kín đáo, như thể tôi kiêu kỳ.

– hay mơ mộng, tìm niềm vui trong cuộc sống, ngay cả trong những công việc nguy hiểm “mọi thứ đều có niềm vui riêng. có nơi nào như thế này không… ”dường như thử thách thần kinh của con người để khi bạn vượt qua nó, chinh phục nó, cảm thấy thú vị.

* hồn nhiên, yêu đời:

– thích hát, thuộc lòng nhiều bài hát (từ hành quân đến …), thậm chí còn sáng chế lời để hát.

– dưới cơn mưa đá, cô “phấn khích điên cuồng”, say mê tận hưởng cơn mưa hồn nhiên như chưa từng nghe thấy tiếng bom rơi.

b. phuong dinh là người có phẩm chất anh hùng:

– có tinh thần trách nhiệm với công việc.

– dũng cảm, dũng cảm.

– bình tĩnh, tự tin và tôn trọng bản thân.

– Khi làm nhiệm vụ rà phá bom mìn, lúc đầu chị cũng lo lắng, hồi hộp, nhưng chị cảm nhận được ánh mắt của các anh bộ đội đang dõi theo động viên, khích lệ và lòng tự trọng của chị đã thu được bom, đạn. cô ấy không thu mình lại, nhưng bước về phía trước với sự trang nghiêm; Bình tĩnh và tự tin thực hiện từng thao tác gỡ bom, chạy đua với thời gian để hạ gục tử thần.

– Tôi yêu các bạn cùng lớp của mình:

+ chăm sóc nho thật tốt.

<3

+ với đại đội trưởng, chỉ liên lạc qua điện thoại nhưng qua cách ăn nói của anh ấy đã biết rõ đặc điểm của chính mình.

+ anh ấy tôn trọng và ngưỡng mộ tất cả những người lính mà anh ấy gặp trên đường đi.

– Qua tư tưởng của phuong dinh, người đọc không chỉ thấy được những phẩm chất anh hùng chói lọi mà còn hình dung được thế giới nội tâm phong phú của anh.

– sự khốc liệt của chiến tranh đã tôi luyện tâm hồn yếu đuối và nhạy cảm thành bản lĩnh kiên cường của một anh hùng cách mạng.

– nét duyên dáng, ngây thơ và duyên dáng của người con gái càng tôn lên vẻ dịu dàng của người thanh niên xung phong dũng cảm và dũng cảm.

– Phương Định (cũng như nho và thao) là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.

= & gt; Thông qua nhân vật Phương Định và những cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã có một cái nhìn đẹp đẽ, lãng mạn về cuộc sống và con người trong chiến tranh. chiến tranh là đau thương, mất mát, nhưng chiến tranh không thể làm mất đi vẻ đẹp xanh tươi của tâm hồn trẻ thơ. Chính từ những nơi khắc nghiệt, ác liệt, chúng ta mới thấy được vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng và tuổi trẻ cách mạng Việt Nam.

= & gt; Ba cô gái thanh niên xung phong trong văn xuôi trữ tình nhẹ nhàng của Lê Minh Khuê đã gieo vào lòng người đọc ấn tượng khó phai về vẻ đẹp rực rỡ của những ngôi sao xa xôi. hình ảnh của anh gợi cho chúng ta nhớ đến thơ lam thị mỹ da trong “bầu trời hố bom”:

đêm và đêm tâm hồn tôi tỏa sáng

các vì sao tỏa sáng rực rỡ.

iii. tóm tắt:

1. nội dung:

truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê minh khê đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mộng mơ, tinh thần dũng cảm, cuộc đời đấu tranh, gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của Lê minh khê, những thanh niên xung phong trên tuyến đường . đó là hình ảnh đẹp, tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

2. nghệ thuật:

– chọn một người kể chuyện phù hợp, một cách kể câu chuyện tự nhiên.

– nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là thể hiện tâm lý.

– ngôn ngữ đơn giản, cả lời nói và trữ tình.

– các cụm từ ngắn, nhịp điệu nhanh, gợi lên bầu không khí của chiến trường.

text: “đồng chí” – chỉ.

* giới thiệu bài:

tình yêu là điều quan trọng nhất đối với mỗi con người. nó như dòng nước ngọt chảy theo ống nhựa làm tươi mát tâm hồn ta, tưới những hạt giống tinh thần trong ta nảy nở. nếu không có vị ngọt của tình yêu, chúng ta sẽ như một ống nước cạn và khô, tâm hồn chúng ta sẽ như một sa mạc khô cằn. tình cảm trong chiến tranh, trong mưa bom, bão đạn, khói lửa càng đáng nhớ, nó thể hiện sự gắn bó, yêu thương vô điều kiện, đồng cam cộng khổ vượt qua chông gai chiến tranh. tình cảm thiêng liêng ấy không gì khác chính là tình bạn thân thiết. nhà thơ chân chính đã viết về tình cảm cao cả đó, đồng thời tái hiện chân thực hình ảnh người lính thời chống Pháp qua bài thơ “Đồng chí”.

i – thông tin chung:

1. tác giả:

  • công lý, tên khai sinh là Trần Đình Đặc (1926 – 2007), quê quán: can lộc, hà tĩnh.
  • Năm 1946, gia nhập trung đoàn thủ đô và phục vụ trong quân đội. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
  • Năm 1947, ông bắt đầu sáng tác những bài thơ, bài thơ chủ yếu viết về người lính và chiến tranh với cảm xúc dồn nén và ngôn ngữ cô đọng.
  • 2000, được giải thưởng nhà nước thành phố Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
  • tác phẩm chính: Đầu súng trăng treo (1966), Ngọn đèn lầu ….

2. hoạt động:

  • “bài” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của chính nghĩa và cũng là của thơ ca kháng chiến.
  • bài thơ đã đi một chặng đường hơn nửa thế kỉ thơ. hồn người lính – hồn thơ vừa tầm.

a. hoàn cảnh sáng tác:

  • Bài thơ “đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947). trong chiến dịch này, cánh hữu là chính trị viên đại đội, anh có hầu hết nhiệm vụ chăm sóc thương binh và chôn cất một số binh sĩ tử trận. Sau chiến dịch, vì rất vất vả, anh ấy bị ốm nặng và phải nằm trên giường để điều trị. đơn vị đã cử một đồng chí ở lại chăm sóc chính đáng và đồng chí đó đã rất tận tình giúp đỡ đồng chí vượt qua khó khăn, gian khổ của bệnh tật. cảm động trước tấm lòng của người bạn, ông đã viết bài thơ “đồng chí” như lời cảm ơn chân thành đến người đồng chí, người bạn nông dân của mình.
  • bài thơ đã được in trong tập “Đầu súng gối đầu” (1966) – tuyển tập những bài thơ chủ yếu viết về những người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

b. thiết kế: 3 phần.

  • bảy dòng đầu: cơ sở để hình thành tình bạn thân thiết.
  • mười dòng tiếp theo: biểu hiện và sức mạnh của tình bạn.
  • ba dòng thơ cuối: một hình ảnh tuyệt đẹp của tình bạn thân thiết, một biểu tượng cao quý của đời lính.

c. chủ đề: đề cao tình đồng đội, nghĩa tình cao cả, thiêng liêng của những người lính năm xưa: những người nông dân yêu nước mặc áo lính trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

ii – đọc – hiểu văn bản:

* câu hỏi 2 SGK, trang 130:

Sáu dòng đầu của bài thơ nói về tình bạn thắm thiết của những người chiến sĩ cách mạng. cơ sở đó là:

  • cùng chung hoàn cảnh.
  • chia sẻ sứ mệnh, lý tưởng đấu tranh.
  • chia sẻ mọi khó khăn, gian khổ.
  • 1. cơ sở để hình thành mối quan hệ thông công:

    a. hai câu đầu tiên:

    • Hai câu thơ mở đầu bằng cấu trúc song song, đối xứng như thể hiện hai bộ mặt của người lính. Họ dường như đang nói chuyện với nhau. giọng điệu tự nhiên, mộc mạc, đầy gần gũi. “quê anh” và “thị trấn anh” là những vùng đất nghèo nàn, khô cằn và xơ xác, nơi “ruộng chua nước mặn” – vùng đồng bằng ven biển, vùng đất “đất cày lên đá” – vùng đồi núi miền Trung. li>
    • Tác giả đã mượn những câu thành ngữ, tục ngữ để nói về cánh đồng, nơi chôn nhau cắt rốn của những người lính thân yêu. điều đó đã làm cho lời thơ đậm đà, mộc mạc, chân chất như những con người: những chàng trai nông dân chân đất, áo nâu lần đầu khoác áo lính ra trận! do đó, cùng một hoàn cảnh, cùng một giai cấp là cơ sở, là gốc rễ của sự tương giao.

    b. 5 câu thơ tiếp theo: nói về quá trình hình thành tình bạn đồng hành: lạ – & gt; cùng mục đích – & gt; bạn tâm giao – & gt; đồng chí.

    Năm câu thơ tiếp theo thể hiện một quá trình yêu đương: từ “đôi trai gái xa lạ” trở thành “bạn tâm giao” thành “đồng chí”. những vần thơ có độ dài ngắn khác nhau, cảm xúc thơ như dồn lại, nén chặt. những ngày đầu đứng dưới lá cờ đầu quân, những chàng trai này vẫn là “người lạ”, mỗi người một việc “chưa quen biết nhau”. nhưng rồi cùng với thời gian bền chặt, hai người bạn gắn bó với bao kỉ niệm: “súng kề súng, đầu kề sát – đêm lạnh cùng nhau trở thành đôi bạn tri kỉ”. “vũ khí có vũ khí” là cách nói cô đọng, giàu hình ảnh, muốn nói họ là những người có chung lý tưởng chiến đấu. họ đã cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ Tổ quốc, Tổ quốc, giữ gìn độc lập, tự do, sự tồn vong của dân tộc – “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. còn hình ảnh “head by head” thể hiện sự đồng tình, nhất trí, đồng lòng của hai người đó. còn câu thơ “đêm rét chung chăn thành tri kỉ” là câu thơ đầy ắp kỉ niệm của một thời khốn khó, chia ngọt sẻ bùi “nửa bát cơm – bữa cơm chung chăn gối”. và như vậy nó trở thành “một đôi tri kỉ” rồi cô đọng lại thành “đồng chí!”. “đồng chí” – hai từ đó thiêng liêng biết bao! thể hiện niềm tự hào, phấn khởi, vang vọng mãi. xúc động vì đó là biểu hiện tối đa của một tình bạn đẹp, thắm thiết, tự hào vì đó là tình cảm thiêng liêng, cao quý của những con người cùng chung tầm nhìn, chung ý chí, chung lý tưởng, ước mơ

    = & gt; ở đây, trong những câu thơ này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị nhưng rất chân thật: “bên”, “gần”, “chung”, “thanh” đã thể hiện sự gắn bó chân thành của tình bạn, của tình đồng loại. Tấm chăn mỏng, hẹp nhưng ấm áp của tình đồng đội sẽ mãi là kỷ niệm đẹp không bao giờ quên của người lính.

    câu hỏi 1: Dòng thứ 7 của bài thơ có gì đặc biệt? cảm xúc và suy nghĩ phát triển trong bài thơ trước và sau dòng đó như thế nào?

    = & gt; câu trả lời:

    – dòng thứ bảy của bài thơ “đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc đáo qua ngòi bút chính luận. một dòng thơ được viết độc lập, đó là một câu đặc biệt gồm hai âm tiết có kèm theo dấu chấm than, tạo nên một nốt nhấn nghe như một phát hiện, một khẳng định, đồng thời như một bản lề nối câu thơ đầu với câu thơ tiếp theo. thơ. . sáu dòng đầu là cội nguồn, là cơ sở để hình thành tình bạn thân thiết; mười dòng tiếp theo là biểu hiện, sức mạnh của tình bạn thân thiết. “đồng chí” – đó là điểm hội tụ, nơi kết tinh của bao tình cảm cao đẹp: tình giai cấp, tình bạn, tình người trong chiến tranh. hai từ “đồng chí” vì thế thật giản dị, đẹp đẽ, trong sáng và thiêng liêng.

    2. biểu hiện và sức mạnh của tình thông công:

    a. Trước hết, các đồng chí hãy hiểu và chia sẻ những tâm tư, tình cảm của nhau:

    “Tôi sai người bạn thân cày nhà, không màng gió lay gốc giếng vì nhớ anh bộ đội.”

    vì sự nghiệp cao cả, bạn sẵn sàng từ biệt những gì thân yêu nhất: “ruộng”, “nhà”, “giếng”, “gốc” … mà bạn đã để lại. lo lắng, lo lắng, vấn đề, lo lắng của cuộc sống hàng ngày. hai chữ “bất chấp” đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu của đời sống tinh thần người lính. vì nghĩa lớn, họ sẵn sàng ra đi khi lý tưởng trong sáng, mục đích đã chọn. tuy nhiên dù có quyết liệt thì vẫn nặng lòng với quê hương. Bỏ lại tình riêng vì nghĩa lớn, vẻ đẹp ấy thật đáng trân trọng và tự hào. trong bài thơ “patria”, chúng ta thấy được những nét tương đồng trong tâm hồn của những người lính:

    “người đi trước không ngoái lại sau thềm nắng đầy lá.”

    Dù đầu không ngoảnh lại vẫn cảm thấy “đằng sau những thềm đầy lá rơi”, như người lính trong thơ ca chính nghĩa, “dù có chuyện gì xảy ra” nhưng tấm lòng luôn hướng về quê cha đất tổ. “gốc giếng” là hình ảnh nhân hóa ẩn dụ gợi tả tinh tế tâm hồn người lính, nhấn mạnh tình cảm gắn bó của người lính với quê hương đất nước. “giếng gốc nhớ người lính” hay là tấm lòng của người đã khuất không quên quê hương. thực ra giữa người lính và Tổ quốc có một mối đồng cảm rất sâu sắc và phong phú. Người đọc cảm nhận được từ hình tượng thơ một tình quê thắm thiết và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, tiếp thêm sức mạnh tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian khổ, thử thách một thời máu lửa, bom đạn.

    b. camaraderie cũng là tình đồng đội đồng cam cộng khổ, cùng chia sẻ những khó khăn, gian khổ của đời lính:

    “Em và anh biết từng cơn ớn lạnh, từng cơn sốt, từng cơn rùng mình, trán ướt đẫm mồ hôi. Áo anh rách, vai anh rách và quần tôi có vài mảnh nụ cười cay đắng, chân trần, yêu nhau, nắm tay nhau.” “.

    bằng những hình ảnh chân thực, hình tượng sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực những gian khổ, gian khổ của buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men… bộ đội phải chịu “rét run”. “, những cơn sốt rét rừng, sức khỏe giảm sút, nhưng sức mạnh đồng hành đã giúp họ vượt qua tất cả. Nếu như hình ảnh “nụ cười lạnh lùng” sưởi ấm và làm bừng sáng niềm lạc quan của người lính gặp nạn thì cái nắm tay lại thể hiện tình đồng chí, tình đồng đội sâu sắc! cách diễn đạt chân thực, không qua loa nhưng sâu sắc. những cái bắt tay truyền hơi ấm, niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. cái bắt tay đó cũng là một lời hứa xứng đáng.

    3. biểu tượng đẹp của tình bạn:

    – bài thơ khép lại bằng một hình ảnh đẹp về tình đồng đội, một biểu tượng đẹp đẽ của đời lính:

    “đêm nay rừng mây bên nhau chờ giặc đến. vũ khí trăng treo.”

    hình ảnh những người lính “kề vai sát cánh chờ giặc đến”. đó là hình ảnh cụ thể của tình bạn đồng đội sát cánh trong trận chiến. họ đứng bên nhau trong cái lạnh của rừng về đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc đến”. tình bạn thân thiết đã sưởi ấm trái tim họ, giúp họ vượt qua tất cả …

    câu cuối là một hình ảnh thơ rất đẹp: “đầu súng trăng treo”. cảnh vừa thực vừa mộng. Ý nghĩa của hình ảnh này có thể hiểu là: đêm khuya, trăng lặn, cả khu rừng bị sương mù bao phủ. mặt trăng lơ lửng trên không trung, chiếu ánh sáng của nó qua màn sương trắng đục. bầu trời dường như xuống thấp và mặt trăng dường như sà xuống. trong khi đó, người lính vác khẩu súng lục trên vai, mũi súng hướng lên trời như chạm vào mặt trăng, và mặt trăng như treo lơ lửng trên đầu súng. “vầng trăng” là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, làng quê và cuộc sống thanh bình. “súng” là hiện thân của chiến đấu gian khổ, hy sinh quên mình. súng và trăng, cứng rắn và dịu dàng.

    vũ khí và mặt trăng, chiến binh và nhà thơ. hai hình ảnh đó, thực ra rất xa nhau, nay lại thống nhất trong cảm nhận của người lính: vầng trăng treo trên vũ khí. như vậy là sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho hình tượng thơ. và có lẽ, cũng chính vì lẽ đó, người đàn ông công chính đã lấy hình ảnh ấy làm tiêu đề cho toàn bộ tập thơ của mình – tập “đầu súng trăng treo” – như bông hoa đầu tiên trong vườn thơ cách mạng.

    iii. tóm tắt:

    bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. bài thơ đã làm sống lại thời kỳ khó khăn gian khổ của cha ông ta, sống lại thời chiến tranh ác liệt. bài thơ gợi lên những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó, yêu thương tha thiết mà chỉ những ai đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.

    với rất nhiều hình ảnh chọn lọc, ngôn từ hấp dẫn nhưng gần gũi thân thuộc, với làn sóng đôi, đối tượng được sử dụng rất thành công, chính tác đã viết nên một bài hát với lời lẽ chọn lọc, giản dị mà âm vang. bài thơ đã đề cao tình đồng hành rất thiêng liêng, như ngọn lửa cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa soi sáng đêm đen chiến tranh.

    text: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – pham tien duat.

    phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội không kính” của tác giả bài văn tế

    * giới thiệu bài học:

    Đội quân giải phóng đã rời đi một lần.

    không có ngày trở lại.

    ra ngoài để bảo tồn núi và sông.

    Hãy ra ngoài, thà chết còn hơn quay lại.

    Câu hát quen thuộc từ xa bỗng gợi lên trong lòng ta nhiều suy nghĩ. dường như chúng ta đang sống lại một thời hào hùng của đất nước với câu hát vui tươi, trẻ trung và bình dị như chính cuộc đời của người lính. Tôi không biết đã viết bao nhiêu bài thơ về họ, những đứa trẻ đá sinh ra ở thế kỷ 20. tiêu biểu cho thời kỳ chống Mỹ cứu nước là bài thơ Tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiên Duật.

    i – thông tin chung:

    1. tác giả:

    – pham tien duat (1941-2007), thanh ba, phu tho.

    – Năm 1964, tốt nghiệp khoa ngữ văn trường đại học sư phạm quốc gia hà nội, ông gia nhập đoàn vận tải trường sơn và hoạt động trên tuyến trường sơn trong những năm chống Mỹ.

    – là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

    – Với quan niệm “chủ yếu tìm kiếm cái đẹp trong những biến cố sôi động của cuộc đời”, tác phẩm đã đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến trường vào thơ. Cách tiếp cận hiện thực đó đã tạo cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.

    – Thơ văn tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước qua hình ảnh những người lính, thanh niên xung phong trên tuyến đường trường sơn.

    – tác phẩm chính: trường sơn đông, trường sơn tây, cử thanh niên xung phong, lửa và đèn, bài thơ về tiểu đội xe không kính …

    – năm 2001, ông được trao giải thưởng nhà nước về văn học và nghệ thuật.

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh sáng tác.

    – Bài thơ về tiểu đội xe không kính trong tập thơ Phạm Tiến Duật đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ năm 1969. Bài thơ đã khẳng định được giọng thơ riêng. bài thơ sau đó được đưa vào tuyển tập thơ “la luna de fuego” (1970) của tác giả.

    -bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra hết sức gian khổ và ác liệt. Từ khắp các giảng đường của trường đại học, hàng nghìn sinh viên đã gác bút lên đường đánh giặc, điểm nóng lúc bấy giờ là tuyến trường sơn, huyết mạch nối từ hậu phương ra tiền tuyến. ở đó, lực lượng không quân của chúng tôi. uu. anh ngày đêm thả bom rơi đạn để không cho miền bắc chi viện cho chiến trường miền nam. bất chấp mưa bom, bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vẫn ngày đêm bất chấp khó khăn, hy sinh tại trận. Phạm Tiến đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu về nơi khói lửa Trường Sơn. có thể nói hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở chiến tranh. ra đời trong hoàn cảnh đó, bài thơ với âm điệu hào hùng, mạnh mẽ đã thực sự trở thành tiếng kèn xung trận, trở thành khúc tráng ca quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước. cảm hứng về những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người lính lái xe: ung dung, điềm đạm, lạc quan, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, tình đồng đội gắn bó yêu quê hương đất nước. chân thành…

    b. chủ đề: vẻ đẹp của hình ảnh chú bộ đội lái xe trong trường sơn những năm chống Mỹ cứu nước.

    ii – đọc – hiểu văn bản:

    1. ý nghĩa của tên bài thơ:

    câu hỏi 1 SGK trang 133: nhan đề bài thơ có gì khác? một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là chiếc xe không có cửa sổ. Tại sao có thể nói rằng hình ảnh là duy nhất?

    – bài thơ có một tiêu đề lạ. vì hai lý do:

    + rõ ràng đó là một bài thơ, nhưng tác giả nói rằng đó là một “bài thơ”, điều đó hơi thừa.

    + lý do thứ hai là hình ảnh xe tuần tra không đeo kính. xe không kính nghĩa là xe hỏng, không hoàn hảo, xe không đẹp thì còn gì thơ. để nói về thơ, tức là nói về một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng.

    = & gt; nên đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của pham tieng. dường như tác giả đã tìm, phát hiện và khẳng định cái thơ, cái đẹp nằm ngay trong thực tế cuộc sống đời thường nhất, trần trụi nhất, ác liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá khốc liệt, tê liệt của chiến tranh.

    * ý nghĩa tên bài thơ:

    Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng chừng như thừa, nhưng chính tiêu đề đã lôi cuốn người đọc bằng cái nhìn độc lạ của nó. nhan đề bài thơ đã làm nổi rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Bức tranh này là một khám phá thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và hiểu biết của nhà thơ đối với thực tế cuộc sống chiến tranh trên tuyến đường sơn cước. nhưng tại sao tác giả lại thêm hai chữ “bài thơ” vào đầu đề? hai từ “bài thơ” nói về cách tác giả nhìn và khai thác hiện thực: ông không chỉ viết về những chiếc xe không có cửa sổ hay hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu viết về chất thơ của hiện thực đó, chất thơ của người Việt Nam. tuổi trẻ dũng cảm, kiêu hãnh, vượt qua gian khổ, khó khăn, gian khổ của chiến tranh.

    2. ảnh xe ô tô không kính:

    – Trước đây, hình ảnh xe và tàu được đưa vào thơ ca là “đẹp”, “lãng mạn” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tượng trưng hiện thực. Người đọc đã tìm thấy chiếc xe ba bánh trong thơ Puskin, con tàu trong Bài ca con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy.

    – Trong bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không có cửa sổ được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Thông thường, để đảm bảo an toàn tính mạng con người và tài sản, nhất là ở những địa hình gồ ghề, xe phải có kính. tuy nhiên, câu chuyện về “chiếc xe không kính” là một thực tế, một hình ảnh thường thấy trên đường trường sơn.

    – hai dòng mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần bất thường này:

    không có kính thì không phải vì ô tô không có kính

    bom giật, bom rung, thủy tinh vỡ.

    + lời bài hát tự nhiên đến mức người ta phải tin ngay vào quyết tâm của những người lái xe quả cảm. chất thơ của câu thơ này được thể hiện ở vẻ đẹp tự nhiên lạ thường của những từ ngữ.

    + với những câu thơ văn xuôi rất thực, những câu ám chỉ “không” cùng với những động từ mạnh “nhảy”, “rung” – & gt; tác giả giải thích lý do cho sự vắng mặt của các tinh thể trong ô tô. bom đạn thời chiến đã khiến ô tô biến dạng “không kính”, “không đèn”, “không mui”, “trầy xước toàn thân”. Từ đó, tác giả đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng cụ thể, sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, ác liệt, về cuộc chiến gian khổ mà người lính phải trải qua.

    = & gt; Hình ảnh những chiếc ô tô không có cửa sổ không hiếm gặp trong chiến tranh, nhưng phải có một tâm hồn thơ nhạy cảm, với những nét tinh quái, độc ác như Phạm Tiến Đạt mới phát hiện ra, đưa vào thơ, trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mỹ.

    3. hình ảnh chú bộ đội lái xe ô tô:

    * hình ảnh những chiếc xe không kính thể hiện rõ hình ảnh những chú bộ đội lái xe trong trường tranh. không có điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu là cơ hội để người lính thể hiện phẩm chất cao quý, sức mạnh tinh thần to lớn, hơn hết là lòng dũng cảm và tinh thần quật cường.

    a. vẻ đẹp của chí khí người lính được thể hiện trên hết ở tư thế hào sảng, ung dung, đoan trang, tự tin và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời:

    ngồi vào buồng lái

    nhìn đất, nhìn trời, nhìn về phía trước.

    + nghệ thuật đảo ngữ với từ “hốc” được đảo ở đầu câu đầu tiên và nghệ thuật đảo ngược với từ “nhìn” được lặp lại ở dòng thứ hai – & gt; làm nổi bật tư thế thoải mái, bình tĩnh và tự tin của người lính lái xe.

    + cái nhìn của bạn là cái nhìn bao quát, rộng mở, “nhìn đất”, “nhìn trời”, trực diện và rất tập trung, “nhìn thẳng về phía trước”. bạn nhìn vào những khó khăn, gian khổ và hy sinh mà không sợ hãi hay trốn tránh: một lòng can đảm vững chắc.

    – Trong tư thế thư thái ấy, người lính lái xe có những cảm xúc riêng khi tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:

    nhìn gió dụi đôi mắt cay đắng

    xem con đường đi thẳng đến trái tim

    nhìn thấy các vì sao và đột nhiên có chim

    Như địa ngục, như lao vào buồng lái.

    + phía sau tay lái của ô tô không có kính chắn gió nên các yếu tố thiên nhiên, chướng ngại vật rơi xuống, văng ra và va vào cabin. tuy nhiên, quan trọng hơn là bạn có được cảm giác bay bổng, hòa nhập với thiên nhiên và sau đó được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. điều này được thể hiện qua nhịp điệu đều đặn của bài thơ, trôi chảy như một chiếc xe. lăn lộn với việc sử dụng linh hoạt các câu chuyện ngụ ngôn “thấy” và phép liệt kê. có rất nhiều cảm giác thú vị đến với những người lính trên ô tô không kính.

    <3 khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe đi nhanh, dường như không có khoảng cách giữa bạn và đường nên bạn có cảm giác đường đi thẳng vào lòng mình. và cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, “nhìn thấy những vì sao” và khi đi qua những khúc cua gấp, những chú chim dường như “lao vào cabin”. thiên nhiên, mọi thứ dường như bay bên cạnh chiến trường. tất cả những điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở họ sự bồng bột, hào hoa, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. chúng đều là thực, nhưng qua cảm nhận của nhà thơ, chúng đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

    b. Một vẻ đẹp khác làm nên bức chân dung tinh thần của người chiến sĩ trong bài thơ là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, hiểm nguy:

    không có kính, có bụi,

    ……………………

    mưa tạnh, gió nhanh khô.

    các câu thơ đơn giản như một bài phát biểu thông thường, với một giọng điệu bình tĩnh, dí dỏm và có cấu trúc: “không…”; “cũng…”, “chưa” được lặp đi lặp lại, các từ “phũ phàng”, “cười ha ha”, “mau khô”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính một thời tự nhiên trỗi dậy giữa gian khó. và những nguy hiểm của trận chiến. Cái tài của phúng điếu trong bài thơ này là hai câu đầu nói về hiện thực phũ phàng phải chấp nhận, hai câu cuối thể hiện tinh thần quật cường vượt lên hoàn cảnh của người lính nghĩa quân trong chiến tranh ác liệt. xe không có kính nên “bụi rắc tóc bạc như cố nhân”, xe không kính nên “ướt”, “trời mưa thì mưa như ở ngoài” là lẽ đương nhiên. đối mặt với mọi khó khăn, nguy hiểm, họ vẫn “mỉm cười”, không cần băn khoăn, lo lắng, họ sẵn sàng chấp nhận thử thách, khó khăn như một lẽ tất yếu. bạn sử dụng sự bất biến của lòng dũng cảm và lòng dũng cảm để vượt qua những ý tưởng bất chợt của chiến trường gian khổ và khốc liệt của sự sống và cái chết. đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc đời của người lính nơi chiến trường trong những năm tháng chống giặc giữ nước ta. uu. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt, nhưng đầy lạc quan, ảo vọng và yêu đời. Thật đẹp và đáng tự hào!

    c. sâu xa hơn, với ống kính phim của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp thể hiện tình bạn thân thiết của những người lính lái xe không kính:

    ô tô rơi từ bom

    đã đến đây để thành lập một đội

    gặp gỡ bạn bè trên đường đi

    bắt tay qua mảnh kính vỡ.

    Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên đội xe không kính. ô tô từ khắp nơi đổ về đây lập thành đội. “Cái bắt tay” đặc biệt là “bắt tay qua mảnh kính vỡ”. chiếc xe không cửa sổ đã trở thành điều kiện thuận lợi để anh em thể hiện tình cảm của mình. cái bắt tay thể hiện sự tin tưởng, tiếp thêm sức mạnh cho nhau, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn vật chất mà họ phải chịu đựng. có một cuộc gặp gỡ với ý thơ vừa phải trong bài thơ “đồng chí”: “thương nhau thì dắt tay nhau đi” mà hồn nhiên, trẻ trung hơn. đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Tình đồng đội, tình bạn thân thiết cũng được thể hiện một cách ấm áp và giản dị qua các hoạt động của họ:

    nấu ăn hoàng gia đưa tôi vào thiên đường

    chia sẻ đĩa và đũa là gia đình

    võng mắc kẹt trên đường

    đến và đi, bầu trời trong xanh hơn.

    + gắn bó trong trận chiến, gắn bó hơn trong cuộc sống hàng ngày. Sau những giây phút nghỉ ngơi và bữa cơm tối sum họp, những người lính lái xe đã xích mình lại thành một gia đình: “chung đĩa, chung đũa nghĩa là gia đình”. định nghĩa về gia đình đúng là quân tử, vui nhộn mà chân thành vô cùng. Đó là một gia đình của những người lính có cùng sứ mệnh, lý tưởng chiến đấu.

    + điệp từ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh” tạo nên âm hưởng thanh thoát, êm dịu, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. lời thơ trong trẻo như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu mà họ gửi lại cuộc đời.

    = & gt; Chính tình đồng chí, tình đồng đội đã trở thành động lực giúp anh em vượt qua khó khăn, gian nguy, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình ảnh đẹp nhất của thế kỷ “như viên đá khai sinh của thế kỷ 20” (tou).

    d. khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phóng miền nam thống nhất đất nước:

    không có kính nên xe không có đèn

    không có mui xe, thùng xe có vết xước

    ô tô tiếp tục đi vì phía trước là phía nam:

    chủ sở hữu cần một trái tim trong xe hơi.

    – Giờ đây, những chiếc xe ô tô không chỉ bị mất kính mà còn không có đèn chiếu sáng, nóc xe và cốp xe bị trầy xước. chiếc ô tô con bị biến dạng hoàn toàn. người lái xe lại tích lũy khó khăn. gian khổ của chiến trường nhân lên gấp nhiều lần, nhưng không thể ngăn cản được những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm.

    – Lý do gì mà những chiếc xe nát bươm này vẫn hoạt động như những bộ quần áo khiêu vũ? nhà thơ giải thích: “miễn là có trái tim trong xe”.

    <3 trong loạt chữ "ta" ở trên, nhà thơ khẳng định rằng một người có, đó là "một tấm lòng".

    + “tấm lòng” là một phép tu từ ẩn dụ chỉ người lính già lái xe đường dài. lòng đau xót khi chứng kiến ​​cảnh người dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, chia cắt đất nước thành hai miền.

    <3

    = & gt; yêu và ghét là động cơ thúc đẩy những người lính khát vọng giải phóng miền nam thống nhất đất nước. để ước mơ này thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất – vững vàng tay lái, vững tay lái. do đó, thử thách tăng lên, nhưng tốc độ và hướng không thay đổi.

    = & gt; ẩn sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người đến chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết thắng không phải là vũ khí, mà là con người giàu ý chí, anh dũng, lạc quan, quyết thắng. .

    = & gt; dòng cuối của bài thơ có thể coi là dòng hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn, là mắt thơ, nó soi sáng chủ thể, nó tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.

    iii – tóm tắt:

    – Giọng thơ đều đều và tinh nghịch, rất phù hợp với chủ đề miêu tả (trẻ em lái xe ô tô không có cửa sổ). giọng điệu đó làm cho bài thơ gần với văn xuôi, đối thoại, lời nói đời thường mà vẫn hấp dẫn, giàu chất thơ (chất thơ ở đây là những hình ảnh độc đáo, cảm hứng về niềm tự hào, dũng cảm, khí phách tuổi trẻ của những người lính đi đầu, của ấn tượng cảm quan được miêu tả cụ thể, cách sống động và gợi cảm

    – Thể thơ: kết hợp linh hoạt các thể thơ 7, 8 chữ, tạo nên nhịp thơ gần gũi với lối nói tự nhiên, sôi nổi. Những yếu tố ngôn ngữ và giọng điệu của bài thơ đã góp phần làm nên hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên đường trường chinh trở nên chân thực và sinh động.

    – cả bài thơ là lời tâm sự, tình cảm của người lính lái xe trên đường trường chinh. những thách thức tăng lên, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi. Tinh thần bất khuất, kiên trung của quân đội ta vẫn được khẳng định, nhưng Phạm Tiến đã mang đến nhiều hình ảnh mới, tiếng nói mới: trẻ trung, tinh quái, nổi loạn mà kiên trung. Bài thơ không chỉ viết về tiểu đội xe không cửa mà còn phản ánh quyết tâm giải phóng miền nam của toàn quân và dân ta, khẳng định ý chí sắt đá của con người.

    Văn bản “mùa xuân nhỏ” – qinghai.

    phân tích bài thơ mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

    i. điều tra chung:

    1. tác giả:

    – qinghai là một nhà thơ cách mạng.

    – Trong hai cuộc kháng chiến, ngay cả trong những thời khắc đen tối nhất, Người vẫn ở lại quê hương (vùng Thừa Thiên – Huế), hát thơ ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi sự hy sinh hy sinh của nhân dân. từ miền nam ra và khẳng định niềm tin vào thắng lợi của cách mạng. có thể nói cuộc đời của ông đã dành trọn vẹn cho đất nước, cho quê hương.

    <3

    (tran huu do)

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh tạo nên nó:

    – bài thơ ra đời vào tháng 11 năm 1980, lúc này đất nước đã thống nhất, đang xây dựng cuộc sống mới với muôn ngàn khó khăn, thử thách.

    – và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ qinghai. ông ốm nặng phải điều trị tại bệnh viện trung ương thành phố Huế, một tháng sau thì mất. Nếu hiểu được cảnh ngộ của nhà thơ trên giường bệnh, chúng ta mới thấy hết được tấm lòng chân thành của nhà thơ đối với cuộc đời và đất nước.

    b. bố cục: 4 đoạn:

    – khổ thơ 1: cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.

    – khổ thơ 2, 3: cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân đất nước.

    – khổ thơ 4, 5: ước nguyện chân thành và thiết tha của nhà thơ.

    – Khổ thơ 6: Sự tôn vinh quê hương, đất nước qua những bài ca dao xứ Huế.

    = & gt; xuyên suốt bài thơ là hình ảnh mùa xuân : mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” của mỗi người.

    c. mạch cảm xúc:

    Đoạn thơ bắt đầu từ cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên, trong sáng trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, từ đó mở rộng cảm nhận về mùa xuân đất nước. từ mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước gắn với mùa xuân của mỗi đời người: mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn. kết thúc bài thơ là sự bồi hồi, xúc động về tình cảm quê hương, đất nước tha thiết và tự hào qua những bài hát hò.

    = & gt; mạch cảm xúc được phát triển theo kiểu “tả cảnh ngụ tình” là đặc điểm nổi bật của thơ.

    ii. đọc – hiểu văn bản:

    1. cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.

    khác với hình ảnh muôn màu của thiên nhiên mùa xuân, tình yêu nồng nàn trong bài thơ “vội vàng” của xuân diệu, với:

    của con ong và con bướm này trong tuần này, con yêu

    đây là những bông hoa của cánh đồng xanh

    đây là những chiếc lá của cành cây rung rinh

    đây là bài hát tình yêu của tôi

    và tốt, một cái chớp mắt …

    không mang một màu xanh tràn ngập không gian như trong bài thơ “xuân xanh” của nguyễn binh với:

    mùa xuân là mùa xanh

    giờ đã cao, lá trên cành

    lúa trên cánh đồng và lúa trong

    cánh đồng và lúa ở những cánh đồng xung quanh

    bạn không nên mặc chiếc áo lãng mạn và mộng mơ như trong bài thơ “mùa xuân chín” của han mac tu với:

    dưới cái nắng như thiêu như đốt

    hai má phủ rơm có lốm đốm vàng

    gió lay tà áo xanh

    trên nền tảng thiên đàng. bóng xuân

    Hình ảnh thiên nhiên mùa xuân ở Thanh Hải “mùa xuân nhỏ” được vẽ nên bằng những hình ảnh, màu sắc và âm thanh hài hòa, sinh động và tràn đầy sức sống:

    phát triển trong dòng sông xanh

    một bông hoa màu tím

    xin chào chim sơn ca

    không gì khác ngoài tiếng vang

    từng giọt lấp lánh

    Tôi giơ tay.

    – trong hai câu đầu tiên, chúng ta đã gặp một cách viết khác. không viết như thường lệ: “một bông hoa tím mọc giữa sông xanh” mà viết đảo “mọc giữa dòng sông xanh / một bông hoa tím biếc”. động từ “mọc” được đảo ở đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả = & gt; thấm nhuần ấn tượng về sức sống ngày càng nảy nở của mùa xuân. Dường như bông hoa tím đang từ từ hé nở, vươn cao, lan tỏa trên mặt nước xanh biếc của dòng sông mùa xuân.

    – không gian mùa xuân trong lành, khoáng đạt với hình ảnh dòng sông trong xanh nhẹ nhàng chảy. màu xanh ấy phản chiếu màu xanh của trời, của cây cối hai bên, màu xanh quen thuộc mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ con sông nào ở miền Trung.

    – trên nền xanh của dòng sông nổi bật lên hình ảnh “bông hoa tím”, một hình ảnh quen thuộc của bèo tây hay hoa súng mà chúng ta thường thấy ở các ao, sông của làng quê Việt Nam:

    “con sông nhỏ mà chúng tôi đã tắm trong thời thơ ấu

    vẫn ở đây, nước không bao giờ thay đổi

    lục bình tím bên bờ sông… ”

    (le anh xuan)

    Màu tím ấy không thể nhầm lẫn với sắc tím thân thương, đặc trưng của những cô gái vùng đất có sông núi.

    – & gt; màu xanh của nước hòa với màu tím của hoa tạo nên nét mềm mại nhưng sống động, mang đến vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, là màu đặc trưng của sắc màu.

    – bức tranh không chỉ có “hội họa” mà còn có “âm nhạc” bởi vì chim sơn ca cất lên với vô số bài hát và tiếng reo hò:

    xin chào chim sơn ca

    nó rất lớn.

    + nhà thơ kêu lên “ôi” thật tha thiết! tiếng gọi ấy không phải cất lên từ giọng nói mà từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, từ trái tim của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh náo nức.

    + tiếng gọi ấy thoạt nghe như sống lại ở một góc trái tim, nhưng nhà thơ cùng hình ảnh và âm thanh hòa làm một, cảm xúc trào dâng thành lời thật tuyệt vời. , thật là vui.

    <3 âm thanh không thể thiếu đó làm sống dậy không gian cao rộng, hồi sinh và hồi sinh một tâm hồn con người đang đối mặt với bóng tối của bệnh tật và cái chết rình rập. .

    – & gt; Dòng sông êm đềm trôi, hoa trôi, chim hót … hình ảnh mùa xuân ở Huế lúc nào cũng đẹp dịu dàng, thơ mộng!

    – thiên nhiên, đặc biệt là mùa xuân luôn hào phóng, sẵn sàng ban tặng cho con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. thanh hải đã thực sự đón mùa xuân bằng tất cả tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. nhà thơ quan sát và lắng nghe bằng trái tim đang đập, bằng trí tưởng tượng, bằng những liên tưởng độc đáo:

    từng giọt lấp lánh

    Tôi giơ tay.

    + cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và giàu chất thơ. đó có thể là giọt sương long lanh giữa kẽ lá vào một buổi sáng mùa xuân đẹp trời, có thể là giọt nắng lấp ló bên hiên nhà, có lẽ là giọt mưa xuân đang rơi … theo mạch cảm xúc của nhà thơ, có lẽ đây là giọt tiếng chim ngân vang, lắng đọng trong giọt niềm vui, rơi vào trái tim rộng mở của thi nhân, thấm vào tâm hồn cháy bỏng tình xuân.

    + ẩn dụ về sự chuyển đổi của cảm giác được vận dụng tài tình và tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. thanh hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.

    + động tác “Ta đưa tay lên nắm lấy” thể hiện tình cảm trân trọng, nâng niu của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào mùa xuân với những xúc cảm nồng nàn, xao xuyến, rạo rực. nhà thơ như muốn đón nhận tất cả sức sống của mùa xuân và sự sống.

    = & gt; khổ thơ mở đầu mở ra một hình ảnh đẹp về sắc: hình ảnh, màu sắc, âm thanh lấy từ bài thơ đặt thành nhạc …

    = & gt; bài thơ được viết vào tháng 11 năm 1980, khi đó là một mùa đông lạnh giá. như vậy hình ảnh mùa xuân được miêu tả ở đây chính là mùa xuân trong tâm tưởng nhà thơ. Trước bệnh tật, dù đối mặt với cái chết, nhà thơ vẫn hướng về mùa xuân của tuổi trẻ căng tràn nhựa sống, thể hiện một tâm hồn lạc quan yêu đời, khát khao sống không sợ hãi.

    = & gt; đọc những vần thơ của anh, người đọc trân trọng hơn, yêu hơn tâm hồn nghệ sĩ, tình yêu quê hương đất nước.

    2. cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân đất nước:

    Ngày xửa ngày xưa, trong đêm đen của kiếp nô lệ, nhà thơ thành huý, một người con của xứ Huế đã từng viết:

    chạm gót trên đường phố Huế

    thờ ơ không chút tình cảm

    không gian đầy mùi bẩn

    Như dòng nước, dòng hương cuốn trôi

    là màu sắc trong quá khứ của một chế độ nô lệ tăm tối và khốn khổ. ngày nay, hiện tại, sắc đã đổi thay, hừng hực khí thế chiến đấu và xây dựng cùng đất nước:

    mùa xuân với súng

    may mắn ở phía sau

    mọi người đi đến vùng nông thôn vào mùa xuân

    nhiều người nằm rải rác trên các cánh đồng

    tất cả đều vội vàng

    mọi thứ giống như một sự khuấy động…

    – Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh “người cầm súng”, “người xuống đồng” xuất hiện trong khổ thơ. họ là những con người cụ thể làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng đất nước.

    – mùa xuân mang theo tiếng gọi của những nỗ lực mới và hy vọng mới, mang theo tiếng gọi của quê hương đất nước, quê hương đang trên đà đổi thay và phát triển. tiếng gọi thầm lặng của mùa xuân đánh thức lòng người, làm lòng người bừng sáng trong không khí sôi động của đất nước, của muôn loài cây cỏ đã theo chân người lính ra trận, kề vai sát cánh. , tham gia cùng những người làm việc nhiệt tình tại hiện trường.

    – mùa xuân không chỉ chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho họ một “gia tài” tươi mới và tràn đầy sức sống:

    + “lucky” không chỉ là hình ảnh hiện thực mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ và tượng trưng.

    + “lucky” là chồi xanh của cây vào mùa xuân.

    + đối với người lính, “may mắn” là cành cây ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc gian khổ, ác liệt.

    + đối với người nông dân “một nắng, hai sương”, “may mắn” là những chồi non tươi tốt của mùa xuân trải dài trên cánh đồng bao la, báo hiệu một mùa bội thu.

    + nhưng trên hết, “lộc” là sức sống, là sức trẻ, là sức trẻ tươi mới tràn đầy ước mơ và lý tưởng, đầy hoài bão tuổi trẻ và cống hiến, sôi nổi trong mỗi cuộc đời. tâm hồn con người – tâm hồn người chiến sĩ anh dũng kháng chiến nơi bom đạn – tâm hồn người nông dân cần cù, hăng hái tăng gia sản xuất. “may mắn” là thành quả của ngày hôm nay và là niềm tin và hy vọng của ngày mai.

    – từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ đúc kết:

    mọi thứ giống như một cơn lốc

    mọi thứ đều là một mớ hỗn độn

    + điệp khúc “tất cả”, các từ biểu tượng cảm xúc “hối hả”, “rung rinh”, tốc độ nhanh = & gt; nhà thơ đã khái quát cả một thời đại của dân tộc.

    + “bận rộn” diễn tả nhịp sống hối hả của người dân Việt Nam trong thời kỳ mới, thời kỳ mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

    + trong khi “vỗ” cho thấy tâm trạng náo nhiệt.

    – & gt; ý thơ khẳng định một điều: không chỉ một cá nhân vội vàng mà cả nước đang khẩn trương, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. mọi người cùng rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên và đồng quê.

    – & gt; thanh hải đã rất lạc quan, say mê và tin tưởng khi viết những bài thơ này.

    – Xúc động trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi mùa xuân bước vào, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc:

    “đất nước bốn nghìn năm

    khó khăn và gian khổ

    đất nước giống như một ngôi sao

    cứ tiếp tục ”

    + với nghệ thuật nhân hoá, quê hương như một người mẹ cần cù, chịu thương, chịu khó làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn đó, tấm gấm này đã thấm đẫm máu, mồ hôi và nước mắt của bao thế hệ, của những năm tháng hưng thịnh, của những thăng trầm. nhưng chướng ngại vật dù mạnh đến đâu cũng không thể khuất phục được dân tộc Việt Nam:

    “sống vững chắc trong bốn nghìn năm”

    với một thanh kiếm trên lưng, một chiếc lông vũ mềm mại trên tay. “(gần hơn)

    + Đặc biệt, biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng rất độc đáo làm nên ý thơ – “đất nước như vì sao / cứ tiến về phía trước”. các vì sao là ánh sáng vĩnh cửu của thiên hà, là vẻ đẹp rực rỡ của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. trong cách so sánh như vậy, tác giả ca ngợi đất nước hùng tráng, trường tồn, hướng tới tương lai tươi sáng. cụm từ “đất nước” được lặp lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: qua bao gian khổ, khó khăn, đất nước vẫn tỏa sáng và vươn lên không gì có thể ngăn cản được.

    = & gt; ta có thể cảm nhận được niềm tin của tác giả vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam. tiếng xuân quê vọng lên từ cuộc sống vất vả, gian khổ mà tươi mới vô cùng.

    3. lời chúc chân thành và nghiêm túc của nhà thơ.

    – từ những cảm nhận về mùa xuân, tác giả đã chuyển ý thơ một cách tự nhiên để nói lên những tâm tư, suy nghĩ của mình về ý nghĩa cuộc sống và ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi người:

    “Tôi làm cho một con chim hót

    chúng ta hãy làm một bông hoa

    chúng ta hòa hợp

    một nốt trầm rung động. ”

    + Để nói lên lý lẽ của cuộc đời mình, ngay từ những câu thơ đầu tiên của đoạn văn, thanh hải đã mang đến cho người đọc những giai điệu ngọt ngào, êm dịu của các âm liên tiếp “ta” – “hoa”. – “ca”.

    + từ “ta” được lặp lại thể hiện mong muốn chân thành và nghiêm túc.

    + động từ “làm” – “nhập” trong vai trò vị ngữ thể hiện sự hóa thân kỳ diệu – hóa thân để sống đẹp, sống có ích.

    + nhà thơ đã chọn lọc những hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên và cuộc sống để nói lên ước vọng của mình: con chim, bông hoa, nốt trầm. Còn gì đẹp hơn khi tự tay làm một nhành hoa mang sắc hương cho mùa xuân đất nước! Còn gì vui hơn khi trở thành một chú chim nhỏ cất tiếng hót vui vẻ làm bừng sáng cuộc sống!

    + Hình ảnh hoa lá, chim muông xuất hiện trong cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, nay được dùng để nói lên lí lẽ sống của mình. một ý nghĩa mới đã được mở ra, đó là khát vọng sống có ích, sống đẹp là lẽ thường tình.

    + cái “tôi” của nhà thơ trong phần đầu của bài thơ nay trở thành cái “tôi”. có cả cái riêng và cái chung trong cái “tôi” đó. Với cách sử dụng đại từ này, nhà thơ đã khẳng định giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.

    + hình ảnh “nốt trầm” và sự lặp lại của số từ “một” thể hiện ước muốn tha thiết, chân thành của tác giả. khẽ cất giọng, nhà thơ chỉ muốn làm “nốt trầm” nhưng phải là “nốt trầm rung rinh” để góp phần tạo nên bản hòa ca chung. nghĩa là nhà thơ muốn góp phần nhỏ bé của mình góp phần vào công cuộc đổi mới và đi lên của đất nước.

    – & gt; Khi đọc bài thơ, chúng ta không khỏi xúc động trước khát vọng của nàng thơ xứ Huế và cũng là niềm mong mỏi của bao người.

    – Lý lẽ sống của thanh hải còn được thể hiện qua những vần thơ sâu sắc:

    “một mùa xuân nho nhỏ

    lặng lẽ cống hiến cho cuộc sống

    ngay cả khi tôi ở độ tuổi hai mươi

    ngay cả khi tóc chuyển sang màu xám. ”

    + Cách dùng từ của nhà thơ rất chính xác, tinh tế và gợi cảm. tạo ra những bông hoa, tiếng chim, nốt trầm và một chút mùa xuân để lặng lẽ đi vào cuộc sống của bạn.

    + “mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ sáng tạo thể hiện lẽ sống cao đẹp, khát vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm nên một mùa xuân, hãy đóng góp tất cả những gì tốt đẹp và tinh hoa của mình, dù nhỏ bé để góp phần làm nên vẻ đẹp của mùa xuân đất nước.

    / p>

    – & gt; không khoe khoang, ồn ào mà chỉ lặng lẽ cống hiến. thơ thể hiện một khát vọng, một khát vọng, một mục đích sống. biết lặng lẽ cống hiến cuộc đời mình, biết sống vì mọi người cũng là cách sống mà nhà thơ tou han đã viết:

    “nếu tôi là một con chim với những chiếc lá

    con chim phải hót, bàn là phải xanh,

    bạn không thể vay nếu không trả

    sống là cho, không chỉ là nhận ”.

    nhớ lại ngày xưa, anh ying đã nghĩ:

    “một tấc lòng trung thành và lòng hiếu thảo

    sắc nét, nhuốm màu đen. ”

    và bây giờ, nhà thơ thanh hải – huệ trước khi về với thế gian “người tri kỉ” cũng đã có một ước nguyện: “hãy bình thản dâng mình cho đời / dù tuổi hai mươi / dù tóc đã bạc”. ước muốn chung thủy và thật trớ trêu. dùng điệp ngữ “dẫu” được lặp đi lặp lại hai lần như thể con tim đang tự nhủ: dù ở giai đoạn nào của cuộc đời, tuổi hai mươi căng tràn sức trẻ, hay khi già yếu, bệnh tật vẫn phải sống có ích cho đời, hãy sống. một cuộc sống tươi đẹp cho đất nước.

    – & gt; Đây là vấn đề dưới góc nhìn của con người, nhưng nó đã được truyền tải bằng những hình ảnh thơ đẹp, với giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ và nghiêm trang. do đó, sức mạnh xuyên thấu của nó rất lớn.

    = & gt; như đã nói ở trên, bài thơ được viết vào cuối đời, trước khi nhà thơ đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng trong bài thơ không có một nỗi lo bệnh tật, cho những suy nghĩ cá nhân cho riêng mình. một mình “trong câm lặng” nhưng cháy bỏng khát vọng cống hiến những gì đẹp đẽ nhất của đời mình cho đất nước. Đây không phải là khẩu hiệu của một người thanh niên đi vào cuộc sống, mà là tiếng lòng của một người đã trải qua hai cuộc kháng chiến và đã cống hiến cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách mạng. điều đó càng làm tăng giá trị tư tưởng của bài thơ.

    4. ca ngợi quê hương, đất nước qua các làn điệu dân ca Huế.

    – bài thơ kết thúc bằng những cảm xúc bồi hồi, tự hào về quê hương đất nước qua những bài hát nổi tiếng của xứ Huế.

    mùa xuân – tôi hát

    cụm từ nam ai, nam binh

    nước cách xa hàng nghìn dặm

    tình yêu ngàn dặm

    nhịp điệu của đồng tiền trên trái đất.

    + Tác giả nhắc đến những bài dân ca Huế “nam ai”, “nam bình”, với giai điệu trầm buồn nhưng rất nghiêm trang.

    + và qua những bài “nam ai”, “nam bình” này, nhà thơ đã thể hiện tình yêu chân thành của mình đối với quê hương, đất nước; thể hiện tình yêu và niềm tin vào cuộc sống, vào đất nước với những giá trị truyền thống bền vững.

    iii. tóm tắt:

    1. nội dung:

    bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng của tình yêu tha thiết, gắn bó với quê hương, với cuộc đời; thể hiện chân thành mong muốn cống hiến hết mình của nhà thơ cho quê hương đất nước; hãy đóng góp “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân vĩ đại của dân tộc.

    2. nghệ thuật:

    – câu gồm năm từ, gần với giai điệu phổ biến.

    – bài thơ giàu nhạc điệu, với âm hưởng nhẹ nhàng và nghiêm túc.

    – kết hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị và tự nhiên với những hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng và khái quát.

    – kết cấu chặt chẽ, hình ảnh mùa xuân phát triển tự nhiên với cách tu từ độc đáo.

    text: “moon” – nguyen duy.

    phân tích bài thơ “ánh trăng” của nguyễn duy

    i. điều tra chung:

    1. tác giả:

    – nguyen duy sinh năm 1948, tên khai sinh là nguyen duy nhu, quê ở thành phố thanh hóa.

    – 1966, nhập ngũ, tham gia tình báo, chiến đấu trên nhiều chiến trường.

    – sau năm 1975, ông về làm báo văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú của Báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

    – Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu.

    – Thơ của bà gần gũi với văn học dân gian, tuy sâu lắng nhưng rất tài hoa, đi sâu vào cái nghĩa, cái tình muôn thuở của dân tộc Việt Nam.

    “Thơ của nguyễn duy sâu lắng và gần gũi với tâm hồn ca dao, dân ca Việt Nam. thơ của ông không cố tìm hình thức mới mà đi sâu vào ý nghĩa của tình yêu muôn thuở của người dân Việt Nam. Ngôn ngữ thơ của nguyễn duy không không bóng bẩy nếu không nói là gần gũi, mộc mạc, đôi khi hơi “bụi”, phù hợp với ngôn ngữ đời thường (theo “văn lớp 9 không khó như bạn nghĩ”).

    – năm 2007, anh được trao giải thưởng nhà nước về văn học và nghệ thuật.

    – tác phẩm tiêu biểu: cát trắng (1973), mẹ và chị (1987), chặng đường dài (1990), trở về (1994)…

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh tạo nên nó:

    -nguyen duy viết bài thơ “ánh trăng” vào năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi đô thị của cuộc sống hiện đại và tiện nghi, nơi những người trở về sau chiến tranh, những gian khổ nhưng nghĩa tình.

    – In trong Tập thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy – tập thơ đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.

    b. thiết kế: 3 phần:

    – hai khổ thơ đầu: vầng trăng năm xưa.

    – hai khổ thơ tiếp theo: vầng trăng trong hiện tại.

    – hai khổ thơ cuối: cảm xúc và suy nghĩ của tác giả trước vầng trăng.

    c. mạch cảm xúc:

    Bài thơ là những câu chuyện ngắn được kể theo trình tự thời gian từ xưa đến nay gắn với những dấu mốc trong cuộc đời con người. trong dòng tự sự ấy, mạch cảm xúc xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và được cài cắm trong “cú sốc” cuối bài thơ.

    d. chủ đề:

    Thông qua hình tượng nghệ thuật “ánh trăng” và tình cảm của nhà thơ, bài thơ đã thể hiện những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian khổ và tình nghĩa.

    ii – đọc – hiểu văn bản:

    1. mặt trăng trong quá khứ:

    – cuộc sống khi còn nhỏ:

    + bằng đồng.

    + với sông.

    + với tiền gửi.

    – & gt; từ “với” được lặp lại ba lần càng nhấn mạnh sự gắn bó hài hòa của con người với thiên nhiên, với những vẻ đẹp của tuổi thơ.

    – “trong rừng chiến” – những năm tháng gian khổ, ác liệt của chiến tranh, “vầng trăng trở thành tri kỷ” – & gt; nghệ thuật nhân hóa – & gt; vầng trăng là người bạn thân thiết, người bạn tâm tình, người đồng đội sẻ chia vui buồn nơi chiến trận với người lính – nhà thơ – & gt; Hành quân giữa đêm khuya, dọc những nẻo đường chông gai của mặt trận, những buổi canh gác trong đêm rừng lạnh giá, những đêm ngủ yên dưới bầu trời đen kịt, những người lính đều có trăng ở bên. vầng trăng ở bên cạnh bạn, người bạn đời, cùng cảm nhận cái lạnh buốt nơi “sương rừng hoang vu” (đồng chí), đi qua bao gian khổ của cuộc đời chiến đấu, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; hân hoan trong niềm vui thắng trận, bồi hồi, bồi hồi, xao xuyến mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê …

    – “khỏa thân trước thiên nhiên / hồn nhiên như cây cỏ” – & gt; Ngày xưa trăng đẹp làm sao!

    – & gt; liên tưởng nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, cách so sánh độc đáo “hồn nhiên như cỏ cây” – & gt; cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. đó cũng là hình ảnh của những con người thời bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng.

    – “đừng… quên… vầng trăng tình yêu” – & gt; bày tỏ tình cảm với mặt trăng.

    = & gt; vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành, cả trong hạnh phúc và khó khăn.

    = & gt; vầng trăng là vẻ đẹp của đồng quê bình dị, thanh bình; Tự nhiên vĩnh cửu, trong lành, thơ mộng.

    = & gt; vầng trăng không chỉ trở thành bạn tri kỷ mà còn trở thành “vầng trăng tri kỉ” tượng trưng cho quá khứ của tình yêu.

    2. mặt trăng ở hiện tại:

    – tình hình nhà ở:

    + vùng đất của hòa bình.

    + thay đổi hoàn cảnh sống: khác xa cuộc sống bình dị trước đây, con người sống dư dật trong “gương soi” – một cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên.

    – “trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”:

    + vầng trăng giờ đây đối với người lính năm xưa giờ chỉ còn là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của một thời xa xăm nào đó.

    + nhân cách hóa, so sánh – & gt; “vầng trăng tri ân” trở thành “khách qua đường”. trăng vẫn “qua ngõ” vẫn vẹn nguyên, vẫn thủy chung, yêu thương nhưng người ta đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, hờ hững đến mức hững hờ. vầng trăng giờ bỗng trở thành người dưng, chẳng ai nhớ, chẳng ai biết.

    – & gt; rõ ràng, khi hoàn cảnh thay đổi, con người ta dễ dàng quên đi quá khứ, họ có thể thay đổi tình cảm của mình. nói để quên rằng nhà thơ đã phản ánh một hiện thực trong xã hội hiện đại.

    – người đàn ông gặp lại mặt trăng trong một tình huống bất ngờ:

    + tình huống: mất điện, phòng tối.

    + “vội vã”: vội vàng, gấp gáp – & gt; đón mặt trăng

    – & gt; đây là một khổ thơ quan trọng trong cấu trúc của toàn bộ bài thơ. chính khoảnh khắc bất ngờ đó đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ – & gt; sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng khiến nhà thơ ngạc nhiên và bối rối, gợi cho nhà thơ nhiều kỉ niệm đẹp.

    3. cảm xúc và suy nghĩ của tác giả trước vầng trăng.

    – từ “face” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa của bản dịch – trăng, mặt người – trăng và người đối diện nói chuyện với nhau.

    – với tư thế “ngẩng mặt trông mặt”, người đọc cảm nhận được sự tĩnh lặng, thành kính và trong phút chốc lại trỗi dậy cảm xúc khi gặp lại vầng trăng: “có tiếng khóc”. giọt nước mắt của nỗi nhớ, của sự lãng quên lạnh lùng với một người bạn cũ; của một ý thức bừng tỉnh sau bao ngày chìm đắm trong thế giới mộng mơ; những giọt nước mắt hối hận về hành vi của chính mình trong suốt thời gian qua. một chút áy náy, một chút ân hận, một chút đau khổ, tất cả đã tạo nên những “giọt nước mắt”, những thổn thức sâu thẳm trong trái tim người lính.

    – và khoảnh khắc nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào vầng trăng, biểu tượng đẹp đẽ của một thời đã xa, nhìn thẳng vào tâm hồn mình, bao kỉ niệm chợt ùa về trong tâm trí. những kỷ niệm về một thời thơ ấu trong sáng, về thời chiến tranh đẫm máu, về những ngày xưa tốt đẹp dần hiện về trong dòng cảm xúc “như ruộng là hồ, sông là rừng”. những cánh đồng, hồ nước, dòng sông, khu rừng, những hình ảnh gắn bó với không gian ký ức.

    – & gt; cấu trúc song song của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập và phép tu từ so sánh, điệp ngữ, liệt kê dường như thể hiện rõ hơn nỗi nhớ về một thời hoà mình với thiên nhiên, với vầng trăng. . chính ánh trăng dịu dàng giản dị ấy đã hé mở bao kỉ niệm khó phai mờ, đánh thức bao cảm xúc tưởng như đã ngủ yên trong góc tối của tâm hồn người lính. chất thơ chân tình, chân chất như vầng trăng dịu ngọt, ngôn ngữ súc tích, diễn cảm như “có gì đó đang vỡ”, bài thơ đã chạm đến bao cảm xúc của người đọc.

    – hình ảnh “vầng trăng khuyết mãi quay đầu” là biểu tượng cho quá khứ của tình yêu, lòng trung thành, sự thủy chung, bao dung, nhân hậu.

    – hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa như một lời nhắc nhở nghiêm khắc, một lời trách móc thầm lặng. chính sự im lặng của vầng trăng đã đánh thức lòng người và làm xao xuyến tâm hồn những người lính năm xưa. con người “giật mình” trước ánh trăng là sự thức tỉnh nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. nó là một từ tiếc nuối, day dứt và đẹp đẽ.

    iii – tóm tắt:

    1. nội dung:

    – bài thơ là lời tự nhủ của tác giả về những năm tháng gian khó của đời lính, gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, thanh bình.

    – gợi nhớ và củng cố ở người đọc thái độ “uống nước nhớ nguồn”, thủy chung ân nghĩa.

    2. nghệ thuật:

    – Thể thơ 5 chữ, phương thức tự sự kết hợp với biểu cảm trữ tình.

    – giọng thơ chắc nịch, chân thành sâu sắc.

    – hình ảnh mặt trăng – “ánh trăng” mang nhiều tầng ý nghĩa

    text: “đội tàu đánh cá” – gần huy

    phân tích đội tàu đánh cá của anh Huy

    i – thông tin chung:

    1. tác giả:

    – huy cận (1919 – 2005), tên đầy đủ là cu huy cận, quê quán: tỉnh Hà Tĩnh.

    – là nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940).

    – là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam từ năm 1945:

    + Trước cách mạng tháng Tám, thơ ông giàu chất triết lí, thấm đượm nỗi buồn man mác và đầy u uất của con người.

    + sau cách mạng, thơ tràn trề niềm vui, bài ca vui về cuộc sống, bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.

    – Năm 1996, Nhà nước trao tặng ông giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

    – tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (1940); vũ trụ học (1942); mặt trời lại tỏa sáng mỗi ngày (1958); đất nở hoa (1960); bài thơ cuộc đời (1963); hai bàn tay của tôi (1967)…

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh tạo nên nó:

    – Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi, miền bắc được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. niềm vui tràn ngập niềm tin yêu trước sự hình thành cuộc sống mới, thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca thời bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã lặn lội đến những miền đất xa xôi của Tổ quốc để sinh sống và viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường … Hạm có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ trong anh thực sự bừng nở trở lại và tràn đầy cảm hứng về thiên nhiên đất nước, công việc và niềm vui với cuộc sống mới.

    – bài hát “đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác vào thời điểm đó và được in trong tập thơ “bầu trời rạng rỡ mỗi ngày” (1958).

    b. thiết kế: 3 phần:

    bài thơ có 7 khổ, kết cấu theo sự vận động của thời gian và diễn biến của một ngày đánh cá:

    – hai khổ thơ đầu: cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc chiều tà.

    – bốn khổ thơ tiếp theo: cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển vào một đêm trăng đẹp.

    – khổ thơ cuối: cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh ló dạng trên biển.

    c. nguồn cảm hứng chính:

    – bài thơ có hai cảm hứng lớn song hành, đồng điệu và hòa quyện. đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng này được thể hiện qua cấu trúc bài viết và hệ thống ảnh dự thi. Về cấu trúc, thời gian của bài thơ là nhịp điệu tuần hoàn của vũ trụ (từ lúc hoàng hôn đến lúc mặt trời mọc) cũng như thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá (từ lúc ra khơi đến lúc trở về). không gian của bài thơ là một không gian rộng lớn, tráng lệ với trời, biển, trăng, sao, sóng, gió; nó cũng là không gian của cảnh làm việc.

    d. chủ đề tư tưởng: tả cảnh ngư dân đánh cá trên biển ha long, đoạn thơ ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên, đất nước, sự trù phú của biển cả; ca ngợi tinh thần lao động hăng say, yêu nghề của những người lao động mới ra trường, những người làm chủ bản thân, cuộc sống và đất nước:

    học cách thống trị, tập trở thành người xây dựng

    Dám vươn tới quy luật tự nhiên!

    bao nhiêu tình yêu, mọi người đến

    hai cánh tay như hai cánh bay

    lồng ngực dám dũng cảm trước những cơn bão dữ dội

    Đạp bùn không sợ sên!

    (“mùa thu mới” – nguyên tố).

    ii – đọc – hiểu văn bản:

    1. cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn. (hát về biển):

    – mở đầu bài thơ là cảnh con tàu ra khơi lúc hoàng hôn:

    “Mặt trời lặn trên biển như ngọn lửa

    sóng vỗ, cửa đóng vào ban đêm

    Thuyền đánh cá lại ra khơi,

    bài hát căng buồm cùng gió biển. ”

    bốn dòng có cấu trúc trật tự và cân đối như một câu thơ lục bát: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về người. cảnh và người tưởng như đối lập nhưng lại hòa hợp với nhau, cảnh làm nền để hình ảnh con người nổi bật lên làm trung tâm của hình ảnh: hình ảnh lao động vui tươi, khỏe khoắn, tràn đầy âm thanh và màu sắc tươi sáng.

    + hai dòng đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

    “Mặt trời lặn trên biển như ngọn lửa

    sóng bị kẹt, cửa đóng vào ban đêm. ”

    _chỉ dựa trên thực tế, câu thơ có vẻ vô lý, bởi vì ở vịnh Hạ Long, ở phía đông, bạn không thể nhìn thấy mặt trời lặn trên biển như vậy, mà chỉ có mặt trời mọc. nên ở đây, bằng cách viết “mặt trời lặn trên biển” có nghĩa là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ con tàu đang căng buồm, giữa biển nhìn về phía tây về phía bãi biển. lúc đó con tàu bị sóng biển bao la, mặt trời mới lặn được trên biển. mặt trời lặn trên biển nhưng dường như nó không tắt, nó không tắt. nó giống như một quả cầu lửa, một quả cầu lửa, đỏ rực, khổng lồ, chìm xuống đáy đại dương. biển rộng lớn dường như đang nóng lên.

    – & gt; phép tu từ so sánh: mặt trời được so sánh với bếp lửa mang đến cho hình ảnh hoàng hôn vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, ấm áp chứ không ảm đạm, ảm đạm như trong thơ cổ.

    _ nhân cách hoá, ẩn dụ “sóng đã đóng sập cửa” – & gt; người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ và biển cả như bước vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi và thư thái. vũ trụ bây giờ giống như một ngôi nhà khổng lồ. sóng dài như tia chớp, màn đêm buông xuống là cánh cửa.

    – & gt; hình ảnh thơ thể hiện thiên nhiên vũ trụ bao la gần gũi với con người: biển cả hay còn gọi là mái ấm gia đình của mỗi ngư dân. có thể nói hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của nhà thơ.

    + bản chất của vũ trụ là cái nền, cái nền để con người xuất hiện:

    “Con thuyền đánh cá lại ra khơi

    Bài hát căng buồm theo gió.

    <3

    _ những con tàu lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. chữ “lại” trong câu thơ đã gợi tả điều đó, khiến ta hiểu đây là công việc, sinh hoạt thường ngày, trở thành nếp sống gia đình của ngư dân vùng biển.

    _ “câu hát căng buồm theo gió biển” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất tu từ. tiếng ca hùng tráng nuôi gió căng buồm. bài hát đó, nêu bật tinh thần quật khởi của người lao động trong cuộc hành quân chinh phục biển cả…

    – câu hát đó cũng thể hiện ước vọng của người dân chài: ước một chuyến đi đánh bắt được nhiều sò, tôm cá giữa cảnh đẹp của biển cả:

    “hát rằng: cá bạc ở biển đông lặng sóng,

    cá thu biển phía đông như một tờ rơi

    đêm và ngày dệt nên biển ánh sáng,

    Hãy đến dệt lưới của chúng tôi, cá! ”

    2. cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng đẹp:

    – Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ khám phá vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm rằm với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương. .

    – cảnh những con thuyền ra khơi, từng luồng cá vây quanh lưới vây mang vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng:

    “Con tàu của chúng ta căng buồm cùng gió và căng buồm cùng mặt trăng

    lướt giữa những đám mây cao và biển phẳng ”

    “xa biển để khám phá bụng biển

    nhiều kiểu hàng rào khác nhau. ”

    + con thuyền nhỏ hướng ra biển trời bao la đã trở thành một con tàu tầm cỡ vũ trụ hoành tráng. con tàu có gió làm bánh lái, mặt trăng như cánh buồm, nó lướt đi giữa mây cao và biển phẳng, giữa mây trời và sóng biển.

    <3 hình ảnh con người đã hòa vào không gian rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. không chỉ vậy, còn nổi bật ở vị trí trung tâm: đi xa thám hiểm vùng biển, dò luồng cá, đan lát trận địa, giăng lưới vây.

    – & gt; đoàn thuyền đánh cá cắt ngang sóng biển, bao quanh là điệp trùng. công việc lao động trên biển như một trận chiến chinh phục thiên nhiên. nhân viên làm việc với tất cả lòng can đảm, nhiệt huyết, trí tuệ nghề nghiệp và tâm hồn rộng mở.

    – bàn làm việc được tô điểm bởi vẻ đẹp của thiên nhiên. cái nhìn của nhà thơ về phía biển và con cá cũng có những sáng tạo bất ngờ và độc đáo:

    cá phun sương với cá anh vũ

    Con cá mú phát sáng với ngọn đuốc màu đen và hồng.

    đuôi của bạn vẫy trăng vàng

    Thủ thuật đánh số thứ tự kết hợp với cách phối màu khéo léo sử dụng các tính từ màu sắc ‘đen hồng’, ‘vàng hoe’ … đã tạo nên một bức tranh sơn mài mang nhiều màu sắc nhẹ nhàng, lung linh huyền ảo như trong truyện cổ tích về một xứ sở thần tiên. mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “cá viên, cá trê rực rỡ ngọn đuốc đỏ hồng” làm nên vẻ đẹp của vùng biển quê hương. như thể có một cuộc rước đuốc trong biển đêm sâu thẳm. mỗi lần: “đuôi mình vẫy”, trăng như vàng hơn, sáng hơn, biển như bừng lên sức sống. người xưa thường nói: “thơ có hình”, tức là trong thơ có hình. đúng vậy, mỗi con cá ở đây là một bức phác thảo thần thánh. chúng không chỉ là những sản phẩm vô tri vô giác do bàn tay con người bắt. đối với họ, những ngư dân này, đó là một người bạn, một “em”, một nguồn cảm hứng cho mọi người trong công việc và cũng là một đối tượng thẩm mỹ cho thi ca.

    + Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng mà còn ở âm thanh. nhìn đàn cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ:

    “thở vào ban đêm: cách hút nước trong sông dài”

    Với nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển như một sinh linh. tiếng sóng vỗ rì rào là hơi thở của biển về đêm. tuy nhiên, nhà thơ đã viết “thở đêm: làm thế nào để rút nước trong ha long”. trong thực tế, đó là sóng biển vỗ vào mạn thuyền. trăng sao phản chiếu ánh sáng trong lòng biển, mỗi khi sóng vỗ dường như có bàn tay của sao trên trời “dời non lấp biển”. đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. có thể nói, bằng một tâm hồn vô cùng tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên và vũ trụ. chính không khí sôi nổi của công cuộc dựng nước trong những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở chân thực của những hình ảnh lãng mạn này.

    – lối viết lãng mạn và trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã tạo nên những hình ảnh đẹp biến công việc vất vả của người đánh cá thành một bản nhạc vui tươi, hòa nhịp với thiên nhiên:

    Tôi hát một bài hát để gọi cá

    gõ thuyền có nhịp trăng cao

    biển cho tôi cá như lòng mẹ

    làm cho cuộc sống của chúng ta phát triển từng ngày.

    + “Đánh thuyền” là công việc thực sự của ngư dân, nhưng điều duy nhất ở đây là mặt trăng được nhân hóa, tham gia công việc với con người.

    + ngư dân hát bài ca gọi cá, bài ca cảm ơn người mẹ biển giàu lòng nhân hậu.

    – những vì sao mờ ảo, màn đêm buông xuống cũng là lúc những ngư dân giăng lưới kịp đón nắng mai. những cảnh kéo lưới bắt cá được miêu tả chân thực, thơ mộng với không khí khẩn trương, khẩn trương:

    ngôi sao kéo lưới đúng lúc trời sáng

    chúng tôi đã ném rất nhiều cá nặng

    vảy bạc có đuôi vàng lóe sáng vào lúc bình minh

    giương buồm để đón nắng hồng.

    Cảnh đánh cá trên biển có thể nói giống như một bức tranh sơn mài bóng bẩy. người kéo lưới là trung tâm của khung cảnh, người được khắc họa tuyệt đẹp với thân hình chắc nịch, gân guốc và kết quả của “ánh vàng rạng rỡ”. màu hồng của bình minh sưởi ấm môi trường làm việc. thiên nhiên và con người hòa hợp trong sự vận hành của vũ trụ.

    3. cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh vừa ló dạng trên biển. (bài hát trở lại).

    – đoàn tàu đánh cá thành công trở về trong ánh bình minh rực rỡ và tráng lệ.

    – khổ đầu tiên của khổ thơ lặp lại gần giống dòng cuối cùng của khổ thơ đầu, với một từ duy nhất (từ “với”) cung cấp một cấu trúc tương ứng từ đầu đến cuối, tạo ra sự hài hòa và cân đối. cấu trúc lặp lại đó trở thành một điệp khúc rộn ràng, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu cho quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn, đôn hậu của ngư dân.

    – Phép tu từ nhân hoá: “con tàu chở nắng” thể hiện tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân. đúng với nhận xét của chính tác giả: “bài thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng nó”.

    – nếu ở khổ thơ đầu, mặt trời lặn tượng trưng cho hoàng hôn thì ở khổ thơ cuối, mặt trời lặn trên biển – một ngày mới bắt đầu – một ngày mới với kết quả làm việc dồi dào và tinh thần phấn chấn.

    – câu thơ cuối vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa khiến người đọc liên tưởng đến một tương lai tươi sáng, vẻ vang: “mắt cá muôn dặm phơi phới”. một ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài ngàn cây số – một cuộc sống mới đang sinh sôi và phát triển …

    iii – tóm tắt:

    1. nội dung:

    Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ thể hiện sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, thể hiện niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc đời.

    2. nghệ thuật:

    đoạn thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú, độc đáo; âm thanh lành mạnh, anh hùng, lạc quan.

    text: “bài hát mùa thu” – đôi khi

    phân tích bài thơ Đến mùa thu của bạn bè

    tham khảo: “Luyện thi vào lớp 10 môn văn, năm học 2013-2014” – nguyễn thị kim lan.

    * giới thiệu bài: Mùa thu luôn là đề tài quen thuộc và là cảm hứng sáng tác cho thơ ca. trong kho tàng dân tộc, chúng ta đã từng biết đến một mùa thu trong trẻo trong thơ Nguyễn Khuyến, một mùa thu ngơ ngác. trong thơ phú, buồn trong thơ xuân diệu. và thật bất ngờ khi chúng ta gặp được một người bạn tinh tế, sâu lắng đến vô cùng qua một khoảnh khắc “sang thu”.

    i. điều tra chung:

    1. tác giả:

    – tình bạn là một nhà thơ lớn lên trong quân đội.

    – Anh là nhà thơ viết nhiều, anh viết hay về con người đất nước, về mùa thu. nhiều bài thơ mùa thu của anh mang một cảm giác u sầu, nao nao trước bầu trời trong xanh và đang thay đổi.

    – chất thơ của tình bạn thấm đượm hồn quê Việt Nam mộc mạc, tinh tế và giàu sức rung động.

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh tạo nên nó:

    – bài thơ sáng tác năm 1977.

    – in trong tập “từ chiến hào đến thành phố”.

    c. thiết kế: 3 phần tương ứng với ba khổ thơ.

    – khổ thơ 1: dấu hiệu của sự chuyển mùa

    – khổ thơ 2: hình ảnh thiên nhiên lúc chuyển mùa

    – khổ thơ 3: những suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ.

    ii. đọc – hiểu văn bản:

    1. dấu hiệu theo mùa:

    – “sang thu” ở đây là đầu thu, khi thiên nhiên chuyển mùa. mùa hè vẫn chưa kết thúc, nhưng mùa thu tới đã có những triệu chứng đầu tiên. Trước những thay đổi tinh vi này, bạn phải rất nhạy cảm để cảm nhận chúng.

    – đối với bạn bè, mùa thu chỉ đơn giản là bắt đầu:

    đột nhiên anh nhận ra mùi hương của ổi

    hít thở trong gió

    + nếu trong “đây là mùa thu sau” cảm giác xuân thu là hàng liễu mùa thu buồn bên hồ “liễu biếc – tóc buồn rơi ngàn giọt lệ” thì đôi khi ta như có một hương thơm quen thuộc bay lên. “gió vỉa” – loại gió khô và lạnh, đặc trưng của mùa thu miền Bắc. Đó là “hương ổi”, hương thơm đặc biệt của dân tộc, hương thơm độc đáo của mùa thu vùng quê đồng bằng Bắc Bộ.

    + hương thơm ấy không trộn lẫn, mà “thở” trong gió, “có” ý nghĩa mạnh mẽ và tỏa ra trong từng dòng điện. gia chủ đôi khi không tả mà chỉ gợi, tạo cho người đọc sự liên tưởng thú vị: Trong vườn nhà, những trái ổi chín vàng trên cành cây tỏa hương thơm thoang thoảng trong gió. chỉ một từ “pha” cũng đủ gợi lên một hương thơm như so sánh. được so sánh bởi mùi hương mạnh mẽ, được so sánh bởi gió.

    – & gt; nhận ra mùi ổi trong gió là cảm nhận tinh tế của một người chân quê và nhà thơ đã cho ta một dấu ấn mùa thu mộc mạc mà thơ mộng. khám phá vẻ đẹp mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng bắc bộ.

    + Nếu trong thơ cổ điển mùa thu thường hiện lên qua những hình ảnh ước lệ như “ngô đồng”, “liễu rủ”, “lá vàng héo”, “cúc hoa”… thì bắt đầu bằng “hương ổi”. là một bức tranh, một tứ thơ khá mới lạ với những vần thơ viết về mùa thu nhưng vô cùng quen thuộc và gần gũi với mọi người Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu sang.

    + “hương ổi” gắn liền với bao kỉ niệm tuổi thơ, hương vị quê hương đã thấm đẫm trong tâm trí nhà thơ và mỗi khi thu về lại trở thành nỗi nhớ da diết. người chính trực đôi khi tin tưởng rằng: “Giữa cái mênh mông của đất trời, giữa khoảnh khắc chuyển mùa lạ lùng, điều khiến tâm hồn ta rung động và giật mình khi nhận ra đó là mùi ổi. đối với tôi, kể cả với nhiều người khác không làm thơ, hương thơm ấy gợi nhớ về tuổi thơ, về một buổi chiều vàng với dòng sông êm đềm, một con đò trôi, những đàn trâu bò đùa giỡn với nhau và với lũ trẻ. ẩn hiện trong những rặng ổi chín ven sông… nó như mùi bãi biển, mùa thiếu nhi… mùi ổi cũng như ùa về những miền thân thiết của tuổi thơ trong tâm hồn mỗi chúng ta. hương thơm bình dị ấy đã trở nên quý giá bởi nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn của mỗi người, có khi là của cả một thế hệ… ”

    – & gt; mùi ổi ấy, ngọn gió se lạnh đầu tiên ấy là sứ giả của mùa thu (cũng như cánh én là sứ giả của mùa xuân). nó đến rất lặng lẽ, “êm đềm” đến nỗi không ai biết được nó chỉ là một chút tình cờ.

    – & gt; Có thể nói, có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu, nhưng đây là một khám phá tinh tế về hồn thơ của một vùng quê.

    – nếu hai câu đầu miêu tả cảm giác chưa đủ tin tưởng thì hình ảnh “sương giăng qua ngõ” lại càng rực rỡ, huyền ảo.

    + không phải là màn sương mù dày đặc như trong ca dao quen thuộc mà tả cảnh hồ tây buổi sáng “sương khói” hay như thi sĩ quang dung đã viết trong bài thơ “về tây”: “sai khao khát sương lấp đoàn quân mỏi mòn ”, nhưng“ sương giăng lối ngõ ”gợi lên những làn sương tinh khôi, mềm mại, giăng rèm khắp phố thị, ngõ xóm. nó làm cho không khí mùa thu trong lành và cảnh mùa thu thơ mộng, huyền ảo, nhàn nhã và yên bình.

    <3 giống như đang đợi ai đó hay là nỗi nhớ một điều gì đó? những câu thơ nhạy cảm tạo ra một cảm giác mơ hồ về nhiều cảm xúc lẫn lộn.

    = & gt; Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận được những nét đặc trưng của mùa thu đang hiện hữu. có “hương ổi”, có “hơi gió” và “sương mai”. Mùa thu đã về trên quê hương. tuy nhiên, nhà thơ vẫn thận trọng: “hình như mùa thu đã đến”. Tại sao “có thể” mà không phải “chắc chắn”? một chút nghi ngờ, một chút u sầu không rõ ràng. thật là một trạng thái cảm xúc chuyển tiếp. mùa thu đến thật nhẹ nhàng, thật mơ hồ.

    = & gt; ẩn sau không gian thôn quê ấy, ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.

    2. bức tranh thiên nhiên khi chuyển mùa

    – sau phút ngỡ ngàng xen lẫn niềm vui nhẹ, cảm xúc của nhà thơ tiếp tục lan tỏa, mở ra tầm nhìn rộng lớn hơn:

    con sông luôn dễ dàng

    những con chim bắt đầu nhanh lên

    có mây mùa hạ

    vắt một nửa vào mùa thu

    – Hình ảnh mùa thu được cảm nhận bằng sự thay đổi của đất trời theo tốc độ chuyển mình từ mùa hạ sang mùa thu, nhẹ nhàng mà rõ ràng. thiên nhiên sinh thành và mùa thu đã được cụ thể hóa bằng các hình ảnh: “sông dễ dãi”, “chim chạy”, “nửa mây”. do đó, thiên nhiên được quan sát trong một không gian rộng lớn hơn, nhiều tầng hơn. và hình ảnh rơi xuống từ những thứ vô hình như “hương ổi”, “hơi thở của gió”, từ chật hẹp như con ngõ đến những nét cụ thể, hữu hình với không gian vừa dài, vừa rộng, vừa xa.

    – tác giả cảm nhận bộ sưu tập bằng cả tâm hồn:

    con sông luôn dễ dàng

    những con chim bắt đầu nhanh lên

    + với sự nhân cách hoá độc đáo, nhà thơ đã rất tài hoa khi nắm bắt được cái hồn của cảnh vật, dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ ngập tràn phù sa, trải dài giữa cánh đồng những buổi sớm. mùa thay đổi. vào mùa thu, nước sông êm đềm, êm ả, chuyển động không ào ạt như sau những cơn mưa mùa hạ, “dòng chảy” của sông không chỉ gợi nên sự ngọt ngào của hình ảnh thiên nhiên mùa thu, mà còn chứa đựng đầy tâm trạng của con người, như vậy. như chậm lại. xuống, muộn, suy nghĩ về kinh nghiệm sống.

    + Đối lập với vẻ nhàn nhã của dòng sông là sự hối hả của những cánh chim trời bắt đầu di cư về phương Nam. không gian trở nên xôn xao, không còn âm thanh nhưng câu thơ gợi lên sự chuyển động.

    – & gt; hai câu thơ tương phản rất nhịp nhàng, tạo nên hai hình ảnh đối lập: dòng sông trên mặt đất, con chim trên trời, dòng sông “chầm chậm”, con chim “vội vã” khắc khoải. đó là sự khác biệt giữa những thứ bên trên và những thứ bên dưới vào thời điểm chuyển mùa.

    – & gt; nhà thơ đã gợi ra tốc độ đối lập của thiên nhiên và vạn vật để tạo nên hình ảnh mùa thu đang đến: có nét uyển chuyển, mềm mại, có nét hối hả, nhộn nhịp.

    (Ý thơ còn gợi cho người đọc một liên tưởng khác: sự chuyển động của non sông, của cánh chim, chẳng phải cũng là sự chuyển mình của đất nước sao? Cả nước ta vừa trải qua một cuộc chiến tranh tàn khốc. Chỉ mong có được hòa bình , và bây giờ để sống một cuộc sống yên bình và lặng lẽ, nhưng sau đó mỗi người Việt Nam bắt đầu hối hả với nhịp sống mới để xây dựng đất nước với niềm vui và nhiệt huyết)

    – Mùa thu như rùng mình thay áo. cả bầu trời mùa thu cũng thay đổi:

    có mây mùa hạ

    vắt một nửa vào mùa thu.

    + trong thơ ca Việt Nam, nhiều câu thơ nói về mây trời thu:

    _ “mây trôi giữa trời xanh” (nguyen khuyen – “điếu thuốc thứ năm”)

    _ “tầng mây cao đùn núi bạc” (hyperien – “trang giang”)

    + đôi khi bạn dùng động từ “vắt vẻo” để gợi ý rằng vào thời khắc chuyển mùa, đám mây như trải dài, nhẹ nhàng bồng bềnh như một tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng.

    + hình như đám mây vẫn còn đọng lại vài tia nắng ấm của nắng hè nên “vắt nửa người vào mùa thu”. đám mây vắt qua ranh giới mỏng và nhỏ dần, nhỏ dần, nhỏ dần, rồi đến một lúc nào đó không còn sự sống nữa, để rồi cả đám mây mùa hạ nhuốm đầy sắc thu.

    + nhưng trong thực tế không có đám mây như vậy vì mắt thường không thể dễ dàng nhìn thấy sự phân chia rõ ràng của mây mùa hạ và mùa thu. nó chỉ là một liên tưởng thú vị, một hình ảnh thơ. khoảnh khắc giao mùa được tạo nên từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không chỉ đưa người đọc đến gần hơn… mà còn để lại bao cảm xúc xao xuyến trước vẻ đẹp ngọt ngào, trong lành của mùa thu.

    – & gt; Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong cuộc tìm kiếm, khám phá của những người bạn vào thời khắc giao mùa. nó giống như một hình ảnh vĩnh cửu được khắc bằng ngôn ngữ.

    = & gt; dòng sông, cánh chim và những đám mây được nhân hóa tạo nên hình ảnh mùa thu quyến rũ và đầy chất thơ.

    = & gt; ba hình ảnh trên là báo hiệu của mùa thu, để lại một chút cuối hè. nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát của mình đến chiều cao (con chim), chiều rộng (đám mây) và chiều dài (dòng sông). Có sợi dây giao cảm giữa con người và thiên nhiên vào mùa thu không?

    = & gt; qua cách cảm nhận đó, chúng ta thấy bạn có một tâm hồn thơ nhạy cảm, một tình yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.

    3. những suy nghĩ và chiêm nghiệm của nhà thơ:

    – Nếu ở hai khổ thơ đầu, dấu ấn mùa thu thể hiện khá rõ về không gian và thời gian thì ở khổ thơ cuối, vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ những suy tư về con người, về cuộc đời:

    vẫn còn bao nhiêu mặt trời

    mưa đã tạnh

    sấm sét cũng ít gây ngạc nhiên hơn

    trong một hàng cây cổ thụ. ”

    – Hình ảnh “nắng và mưa”:

    + mưa nắng, là những hiện tượng tự nhiên vận hành theo quy luật riêng. một số người đã nhìn thấy tình trạng thiếu nắng mưa hàng ngày, một dấu hiệu của sự chuyển mùa từ mùa hạ sang mùa thu.

    + nắng vẫn vàng tươi, nhưng nắng thu dịu dàng hơn cái nắng gay gắt, gay gắt của mùa hè.

    + mưa vẫn còn đó, nhưng ít hơn nhiều so với cơn mưa bong bóng kéo dài của mùa hè. “Mờ dần” không chỉ có nghĩa là ít mưa hơn mà còn ít mưa hơn. đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa.

    – & gt; hai từ “bao nhiêu” thường chỉ cái gì đó có thể đo được, nhưng làm sao có thể đo được màu sắc của mặt trời? cũng như “với”, tuy biết là giảm nhưng ở mức độ nào thì ai xác định được? mọi thứ chỉ là ước tính, không có gì là cố định. cách nói mơ hồ khác với khoa học ở đây.

    – & gt; bạn phải chú ý, bạn phải để trái tim của bạn bắt nhịp với thiên nhiên để cảm nhận nó.

    – ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh “sấm sét” và “hàng cây”:

    + cuối mùa hạ – đầu mùa thu, khi những cơn mưa xối xả đã nguôi ngoai, tiếng sấm cũng ít đột ngột và dữ dội hơn. nó không còn đột ngột, sấm sét, những tia chớp như xé toạc bầu trời trong những cơn mưa tháng 6, tháng 7.

    + “cây cổ thụ” không phải là hàng cây trải qua nhiều mùa nên không biết chính xác là bao nhiêu, nhưng phải có đủ kinh nghiệm mới có thể bình tĩnh đứng vững trước những biến động.

    = & gt; thay đổi cảnh quan và khí hậu. tất cả vẫn mang nhiều dấu hiệu của mùa hạ nhưng giảm dần về cường độ và cường độ, rồi lặng lẽ rơi vào mùa thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả.

    – hai câu cuối của bài thơ không chỉ hiện thực mà còn ẩn dụ, gợi mở cho người đọc, người nghe nhiều suy nghĩ:

    sấm sét cũng ít gây ngạc nhiên hơn

    trên những cây cổ thụ

    + “sấm sét” là những tiếng vọng bất thường từ môi trường bên ngoài, cuộc sống.

    + “cây cổ thụ” dùng để chỉ những người lớn tuổi có kinh nghiệm.

    = & gt; giọng thơ trầm bổng hẳn, câu thơ không chỉ là tiếng nói, nỗi niềm mà còn là những suy ngẫm, chiêm nghiệm về nhân sinh. nhìn cảnh vật thay đổi ra sao khi mùa thu vừa bắt đầu, người ta đôi khi nghĩ về cuộc đời khi đã “lớn tuổi”. có lẽ, mùa thu của đời người là sự kết thúc của những tháng ngày sôi nổi với những chông chênh của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, bình lặng, êm đềm, điềm đạm, trưởng thành… trước những va chạm của cuộc đời.

    = & gt; nên “sang thu” không chỉ là sự chuyển mình của đất trời mà còn là sự chuyển mình của cuộc đời mỗi người. đôi khi rất tinh tế, nhạy bén trong nhận thức và liên tưởng. Đó là lý do tại sao những bài thơ của ông có sức lay động lòng người mạnh mẽ hơn.

    iii. tóm tắt:

    – với những hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt nhưng giàu sức gợi cảm.

    – câu thơ năm từ.

    – cặp đôi đã thể hiện một cách cảm nhận tinh tế đặc biệt để tạo nên một hình ảnh chuyển mình từ cuối hạ sang thu dịu dàng, êm đềm, trong sáng và thơ mộng … của vùng đất trời Đông Bắc. p>

    – những vần thơ của những người bạn đánh thức cảm xúc của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và những suy ngẫm về cuộc sống.

    nhắn tin cho con bạn – phương pháp và

    phân tích bài thơ kể cho con nghe của y phuong

    i. điều tra chung:

    1. tác giả:

    – và phuong là nhà thơ dân tộc Tày.

    – Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, lối suy nghĩ giàu hình ảnh của người dân miền núi.

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh tạo nên nó:

    – bài thơ ra đời năm 1980 – khi đời sống vật chất tinh thần của nhân dân cả nước nói chung và đồng bào các dân tộc miền núi nói riêng còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn.

    p>

    – Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời kỳ đất nước còn nhiều khó khăn… bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng của mình. nói chuyện với con trai của bạn, nói chuyện với chính mình. lý do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời là khi tôi dường như không biết phải giữ mình vào đâu, phải tin vào điều gì. cả xã hội lúc đó đang hối hả đi tìm tiền. Nếu bạn muốn sống một cuộc sống tử tế như một con người, tôi nghĩ bạn phải gắn bó với văn hóa. phải tin tưởng vào những giá trị tích cực và vĩnh cửu của nền văn hóa. Đó là lý do tại sao qua bài thơ đó, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua cái nghèo và cái đói bằng văn hóa. ”

    – & gt; Từ thực tế khó khăn đó, nhà thơ viết bài thơ này để tự tin tưởng, tự động viên mình, đồng thời để tưởng nhớ đến con cháu mai sau.

    c. thiết kế: 2 phần:

    – Phần 1: từ đầu đến “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”: người cha kể cho con nghe cội nguồn của thực phẩm: đứa con lớn lên trong tình yêu thương đùm bọc của cha mẹ, trong thơ ca của cuộc sống lao động quê hương.

    – phần 2: phần còn lại: tính cách tốt của những người bạn đồng hành. => người cha bày tỏ niềm tự hào về sức sống bền bỉ bền bỉ, truyền thống cao quý của quê hương đất nước và mong muốn con trai tiếp tục xứng đáng với truyền thống đó.

    = & gt; thiết kế nhỏ gọn, nhiều lớp, chuyển từ tình cảm gia đình mở rộng sang tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi dâng lên ý thức sống.

    ii – đọc – hiểu văn bản:

    1. nguồn lương thực của mỗi con người.

    – lật lại bài thơ, chúng ta thấy điều đầu tiên bác sĩ muốn nhắn nhủ với các bạn chính là nguồn lương thực của mỗi người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con cái – tình yêu thương gia đình:

    bước từ chân phải đến cha

    bước chân trái về phía mẹ

    một bước để tạo ra tiếng nói

    hai bước để đạt được tiếng cười.

    <3 bước ”, sau đó là“ giọng nói ”-“ cười ”….

    + bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong cách nghĩ và cách diễn đạt của người dân miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một đại gia đình đón tết vui tươi, rộn rã tiếng cười.

    + những con chữ gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh một em bé tập đi, tập nói, đôi khi ngã vào lòng mẹ, đôi khi nắm tay cha.

    <3

    + mỗi câu, mỗi chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc. cả ngôi nhà như rung động trước “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha và mẹ. Mỗi bước đi, mỗi tiếng cười của con đều được cha mẹ đón nhận, quan tâm và hạnh phúc. trong tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ, con cái lớn lên từng ngày.

    – & gt; mối quan hệ sâu sắc và thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái, tình cảm gia đình bền chặt được hình thành từ những khoảnh khắc hạnh phúc giản dị và đáng nhớ ấy. Ngay từ đầu, ca từ của bài thơ đã chạm đến tình cảm gia đình sâu sắc của mỗi người, từ đó tạo nên sự đồng cảm và rung động sâu sắc trong lòng người đọc.

    – nguồn lương thực của mỗi con người không chỉ là gia đình mà còn là quê hương, thiên nhiên tươi đẹp. là dòng sữa thứ hai tinh thần, là quê hương với cuộc sống lao động, với thiên nhiên tươi đẹp, bổ dưỡng và sẻ chia giúp các em khôn lớn. đó là:

    bạn thân mến của tôi!

    sử dụng nan hoa

    bức tường của ngôi nhà đang hát.

    + quê hương hiện lên qua hình ảnh những người đồng đội của họ. kể về những “đồng minh”, nhà thơ dường như đang nhẹ nhàng giới thiệu đây là những người dân của chính mình, những người vùng ông, những người dân quê ông gần gũi, thân thương.

    – & gt; một lời kêu gọi như vậy, cùng với câu hát “con trai của tôi” làm cho lời bài hát trở nên nghiêm túc và tình cảm.

    + đồng minh hữu tình, quý nhân: “dung quang: tường vi khúc.” Cuộc sống chăm chỉ và vui tươi của anh ấy được gợi lên qua những hình ảnh đẹp! tre, luồng dưới bàn tay tài hoa của người bản xứ đã trở thành “cá đuối”. tường nhà không chỉ bằng tre, gỗ mà còn được xếp bằng những câu hát si, hát cải lương.

    + các động từ “install”, “meet” diễn tả chính xác những động tác khéo léo trong công việc và gợi lên sự gắn bó, gắn bó của người bản xứ trong cuộc sống lao động.

    – & gt; Cái gì là cái “tình” của “đối tác” mà cốt ở cái tài, cái hồn? Phải chăng, một tâm hồn phong phú và lãng mạn ẩn trong vẻ ngoài mộc mạc?

    + quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn, cũng là quê hương với chất thơ, đằm thắm:

    rừng hoa

    con đường của trái tim.

    Nếu bạn hình dung một vùng núi cụ thể, chắc chắn mỗi người có thể liên tưởng nó với những hình ảnh khác với những gì bác sĩ nói: thác nước, ngàn cây, tiếng chim muông và thậm chí là tiếng động vật. của “gió hú, tiếng nguồn kêu núi”, những bí mật chốn rừng thiêng. nhưng hình ảnh đó có sức gợi rất lớn, gợi lên những gì đẹp đẽ, tinh túy nhất. những bông hoa trong “hablame” có thể là hoa thật – giống như một nét đặc trưng của khu rừng – và khi đặt vào dòng thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mỹ góp phần thể hiện điều mà tác giả cố gắng khái quát: đó là vẻ đẹp của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người nơi ấy. quê hương cũng hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. đó cũng là nguồn yêu thương vẫn khơi dậy nhiệt thành trong tim mỗi người, bởi đó là “con đường của những trái tim”. từ “cho” mang một ý nghĩa nặng nề. thiên nhiên ban tặng cho con người những gì họ cần để trưởng thành và mang đến cho họ những gì tươi đẹp nhất. thiên nhiên đã che chở và nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.

    – & gt; bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua từ đồng nghĩa “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống trọng nghĩa tình của “người đồng đội”. quê hương ấy chính là cái nôi dẫn dắt các em đến cuộc sống bình yên.

    – hạnh phúc ôm con vào lòng, ông bố kể cho con trai nghe kỷ niệm thuở ban đầu của hạnh phúc gia đình:

    Cha mẹ luôn nhớ ngày cưới

    ngày đầu tiên đẹp nhất trên thế giới.

    = & gt; mạch thơ đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình đến quê hương đất nước.

    = & gt; bài thơ vừa là tình cảm ấm áp, vừa là lời khuyên đáng tin cậy của người cha đối với con trai mình.

    = & gt; bằng những hình ảnh thơ đẹp đẽ, giản dị để nói lên những điều cụ thể, độc đáo và gần gũi với con người miền núi, người cha muốn nói với con cái rằng: vòng tay yêu thương của cha mẹ, của gia đình, tình cảm sâu nặng của tình quê hương dân tộc – chính là cái nôi mà người con có lớn lên, nguồn thức ăn của trẻ. vui lòng viết nó ra.

    2. phẩm chất tốt của một người hàng xóm.

    – trong ngọt ngào của những kỷ niệm về gia đình, quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của đồng đội.

    a. những người bạn đồng hành biết lo lắng, biết ước mơ (giàu ý chí và nghị lực).

    – đồng minh không chỉ là những người giản dị, tài giỏi trong cuộc sống lao động mà còn là những người biết quan tâm và có ước mơ làm giàu:

    bạn thân mến của tôi!

    thước đo tuyệt vời của nỗi buồn

    còn lâu mới nâng được các chi lớn.

    + nếu ở trên đó là “con yêu mẹ nhiều” – yêu cuộc sống bình dị và hạnh phúc, yêu những con người thơ mộng, yêu những tấm lòng nhân hậu chân thành, thì ở đây người cha lại nói “Con yêu mẹ nhiều” – vì sau lời “tình” là những khó khăn, vất vả của người dân quê hương – & gt; cha mẹ bày tỏ tình yêu thương chân thành đối với những khó khăn, thử thách và ý chí mà đồng đội của họ đã phải trải qua.

    + Với tư tưởng độc đáo của những người thích leo núi, y học đã lấy sự cao cả của bầu trời để đo nỗi buồn và sự xa xôi của trái đất để đo ý chí của con người.

    + Sắp xếp các tính từ “cao”, “xa” theo thứ tự tăng dần, nhà thơ cho thấy khó khăn càng lớn, thử thách càng lớn, ý chí con người càng mạnh mẽ.

    = & gt; Có thể nói, cuộc đời của những người bạn đồng hành còn nhiều nỗi buồn, khó khăn nhưng họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc. .

    b. các dân tộc đồng minh, mặc dù sống trong cảnh nghèo đói và khó khăn, nhưng vẫn trung thành với quê hương và cội nguồn của họ.

    sống trên đá không ghét đá gập ghềnh

    sống trong thung lũng không ghét thung lũng nghèo đói

    sống như một dòng sông

    lên xuống thác ghềnh

    đừng lo lắng

    + phép liệt kê với phép ẩn dụ “đá gập ghềnh”, “thung lũng nghèo đói” – & gt; gợi lên cuộc sống nghèo khổ, khó khăn, vất vả.

    + sử dụng thành ngữ bình dân “lên xuống thác ghềnh”, ý thơ gợi bao gian khổ, lam lũ.

    – & gt; những câu thơ dài, ngắn cùng những câu lục bát tạo nên ấn tượng về cuộc sống khó khăn, gian khổ và nghèo khó của quê hương.

    + các từ “sống”, “không chê vào đâu được” và cấu trúc câu, hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: đồng minh có thể nghèo khó, thiếu thốn vật chất, nhưng không thiếu ý chí, quyết tâm. . các đồng minh trung thành chấp nhận và gắn bó với quê hương của họ, bất chấp đói nghèo và khó khăn. và có lẽ, chính cuộc sống khó khăn, vất vả và đầy đau khổ ấy đã tôi luyện nên sự vĩ đại để tình yêu quê hương đất nước tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.

    + phép so sánh “sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người khác. Dù khó khăn như thế nào nhưng họ vẫn tràn đầy năng lượng, tâm hồn lãng mạn, phóng khoáng như hình tượng sông núi kỳ vĩ. tình cảm của anh ấy trong sáng và tuôn chảy như suối, tôi sống bằng niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu mọi người.

    c. Đồng minh có ý thức độc lập, tự cường và lòng tự hào dân tộc:

    – phẩm chất của người dân quê hương còn được ông cha ca ngợi qua những lời lẽ tương phản giữa hình dáng bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:

    những người đồng chí bằng xương bằng thịt

    không nhiều người nhỏ tuổi

    + lời bài hát mộc mạc, giản dị nhưng đầy cảm xúc.

    + cụm từ “da nguyên thịt” là cách nói bằng hình ảnh đặc trưng của dân tộc Tày, tôn vinh những con người mộc mạc, chất phác, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.

    + cụm từ “không nhỏ” khẳng định ý chí, nghị lực, bản lĩnh và niềm tin vĩ đại.

    – & gt; sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của những người đồng đội của anh. họ giản dị nhưng giàu tinh thần và niềm tin. họ có thể là những “cục thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí và khát vọng xây dựng quê hương đất nước:

    – những người đồng đội tự tay đục đẽo đá để nâng tầm quê hương

    và quốc gia thực hiện tùy chỉnh.

    + cách nói mang đậm chất dân tộc: độc đáo nhưng vẫn hàm chứa ý nghĩa sâu sắc.

    + hình ảnh “các dân tộc đồng minh tự đục đá xây dựng quê hương” mang tính hiện thực (chỉ truyền thống dân tộc miền núi xây nhà bằng đá) và mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.

    + những người đồng minh bằng chính bàn tay và khối óc của mình, bằng công việc của mình đã xây dựng và làm đẹp quê hương, xây dựng để nâng cao quê hương.

    + còn quê hương là điểm tựa tinh thần với những phong tục tập quán nâng đỡ con người bằng ý chí và niềm tin.

    – & gt; đoạn thơ đã khái quát về tinh thần tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ cội nguồn, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của quê hương đồng chí.

    – khép lại bài thơ bằng một lời nhắn nhủ trìu mến với bao niềm tin và hy vọng của một người cha vào đứa con trai yêu quý của mình:

    con trai tôi, mặc dù vẫn còn nguyên

    trên đường đi

    không bao giờ nhỏ

    Hãy lắng nghe tôi.

    + ý thơ “dù thô bằng xương bằng thịt”, “không bao giờ nhỏ” lặp lại với bốn câu thơ trước càng trở nên nhức nhối, gây ấn tượng trong lòng tôi về phẩm chất cao quý của “con người”. . nhưng hai tiếng “lên đường” chứng tỏ người con đã trưởng thành, tạm biệt gia đình – quê hương để bước sang một trang mới của cuộc đời.

    + Trong hành trang của người con trai khi “lên đường” có một thứ quý giá hơn bất cứ thứ gì trên đời, đó là ý chí, nghị lực, là truyền thống của đất nước. lời căn dặn của người cha giản dị, dễ hiểu, cảm động, chứa đựng niềm hy vọng lớn lao của người cha, mong người con tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp bước truyền thống, làm rạng danh quê hương.

    + hai từ “nghe con” lắng đọng nhiều cảm xúc, chất chứa tình yêu thương vô bờ bến của một người cha dành cho con trai mình. câu thơ cũng gợi lên một cảnh tượng cảm động diễn ra trong lúc chia tay: người cha nhân hậu âu yếm nhìn con, vỗ đầu, còn người con thì cúi đầu ngoan ngoãn nghe lời cha.

    = & gt; ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của đồng chí, mong đồng chí sống tri ân với quê hương, phải giữ vững đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông ta bao đời nay để lại. Ngoài ra, bạn phải biết chấp nhận gian khổ và có ý chí vươn lên.

    = & gt; người cha mong muốn con cái hiểu và thông cảm với cuộc sống còn nhiều khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc, vững vàng trên đường đời, vững tin bước vào cuộc sống.

    = & gt; người cha trong bài thơ của bác sĩ đã xây dựng cho con trai mình một hành trang quý giá vào đời. Nếu mẹ là bông hoa để con cài trên ngực thì cha là cánh chim chắp cánh cho con bay xa. Nếu mẹ dành cho con những lời yêu thương, an ủi ngọt ngào thì cha dành cho con những lời động viên, ý chí, ước mơ, khát vọng và lối sống cao đẹp.

    = & gt; giọng thơ nghiêm trang, tình cảm mà trang nghiêm. những hình ảnh thơ cụ thể mà khái quát, mộc mạc nhưng giàu chất thơ.

    = & gt; lời thơ đầy ý nghĩa, mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. nó giống như một bài hát nhẹ nhàng nhưng đầy âm hưởng. Những vần thơ đầy tình cảm của người cha sẽ là hành trang theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ: bài học về niềm tin, nghị lực và ý chí vươn lên.

    iii. tóm tắt:

    “Hãy nói với con”, người bác sĩ không chỉ gói ghém hành trang cho cậu con trai yêu quý của mình mà còn là hành trang mà ông muốn trao cho tất cả những ai bước trên đường đời.

    1. nội dung:

    Đoạn thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm áp, tôn vinh truyền thống cần cù lao động và sức sống mãnh liệt của quê hương, dân tộc. bài thơ giúp chúng ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của người dân miền núi, nhắc nhở chúng ta về sự gắn bó với truyền thống, quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống,

    2. nghệ thuật:

    – câu thơ tự do.

    – Bài thơ giản dị, có hình ảnh vừa cụ thể vừa tượng trưng, ​​giàu sắc thái biểu cảm.

    – bản sắc của những người dân miền núi tạo nên một giai điệu đặc biệt cho tình cảm giản dị nhưng sâu sắc của một người cha đối với con trai mình.

    văn bản viếng lăng bác – xa.

    phân tích bài thơ thăm mộ bên kia

    giới thiệu bài học:

    chú ho là cái tên thân thương, vang mãi trong lòng bao người, là niềm tin, là sức mạnh và phẩm giá của dân tộc Việt Nam, là người bạn lớn của tâm hồn mỗi con người, của thiên nhiên … cái cao cả, cái đẹp của chú, tình yêu của cô dành cho anh đã trở thành nguồn cảm hứng để các nghệ sĩ tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ. sau này về chủ đề thơ về chú do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, mang súng trường… nhà thơ phương xa đã để lại một bài thơ “viếng lăng chú” thật độc đáo và đầy cảm hứng. . tình yêu đẹp, dành cho những lời hay ý đẹp.

    i – thông tin chung:

    1. tác giả:

    – vien phuong (1928 – 2005), tên khai sinh là phan thanh viên, quê ở tỉnh An Giang.

    – Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở miền Nam và là một trong những cây bút đầu tiên của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mỹ.

    – Thơ ông thường nhỏ nhẹ, đa cảm và thơ mộng, kể cả trong hoàn cảnh ác liệt của chiến trận.

    – tác phẩm tiêu biểu: đôi mắt sáng của con ngươi (1970); Như Mây Mùa Xuân (1978); đập quê hương (1991);…

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh sáng tác:

    – bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền nam thống nhất đất nước. Đó cũng là lúc lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành, thực hiện nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước về thăm lăng Bác. tác giả là một người con của miền nam, trong suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường miền nam xa xôi. Cũng như đồng bào, chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được về thăm bác và chỉ đến bây giờ, khi đất nước thống nhất, ông mới thực hiện được ước nguyện đó. tình cảm dành cho anh đã trở thành nguồn cảm hứng để tôi sáng tác bài thơ này.

    – in trong tập thơ “như mây xuân” (1978)

    b. sắp xếp: 4 phần, tương ứng với bốn khổ thơ.

    – khổ thơ 1: cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác

    – khổ thơ 2: cảm xúc của nhà thơ trước lăng

    – khổ thơ 3: cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng

    – khổ 4: tâm trạng nhớ nhung của nhà thơ khi rời lăng.

    = & gt; mạch vận động của cảm xúc trong bài theo trình tự thăm viếng, thời gian kết hợp với không gian.

    c. bao cảm xúc dâng trào: niềm xúc động thánh thiện, niềm thành kính, tự hào và đau xót trước một nhà thơ miền Nam vừa được đưa về thăm lăng Bác.

    ii – đọc – hiểu văn bản:

    1. cảm xúc của nhà thơ khi đặt chân đến lăng Bác: cảm xúc của một người con đi từ phương xa về cả không gian và thời gian, nay được thể hiện sâu sắc khoảnh khắc được trở về bên Bác. trong khổ thơ này:

    – Nhà thơ nói: “Tôi ở miền nam ra thăm lăng chú”. đoạn thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng bao điều sâu sắc, nhà thơ nói lên rằng mình đang ở miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, nơi xương máu đã đổ hàng chục năm trời. như vậy, không chỉ đơn thuần là tham quan các công trình kiến ​​trúc, không chỉ là chiêm ngưỡng hài cốt của một vĩ nhân, mà là cây tìm về cội, lá về cành, máu về tim, sông về nguồn. . đó là sự trở lại để bày tỏ lòng kính trọng đối với bạn, được bạn ôm ấp và ca ngợi.

    – nhà thơ gọi “son” và từ “với” ở đầu dòng, đầu bài thơ. Không có một từ nào trong ngôn ngữ của con người giàu cảm xúc và sâu sắc hơn từ “son”. cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân mật, đầm ấm, thân thương mà rất trân trọng, thiêng liêng. đồng thời miêu tả tâm trạng xúc động của người con về thăm cha sau nhiều năm xa cách.

    – nhà thơ sử dụng từ “thăm viếng” thay vì từ “thăm viếng”:

    + “thăm”: là đến chia buồn cùng thân nhân người đã khuất.

    + “thăm”: là gặp gỡ và nói chuyện với những người đang sống.

    – & gt; uyển ngữ, lảng tránh – & gt; xoa dịu nỗi đau mất mát – & gt; khẳng định Người vẫn mãi ở trong lòng nhân dân miền nam, trong lòng dân tộc. đồng thời gợi lên sự thân thiết, gần gũi: Con về thăm cha – Con về thăm bà con, thăm nhà bác ruột, thăm nhà bác ruột cho thỏa nỗi nhớ mong.

    = & gt; câu thơ không có sử dụng nghệ thuật gì nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén nhiều cảm xúc. cách xưng hô và cách dùng từ của phía bên kia giúp người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ nhung của người con đối với người cha của mình. Đó không chỉ là cảm xúc của riêng nhà thơ, mà còn là cảm xúc chung của dân tộc Việt Nam. thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng họ đều có chung một tình cảm với bác Hồ kính yêu.

    – Đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả có thể nhìn thấy, cảm nhận và có ấn tượng mạnh là hình ảnh hàng tre. Khi xây dựng lăng Bác, các nhà thiết kế đã mang từ khắp mọi miền đất nước những loài cây, loài hoa đặc trưng của mọi miền đất nước về trồng trong lăng Bác vì Bác có tâm hồn cởi mở với thiên nhiên và chú cũng là một biểu tượng. vì những người ưu tú, vì đất nước, vì dân tộc Việt Nam. Và ai đã từng đến lăng Bác sẽ nhận thấy, cảnh tượng đầu tiên hai bên lăng là những hàng tre xanh ngút ngàn màu ngà. Thi sĩ phương xa là vậy đó!

    + Sự xuất hiện của hàng tre trong thơ xa không chỉ mang ý nghĩa tả thực, nhà thơ đã viết nên hình ảnh hàng tre với phong cách tượng trưng, ​​tượng trưng (gợi hình ảnh ẩn dụ gì đó).

    + ảnh thực tế: trước hết cây tre là hình ảnh rất quen thuộc và gần gũi của vùng quê, đất nước việt nam.

    + Hình ảnh ẩn dụ: hình ảnh cây tre còn là biểu tượng của con người và đất nước Việt Nam.

    _ thành ngữ “mưa bão” chỉ những khó khăn, gian khổ, vinh quang và cay đắng mà nhân dân ta đã vượt qua trong thời kỳ lâu dài xây dựng và bảo vệ quê hương, nhất là trong hai cuộc kháng chiến, kháng chiến chống nước. luật pháp và chống lại các quốc gia thống nhất gần đây.

    _ “đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết, đấu tranh, đấu tranh anh dũng, không bao giờ bỏ cuộc, tất cả vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.

    – & gt; Bắt đầu từ hình ảnh hàng tre trong sương mờ quanh lăng Bác, nhà thơ đã liên tưởng, liên tưởng và khái quát thành hình ảnh cây tre với ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng cho sức sống bền bỉ, tính kiên cường, không ngừng vươn lên của dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam. . dù phải đối mặt với mưa bão, gặp phải những thăng trầm trong cuộc kháng chiến cứu nước và bảo vệ Tổ quốc vẫn “hiên ngang”, vẫn đoàn kết chiến đấu, chiến đấu anh dũng, không bao giờ bỏ cuộc. niềm xúc động, tự hào đối với đất nước, dân tộc và nhân dân miền Nam đã được nhà thơ thể hiện trực tiếp qua câu cảm thán “ơi” ở đầu câu.

    – & gt; những hàng tre đó như những đoàn quân danh dự cùng với những hàng cây khác đại diện cho đồng bào cả nước trên đất nước Việt Nam tụ hội về đây sum vầy bên bác, hàn huyên và bảo vệ ước mơ của mọi người. nơi bạn ở luôn xanh tươi.

    = & gt; chỉ một khổ thơ ngắn nhưng cũng đủ nói lên tình cảm chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và của cả nhân dân đối với người bác kính yêu.

    2. cảm xúc của nhà thơ trước lăng:

    – Nhà thơ đã sử dụng một hình ảnh nghệ thuật ẩn dụ đẹp đẽ để diễn tả cảm xúc của mình khi đứng trước lăng:

    ngày qua ngày mặt trời đi qua lăng

    Anh ấy nhìn thấy một mặt trời rất đỏ trong lăng mộ.

    + hình ảnh “mặt trời qua lăng” là hình ảnh có thật. nó là mặt trời của sự sáng tạo, hành tinh quan trọng nhất trong vũ trụ, nó gợi ý về sự tráng lệ, bất tử, vĩnh hằng. mặt trời là nguồn sống, là ánh sáng.

    + Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một hình ảnh ẩn dụ sáng tạo và độc đáo: đó là hình ảnh chú ho. giống như “mặt trời”, chú ho còn là nguồn sáng, nguồn sức mạnh. “mặt trời” – chú hô soi đường cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Đồng chí đã cùng nhân dân vượt qua hàng trăm ngàn gian khổ, hy sinh để giành được thắng lợi vẻ vang, trọn vẹn. “mặt trời” – chú ho đã tỏa ra hơi ấm của tình yêu thương bao la trong trái tim mỗi người Việt Nam. nhà thơ bạn đã ví nó như: “một tấm lòng lớn lọc trăm dòng họ nhỏ”. ý nghĩa và nhân cách vĩ đại của bạn đã có tác động sâu sắc và sâu sắc đến tất cả số phận con người.

    + so sánh chú ho với mặt trời đã được các nhà thơ sử dụng từ lâu:

    một người sáng chói, một mặt trời cách mạng

    nhưng đế chế là một con dơi sợ hãi

    cuối đêm rung rinh dưới chân bạn.

    (sắp tới – “ngày mai trong tháng 5”)

    nhưng sự so sánh ẩn chứa trong chính bằng lăng đỏ rực trong cảnh chiêm ngưỡng ánh nắng tự nhiên hàng ngày (biện pháp nhân hóa để “nhìn thấy”) là một sáng tạo độc đáo và mới lạ của phía bên kia. Sự so sánh đó một mặt ca ngợi sự vĩ đại và công lao của dân tộc Việt Nam đối với các thế hệ người Việt Nam. mặt khác, thể hiện rõ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi có chú Hồ – có mặt trời cách mạng soi đường cũng như ánh sáng mặt trời tự nhiên.

    + từ láy ở đầu câu vừa thể hiện sự liên tục bất biến của thiên nhiên, vừa góp phần tạo nên sự trường tồn, bất tử của hình ảnh chú hoẵng trong lòng người và giữa thiên nhiên, vũ trụ. . .

    – hình ảnh dòng người viếng lăng Bác được nhà thơ miêu tả độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:

    mỗi ngày, mọi người đi bộ trong tình yêu

    Bảy mươi chín mùa xuân hoa tàn.

    + từ “day day” cùng nghĩa với dòng đầu tiên của khổ thơ – & gt; tả cảnh thực diễn ra hàng ngày, thường xuyên trong đời sống của người Việt. hàng xe tang từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ đổ về lăng viếng người chú: “dòng người đi tình người”.

    + Bằng cách quan sát thực tế, tác giả đã tạo ra một ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”.

    _ ở đây chúng ta có thể hiểu “tràng hoa” theo nghĩa thực là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con trên khắp mọi miền đất nước và thế giới đến viếng và dâng lên tỏ lòng yêu thương. , trái tim yêu thương, tôn trọng và tự hào của tôi.

    _ “tràng hoa” ở đây còn mang ý nghĩa ẩn dụ chỉ mỗi người xếp hàng vào viếng lăng chú mỗi ngày là hoa thơm cỏ lạ. Những dòng người vô tận đến viếng lăng Bác mỗi ngày và nối nhau thành những vòng hoa vô tận. những bông hoa – những vòng hoa rực rỡ ấy dưới ánh mặt trời của ông đã biến thành những bông hoa – những vòng hoa đẹp nhất của “mùa xuân bảy mươi chín” – 79 năm cuộc đời ông.

    – & gt; Hình ảnh bài thơ trên thể hiện lòng biết ơn, kính trọng sâu sắc của nhà thơ và nhân dân đối với Bác Hồ.

    3. cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng:

    – bên trong lăng, cảnh vật và không khí như ngưng tụ cả thời gian và không gian. hình ảnh thơ đã miêu tả chính xác và tinh tế cái tĩnh lặng, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ của không gian lăng.

    – Đứng trước mặt Người, nhà thơ cảm thấy người ngủ thật êm đềm và bình yên giữa ánh trăng sáng êm đềm.

    – Hình ảnh “trăng sáng dịu êm” gợi cho ta liên tưởng đến tâm hồn, cách sống thanh cao, cao đẹp và những vần thơ đầy ánh trăng của Người. vầng trăng và chú từng đi vào thơ chú tôi trong tù, ngoài chiến trường, nay vầng trăng cũng đến làm người ta mất ngủ. – & gt; Chỉ bằng trí tưởng tượng, sự hiểu biết và lòng yêu mến những nét đẹp của nhân cách Hồ Chí Minh, nhà thơ mới có thể tạo nên những hình ảnh thơ đẹp đẽ đến thế!

    – tâm trạng xúc động của nhà thơ được thể hiện qua một hình ảnh ẩn dụ sâu sắc: “vẫn biết trời xanh còn mãi”.

    + “bầu trời xanh” được hiểu trước hết theo nghĩa thực, đó là hình ảnh thiên nhiên mà chúng ta vẫn đang chiêm ngưỡng hàng ngày, nó tồn tại mãi mãi.

    + Mặt khác, “trời xanh” còn là một ẩn dụ sâu sắc: ông tiếp với đất nước, như “trời xanh” muôn thuở. nhà thơ tou đã viết: “bạn sống như trời và đất của chúng ta”, bởi vì bạn đã trở thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc.

    – Dù tin gì đi nữa, hàng chục triệu người dân Việt Nam vẫn vô cùng đau buồn và tiếc thương cho sự ra đi của anh – “nhưng sao tôi nghe nhói đau trong tim?”.

    + “nhói” là biểu thức trực tiếp thể hiện nỗi đau bất chợt. chính tác giả cũng cảm nhận được nỗi đau mất mát trong sâu thẳm tâm hồn: nỗi đau khôn nguôi không thể diễn tả thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau của riêng tác giả, mà còn là nỗi đau trong trái tim hàng triệu người Việt Nam.

    + cặp từ “yet, but” thể hiện sự mâu thuẫn. cảm giác tim đập trái ngược với nhận thức rằng bầu trời là trong xanh mãi mãi. do đó, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. người ta không kìm được phút yếu lòng. chính nỗi đau ấy đã khiến tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân như thắt ruột, xót xa. cảm giác đau đớn và tuyệt vọng này đã từng xuất hiện trong bài thơ của nhà thơ:

    ai là quả bưởi vàng ngọt ngào đó

    hương thơm cho người khác, hoa nhài

    bóng của bạn đã đi đâu sớm …

    Cảm giác này là đỉnh điểm của nỗi nhớ, của nỗi đau. nó là nguyên nhân của những khát vọng trong khổ thơ cuối cùng của bài thơ.

    4. nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ khi rời lăng:

    – Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ thể hiện mình là một người con từ miền Nam về thăm người bác ruột thì ở khổ thơ cuối nhà thơ lại đề cập đến cuộc chia ly với ông. nghĩ đến ngày mai xa phương nam, xa chú, xa hà nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, giấu kín trong lòng mà bộc lộ ra bên ngoài:

    “Tôi sẽ khóc khi trở về miền nam vào ngày mai.”

    <3

    + những từ đơn giản thể hiện cảm xúc sâu sắc.

    + từ “trào dâng” diễn tả một cảm xúc rất mãnh liệt, nỗi nhớ và mong muốn không rời khỏi nơi mình yên nghỉ.

    + đó không chỉ là tâm trạng của riêng tác giả mà còn là của hàng triệu trái tim khác. ở gần bạn dù chỉ trong giây phút nhưng chúng tôi không bao giờ muốn rời xa bạn vì bạn quá ấm áp và quá vĩ đại.

    – tuy rằng tác giả muốn ở bên ngươi vĩnh viễn, nhưng tác giả cũng biết đã đến lúc trở về nam. và anh chỉ có thể gửi gắm nỗi lòng mong muốn được hóa thân, hòa nhập vào sân khấu quanh lăng để có thể luôn ở bên anh trong thế giới của mình:

    Tôi muốn làm một con chim hót quanh lăng

    Tôi muốn trở thành một bông hoa tỏa hương

    Tôi muốn trở thành một cây tre trung thành ở đây.

    + các từ “em muốn làm” và những hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên “chim”, “hoa”, “tre” đã nói lên khát vọng thiết tha, mãnh liệt của tác giả.

    <3

    + đặc biệt là ước nguyện “muôn cây tre chung thủy nơi này” để vào hàng tre bạt ngàn, che chở cho giấc ngủ vĩnh hằng của con người. hình ảnh cây tre một lần nữa mang tính biểu tượng, tạo cho bài thơ một kết cấu đầu cuối tương ứng. hình ảnh những hàng tre quanh lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối như mang một ý nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc và trọn vẹn dòng cảm xúc. “cây tre trung thành” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện tình yêu thương vô hạn và lòng trung thành với các chú, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà chú đã chỉ ra. đó là lời hứa chung thủy của nhà thơ và cũng là ý nguyện của các dân tộc miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Người.

    iii. tóm tắt:

    1. nội dung:

    niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, tự hào và bùi ngùi của một nhà thơ miền Nam vừa được ra lăng viếng Bác.

    2. nghệ thuật:

    – giọng điệu thơ phù hợp với nội dung giàu cảm xúc: trang nghiêm, sâu lắng, nghiêm túc, đau đớn, tự hào.

    – thể thơ 8 chữ, xen lẫn câu 7 hoặc 9 chữ. nhịp thơ chủ yếu chậm rãi, thể hiện sự trang trọng, thành kính và cảm xúc sâu lắng. chỉ có khổ thơ cuối là nhanh hơn, phù hợp với giọng điệu của điều ước.

    – Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. hình ảnh ẩn dụ: những biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “bầu trời xanh” vừa quen thuộc, gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu lắng, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu tượng.

    bài hát ru em bé lớn trên lưng mẹ – nguyen khoa diem

    i – thông tin chung:

    1. tác giả:

    – nguyen khoa diem là một gương mặt tiêu biểu trong thế hệ các nhà thơ chống Mỹ.

    – Thơ của nguyen khoa diem không cầu kỳ về hình thức, ngôn từ tự nhiên, đời thường, ca từ nhẹ nhàng, nghiêm trang nhưng cũng mang tính triết lý sâu sắc

    – tác phẩm tiêu biểu: “đất ngoại ô” (thơ, 1973), “cánh cửa thép” (ký, 1972), “phố khát vọng” (trường ca, 1974)…

    2. hoạt động:

    a. hoàn cảnh tạo nên nó:

    – Bài thơ được Nguyễn Khoa Điểm sáng tác năm 1971, những năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong thời kỳ này, đời sống của quân và dân ta trên các chiến trường còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Ở chiến khu miền núi, cán bộ và nhân dân ta bám rừng, bám rừng, tăng gia sản xuất, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ.

    – in trong tập “Đất và khát vọng” (1984).

    b. thiết kế:

    * 3 đoạn văn bằng ba bài hát ru, mỗi bài có hai khổ thơ:

    – bài hát thứ nhất: lời ru của một người mẹ yêu con, yêu bộ đội.

    – bài hát thứ hai: lời ru của một người mẹ yêu con, yêu dân làng.

    – bài hát thứ ba: lời ru của một người mẹ yêu con, yêu quê hương đất nước.

    * một bài thơ có cấu trúc lặp lại

    – Cấu trúc lặp lại: bài thơ gồm 3 câu hát ru. mỗi bài hát ru được tạo thành từ hai lời ru:

    + ở đầu đoạn: lời ru của nhà thơ đưa em bé vào giấc ngủ.

    + cuối đoạn: Lời ru trực tiếp của mẹ.

    – lặp lại các từ và lặp lại các cụm từ. mở đầu là lời ru của tác giả: “ngủ ngoan trên lưng mẹ – ngủ ngoan đừng rời lưng mẹ” và lời ru trực tiếp của mẹ: “ngủ ngoan a-kay, ngủ ngoan nhé a-kay ơi” được lặp lại trong mỗi hát ru.

    – nhịp điệu lặp lại: hầu hết các câu thơ được chia thành 4/4.

    = & gt; một cấu trúc lặp đi lặp lại như vậy tạo ra một cấu trúc và thiết kế cân đối; tạo nên âm hưởng dài, ngọt ngào, mềm mại và nghiêm trang của lời ru. theo lời ru của tác giả và lời ru của mẹ, đan xen tạo thành một bài ca ngọt ngào, đằm thắm và sâu lắng. giọng điệu trữ tình đã thể hiện một cách độc đáo tình cảm yêu thương, chăm sóc của người mẹ.

    c. nội dung trang bìa;

    – đoạn thơ tiêu biểu cho hình ảnh người mẹ ác, ôi trong kháng chiến chống Mỹ, giàu tình thương con, gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến, thể hiện khát vọng tự do, thống nhất. đất nước.

    ii – đọc – hiểu văn bản:

    1. ý nghĩa của tên bài thơ:

    – “tiếng ru” là âm thanh quen thuộc gợi lên sự ngọt ngào, sâu lắng trong tâm hồn mỗi người. Chính bài hát mang hồn dân tộc đã nuôi dưỡng tình cảm của chúng tôi từ thuở ấu thơ, khơi gợi tình mẫu tử dịu dàng.

    – Nhà thơ lấy hình ảnh “những em bé” như một sự khái quát để chỉ một thế hệ con người lớn lên, được nuôi dưỡng sau lưng của mẹ.

    – Sau đó ca ngợi người mẹ núi nói riêng và người mẹ Việt Nam nói chung: giản dị mà vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống nước thống nhất của dân tộc – giàu tình thương yêu con, cháu, dân phố thị và lòng yêu Tổ quốc. .

    2. hình ảnh người mẹ độc ác – ôi:

    a. qua lời ru của tác giả:

    hình ảnh người mẹ độc ác gắn liền với công việc qua những hoàn cảnh cụ thể: người mẹ bồng con làm những công việc của người dân chiến khu: nội trợ, nội trợ, kháng chiến.

    – Trong khổ thơ đầu, một người mẹ cõng con trai đi giã gạo để nuôi những người lính kháng chiến:

    <3

    + mẹ con cùng chung nhịp: tiếng giã cối, công việc của mẹ.

    + thân mẹ dành trọn cho con: vai thon làm gối, lưng làm nôi, lòng mẹ hát ru.

    – Trong khổ thơ thứ hai, hình ảnh người mẹ cõng con đi tỉa ngô trên núi ka-lui – người mẹ đang làm công việc sản xuất của người dân trong chiến khu

    + hình ảnh tương phản “lưng núi thì to nhưng lưng mẹ thì nhỏ” làm nổi bật nỗi vất vả, cực khổ của một người mẹ giữa núi rừng bao la, làm nổi bật sự kiên cường, bền bỉ của người mẹ. trong công việc khó khăn. Tôi làm việc chăm chỉ, chăm chỉ.

    + phép ẩn dụ sáng tạo – & gt; miêu tả tình yêu thương của người mẹ dành cho con trai: “mặt trời của cây ngô” là hình ảnh thực, là nguồn sáng quý giá nhất trong vũ trụ, đem lại sự sống cho vạn vật, giúp ngô phát triển đều và kết hạt. như mặt trời, cu tai là “mặt trời của mẹ”: lí lẽ sống, nguồn hạnh phúc ấm áp, gần gũi và thiêng liêng của đời mẹ, góp phần sưởi ấm niềm tin, tình yêu và ý chí của mẹ trong cuộc sống. – & gt; Với hình ảnh ẩn dụ này, nhà thơ cho thấy đứa con là lẽ sống, là ánh sáng, là hy vọng của cuộc đời người mẹ.

    – Trong khổ thơ thứ ba, hình ảnh người mẹ cõng con trai tham gia trận chiến:

    Giặc Mỹ đến, mẹ phải “lên rừng”, “đổi chòi” để di chuyển lực lượng; mẹ đã cùng anh chị em tham gia chiến đấu bảo vệ căn cứ “mẹ cõng con đánh trận cuối” xông pha trận mạc, đi học miền núi. hai từ “trận chiến cuối cùng” ngụ ý niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.

    – & gt; Qua ba bài thơ, qua những tình huống, việc làm cụ thể, người đọc nhận ra tấm lòng của người mẹ nơi chiến trường. người mẹ ấy bình tĩnh, bền bỉ, kiên quyết trong công tác kháng chiến, từ công việc sản xuất đến công tác chiến đấu. Người mẹ ấy hết lòng yêu thương con cái, gắn bó với nhân dân, quê hương, với cách mạng, khát khao cho quê hương độc lập, tự do.

    b. qua lời ru trực tiếp của mẹ:

    – Diễn lời ru của mẹ trong 3 câu thơ, ta thấy được tình yêu thương dịu dàng, chân thành của người mẹ. tình yêu đó lan tỏa qua lời ru…

    – những điệp khúc “ngủ ngon, ngủ ngon”, “yêu con”, “mơ cho con”, “mai sau con lớn khôn” để nhấn mạnh tấm lòng của một người mẹ rất mực yêu thương con. Mẹ mong con ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp, mong con mau lớn.

    – tình yêu của một người mẹ dành cho con của mình được liên kết và xen lẫn với những tình cảm chung rộng lớn:

    + Tôi yêu thuyền kay, tôi yêu quân đội.

    + Tôi yêu thuyền kay, tôi yêu thị trấn đói khát.

    + Tôi yêu thuyền kay, tôi yêu đất nước của tôi.

    – & gt; cấu trúc đối xứng trong từng câu thơ – & gt; tình yêu thương con cái hoà với tình yêu đồng bào, yêu cuộc kháng chiến, yêu nước … tình cảm gia đình, tình cảm riêng tư hoà quyện với tình cảm chung rộng lớn của dân tộc – & gt; với những tình cảm này, trái tim của người mẹ ngày càng lớn hơn – & gt; sự trưởng thành sâu sắc trong tình cảm và suy nghĩ của người mẹ miền núi.

    – trong lời ru, ta còn thấy ước mơ giản dị mà cao đẹp của người mẹ:

    <3 Người mẹ mong muốn những hạt ngô phát triển đồng đều để dân bản vượt qua cái đói, cái nghèo, mong sau này con trai mình sẽ là một anh hùng có sức khỏe phi thường, "phát mười phân phúc", mang lại cuộc sống ấm no cho làng. .town.

    + “Em mơ được cho anh xem chú ho, sau này lớn lên em sẽ trở thành người tự do…” – & gt; Tôi ước trong giấc mơ của bạn rằng tôi nhìn thấy chú ho. ước mơ của mẹ tôi là trở thành một người tự do trong tương lai. đó là ước mơ cháy bỏng, ước mơ vĩ đại và đẹp đẽ nhất.

    – & gt; thơ tự lặp lại nhưng tiến bộ – & gt; Em mơ ước các em lớn lên, mạnh mẽ, giỏi giang, ước mơ một đất nước độc lập và thống nhất, nhìn các chú được trở thành người tự do… ước muốn của em không ngừng lớn lên và tình cảm, nguyện vọng của em cũng không ngừng lớn lên. lớn hơn, hòa nhịp hơn với cuộc kháng chiến gian khổ, anh dũng của quê hương, đất nước.

    = & gt; Qua bài thơ, ta thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam: một người phụ nữ trung hậu, dũng cảm vừa nuôi con, vừa góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng và đất nước. bà là một phụ nữ làm việc chăm chỉ nhưng vẫn tin tưởng mạnh mẽ vào tương lai của dân tộc. người mẹ ấy là biểu tượng cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong những năm tháng gian khổ và hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

    = & gt; Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa thành công bức tượng đài bằng ngôn ngữ của người mẹ Việt Nam giản dị mà vĩ đại trong cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc.

    iii – tóm tắt:

    1. nội dung:

    – bài thơ là lời ru, và cũng là tình cảm chân thành của người mẹ độc ác – ôi dành cho đứa con thân yêu đang ngày ngày lớn lên trên lưng mẹ. bài thơ thể hiện tình yêu thương dịu dàng của người mẹ dành cho con, tấm lòng son sắt với quê hương, cuộc sống lao động và chiến đấu nơi núi rừng chiến khu dù gian khổ, khó khăn; Đồng thời gửi lời chúc con mau lớn, khỏe mạnh và trở thành công dân của một nước tự do.

    2. nghệ thuật:

    những bài thơ như những khúc hát ru lúc thì ngọt ngào, đằm thắm rồi nồng nàn, da diết, mỗi lời ru lại mở ra một trường cảm xúc mới. bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, giàu sức biểu cảm như: “Tiếng chày nghiêng mình mơ”; “nắng ngô trên đồi – nắng mẹ, con trên lưng” …

    văn bản con cò – che lan vien

    i – thông tin chung:

    1 – tác giả:

    – che lan vien là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ ca Việt Nam thế kỷ 20.

    – Thơ của lan viên mang một phong cách nghệ thuật rõ ràng và độc đáo. đó là một phong cách tư tưởng triết học, đầy trí tuệ và hiện đại.

    – Chế lan viên rất sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng thơ. hình tượng thơ của ông rất phong phú, đa dạng, kết hợp giữa hiện thực và kỳ ảo, thường được tạo ra bằng sức mạnh liên tưởng, trí tưởng tượng, nhiều điều bất ngờ và kỳ thú.

    – tác phẩm chính: phân rã (1937), ánh sáng và phù sa (1960), hoa ngày – báo bão (1967), hái theo mùa (1977), hoa trên đá (1984)…

    p>

    2 – hoạt động:

    a – hoàn cảnh tạo nên nó:

    – bài thơ “con cò” sáng tác năm 1962, in trong tuyển tập “hoa ngày thường – chim báo bão” (1967)

    – đây là một trong những bài thơ hay và đặc sắc của che lan vien ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru trong cuộc sống của con người.

    b – giới tính, cấu trúc:

    – Thể loại: thơ tự do, câu dài ngắn không đều, phát triển theo mạch cảm xúc, số chữ trong mỗi câu theo một quy luật nhất định (luật hài, vần …)

    – bài thơ được chia thành 3 phần:

    + đoạn 1: hình ảnh con cò qua lời ru của mẹ thuở ấu thơ.

    + đoạn 2: hình ảnh con cò và lời ru của mẹ trong từng giai đoạn của cuộc đời con người.

    + đoạn 3: từ hình ảnh con cò, nhà thơ đã suy tư, triết lí về ý nghĩa của lời ru và tình mẫu tử trong cuộc đời của mỗi người.

    = & gt; do đó, thơ tứ tuyệt ra đời và phát triển từ hình ảnh con cò trong các bài hát, lời ru bình dân. con cò trở thành biểu tượng của tình mẫu tử bao la, qua lời ru ngọt ngào của mẹ, nó trở thành bầu ngực thiêng liêng không bao giờ cạn trong cuộc đời của người con.

    c – chủ đề:

    – Mối quan hệ mẹ con thiêng liêng gắn bó với con người từ lâu đã trở thành chủ đề của thơ ca, nhạc họa, không bao giờ lỗi mốt, không bao giờ có sức quyến rũ độc giả. Lan vien đã thêm một giọng hát mới, độc đáo và đặc sắc cho chủ đề này bằng cách phát triển những bài dân ca quan họ về con cò để ca ngợi tình mẹ, lời ru của mẹ đối với cuộc đời mỗi con người.

    d – một số điểm cần lưu ý về hình tượng con cò trong bài thơ:

    – “con cò” là một bài thơ dài, nhiều ý, giàu hình ảnh và có ý nghĩa thay đổi. hình ảnh con cò trong bài thơ có khi là hình ảnh thực, có khi là hình ảnh tượng trưng: khi là mẹ, khi là con, khi là đất trời, có khi là cuộc đời, có khi là hiện hữu, có khi là. là tương lai. … nhưng tất cả đều bắt nguồn từ truyền thống, và bao trùm lên tất cả là tình yêu thương của người mẹ dành cho con, niềm hạnh phúc dành cho con, hy vọng và mong ước những điều tốt đẹp ở con cho hôm nay và cho tương lai.

    – con cò là hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống của nhân dân ta. cò thường làm tổ trong các tán tre, kiếm ăn ở ruộng, sông, hồ, ao, chúng không ăn lúa mà chỉ bắt sâu bọ nên không gây hại và không bị săn bắt (gọi là “chim cát”). Từ lâu, anh đã trở thành người bạn của người nông dân, nhất là trong cảnh “trên cạn, dưới ruộng sâu / Chồng cày vợ cấy trâu cày bừa”. và có lẽ vì lẽ đó mà con cò đã đi vào ca dao truyền thống Việt Nam như một biểu tượng của nhân dân lao động, đặc biệt là người phụ nữ cần cù, cần cù, chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh, vị tha. vì vậy, những bài hát về con cò cũng là những lời ru buồn của những người bà, người mẹ. vì vậy, bài thơ được coi là lời ru của mẹ qua hình ảnh con cò.

    ii – đọc – hiểu văn bản:

    1. hình ảnh con cò qua lời ru của mẹ thuở ấu thơ:

    – Tôi vẫn ôm anh ấy trong vòng tay của mình

    Tôi không biết con cò

    nhưng trong lời bài hát của mẹ tôi

    với những cánh cò đang bay:

    <3

    + như vậy, trong những nhận thức đầu đời, bạn có thể biết về những lời ru, về con cò trắng và hơn hết là cảm nhận được tình yêu thương của mẹ.

    – vậy, tại sao bạn không hát cho tôi những bài hát ru? tác giả tiếp tục:

    con cò bay

    con cò bay

    con cò có mái che

    dong dang cò…

    con cò đêm,

    con cò rời khỏi tổ,

    con cò gặp cành mềm,

    con cò sợ măng …

    + những câu hát của chế lan viên gợi cho chúng ta nhớ đến những bài hát nổi tiếng được nhiều người biết đến:

    con cò bay đi

    bay từ cổng vào cánh đồng

    con cò bay đi

    bay từ cổng chính phủ, bay đến dong dang.

    có:

    con cò sẽ đi ăn đêm

    đặt nó trên một cành cây mềm và quay cổ về phía ao

    Ông ơi, làm ơn cứu cháu với

    Tôi có một trái tim, bạn có vấn đề

    nếu có sự xáo trộn, hãy khuấy nước

    không làm phiền nước đục.

    + nhà thơ đã sử dụng một cách sáng tạo những bài ca dao gợi ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò:

    _ trước hết, con cò gợi lên hình ảnh những làng quê, phố thị quen thuộc của Việt Nam, rất đỗi bình dị nhưng cũng rất đỗi bình yên.

    _ con cò còn là biểu tượng của người nông dân Việt Nam, người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống cần lao, vất vả nhưng giàu lòng nhân ái, đức hi sinh. đoạn thơ gợi cho ta liên tưởng đến những câu ca dao về thân phận người phụ nữ xưa: “cò đi đón bão mua: trời tối mịt mù ai đưa cò về”. chúng tôi thấy hình ảnh của bà. tu từ trong bài thơ “thương vợ” của nhà thơ tu bon: “bơi thân cò bay giữa hư không: Mặt nước vắt vai đò đông.

    _ con cò còn là biểu hiện của tình mẹ, tấm lòng cao cả, sâu nặng của người mẹ, cả cuộc đời dành trọn cho con.

    – Có người cho rằng khi nhà thơ nhắc đến hình ảnh con cò trong bài ca dao, ông đã nhận lời thử thách. vì ít ai viết về con cò cũng như ca dao, hay hơn ca dao. ca dao viết về con cò một cách rất tiêu biểu, cụ thể, sinh động và linh hoạt vậy, sử dụng con cò trong ca dao, nhà thơ đã làm mới hình ảnh này như thế nào? chúng tôi sẽ tiếp tục những câu thơ sau của che lan vien.

    – nói đến con cò, tác giả đã so sánh con cò:

    con cò ở một mình, con cò phải kiếm ăn,

    Tôi có mẹ, tôi chơi và sau đó tôi ngủ.

    + con cò rất dai, nó rất cô đơn, nó đi kiếm ăn một mình trên đồng khô và sâu.

    + nhưng tôi có mẹ, nghĩa là tôi được sống trong tình yêu thương, nuôi nấng, ôm ấp của mẹ, nên tôi “chơi rồi mới ngủ”.

    – & gt; ở đây tác giả đã dùng phép đối lập để thấy những đứa con vui vẻ và hạnh phúc biết bao khi có mẹ. Tôi rất khác con cò. thấp thoáng trong lời ru của mẹ là những nhọc nhằn của cuộc đời. nhưng con không phải sợ vì mẹ luôn ở bên con. mẹ là chỗ dựa tin cậy, là lá chắn che chở cho con suốt đời:

    ngủ! ngủ! Cò, đừng sợ!

    cành mềm, mẹ sẵn sàng nâng!

    Trong lời ru của mẹ phảng phất hơi thở của mùa xuân.

    Tôi không biết con cò, con vạc.

    Tôi không biết bạn hát cành mềm,

    nhiều sữa mẹ, con ngủ không ngấy.

    + dòng “ngủ yên! ngủ yên! con cò ơi, đừng sợ! “nhịp 2/2/2/2 rất đều đặn, như nhịp vỗ về của mẹ để con nhanh chìm vào giấc ngủ. Chính vì thế lời bài hát mang âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của bài hát nôi. .

    + không chỉ vậy, khi con ngủ ngon, mẹ còn gửi gắm tình cảm của con. trong lời ru của mẹ, tác giả đã sử dụng nhiều ẩn dụ ý nghĩa: “cành mềm của mẹ sẵn sàng vươn lên”, “lời ru của mẹ tràn đầy sức xuân” hay “bầu sữa mẹ bao con ngủ không ngần ngại”. những hình ảnh nói lên tình yêu không giới hạn của một người mẹ dành cho con trai mình:

    _ người mẹ luôn bên cạnh, dang rộng vòng tay che chở, ôm ấp con trai, để con luôn được bình an vô sự: “cành mềm, tay mẹ nâng”.

    _ trong lời ru của mẹ còn mang màu sắc của đất trời, đất nước, quê hương: “thở xuân”. hơi thở mùa xuân không chỉ là không khí mùa xuân, là vẻ đẹp của đất trời thánh thiện mà còn là tình cảm dịu dàng, chân thành và ngọt ngào, trong sáng trong lời ru của mẹ dành cho con. – & gt; Mẹ muốn con tận hưởng trọn vẹn sự ngọt ngào, bình yên của tuổi thơ. Lời ru của mẹ như hơi thở thơm mát của mùa xuân.

    _ bằng những lời ru và dòng sữa trắng tinh khiết và ngọt ngào, bạn đã truyền cho em hơi ấm của tình yêu thương.

    = & gt; qua lời ru thân thương của mẹ, hình ảnh “con cò” đã chạm đến tâm hồn tuổi thơ một cách vô thức. đây là sự khởi đầu của con đường đi vào thế giới tâm hồn con người của những bài hát ru và ca dao, qua đó là cả tâm hồn của dân tộc và của con người. ở lứa tuổi nằm nôi, đứa trẻ chưa thể hiểu và chưa cần hiểu ý nghĩa của những lời ru mà chỉ cảm nhận được sự vuốt ve, mơn trớn trong giai điệu mật ngọt. chúng nhận được tình yêu thương và sự che chở của người mẹ một cách trực giác. khổ thơ đầu khép lại bằng một hình ảnh đẹp: “sữa mẹ dồi dào, con ngủ say không quản ngại”.

    2. hình ảnh con cò và lời ru của mẹ trong từng giai đoạn của cuộc đời con người:

    – nếu ở đoạn 1, cánh cò trong lời ru của mẹ là điểm xuất phát, là điểm xuất phát thì ở đoạn 2, cánh cò đã trở thành người bạn của tuổi thơ, đồng hành cùng con người trên mọi chặng đường, trở thành người bạn đồng hành của con người. . trong suốt cuộc đời:

    ngủ ngon! ngủ yên! ngủ yên để cò trắng quen cò đứng quanh nôi rồi cò vào tổ khi cò ngủ, cò ngủ cũng cò cánh dậy… làm gì? thi sĩ ơi, những cánh cò trắng bay không ngừng trước hiên nhà và trong gió mát …

    – Trong bài thơ này, tác giả đã sử dụng rộng rãi phép nhân hóa, hình ảnh con cò đã trở thành người bạn của con, con của mẹ. những cánh cò trong lời ru của mẹ đã từ từ đi vào tiềm thức của tuổi thơ, chúng trở nên thân thiết, gần gũi và sẽ theo bạn suốt cuộc đời, trên mọi nẻo đường.

    + thuở nhỏ “cò trắng tìm về gặp / cò đứng quanh máng cỏ / rồi cò vào tổ / con ngủ yên, cò cũng ngủ / cánh cò đôi lứa”. . con cò như một người bạn thân thiết, gắn bó với em suốt những năm tháng tuổi thơ. cò ở với bạn, chúng nói chuyện, chúng chơi với nhau, chúng ngủ cùng nhau, chúng chơi với nhau, chúng cùng nhau phát triển. hình ảnh con cò hiện lên trong trí tưởng tượng của tác giả hay là sự nhân bản của hình ảnh người mẹ. Trong suốt những năm thơ ấu, mẹ luôn bên cạnh tôi như một người bạn, chăm sóc tôi, an ủi tôi và dõi theo tôi trưởng thành.

    + khi đứa trẻ đủ tuổi cắp sách đến trường “Em theo cò đi học / Cánh trắng theo gót”. con cò trở thành người bạn cùng học, cùng bạn đến trường và cùng bạn bay đến chân trời tri thức. những cánh cò trắng tinh khôi như một trang sách trắng mở ra, cho tôi nhiều kiến ​​thức và kinh nghiệm để bước vào đời.

    + rồi bạn mọc lên “em đang làm gì?”, em đi đâu, về đâu “cánh cò trắng bay không ngơi / trước hiên / và trong làn gió mát câu.” / p>

    = & gt; như vậy, hình tượng con cò trong ca dao, qua sự liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú, độc đáo của nhà thơ như bay bổng, rồi sống trong tâm hồn con người, đi theo nhân dân, giúp đỡ nhân dân. vì vậy, hình ảnh con cò mang ý nghĩa tượng trưng cho lòng mẹ, là hiện thân của sự che chở, dìu dắt, nâng đỡ, bao dung, dịu dàng, bền bỉ của người mẹ nhân hậu với con. cánh cò và tuổi thơ, cánh cò và kiếp người, cánh cò và tình mẹ, rõ ràng ở đây có sự hòa quyện khó phân biệt. màu trắng của cánh cò, cái ngọt ngào, mềm mại của những cánh cò chao liệng, bay lượn như thế này, đồng hành cùng con người trong mỗi bước trưởng thành. Em đắp chăn đắp chăn cho ấm hay em ngủ với cánh cò bay? những cánh cò theo gót trẻ nhảy đến lớp, thì cánh cò đã che chở và mang lại không khí trong lành cho bài thơ, con chữ mà trẻ vừa viết. cánh cò cứ bay, bay mãi, không ngừng. những con cò đi cùng bạn, chúng đi cùng bạn.

    3. Từ hình ảnh con cò, nhà thơ đã suy tư, triết lí về ý nghĩa của lời ru và tình mẫu tử trong cuộc đời mỗi con người:

    – Ở khổ thơ thứ ba, hình ảnh con cò được khai thác với ý nghĩa tượng trưng cho tấm lòng người mẹ luôn dõi theo con. lời ru của mẹ thật chân thành và cảm động:

    Dù ở gần, dù ở xa, ngược xuôi băng rừng, cò tìm về, cò mãi yêu.

    + Phrasal verb, cấu trúc câu thơ nối tiếp nhau làm cho nhịp thơ lỏng lẻo, uyển chuyển, rất gần với những bài hát ru. nhưng thêm vào đó, tác giả còn sử dụng phép tương phản “gần ta” – “xa ta” và thành ngữ “trong rừng, dưới bể” để chỉ những thời gian và không gian khác nhau – & gt; Dù ở đâu, bất kể thời gian nào, dù cuộc sống có khó khăn thế nào, anh sẽ luôn ở bên em.

    + ở đây, hình ảnh “con cò” tượng trưng cho tình mẹ luôn đến với con trong suốt cuộc đời.

    – từ sự thấu hiểu lòng mẹ, nhà thơ đã khái quát thành quy luật của tình cảm có ý nghĩa bền lâu, rộng lớn và sâu sắc:

    Con vẫn là con của mẹ ngay cả khi lớn lên. Đến suốt cuộc đời, lòng mẹ sẽ theo con.

    + lời bài hát đã được mở ra từ cảm xúc đến suy nghĩ và sau đó được khái quát thành triết lý. đây là một trong những đặc điểm của phong cách nhà thơ. và chính phong cách này đã khiến anh được mệnh danh là “nhà thơ triết học”, khiến những bài thơ của anh không chỉ dạt dào cảm xúc mà còn vô cùng sâu lắng.

    + tác giả triết lý về tình mẫu tử: đối với mẹ, con luôn bé bỏng, phải dõi theo từng bước đi của con, sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời vì con. Còn tôi, dù thành công hay thất bại, trở thành vĩ nhân, anh hùng hay chỉ là một người bình thường, tôi vẫn cần sự ủng hộ, yêu thương, che chở của mẹ. ý thơ làm ta liên tưởng đến những vần thơ của nhà thơ xuân quynh:

    nguyên thủ quốc gia hoặc anh hùng

    đó là bác sĩ hay ai đó

    Anh ấy vẫn là con trai của một người phụ nữ

    một phụ nữ bình thường không rõ tuổi.

    – Anh gửi cho em lời ru, anh gửi cho em biết bao tình cảm, anh gửi cho em tất cả tình yêu của anh. Vậy tác giả triết lý như thế nào về những câu hát ru?

    à, con cò, con cò mẹ hát cũng là đời vỗ cánh đi ngủ! đi ngủ! cho cánh cò, cánh vạc cho trời về hát quanh nôi

    + những câu thơ triết lý mà vẫn có lời ru êm dịu nhưng sâu lắng.

    + tác giả khẳng định hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ sẽ theo con suốt cuộc đời để nuôi dưỡng tâm hồn con thơ. Tôi sẽ mang hình ảnh con cò, lời ru, tình yêu thương của người mẹ làm hành trang cần thiết để bước vào đời.

    + và vì vậy con cò đã có cuộc sống vĩnh cửu; những câu hát ru sẽ sống mãi với nhân dân, mãi mãi với dân tộc Việt Nam.

    + anh cũng viết về những điều sâu sắc ấy, nhà thơ nguyễn duy đã có những câu thơ lục bát rất hay:

    nghìn năm trên dải đất này

    Làm sao cánh cò bay được?

    Mây cũ sao có thể xa?

    làm cách nào tôi có thể nghe được những bài hát dân ca cổ của quê hương mình?

    – & gt; Cả Nguyễn Duy và Chế Lan Viên đều đánh giá rất cao hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ. Hình ảnh con cò – đó là nét đẹp văn hóa dân gian, đã sống mãi trong lòng mỗi người Việt Nam chúng ta.

    iii – tóm tắt:

    1 – nội dung:

    Khai thác hình ảnh con cò trong những câu hát ru, bài thơ “Con cò” của nhạc sĩ Lan Viên ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống của con người.

    2 – nghệ thuật:

    – bài thơ mang âm hưởng dân gian.

    – Hình ảnh con cò gợi nhớ đến những hình ảnh quen thuộc trong ca dao ngày xưa, với lời ru ngọt ngào thân thương.

    – Hơn nữa, bài thơ còn có những hình ảnh mang ý nghĩa sâu sắc, triết lí, tạo nên chiều sâu cảm xúc của bài thơ: người con dù lớn lên vẫn là con của mẹ / đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con; cò mẹ hát / cũng là sự sống / vỗ cánh trên máng cỏ.

    Xem các thông tin hữu ích khác trong phần tài liệu của hoatieu.vn.

    XEM THÊM:  Bài văn giới thiệu bản thân bằng tiếng anh

    Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn phần thơ và truyện – HoaTieu.vn. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

    Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

    Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

    Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *