Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
564 lượt xem

Phan tich bai day thon vi da ngu van 11

Bạn đang quan tâm đến Phan tich bai day thon vi da ngu van 11 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Phan tich bai day thon vi da ngu van 11

phân tích làng han mac tu này gồm dàn ý, sơ đồ tư duy và 15 bài văn mẫu dưới đây không chỉ giúp các em học sinh lớp 11 có thêm nhiều ý tưởng hay cho bài học. anh cũng biết cách cảm nhận hồn thơ độc đáo và thế giới cảm xúc phong phú của han mac tu, được thể hiện qua cảnh sắc thiên nhiên đẹp như tranh vẽ và tâm trạng của nhà thơ.

thị trấn này là một bức chân dung đẹp đẽ về con người và đất nước con người qua trí tưởng tượng và tâm hồn yêu đời của nhà thơ với nghệ thuật khơi gợi, hòa nhập thiên nhiên với lòng người. Qua năm tháng, tình yêu lạnh lùng vẫn luôn nóng bỏng, gây xúc động và day dứt trong trái tim người đọc. vì vậy đây là 15 bài luận mẫu hàng đầu phân tích thị trấn này là tốt nhất hãy theo dõi chúng tôi tại đây.

phân tích dàn ý của bài thơ Làng đời ở đây

lược đồ số 1

i. mở đầu

  • giới thiệu tác giả: han mac tu (1912 – 1940), quê o Quang Binh, la nha thơ co nhieu tien dao cho phong trào thơ mới 1932 – 1940.

bài thơ “thị trấn đời này” được rút ra từ tập thơ điên đảo. Bài thơ lấy cảm hứng từ chuyện tình của Hàn Mặc Tử với cô gái thôn Vĩ Dạ – Hoàng Thị Kim Cúc. bài thơ là một hình ảnh đẹp và thơ mộng của con người trong cuộc sống. Qua bài thơ, tác giả muốn gửi gắm khát vọng được sống, được yêu và được hòa hợp với thiên nhiên.

ii. nội dung bài đăng

1. phân tích khổ thơ 1:

– câu thơ mở đầu: “sao anh không về chơi phố?” vừa là lời mời gọi ân cần, chân thành vừa là lời trách móc nhẹ nhàng ⇒ sự nhân bản của tác giả.

– Cảnh vật và con người Huế hiện lên mềm mại, thuần khiết và tràn đầy sức sống.

nắng mới, cây cau, vườn xanh như ngọc, lá tre che mặt lấp ló.

– Nghệ thuật cách điệu tạo nên hình ảnh thôn Vĩ và con người xứ Huế hiền lành, nhân hậu ⇒ cảnh đẹp, con người nhân hậu.

2. phân tích câu 2:

  • tả cảnh: gió, mây, suối, hoa ngô đồng ⇒ cảnh chia tay
  • không gian mờ ảo đầy hình ảnh vầng trăng: bến trăng, sông trăng, con tàu chở trăng.
  • tâm trạng lo lắng, mong đợi của nhân vật trữ tình.

3. phân tích câu 3:

  • ảo ảnh về cảnh và người
  • câu hỏi tu từ: lời nhân vật trữ tình như muốn hỏi người như tự hỏi mình, vừa gần vừa xa, đồng thời hoài nghi. như giận dữ và trách móc.
  • đại từ nhỏ nhặt “ai” ⇒ làm tăng sự cô đơn và trống trải của một tâm hồn khao khát được sống và được yêu thương.

iii. kết thúc

– nội dung:

  • hình ảnh phong cảnh thanh bình, thơ mộng
  • hình ảnh diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình.

– nghệ thuật:

  • sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, nhân hoá, câu hỏi tu từ,…
  • hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo
  • kết hợp giữa phong cách thơ hiện thực và lãng mạn, tượng trưng.

lược đồ số 2

i. giới thiệu:

giới thiệu tác giả và tác phẩm:

han mo tu có lẽ là cái tên không ai có thể quên khi nhắc đến phong trào thơ mới. Một trong những bài thơ mang dấu ấn lớn nhất của nhà thơ đã để lại nhiều cảm hứng sâu sắc trong lòng người đọc nhiều thế hệ là bài thơ “phố này trời ơi”. bài thơ như một bức thư nói lên nỗi niềm thầm kín và khát khao cháy bỏng của nhà thơ

ii. nội dung:

1. phân tích khổ thơ đầu:

– bài thơ mở đầu và một câu hỏi “tại sao bạn không đến chơi trong thị trấn?”

– Tôi cảm thấy đây là sự trách móc tình yêu của một cô gái, trong đó tâm trạng xấu và khao khát ẩn chứa

– trên thực tế, không có một cô gái nào trực tiếp đối mặt với han mo tu, cho nên có lẽ lời trách móc tình yêu này là từ hình ảnh và thư từ, nó rung động, nó rung chuyển. sôi động sống động trong lòng nhà thơ, hướng trái tim nhà thơ về quê hương yêu dấu của mình ngày sau, câu thơ thứ hai làm ta ngạc nhiên vì ngay cảnh sắc thiên nhiên quê hương, cảnh làng quê vi da mở ra

– câu hỏi được nêu ra rõ ràng, trước mắt nhà thơ đã là không gian của những con người của cuộc đời, đây chắc chắn là một cuộc hành trình trong tâm trí

– Mặt trời xuất hiện trong sự quan sát của nhà thơ, một mặt trời xuất hiện trong sự thuần khiết và trong lành, không phải mặt trời chói chang của mùa hè cũng không phải mặt trời dịu nhẹ của mùa thu nghĩa là “bình minh” có nghĩa là mặt trời của bình minh

– câu thơ với hai chữ mặt trời khiến không gian tràn ngập ánh sáng, không có từ ngữ nào để diễn tả màu sắc, nhưng ánh nắng dường như trong trẻo và tinh khiết làm sao

– Điểm nhìn của han mac tu dường như là từ trên cao nhìn xuống từ xa, đôi mắt của han mac tu khi hành trình như muốn xé toạc bầu trời để ngắm bình minh và ánh nắng huyền ảo ló dạng từ những cây cau cao vút, để nhìn toàn cảnh quang cảnh khu vườn với màu xanh bao phủ khắp khu vườn

– “vườn ai xanh như ngọc”, câu thơ là một câu cảm thán trước vẻ đẹp của khu vườn

– tính từ trượt qua hình ảnh so sánh màu xanh ngọc bích cho thấy vẻ đẹp tuyệt vời của vườn làng hùng vĩ

– câu thơ không chỉ gợi cho ta cảm nhận bằng hình ảnh mà còn gợi cảm giác khi sờ vào những chiếc lá xanh mượt, đó là một trong những đặc điểm của các nhà thơ tân học, chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng siêu thực bằng cách cảm nhận sự vật bằng nhiều giác quan.

– Hình ảnh so sánh “xanh ngọc” là hình ảnh so sánh độc đáo, màu xanh được so sánh với màu xanh ngọc cho ta cảm giác sảng khoái, dễ chịu, vạn vật đều tươi trẻ, tràn đầy sức sống

– ở câu thơ thứ tư, hình ảnh con người hiện lên “lá tre che mặt lấp ló”

– dòng cuối cùng của khổ thơ đầu tiên là một dòng có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “khuôn mặt phụ” chính là khuôn mặt của cô gái rủ Hàn Mặc Tử về làng chơi. bởi vì “khu vườn của ai” là khu vườn của tôi, nhìn thấy khuôn mặt tôi trong khu vườn đó rất có ý nghĩa

– nhưng cũng có người cho rằng anh chính là tác giả trong chuyến hành hương của tư tưởng, han mac tu đã gặp lại gương mặt ngày còn là một chàng trai tài hoa nổi tiếng ở xứ Huế. >

– hình như nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong sáng, thanh thoát, nồng nàn thì phải trở về làm con người của quá khứ, phải là nhà thơ yêu đương thời xưa. nói đúng ra, nhà thơ muốn quên mình ở hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu thương

– Hình ảnh “lá trúc hiên ngang” mang đến cho người mặt chữ điền này nét phóng khoáng, mạnh mẽ của người đàn ông vì lá tre trong quan niệm xưa là biểu hiện của một người đàn ông lịch lãm.

2. phân tích khổ thơ thứ hai:

– bốn câu thơ thứ hai buồn như vẽ một chiếc xe trước mắt ta không phải là cảnh quê hương chiều tà với những gam màu êm đềm, mỗi câu thơ đều gợi lên những hình ảnh lấp đầy bức tranh cảnh vật mà nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy. nhìn thấy những nghịch lý và những điều phi tự nhiên ẩn chứa trong mọi thứ

– “gió cuốn theo mây gió cuốn mây bay”, câu thoại có lẽ không chỉ là nghịch lý mà còn ẩn chứa những điều trớ trêu, chưa chia ly đã đành

– “nước buồn hoa ngô rung rinh”, theo lẽ thường gió thổi làm hoa ngô lai láng, sóng nước cũng phải theo mà lay động, nhưng mặt nước vẫn tĩnh lặng như cũ. những cặp đôi tuổi gần nhau nhưng không thể đồng điệu, gần gũi có mùi ngăn cách

– đây là nỗi niềm của nhà thơ khi xa cách và nỗi nhớ, đồng thời đây cũng là lỗi của cái cũ trong cuộc đời. nỗi buồn chia tay đọng lại trong lòng mỗi người một nỗi buồn man mác, bâng khuâng

– nếu trong khổ thơ đầu tiên, chúng ta cảm thấy một tình yêu tuyệt vời sắp chớm nở, nhưng trong khổ thơ thứ hai, chúng ta thấy một tình yêu tan vỡ.

– có lẽ, qua cách nói, hình ảnh han mac bạn cay đắng từ chối người mời về thăm làng vi vu. “con tàu neo trên sông trăng / đêm nay có đưa trăng về không?”

– hình ảnh vầng trăng trong thơ chữ Hán xuất hiện rất nhiều. vầng trăng vĩnh cửu là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Do khát khao hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử đều đầy ánh trăng: Bến trăng, Sông trăng, Con tàu chở trăng, Người chở trăng.

– tác giả đã gửi gắm bao nỗi niềm nhớ nhung, nhớ nhung, khao khát vào con thuyền trăng, cho cả dòng sông trăng.

– vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng tròn vành vạnh của thi nhân trước tình yêu không bờ bến.

– câu hỏi làm chậm nhịp bài thơ, thể hiện nỗi niềm của một số phận không có tương lai.

– han mo tu hiểu được bệnh tình của mình nên cảm thấy tội lỗi vì khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc đời, trăng không về đúng hẹn và han mo tu cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau thì nói lời từ biệt. đến cuộc sống của mình. cuộc sống.

3. phân tích khổ thơ thứ ba:

– nhà thơ buồn cho số phận ngắn ngủi, cho ước mơ còn dang dở, nhưng rồi người nghệ sĩ vẫn tiếp tục sống trong niềm khao khát của mình

– hình ảnh “người lữ thứ” được nhấn mạnh hai lần đã phần nào nói lên nỗi nhớ nhung, nhớ nhung của tác giả.

– màu áo trắng cũng là màu của tia nắng mặt trời mà nhìn vào, tác giả choáng ngợp, cảm thấy mê mẩn trước sự ngây thơ, thuần khiết và cao quý của người yêu

“ở đây có sương mù / ai biết được tình yêu có bền chặt không?”

– câu thơ tả thực cảnh quê hương – kinh thành heo hút. trong sương khói ấy, con người ta như mờ đi và có lẽ tình yêu cũng phai mờ

– câu hỏi tu từ cuối cùng đặt ra như một giọng bâng khuâng, chất vấn qua một trái tim khao khát tình yêu nhưng gặp quá nhiều trắc trở

– hai đại từ “ai” trong câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: Không biết có hiểu được tình sâu của chính mình hay không? Tôi không biết bản thân anh ấy có biết tình yêu của chính mình mạnh mẽ như thế nào không. Em có biết tình yêu của anh mạnh mẽ như thế nào không? Bạn có biết rằng tình yêu của tôi rất bền chặt?

– một câu hỏi bằng thơ nhưng ẩn chứa rất nhiều câu hỏi, càng hỏi càng “mờ”, càng trở nên tuyệt vọng.

– càng nhiệt thành là tình yêu giàu lạnh lùng, càng tuyệt vọng khi chứng kiến ​​tình yêu tan vỡ. do đó, cảm hứng chính của “đây là con người của cuộc sống” là cảm hứng đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng.

iii. kết luận:

mọi tuyệt vọng đều khiến chúng ta trở nên bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của han mac tu đã đánh thức trong chúng ta ánh sáng của khao khát mãnh liệt. chính tình yêu thương đã tiếp thêm sức mạnh cho nhà thơ trong hoàn cảnh khó khăn trong những giờ phút đau đớn chống chọi với bệnh tật. Cũng chính những giá trị nhân văn đó đã khẳng định tên tuổi của Hàn Mặc Tử trong trời thơ Việt Nam và giúp bài thơ mãi mãi xanh tươi trong lòng bao thế hệ độc giả.

xem thêm: phân tích khổ thơ 2 của bài thơ Thị trấn này là cuộc đời

bản đồ tinh thần phân tích đây là thị trấn của sự sống

TOP 15 Mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ siêu hay

phân tích bài Đây là làng vi da lớp 11 – văn mẫu 1

han mo tu là một trong những cây bút “tài hoa” nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. trong đó tác phẩm để lại nhiều dấu ấn nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Phố đời này”, một bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. bài thơ là hình ảnh giao hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi của xứ Huế với hình ảnh một cái tôi yêu đời, khao khát đồng cảm với cuộc đời và con người nhưng đầy lo toan, trăn trở.

câu hỏi tu từ: “tại sao bạn không đến chơi trong thị trấn?” như một lời quở trách nhẹ nhàng và như một lời mời chân thành của một cô gái Huế. một lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng đằng sau đó là một lời mời ân cần và chân thành: “sao anh không đến chơi”. ở đây tác giả không dùng từ “thăm” mà dùng từ “chơi” đủ thấy sự thân thiết, chân chất, giản dị, gợi tình cảm thân thiết, gần gũi. và dường như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ tự vấn, tự trách mình đã bao lâu không trở về chốn cũ, để bây giờ trong cơn bạo bệnh chỉ còn lại những tiếc nuối, lo lắng. . trong câu thơ chứa đựng tất cả niềm mong mỏi được trở về hàng đợi yêu dấu.

từ nỗi nhớ, hình ảnh một thị trấn dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng vần thơ, một hình ảnh đẹp trong sáng, tươi đẹp và tràn đầy sức sống:

“nhìn vào mặt trời mới”

cau là một loại cây dân dã cũng là linh hồn của vùng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, miếng trầu gắn liền với tình yêu đôi lứa. Trong thơ Hàn Mặc Tử, cụm từ gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. hình ảnh “hàng cau ngập nắng” là một hình ảnh đẹp gợi lên sự tinh khôi, trong sáng của những tia nắng ban mai. màu nắng của hàng cau là một màu rất mới mà trước đây chưa có nhà thơ nào gợi ý trong han mo tu. những tàu cau được che phủ bởi nắng mới, nắng hòa cùng những giọt sương trên lá tạo nên vẻ lung linh, tao nhã. thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ lùng, không gian trở nên thanh cao, khoáng đạt. ánh nắng từ cây cau chiếu sáng khu vườn thơ mộng và đẹp mê hồn.

Từ xa bạn có thể nhìn thấy bóng của những cây cau, khi đến gần hơn, khu vườn càng trở nên tươi đẹp và tươi tắn. có cây khen xanh tươi, xanh nhạt, xanh mượt, xanh mượt:

“khu vườn của ai xanh như ngọc”

Câu thơ như sự ngỡ ngàng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên được tưới mát bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. tính từ “mượt mà” gợi lên màu xanh đầy sức sống, màu ngọc bích và sự sống động của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà qua những từ láy đã gợi lên một bức tranh đẹp, sống động và cao quý về con người.

cảnh đẹp làng quê càng trở nên hài hòa với dáng người:

“lá tre che mặt trám”

cách điệu thể hiện vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất đỗi dịu dàng của người con gái. Vẻ ngoài nhân hậu và khuôn mặt hiền lành đã làm cho bức tranh đêm vĩ đại trở nên sống động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh sông nước êm đềm, đượm buồn, nỗi nhớ mong hư ảo:

“gió cuốn theo gió, mây trôi, nước buồn, hoa ngô nằm tàu, đêm nay ai đưa trăng về? “

không gian có gió, có mây, có sông, nên thơ, đêm thanh tĩnh gợi nỗi buồn chia ly. cảnh chia ly “gió cuốn theo mây bay” là nỗi mặc cảm của nhà thơ rằng tình yêu đã xa, không thể đồng hành cùng người yêu. vì lòng người đầy trắc ẩn nên thiên nhiên cũng buồn. dòng sông vẫn tiếp tục chảy nhưng “buồn”, gió thổi vi vu, những bông ngô đồng lững lờ trôi trên mặt nước. “nước chảy hoa ngô buồn” cảnh gợi sự cô đơn, hiu hắt, sầu muộn. dòng sông buồn như tâm trạng của nhà thơ.

“con tàu của ai đã cập bến sông trăng có thể đưa mặt trăng trở lại đêm nay?”

bốn bài thơ “bạn có thể đưa mặt trăng trở lại thời gian cho đêm nay?” gửi gắm tình cảm của một thi nhân, khát vọng bến bờ yêu thương, được ở bên người để gửi gắm niềm tin. niềm khao khát, khao khát, khát khao mãnh liệt được làm tri kỷ được thể hiện qua lời thơ giản dị. có lẽ, lúc này đây, tác giả đang lo sợ cho số phận ngắn ngủi của đời mình. e rằng thời gian càng ngày càng ngắn mà lòng người vẫn không khỏi vơi đi nỗi trống vắng, cô đơn và buồn tủi. Liệu con tàu kia có mang mặt trăng hạnh phúc đến cho người may mắn này không?

hiện thực khắc nghiệt và cô đơn, tác giả phải đi tìm một giấc mơ, nơi có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dù chỉ là một chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“mơ thấy khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá chẳng thấy đâu, sương khói đây rồi, ai biết tình ai đậm đà?”

Trong giấc mơ mang màu hy vọng, nhà thơ nhìn thấy khách phương xa trong tà áo dài trắng tinh, ẩn hiện trong sương. cái bóng dường như mờ đi và biến mất trong tích tắc. sự thuần khiết và cao quý của cô gái trong ảo ảnh khiến nhà thơ không khỏi khiếp sợ:

“sương khói đây rồi, ai biết tình ai dạt dào?”

Trong bài thơ, tác giả nghi ngờ, lo sợ trước một cảm giác không chắc chắn. một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng chưa bao giờ được yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có phong phú như tình người không.

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi đầy hoài nghi và thất vọng. vẻ đẹp đẹp nhưng buồn, lòng người buồn nhưng đẹp, mọi thứ tạo nên sự hài hòa giữa cảnh và tình.

Thị trấn này qua bao thế hệ độc giả vẫn có sức sống dồi dào. bài thơ không chỉ là hình ảnh đẹp đẽ của cuộc sống mà còn là hình ảnh đẹp đẽ của tấm lòng chân thành yêu thiên nhiên và khát vọng sống, được yêu thương của han mo tu.

phân tích bài viết đây là thị trấn vi da – mô hình 2

Ai đã từng say như trăng lạnh? cả một thế giới trăng trong thơ anh:

trăng nằm trên cành liễu đợi gió đông về để thư thái … “

(ngại ngùng)

“bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quỳ cúi như cây liễu”

(hãy nhập tâm hồn tôi)

“bóng trăng cheo leo mà chạm gối, gió lùa qua khe cửa lùa chăn.”

(đêm không ngủ)

Nhà thơ cũng nói đến thuyền trăng, sông trăng, sông trăng … một thế giới trăng huyền ảo, thơ mộng. Thơ của Hàn Mỗ Tử tràn ngập ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” yêu đời tha thiết, vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới (1932-1941). Năm 28 tuổi (1912-1940), ông đã để lại hàng trăm bài thơ và hàng loạt tác phẩm thơ đặc sắc cho nền thơ ca dân tộc. thơ ông dường như xuân từ máu và nước mắt, có nhiều hình ảnh khủng bố. không ai hiểu rõ về xuân và thiếu nữ (“chín suối”), về sắc đẹp và câu thơ “đây thôn vi da” như han mo tu.

“thị trấn đời người đây rồi” được trích từ “tập thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. bài thơ đề cao xứ Huế, cảnh sắc thiên nhiên thân thương, con người xứ Huế, đặc biệt là những cô gái xinh xắn, đằm thắm, đáng yêu. han mei tu viết về một tình yêu: tình yêu đơn phương, say đắm thơ mộng, rực rỡ, trong sáng và huyền ảo. bài thơ thể hiện một nỗi sầu muộn, khát khao hạnh phúc của tình yêu thơ mộng, có nhiều nhân duyên với cảnh và nhân vật tuyệt vời.

Câu đầu tiên của khổ thơ đầu thật “ngọt ngào” như một lời mời vừa vui mừng đoàn tụ, vừa nhẹ nhàng quở trách người thân bao nhiêu nhớ nhung, hi vọng. giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, ân cần: “sao em không chơi làng nữa?”. Một số khung cảnh xa xưa của phố cổ hiện lên trong những vần thơ đẹp với hoài niệm. Biết bao kỉ niệm ùa về trong hồn thơ. gắn liền với cảnh sắc miệt vườn và con người xứ Huế mộng mơ:

<3

Cảnh được đề cập là cảnh bình minh tuyệt đẹp ở vùng nông thôn. nhìn từ xa, nhà thơ say mê ngắm nhìn những ngọn cau, đoàn tàu cau soi bóng dưới nắng mới, “nắng mới” rực rỡ. những cây cau cao vút đã là hình ảnh quen thuộc của người dân pueblo de vida từ bao đời nay. hàng cau như lời chào, như lời kêu gọi.

Tôi quên màu xanh lục ở đây. nhà thơ thốt lên đầy thán phục khi đứng trước khu vườn rộng lớn xanh tươi: “vườn ai xanh như ngọc?”. cây và hoa ướt đẫm sương đêm. màu xanh bóng dầu, non và tươi sáng, dưới màu hồng mơ nhạt trông “dịu” một màu xanh ngọc bích. đất đai phì nhiêu, khí hậu điều hòa, người dân cần mẫn chăm bón nên mới có màu “xanh ngọc” ấy. thiên nhiên sôi động, tươi trẻ và tràn đầy sức sống. cũng nói đến màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) xuân khảo đã từng viết: “thấu trời xanh ngọc qua kẽ lá…” (“thơ duyên”). hai chữ “vườn ai” gợi nhiều ngỡ ngàng, bùi ngùi. câu thơ thứ tư tả người con gái bên khóm tre trong vườn xuân: “lá tre che mặt đài”. mặt trái xoan, mặt hoa bột, mặt búp sen là những nét đẹp của mỹ nhân. khuôn mặt đầy đặn là khuôn mặt đầy đặn, vuông vắn và thân thiện. “lá trúc” là một nét vẽ truyền thần đã làm nổi bật vẻ đẹp của người con gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo và duyên dáng. han meozi đã hơn một lần nói về tre và những cô gái trẻ. tre được nhóm lên như bóng mát xanh che chở cho một tình yêu đẹp đang đơm hoa kết trái:

“Thì thầm với ai đó đang ngồi dưới gốc cây khiến tôi cảm thấy ngọt ngào và hồn nhiên”

(mùa xuân trưởng thành)

các câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả tre và thiếu nữ với cách phối màu nhẹ nhàng, thoáng đãng, ẩn hiện, mơ hồ. số ít nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc … mặt chữ điền). phong cảnh và con người ở đó rất tốt bụng, thân thiện và quyến rũ.

vi da là một thị trấn nông thôn nằm bên bờ hương giang, ngoại ô cố đô huế. đêm đẹp hùng vĩ với những con thuyền thơ mộng, vườn cây bốn mùa xanh tươi, trĩu quả. những ngôi nhà xinh xắn lấp ló sau những hàng cau và rặng tre, nhưng bài hát nam ai, nam bình, thường được hát ở đây qua âm thanh huyền diệu và du dương của đàn tranh, đàn tranh. thị trấn vi da đẹp và thơ mộng. Han me tu đã dành tặng nàng vi da bài thơ đẹp nhất với tất cả tình cảm yêu thương. Đã nhiều năm trôi qua kể từ ngày họ chia tay nhau da diết. tuy nhiên, cảnh vật và con người phố lớn vẫn được nhà thơ nâng niu, càng trở nên rực rỡ, thể hiện niềm khát khao tha thiết được trở về cố đô thăm lại cảnh xưa. hình ảnh tâm trạng đã được thể hiện một cách tài tình như một hình ảnh làng quê nên thơ và hữu tình.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ và xa xăm. hai câu 5, 6 là hình ảnh tượng trưng cho gió, mây, sông và hoa (hoa ngô đồng). giọng nói nhẹ nhàng và u sầu. nghệ thuật tương phản tạo nên khung cảnh hài hòa, cân đối và sinh động. gió và mây rút như tình thơ, tưởng gần mà xa, xa lắm. dòng hương trôi êm đềm, trong tâm tưởng nhà thơ trở nên “buồn”, nhiều dấu buồn. những bông hoa ngô đung đưa, đung đưa trong gió nhẹ. nhịp điệu êm đềm và thơ mộng của sông núi được miêu tả rất tinh tế! những ám chỉ như trêu ngươi gợi lên bao câu hỏi mơ mộng. ngoại cảnh rộng lớn ngăn cách như trái tim, như tâm trạng của nhà thơ;

“gió theo gió, mây theo mây, suối nước buồn, hoa ngô đung đưa.”

ở hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi “ai” hoặc băn khoăn khi nhìn thấy hay nhớ lại hình ảnh con thuyền mơ trên sông trăng. dòng sông quê tôi trở thành “sông trăng”. han mozi với tình yêu tuyệt vời của mình đã tạo nên một bài thơ hay về dòng sông hương với những con thuyền dưới trăng. Nguyễn công tử từng viết: “gió trăng chứa đầy tàu”. han mo tu cũng góp phần vào nền thơ ca Việt Nam hiện đại với bài thơ trăng độc đáo:

Đó là con tàu của ai, neo đậu ở bến sông trăng có thể đưa trăng về trong đêm nay?

tâm hồn thi nhân rùng mình khi nhìn sông trăng và con thuyền. tàu tôi hay “tàu là ai” vừa quen vừa lạ. chất thơ kì ảo ở “phố phường đời này” chính là ở những chất thơ ấy. câu thơ gợi tả một hồn thơ xao xuyến trước vẻ đẹp thơ mộng của miền trung, thể hiện một tình yêu thầm kín, dịu dàng, thơ mộng và buồn. ở đây, hình ảnh tâm trạng tràn đầy ánh trăng, thấm đẫm một nỗi buồn cô đơn của người khách mê.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm trạng của nhà thơ. lúc bấy giờ, nhà thơ nguyễn binh đã viết về thiếu nữ sông nước: “thiếu nữ sông

hương thơm – làn da thơm là phấn, má hồng là son … “. trời mưa nhiều, sáng chiều sương khói. Đây sương khói đã làm mờ mờ tà áo trắng của anh, em không nỡ. Nhận ra bóng dáng em (hình người) khi em nhìn vào câu thơ chập chờn như thật mà như mơ, trong trắng thuần khiết, kín đáo và duyên dáng của một cô gái Huế mang tên một loài hoa xinh đẹp, nhà thơ có nói đến tình yêu này không?

“mơ thấy khách phương xa, khách phương xa. áo ta trắng quá chẳng thấy đâu.

“mơ khách phương xa, khách phương xa … ai biết … ai có …” những ám chỉ và lưu luyến ấy tạo nên một giai điệu sâu lắng, da diết, mênh mang. khoảng cách và nỗi buồn chia tay dường như kéo dài vào không gian và thời gian vô hạn. người đọc càng thương cảm cho chàng thi sĩ tài hoa, si tình nhưng kém may mắn, một thời vì tình yêu đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cảnh cô đơn, bệnh tật.

Tôi cũng cần nói đôi lời về từ “ai” trong bài thơ này. 4 lần từ “ai” hiện lên thật mơ hồ và bất an: “vườn ai xanh như ngọc?” – “Con tàu của ai đã neo đậu trên dòng sông âm u đó?” – “Ai biết yêu ai giàu?” Người mà nhà thơ nói đến là người ở xa, trong nỗi nhớ, niềm đau. nhà thơ luôn cảm thấy mình lạc lõng, lạc lõng trước một tình yêu duy nhất. một giấc mơ, một hy vọng nhỏ nhoi mong manh nhưng chân thành như đang mờ dần và mờ ảo theo màn sương?.

han mo bạn đã để lại cho tôi một bài thơ tình hay và cảm động. cảnh và người, mộng và thực, say mê và buồn bã, ngỡ ngàng và bâng khuâng … biết bao hình ảnh đẹp nhưng buồn, cảm xúc hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn tứ tuyệt. “nơi đây thị trấn vi da” là một bài thơ tình tuyệt vời. màu xanh ngọc bích của vườn ai, con thuyền bến sông trăng, màu trắng áo em như chở hồn em về cánh đồng sương khói một thời xa vắng tìm bóng người đẹp. đàn bà, nhớ nhà có tài thơ ca, đa tình nhưng bạc mệnh. hình ảnh tâm trạng trong “Đây thôn vi da” còn đọng mãi trong lòng mỗi chúng ta. nhà thơ nhặt bồn đã nói hộ lòng tôi.

“xin chào huệ, tôi đến để nhắc nhở bạn rằng trong giấc mơ của tôi bạn đang rất thực nhưng mặt trời tối tăm, xin đừng nhầm tôi với cố đô.”

phân tích đây là thị trấn của cuộc sống – mẫu 3

“Đây là thị trấn của cuộc sống” là một bài thơ hoài cổ. Theo tài liệu của Hàn Mỗ Tử, trong thời gian làm việc ở Sở Đoàn Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã yêu Hoàng Thị Kim Cúc, con gái ông chủ Đắc Điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, Huế. Tất cả tình cảm của tôi đều gửi đến nhóm nhạc nữ đồng quê. Khi hoàng thân theo cha về hưu ở Huế – vi da, han mac tu coi như đã lấy chồng.

ngày mai tôi sẽ thôi làm nhà thơ, tôi sẽ kết hôn, sau bao ước mơ, tôi sẽ đi tìm một tảng đá trắng, ngồi trên đó và giải thoát tâm hồn thơ mộng của mình.

han mo qua đời khi mắc bệnh phong vào năm 1936. năm 1939, han nhận được một tấm bưu thiếp từ kim cúc, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, với những dòng sông ánh trăng, những con thuyền và cầu tàu, với những hàng cây thông cao vút. bằng dòng chữ hoàng cúc để an ủi nhà thơ. Tấm bưu thiếp đã khơi dậy cảm xúc của nhà thơ, đó là lý do để lại bài thơ tuyệt vời này.

Khổ thơ đầu tiên mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. câu thơ nhẹ nhàng như một lời trách móc nhẹ nhàng pha chút tiếc nuối, nhưng đằng sau đó là một lời mời gọi chân thành du khách đến thưởng ngoạn vẻ đẹp của “phố thị”.

trở lại làng vi vu để “ngắm mặt trời mới mọc”. nhà thơ nhắc đến cây cau trước hết vì cây cau là loài cây thanh tao, đẹp đẽ, thân thẳng, tán lá xanh, gợi lên lòng trung thành, lẽ phải. hình ảnh cây cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, đó là “cây cau mặt trời, mặt trời mới mọc”. từ “sun” gợi cho ta liên tưởng đến ánh nắng ban mai, biểu tượng của sức sống và niềm vui lan tỏa khắp trái đất. dưới ánh nắng ban mai, những thân cây cau còn đọng sương sớm như vươn lên hấp thụ ánh vàng rực rỡ

cảnh đẹp, kêu gọi sự chú ý của tác giả. câu thơ thứ ba như một tiếng reo vui thể hiện sự ngạc nhiên, thán phục. phong cảnh hùng vĩ đẹp như tranh vẽ: “vườn ai xanh như ngọc”. khu vườn trĩu quả được những bàn tay khéo léo chăm sóc, thường xuyên được mưa gió gột rửa nên mềm mại, lung linh trong nắng mai như ngọc. hình ảnh so sánh của tác giả trong đoạn thơ thật chính xác và gợi cảm. Cách miêu tả khu vườn của Hàn Mặc Tử có thể nói là đã đạt đến độ tinh xảo của một họa sĩ tài hoa.

chỉ với một vài nét chấm phá, han mo tu đã phác họa nên một khung cảnh vườn làng quê Huế vừa quen thuộc, vừa bình dị, vừa thơ mộng. nhìn vườn huệ dưới “nắng mới” thật thanh thản. nhưng cảnh trời đêm trở nên sinh động hơn, khi xuất hiện bóng dáng con người: “lá tre che mặt đài”. mặt chữ điền thường gợi vẻ đẹp kiêu sa. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi dáng người mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. câu thơ, ngoài ý nghĩa hiện thực: sau bụi tre, gương mặt thân thương của ai đó như đang dõi theo một vị khách từ xa, còn mang ý nghĩa tượng trưng, ​​cách điệu.

cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh đẹp nên thơ, con người nhân hậu, cao thượng. tất cả tạo nên vẻ đẹp thanh thoát, mềm mại. Nhờ vậy mà đoạn thơ đã làm nổi bật được cái hồn của miệt vườn xứ Huế mà khổ thơ tập trung thể hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết hết sức quen thuộc, giản dị, Hán tự đã khắc họa nên bức tranh cánh đồng rực rỡ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, hài hòa giữa cảnh và người. bài thơ đánh thức trong lòng người đọc biết bao tình cảm quê hương, đất nước Việt Nam.

khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của sắc hương: dòng sông hương và vẻ đẹp tĩnh lặng, trầm ngâm của cuộc sống nói riêng và của sắc hương nói chung.

trở lại với cuộc sống, với sắc màu, với núi non, với dòng sông nước hoa, để hàn huyên bạn, bạn cũng có thể cảm nhận được tâm hồn, cùng một nhịp điệu của sắc màu. cảnh quê hương dưới ngòi bút của han mac tu có dòng sông, bờ bài, có gió, có mây và thuyền ai đậu dưới trăng trên bến vắng. tất cả đều tạo nên một hình ảnh yên bình và thơ mộng.

“gió theo gió, mây theo mây, nước buồn chảy, hoa ngô đồng đung đưa”

hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. hai câu thơ gợi cảm giác xa cách, buồn bã, hụt hẫng. Phải chăng tình yêu đơn phương, không phút gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia tay, nên cảnh cũng tan vào lòng người mà buồn chia ly? Vì tâm trạng buồn như vậy nên nhìn đâu cũng thấy buồn. gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng này lại đứt quãng, coi như không có cuộc gặp gỡ. các từ “gió” và “mây” đã thể hiện điều đó. và cả dòng nước vô tri cũng trở nên buồn bã hòa cùng những bông hoa ngô đồng nhẹ nhàng “rung rinh”. hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tả tình trong cảnh mà như muốn tả cả nhịp điệu của cảnh. đó là một nhịp điệu trôi chảy, êm đềm, một đặc tính chiêm nghiệm rất đặc trưng mà không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác ở sắc thái. hai câu thơ có nhịp điệu chậm rãi cũng đã thể hiện thành công tình cảm trên.

viết về huệ không thể không tả trăng. mặt trăng dưới ngòi bút của han mo tu huyền ảo lấp đầy vũ trụ, tạo nên bầu không khí nửa thực nửa hư:

“con tàu nào thả neo trên sông của mặt trăng có thể đưa mặt trăng trở lại thời gian”

Chỉ trong giấc mơ, dòng sông mới có thể là dòng sông của trăng và con thuyền sẽ chở trăng. đây, han mo bạn là một người có đôi mắt rất mơ, rất ảo. nếu bạn nhìn vào sự thật, sự thật sẽ trở thành một giấc mơ; nếu bạn nhìn vào giấc mơ, bạn sẽ thấy một con sếu thần kỳ. thơ của cái chết thật thanh tao! ngọt ngào ở khắp mọi nơi “(bich khe).

Mặt trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên. mặt trăng còn tượng trưng cho hạnh phúc yên bình. chính vì vậy, hình tượng thơ han mac tu đã đánh thức trong lòng người đọc một niềm tin, một niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn thiện, thánh thiện. lời thơ nổi lên như một câu hỏi tuyệt vọng. hai dòng tiếp theo của khổ thơ nói lên niềm khao khát được gặp gỡ đồng thời cũng bộc lộ nỗi lo âu. mô phỏng sự chậm trễ. chỉ một từ “đúng giờ” trong câu thơ cuối cùng đã nói lên tất cả.

Sang đến khổ thơ thứ ba, nó thể hiện vẻ đẹp huyền ảo của Huế và tình yêu tha thiết nhưng tuyệt vọng của tác giả đối với cuộc sống.

“mơ thấy khách từ xa, khách từ xa, áo tôi trắng quá không thấy đâu”

Cụm từ “lữ khách phương xa” vừa thể hiện tâm trạng nhớ nhung, nhớ nhung, vừa thể hiện sự xa cách của mối tình đơn phương vô vọng. như vậy, “mộng khách phương xa” tác giả chỉ thấy “một tà áo” mà “chẳng thấy đâu”. cô gái này là ai? Đó là một cô gái xứ Huế hay một người dân tung tăng trong cõi mộng của nhà thơ, cho tác giả cảm giác sầu muộn thực sự? Tôi chỉ biết rằng đây là hình ảnh vừa gần gũi, vừa nghiêm trang, vừa xa cách. gần vì đã trở thành nỗi nhớ thường trực, xa vì khoảng cách về thời gian, không gian và sương khói của một tình yêu chưa hẹn “áo em trắng quá không thấy” là một câu thơ hay. màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ huế và cũng là màu gợi lên sự trong trắng thuần khiết rất phù hợp với cô gái mộng mơ. màu trắng xóa khắp không gian, làm mờ đi tầm nhìn của tác giả. và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi nó ẩn hiện trong làn sương mờ ảo của nắng, mưa và sương khói của mối tình đơn phương. Vậy tình yêu của cô gái phố nhỏ hôm nay có bền chặt không? “Ai biết được tình yêu của ai là giàu có?”.

trong nỗi đau tột cùng, nhà thơ vẫn có những phút giây thư thái thanh tịnh để nhìn vào cánh đồng thân thiết và tình yêu thơ mộng để tạo nên một “hòn ngọc thơ tuyệt vời, sáng mãi ngàn năm”. chuẩn bị thuốc phong lan.

bài thơ tất nhiên có xuất xứ cụ thể, có cảm hứng cụ thể, nhưng qua phân tích, ta thấy tác phẩm đã vượt ra khỏi giới hạn của cái cụ thể, đạt đến sức khái quát nghệ thuật cao để vươn tới cuộc sống rộng lớn.

p>

this town vi da của han mac tu không chỉ là bài thơ bày tỏ tình yêu với một cô gái Huế, thậm chí không dành riêng cho một thị trấn cụ thể, mà còn là một lời tỏ tình chân thành, đó là lời cuối cùng của nhà thơ han mac tu về anh. tình yêu quá đau và quá sâu cho cuộc đời này.

phân tích đây là thị trấn của cuộc sống – mô hình 4

han mac tu là một nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam. Khi nhắc về anh, chúng ta nhớ đến một nghệ sĩ tài năng và kém may mắn. qua bài thơ “thôn vi da”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, tinh tế của han mac tu.

Bài thơ quê hương mộng mơ “đây làng đời” là tiếng lòng thiết tha với quê hương nhưng cũng đầy da diết, man mác như dòng sông hương dịu dàng với những câu hát chan chứa chút tình quê. . :

Tại sao bạn không trở lại thị trấn chơi?

mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như một lời trách móc nhẹ nhàng, không chút hờn giận của cô gái quê hương đến chàng trai mình thầm thương trộm nhớ. câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm phố. đó còn là một lời mời gọi “ngọt ngào”, thị trấn hùng vĩ hiện ra, vẻ đẹp không hùng vĩ như cảnh “đi qua” hay mang nét huyền bí của hư không, dưới ngòi bút riêng của tác giả hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, chân chất. .

vẻ đẹp được miêu tả từ “nắng mới” của buổi ban mai, ánh bình minh dịu dàng và trong sáng soi lên những “hàng cau” xanh mướt như đang đón nhận những tia nắng đầu tiên ấy. mọi thứ dường như được bao phủ bởi ánh sáng, một thứ ánh sáng thuần khiết, dưới ánh sáng đó, mọi thứ dường như bừng lên một sức sống căng tràn.

<3

một khu vườn hiện ra trước mắt, chúng ta chỉ cần nhắm mắt là có thể cảm nhận được màu xanh dịu dàng, sáng lên trong ánh ban mai. nhà thơ đã sử dụng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để gợi tả sức sống tươi mới, nhựa cây đâm chồi nảy lộc.

Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “lá tre che mặt lấp ló”. chúng ta thường nhắc đến khuôn mặt tròn, mặt trái xoan … hiếm ai nhắc đến “khuôn mặt chữ điền”, chỉ là khuôn mặt hiền lành và nhân hậu.

con người chớp mắt, ẩn hiện sau “lá tre” những hình ảnh mơ mộng, hư ảo. Phải chăng đây là người về thăm thôn Vĩ, cô gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế nhân hậu, duyên dáng? làng hoa vi vu nằm bên dòng sông hương xinh đẹp yên tĩnh, những khu vườn xanh tươi, nằm bên bờ sông hương vẻ đẹp hiện lên hoài cổ:

<3

dòng tả cảnh thiên nhiên nhưng chất chứa nỗi lòng của nhà thơ. chúng ta thường nói “gió đưa mây bay”, gió và mây đi cùng một hướng. tuy nhiên, trong thơ han mac tu, “gió theo gió, mây theo mây.” có sự ngăn cách trong tim. nước sông hương hoa cũng đượm buồn man mác với “ngô đồng nở hoa” hai bên bờ. khung cảnh dường như có sự ngăn cách, nó run rẩy.

Phải chăng đây cũng là dòng tâm sự của chính tác giả khi đối mặt với nỗi nhớ người mình yêu, nỗi tiếc nuối khi chưa gặp được người trong mộng? hình ảnh “con tàu và vầng trăng” thường xuất hiện trong bài thơ “trăng gió chẳng trăng chẳng tầu” – nguyễn công trạc. và trong bài thơ này, han mac tu cũng đã mượn hình ảnh trữ tình ấy để nói lên cảm xúc của mình “tàu ai cập bến sông trăng”.

ánh trăng soi bóng dưới dòng sông hương, dòng sông của nhà thơ không còn mang hình ảnh giản dị mà trở thành “dòng sông trăng”, khiến cả dòng sông và cảnh vật đều sáng ngời, huyền ảo. Có ai ngờ rằng “dòng suối buồn” bởi “bông ngô đồng” bay trong ánh chiều tà lại có thể trở thành một “dòng sông trăng” thơ mộng đến thế.

“Thuyền của ai” là thuyền của người lạ, hay chính là con thuyền chở người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa quen thuộc vừa xa lạ. câu hỏi tu từ như trêu ngươi, lo lắng “đêm nay có đưa trăng về kịp không” xuất hiện. Câu hỏi chưa được trả lời, đó là sự tiếc nuối, hay thiếu vắng tình yêu, “đúng lúc” khiến câu thơ gấp gáp hơn, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy cho kịp những mong đợi, hay với tình yêu mà nhà thơ trân trọng?

nhưng tất cả những lo lắng, nhớ nhung ấy chỉ còn trong tiềm thức, tan biến dễ dàng như ánh trăng sáng dưới dòng sông hương khác. thực tế chỉ là một giấc mơ tàn khốc:

mơ khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá, không thấy đâu.

Nhà thơ đã sử dụng phép ám chỉ “khách phương xa… khách phương xa” để làm sâu lắng giọng thơ, nỗi nhớ nhung, nỗi buồn trong hiện tại. mọi thứ dường như mờ đi bởi màu áo trắng, màu trong sáng và tinh khôi ấy được thể hiện dưới ánh nắng, màu đại diện cho màu áo đồng phục của nữ sinh xứ Huế.

và trong bài thơ này nó còn mang màu sắc hoài cổ của chính tác giả. dưới làn sương sớm, “sương mù hình người” như mờ ảo, như ẩn như hiện, xa xăm, khó nắm bắt. giữa cõi hư vô ấy, câu thơ cuối như một nỗi thất vọng của chính tác giả “biết tình ai giàu?”.

nỗi thất vọng về một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời bài hát dường như phảng phất chút u sầu. bài thơ kết thúc buồn. nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với lòng mình, tự hỏi cảm xúc kia có “dạt dào” hay hư ảo như tà áo trắng mờ ảo trong sương sớm.

đoạn thơ “nơi đây phố thị” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. qua đó, chúng ta càng thêm khâm phục ý chí sống của chính tác giả và tài năng của một người nghệ sĩ giàu lòng yêu thương.

phân tích đây là thị trấn của cuộc sống – mẫu 5

Thơa este pueblo là tác phẩm mà han mac tu đã viết với rất nhiều tâm huyết. bài thơ thể hiện một tình yêu hoài niệm đối với quê hương xứ Huế, nơi tác giả đã từng làm việc tại đây.

han mac tu (1912-1940) sinh ra tai binh dinh, nhung co mot thoi gian hoc o Hue va lam viec tai day. Với anh, Huế là quê hương thứ hai và cũng là nơi để lại nhiều dấu vết và kỷ niệm nhất. Qua việc phân tích bài thơ “đây thôn dã” giúp ta hình dung được cảnh vật và con người xứ Huế.

mở đầu bài thơ là những lời tâm sự ngọt ngào nhưng chân thành của một cô gái với chàng trai: “sao anh không về chơi với cánh đồng”. thị trấn vi la một thị trấn xinh đẹp nằm gần huế thơ mộng. thị trấn vi hay còn gọi là thị trấn vi da mà tác giả đề cập đến là một thị trấn yên tĩnh và xinh đẹp.

Tác giả cũng đã làm việc và học tập tại đây. Có phải đây là những lời thủ thỉ nhắc nhở của cô gái với chàng trai hãy về làng của cuộc đời để chơi vì có rất nhiều cảnh đẹp và bí ẩn mà chàng trai đã lâu không đến thăm? khung cảnh nơi đây đẹp một cách kỳ lạ như chính tác giả đã miêu tả rõ ràng từng hình ảnh đơn giản nhất:

<3

ở đây khung cảnh có hai màu chính là xanh lam và vàng. cảnh vật nơi đây có những hàng cau vươn cao, xanh mướt. hình ảnh những cây cau mọc thành hàng và đang thời kỳ ra hoa thật đẹp. Hoa cau rất đẹp và thơm, đó là lý do cây cau không thể thiếu ở Huế. Nếu đã từng đến Huế, bạn sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng những vườn cau xinh xắn của người dân nơi đây.

tại Huế, bạn cũng sẽ thấy những khu vườn rộng lớn với những cây cau bên trong. một không gian ngập tràn sắc xanh và nổi bật bởi ánh nắng vàng khiến không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. vườn nhà được tác giả nói: “ẩm ương”, một từ ngữ diễn tả cảnh vật nơi đây tươi đẹp, trù phú như thế nào. những giọt sương lung linh còn đọng trên cây cỏ rồi ánh nắng lung linh dịu dàng tạo nên những hạt ngọc được tác giả miêu tả “xanh như ngọc”.

Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến người đọc liên tưởng hoặc hình dung ra một bức tranh đầy màu sắc mà tác giả đã vẽ nên. nhưng ở khổ thơ thứ hai, giọng điệu của bài thơ trầm lại và xen lẫn chút xót xa:

“gió cuốn theo gió, mây bay mây, nước buồn hoa ngô, con thuyền bến bến sông trăng, đêm nay có đưa trăng kịp không?”

Hai điều, gió và mây, khi được nhắc đến, luôn nhắc nhở chúng ta về tình yêu. mây và gió luôn không thể tách rời, là đại diện cho tình cảm vợ chồng khăng khít, khăng khít. nhưng ở đây tác giả cho thấy điều ngược lại, đó là sự ngăn cách, xa cách giữa gió và mây, mỗi vật đi về một hướng. Phải chăng đây là lời nhắn nhủ của nhà thơ với cô gái bên bông cúc vàng? họ đã xa nhau một thời gian dài khi han mo tu đến Sài Gòn để viết báo và cô ấy đã giúp cha mình làm việc.

câu thơ thứ hai của khổ thơ chính là sự tái hiện cuộc sống, nhịp sống thường ngày của người dân xứ Huế chậm rãi, bình yên như miêu tả cảnh nước chảy chầm chậm, trôi chậm. những bông hoa ngô đung đưa nhẹ nhàng khi gió thổi.

Đoạn thơ sau là một câu thơ khiến người đọc liên tưởng nhiều hơn đến vầng trăng và con tàu. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và soi sáng một dòng sông như ánh trăng soi bóng con thuyền. Con tàu sẽ đưa mặt trăng trở lại đúng thời gian vào đêm nay hay nó sẽ mất thị trấn? đây là cách nói đầy ẩn ý của tác giả rằng liệu tình yêu của họ có thể quay lại và yêu nhau lần nữa hay hai người sẽ mất nhau mãi mãi.

khổ thơ cuối là những lời tâm sự từ tận đáy lòng của tác giả và cũng là những suy nghĩ của tác giả về người con gái ấy:

“mơ thấy khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá không thấy đây sương mờ, ai biết tình ai đậm đà?”

Câu đầu tiên của khổ thơ cuối gây ấn tượng cho người đọc bởi sự lặp lại hai lần từ khách phương xa, gợi ra khoảng cách càng thêm xa. chiếc áo sơ mi của cô gái trắng đến nỗi tác giả không còn nhận ra cô nữa vì cô gái quá đẹp nên không thể nhận ra người con gái mà mình đem lòng yêu mến. sương khói dày đặc làm hoen ố hình ảnh của một người và tác giả tự hỏi liệu người đó có còn yêu tôi và có tình cảm mãnh liệt với tôi hay không. câu thơ cuối là tiếng nói từ trái tim của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phần phân tích bài thơ este pueblo chúng ta sẽ biết rằng đây là bài thơ hay nhất mà han mac tu đã viết trước khi chết vì bệnh phong. Qua bài thơ ta hình dung được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng đất Huế xinh đẹp, nơi xưa kia là cố đô của nước ta. bài thơ cũng miêu tả tình yêu chân thành của nhà thơ đối với người con gái quê hương thật đậm đà và ngọt ngào!

xem thêm: phân tích khổ thơ cuối của bài thơ han mac tu este pueblo es el pueblo de vi da

phân tích bài thơ Ở đây là phố đời – văn mẫu 6

Thơa este pueblo là một trong những kiệt tác mà nhà thơ han mac tu đã để lại cho thế giới. đây là những bài thơ ngọt ngào, êm ái. Trước khi viết bài thơ, nhà thơ bị bệnh phong nhưng ông vẫn mang trong mình những nỗi nhớ, những kỷ niệm đau thương về quê hương rộng lớn, nơi đã gắn bó biết bao thời tươi đẹp của nhà thơ nơi đây.

Đất huế là quê hương thứ hai của nhà thơ han mac tu khi còn là một công nhân viên chức, sau đó ông chuyển đến Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp. Huế cũng là vùng đất có đặc điểm trồng rất nhiều cau mà trong thơ ca han mac tu có nhắc đến:

XEM THÊM:  Dàn ý bài văn nghị luận văn học

<3

Đó là một lời trách mắng nhẹ nhàng và nhẹ nhàng mà ai đọc nó cũng có thể đoán được đó là lời trách mắng của một cô gái dành cho một chàng trai. nhưng nghe đến câu mà sao cô lại mềm nửa tức! Cô gái mắng chàng trai sao không về làng để xem cây cau mới mọc và được “tắm nắng” bằng ánh nắng.

Những cây cau vươn cao, có lá xanh mướt trông rất đẹp mắt nay đã được bao phủ bởi nắng vàng! Ôi, thật là một hình ảnh đẹp của thiên nhiên tràn đầy ánh sáng. không dừng lại ở đó mà đọc hai câu thơ tiếp theo, chúng ta có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoàn mỹ đến khó tin:

“Vườn ai xanh như ngọc, trúc che mặt trám”

nếu bạn đã từng đến Huế, bạn sẽ thấy những khu vườn xinh đẹp với những bãi cỏ và cây cau mọc bên vườn. Người Huế giản dị lắm, chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc nhưng trữ tình thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật thơ mộng và tươi đẹp khi không cần đến những tòa nhà chọc trời, cao tầng. chúng ta có thể cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của ngày xưa.

đường phố đông đúc người đi bộ và đi xe đạp, không ồn ào cũng không vội vã. tác giả miêu tả: “vườn ai xanh như ngọc” là vẻ đẹp của cây cối xanh tươi do sương mai lắng đọng. Khoảnh khắc đó thật đẹp, giờ càng đẹp hơn khi tia nắng mặt trời chiếu rọi.

Phong cảnh vẫn tráng lệ và đẹp đẽ như ngày nào. thật là mềm mại, chỉ là cây cỏ cây cối phát triển tốt nhưng lại xanh đến mức xanh như ngọc. mà ngọc lam đại diện cho màu xanh lam. tác giả khéo léo liên tưởng màu xanh của cỏ và màu xanh của ngọc bích. Qua đây, chúng ta có thể thấy nhà thơ han mac tu là người tinh tế và tài tình đến nhường nào.

người dân xứ Huế thể hiện vẻ đẹp chân chất, hiền hậu như thế nào qua câu thơ: “lá tre che mặt người điền”. khuôn mặt vuông là biểu hiện của sự nhân từ, vuông vắn toát ra từ sự hiền lành, thân thiện của con người nơi đây. Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đã khắc họa đặc biệt rõ nét nhịp sống của người dân xứ Huế, chậm rãi nhưng êm ả:

“gió theo gió, mây theo mây, nước buồn chảy, hoa ngô đồng đung đưa”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi ngay cả những bông hoa ngô đồng “buồn bã” cũng di chuyển rất chậm. câu thơ còn gợi cho ta liên tưởng đến khoảng cách giữa gió thổi một chiều và gió thổi một hướng. Phải chăng đó chính là sự ngăn cách, là ranh giới song hành mà tình yêu không bao giờ có được giữa chàng trai xứ Hàn và cô gái Hoàng thị kim cúc, người con gái mà năm xưa nhà thơ thầm thương trộm nhớ? .

và đọc câu thơ: “Con tàu nào cập bến sông trăng ấy, đêm nay có đưa trăng về kịp?” khiến người đọc hình dung ra một con thuyền nằm trên sông và nơi có trăng sáng. con tàu đi đến bất cứ đâu như thể nó mang theo cả mặt trăng. Liệu con tàu có đưa mặt trăng quay ngược thời gian?

khổ thơ cuối là tình cảm của tác giả han mac tu dành cho người con gái mà ông luôn thầm thương trộm nhớ được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“mơ thấy khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá không thấy đây sương mờ, ai biết tình ai đậm đà?”

tác giả đã mơ một giấc mơ, trong đó có một vị khách lạ là cô gái mà tác giả đem lòng yêu mến. chiếc áo trắng đến nỗi nhà thơ không còn nhận ra cô gái. màu áo trắng cũng khiến chúng ta dễ liên tưởng đến thời áo trắng của học sinh Huế. câu thơ của người khách phương xa được lặp lại thêm hai lần cho thấy sự sâu sắc và xa cách giữa nhà thơ và nhân vật mà tác giả đề cập đến.

Làn khói sương mù đã làm mờ đi hình ảnh người con gái, khiến tác giả cảm thấy xa cách, khó gần. tác giả băn khoăn: “ai biết tình ai giàu?” Tôi không biết cô gái đó có còn nhớ và còn yêu đến chết hay không. đọc xong bài thơ tôi thấy chạnh lòng, đó là tình yêu dạt dào của tác giả gửi đơn phương cho một cô gái mà không được đáp lại.

phân tích bài viết đây là thị trấn của cuộc sống – mô hình 7

“Ai mua trăng, tôi bán trăng để không bán đoàn viên, hẹn hò. “

Nhắc đến những dòng thơ này, hẳn độc giả không quên hình ảnh “nửa vầng trăng” của han mac tu. một nghịch lý, lạ lùng vì mặt trăng cũng là của chung và của mọi người, đó là lý do “bán”. tuy nhiên từ hình ảnh này có thể thấy được tấm lòng thủy chung, sắt son của nhà thơ. và một lần nữa lòng chung thủy ấy được tái hiện qua “con người của cuộc đời ở đây”. tác phẩm không chỉ là bức tranh màu nước về một vùng đất Cố đô mà còn là nỗi niềm gửi về nơi phương xa của nhà thơ han mac tu.

đầu bài thơ không phải là lời chào mà là lời trách móc: “sao anh không về chơi phố?”. giọng điệu như thắc mắc, trách móc của nhân vật trữ tình sao không về phố, về với kỉ niệm. câu thơ còn thể hiện sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của vùng quê.

sự tiếc nuối của cô gái nhắc đến âu cũng có cơ sở vì với loạt “mỹ nhân” tiếp theo, ai lỡ chuyến về sẽ phải tiếc nuối.

<3

Ba câu thơ trên đã bước đầu thể hiện hình ảnh cánh đồng với vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết. ở câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nhuần nhuyễn biện pháp ngụ ngôn “nắng”. nếu “nắng” ở mệnh đề đầu chỉ nơi xuất hiện (mặt trời trên hàng cau) thì “nắng” ở mệnh đề cuối chỉ tính chất của nó. (mặt trời mới) cảnh vật ở thị trấn lớn hiện ra trước mắt người đọc là vẻ đẹp của khu vườn, vẻ đẹp của vùng quê ngoại ô thành phố.

Hàng cau là hình ảnh đặc trưng nhất của vườn cây nơi thiên nhiên, nhưng tác giả đã khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này như một “gia vị” của sắc màu. – Mới. “new sun” có thể hiểu là nắng ban mai, khởi đầu cho một ngày mới.

nhưng mặt trời này không chỉ là sự khởi đầu của một ngày, mà còn là sự khởi đầu của một mùa xuân tươi mới. “nắng mới” đi kèm với động từ “lên” tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và nhà thơ là người may mắn được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp cánh đồng.

Từ con mắt của “hàng cau đầy nắng”, tác giả đã tiếp tục quan sát một “đối tượng” khác là vườn thị. Bạn có thể thấy từ câu này rằng quan điểm của tác giả đã thay đổi. “khu vườn” hiện ra gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. nghệ thuật tu từ “vườn của ai” gợi sự tò mò, hiếu kỳ vì không rõ ai là chủ của khu vườn này, nhưng điều mà người ta quan tâm không phải là danh tính của chủ nhân khu vườn, mà là quan trọng là sự thật. màu xanh lá cây.

Tác giả so sánh khu vườn với viên ngọc bích để thể hiện sự trong lành và xanh tươi của khu vườn vào buổi sáng sớm. Nhìn vào bức tranh này, người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng được thư giãn thực sự. tuy nhiên, tài năng của han mo tu không chỉ có vậy. tác giả đã khéo léo “tặng” từ “dịu” khi miêu tả màu sắc của khu vườn. từ này tạo cho người đọc cảm giác mềm mại, tròn trịa và thêm mềm mại.

ngoài ra, nó còn đi kèm với thán từ “quá” làm cho vườn làng thêm thanh tao, khiến người đọc tò mò muốn xem một lần, nếu ở câu thứ hai và thứ ba giúp ta có cái nhìn khái quát về bản chất của huệ. , ở câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây.

Hình ảnh “khuôn mặt chữ điền” dùng để chỉ khuôn mặt nhân hậu, hiền lành và đây cũng là cách tác giả thể hiện tính cách của người con gái xứ Huế. ẩn sau vẻ đẹp ấy là chi tiết “lá tre nằm ngang” gợi lên sự e thẹn, rụt rè. của cô gái đến từ xứ sở mộng mơ. như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên, người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh làng quê hùng vĩ. vùng đất nơi đây không chỉ hiện lên vẻ đẹp tinh túy mà còn có cả những con người tài hoa.

đến với khổ thơ thứ hai, độc giả tiếp tục được chứng kiến ​​những nét vẽ do “nhà thơ” vẽ nên.

“gió cuốn theo gió, mây theo mây, nước buồn, hoa ngô đung đưa… con tàu nào trên sông trăng, đêm nay có chở trăng về được không?

Mở đầu khổ thơ thứ hai, hán tự mở rộng không gian phố thị bằng những hình ảnh nhìn từ trên cao xuống. ở đây tác giả đã rất tinh tế trong việc sử dụng đồng thời biện pháp cấu tạo câu và ám chỉ. “gió” và “mây” được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải là cảm giác lưu luyến mà là sự chia lìa. bởi vì gió có cách của nó, những đám mây có cách khác.

nếu câu đầu tác giả nói về sự chia ly nhưng gián tiếp thì câu tiếp theo lại nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng u uất bằng động từ “buồn”. “Buồn” là tâm trạng u uất, có chút cô đơn, nhân vật mang tâm trạng này là “nước”. Sử dụng kĩ thuật nhân hoá, tác giả đã so sánh dòng nước với một sinh vật đang suy nghĩ và ủ rũ. khung cảnh lúc này thay đổi đáng kể từ trong sáng sang hoài cổ.

“Hoa ngô đồng nở” có thể là một sự rung động khi một cơn gió thoảng qua làm cho nỗi buồn và sự cô đơn trở nên rõ ràng hơn. không gian ở phía trên ngay lập tức được hạ thấp để làm cho hình ảnh sống động hơn. Dụng ý của tác giả thực sự xuất sắc khi để nỗi buồn của thiên nhiên xuất hiện trước, khiến người đọc tò mò, suy ngẫm, sau đó tác giả đưa ra những chiêm nghiệm của con người.

“Con tàu của ai đã cập bến sông trăng, liệu người ấy có thể đưa mặt trăng trở lại đêm nay không?”

Nếu câu hỏi tu từ của khổ thơ đầu là một lời trách móc thì khổ thơ này lại chứa đầy nỗi buồn và một chút ngậm ngùi. hình ảnh ẩn dụ “con tàu”, “bến tàu” xuất hiện cùng với hình ảnh “sông trăng”. dòng sông nước hoa lúc này ngập tràn ánh trăng, khiến cả vùng sông ngập trong ánh vàng.

Câu hỏi cuối khổ thơ như thể tác giả đang tự hỏi chính mình. bài thơ đã thể hiện nỗi xót xa khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ trăng trở lại trong thời gian không. câu hỏi khiến cả khổ thơ chìm nghỉm! nhà thơ buồn vì số phận ngắn ngủi, vì giấc mộng chưa dứt. đó là tất cả! như khi đến khổ thơ thứ ba, tác giả vẫn đang sống cho ước mơ của mình

“mơ thấy khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá không thấy đâu đây sương mờ nhân gian, ai biết tình ai giàu”

lần này tác giả sống trong tưởng tượng của mình. hình ảnh khách đường xa được nhấn mạnh hai lần đã phần nào nói lên nỗi nhớ nhung, nhớ nhung của tác giả. Theo một số tài liệu, khi làm thư ký tại quy nhon, han mac, bạn đã thầm thương trộm nhớ một cô gái người Huế tên là Hoàng thị kim cúc, con của chủ quán.

một thời gian sau, nhà thơ đi làm báo ở Sài Gòn, khi trở về Quy Nhơn, gia đình cô sống lại (Huệ). Trong thời gian nữ sĩ bị bệnh, theo gợi ý của một người bạn, bà. daisy đã gửi cho nhà thơ bức ảnh cô mặc áo dài trắng cùng với hình ảnh sông, nước, bến tàu, con thuyền.

Khi nhận được bức tranh đó, nhà thơ rất vui. chính vì vậy mà hình ảnh “áo bạn trắng quá” quay lại với áo trắng mà hoàng thị kim cúc chụp, tuy nhiên màu trắng thì “không thấy đâu”. Có một số giả thuyết cho rằng khi tác giả bị bệnh thì mắt của ông đã yếu nên mọi thứ có thể không rõ ràng. vậy màu trắng này có gì lạ hay nó bị giảm đi?

“sương khói đây rồi, ai biết tình ai dạt dào”

Dòng thứ ba của khổ thơ cuối mô tả chính xác không gian màu sắc. với cánh đồng bao quanh bởi sương mù và khói, màu trắng xóa ấy đã làm mờ đi mọi thứ, kể cả “hình ảnh con người”. con người dường như đang ẩn sau màn sương đó. tác giả như lạc vào một thế giới thần bí, nơi khó có thể nhìn rõ mọi thứ đằng sau “bức màn trắng”.

và có lẽ ý nghĩa, tình cảm của tác giả được tóm gọn trong câu thơ cuối. nó vẫn là một câu hỏi tu từ “ai biết tình ai giàu?”. nhà thơ hỏi người mà như tự hỏi tình yêu ấy có còn “bền chặt”, trớ trêu như ngày xưa không, người xưa còn tình cảm xưa và tự hỏi mình là ai mà người ta còn để ý đến. đó là cảm giác đó vẫn còn, và mọi người vẫn có một chút trái tim của riêng mình.

họ đều là những người lạ! Thông qua việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, linh hoạt như điệp ngữ, điệp ngữ, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp tận mắt chứng kiến ​​cây nêu. nhà văn tài ba đã vẽ nên những đường nét uyển chuyển của bức tranh một cách sống động và cảm động nhất. với bài thơ “đây vi da”, han mac tu đã đưa người đọc đến với không gian mộng mơ của xứ Huế. cụ thể là đến giai đoạn của ngôi làng cuộc sống.

với khung cảnh nên thơ trữ tình cùng với tình yêu tha thiết, nhung nhớ tác giả đã thổ lộ tình cảm của mình với người con gái xứ Huế mà tác giả thầm thương trộm nhớ. tình cảm đó thật trớ trêu, thủy chung nhưng khắc khoải, lo lắng cho “người xưa” vẫn giữ tình cảm xưa. cảm xúc ấy còn mãi và trở thành câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và người đọc.

phân tích bài viết đây là thị trấn vi da – mẫu 8

Bài thơ này ra đời vì một lý do rất đặc biệt. Khi han mo tu lâm bệnh nặng, chờ đến giây phút cận kề cái chết trong trại phong quy hoa, quy nhon, nhà thơ bất ngờ nhận được một tấm bưu thiếp từ người bạn gái của mình, Hoàng thị kim cữu, từ thị trấn vĩ đại. tấm bưu thiếp đó có cảnh sông nước, đêm trăng, con thuyền và bến đỗ. ngược lại kèm theo một số lời chúc để an ủi nhà thơ hiện đang mắc bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường, bưu thiếp chỉ là một mối quan hệ xã giao, nhưng đối với han mac tu nó lại mang một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. nó đã cho nhà thơ yêu người trong mộng bằng một tình yêu sâu nặng trong tim. nhờ đó, tuyệt tác “ở đây là làng sống” đã ra đời. khổ thơ đầu tiên mở đầu bằng câu hỏi của một cô gái.

“tại sao bạn không trở lại và chơi trong thị trấn?” thực chất đó là lời trách móc tình yêu, nỗi niềm thể hiện nỗi nhớ mong của cô gái phố thị. nhưng trên thực tế không có cô gái nào trực tiếp giao dịch với han mo tu. những lời dịu dàng và yêu thương đó là những từ trên tấm bưu thiếp đó, nó chuyển động, nó trở nên sống động, nó trở thành một giai điệu và nó cất lên tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai, chúng ta vô cùng bất ngờ vì lời nói mới cất lên, tiếng han mac tu đã hiện diện ngay trong không gian làng quê vi da. rõ ràng đây là một chuyến đi trong tâm trí. “hãy nhìn vào mặt trời và mặt trời mới sẽ mọc”

Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. một mặt trời trần trụi được miêu tả là “nhìn mặt trời trên cau” và một mặt trời trong lành, mát mẻ đã khiến nhà thơ cất tiếng khóc chào đời như một đứa trẻ “mặt trời vừa mọc”. đây không phải là mặt trời mà chúng ta nhìn thấy hàng ngày. đây là một loại mặt trời rất mới vì nó xuất hiện vào lúc bình minh. thắp sáng trên cây cau.

Từ trước đến nay, mọi người cho rằng quan điểm của han mo tu là từ xa đến gần. khách du lịch có thể nhìn thấy mặt trời từ trên cây cau và càng đến gần vườn, du khách càng thấy màu xanh của cây cối. Trên thực tế, nếu anh ấy tỉnh táo trở lại, thì không cần phải đi dạo như vậy.

ánh mắt của han mo tu cao trên khu vườn làng. nhà thơ đang xé toạc bầu trời đen để ngắm bình minh huyền ảo từ làng vi da. không gian nơi có người anh yêu là vườn địa đàng, nơi ẩn chứa bao điều kỳ diệu cổ tích. Trở về thị trấn là để trút bỏ những đau thương, muộn phiền. do đó, lương tâm của han mac tu đã cập bến vườn làng.

“vườn ai xanh như ngọc” có hai nghĩa là xúc động và ngạc nhiên. có “vườn ai mềm quá” và cũng thấy rằng “mềm” là “xanh như ngọc”. ai cũng trẻ, ai cũng xanh, từng chiếc lá ở đây xanh như ngọc. Nó không chỉ cho chúng ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho chúng ta cảm giác như sự va chạm của những chiếc lá ngọc. “lá tre che mặt chữ”.

Dòng cuối cùng của khổ thơ đầu tiên là một dòng có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “khuôn mặt phụ” chính là khuôn mặt của cô gái rủ Hàn Mặc Tử về làng chơi. bởi vì “khu vườn của ai” là khu vườn của tôi, thật hợp lý khi nhìn thấy khuôn mặt của tôi trong khu vườn đó.

nhưng nhà thơ che lan viên, bạn của han mac tu, rất không hài lòng với cách hiểu này, ông cho rằng phông chữ có thể không xấu nhưng đó chắc chắn là một khuôn mặt không theo tiêu chuẩn cái đẹp của người Việt Nam. .men khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến ​​cho rằng “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của các ngôi nhà ở làng vi.

Thực sự, nếu đọc thơ Hàn Quốc, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều hình ảnh và thế giới kỳ lạ. việc các nhà thơ tìm thấy chính mình cả trong quá khứ và tương lai là điều rất bình thường. Vì vậy, dù khó tin nhưng tại đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại một khuôn mặt chữ điền khi còn là một thanh niên tài hoa nổi tiếng ở Huế.

một nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong sáng, thanh thoát, nồng nàn thì phải quay về với con người của quá khứ, phải là nhà thơ yêu thời gian trong sắc màu. nói đúng ra, nhà thơ muốn quên mình ở hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu thương. hình ảnh “lá tre nằm ngang” càng tô đậm thêm vẻ phong trần, ung dung tự tại của người đàn ông. lá trúc trong quan niệm xa xưa là biểu hiện của người đàn ông lịch lãm.

nếu khổ thơ đầu cho ta ấn tượng về buổi sáng, thì khổ thơ thứ hai cho ta ấn tượng về buổi chiều trong một không gian vắng vẻ bên ngoài làng quê của cuộc sống và sau đó là đêm với cảnh sông thuyền đầy ánh trăng. bốn dòng gợi cho ta một chút gì đó về cảnh sắc nhưng thực chất tất cả những hình ảnh đều tồn tại trong mối quan hệ nghịch lý và phi tự nhiên. “gió theo gió, mây theo mây.”

Câu thơ thứ hai không chỉ là một nghịch lý mà còn là một sự trớ trêu. Đương nhiên, khi bông hoa ngô di chuyển, bề mặt của nước sẽ gợn sóng. tuy nhiên, ở đây chỉ có hoa ngô di chuyển bằng chân để nước tự chảy. Thà xa mặt mà lòng như mây gió, còn hơn ở cạnh nhau mà cho ta nhiều đắng cay.

Nếu ở khổ thơ đầu tiên, chúng ta cảm thấy một tình yêu tuyệt vời sắp chớm nở thì ở khổ thơ thứ hai, chúng ta tìm thấy một câu chuyện tình yêu tan vỡ. Qua lời ngụ ngôn, Hàn Mặc Tử cay đắng từ chối người đã mời mình về thăm thôn Vĩ. anh ta là một kẻ ngoại tình từ bỏ những lời hứa của mình, làm tan nát trái tim của một người yêu ngốc nghếch và không nghi ngờ.

Người tình trong mộng của han mac đôi khi bạn mời và chuẩn bị một thế giới yêu thương chờ đợi, đôi khi trở thành một người tình rất lạnh lùng và tàn nhẫn. và đột nhiên người đó đột nhiên xuất hiện thật nhân từ và rộng lượng.

<3

hình ảnh vầng trăng trong thơ ca han xuất hiện rất nhiều. vầng trăng vĩnh cửu là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Do khát khao hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử đều đầy ánh trăng: Bến trăng, Sông trăng, Con tàu chở trăng, Người chở trăng.

Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời han mac tu đến thăm làng của vi. ông đang dựng thuyền trên bờ sông mong đón được nhiều ánh trăng hạnh phúc và đêm nay sẽ đưa vầng trăng về với nhà thơ. đó là tình yêu cao cả, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của han mac tu.

Nhưng từ “kịp thời” ở đây đặt ra một câu hỏi: liệu anh ấy có thể đưa mặt trăng trở lại đúng giờ vào tối nay không? có thể là kíp và có thể không đúng giờ … đêm nay là một khái niệm thời gian ngắn. han mac bạn biết rằng cuộc đời mình chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi trên đời, sẽ có người mang lại hạnh phúc cho thi nhân, nhưng nếu đến muộn thì hạnh phúc đó cũng vô nghĩa.

“Mộng khách phương xa, khách phương xa” ở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ rất đặc sắc. khách đã là khách lạ rồi, nhưng nhà thơ cũng lặp lại hai lần cái lạ ấy: “khách phương xa, khách phương xa”. Tuy nhiên, tôi đã mơ thấy vị khách vô danh đó. Thực ra đây là người đã mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ, nhưng nhà thơ hiểu rằng người này hết cách. người đó ngày càng xa lánh và không thể tự nuôi sống bản thân, vì vậy anh ta ngày càng dựa dẫm vào giấc ngủ. bạn có thể thấy tình cảm này trong các bài thơ Hàn Quốc khác:

“người ra đi chưa giữ lại được tình yêu, tình yêu chưa lấy đi một nửa tâm hồn của em, đã mất đi một nửa tâm hồn vì dại khờ.”

Khi anh ấy muốn tìm thấy tình yêu trong mơ của mình để sống những giây phút cuối cùng của cuộc đời một cách có ý nghĩa, trạng thái tâm trí của han mac tu luôn có những đối cực. lúc đầu với hy vọng và sau đó là sự trách móc khi coi người mình yêu là kẻ ngoại tình; Ngay sau đó, nhà thơ thấy cô gái mời chàng về thăm làng của chàng rất mực son sắc, sẵn sàng xếp chung một chiếc thuyền để chờ ánh trăng hạnh phúc đến với chàng.

khi đó, han mo tu tuyệt vọng nhìn người yêu như một “lữ khách phương xa”. nhưng ngay sau đó, nhà thơ thấy người đã trở về với mình, cô gái hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. đại từ “em” thật giản dị, gần gũi: “áo em trắng quá.”

câu thơ vừa thắp lên hy vọng, nó đã cho han mo tu một cảm giác tuyệt vọng. “Áo sơ mi của bạn quá trắng”, đáng lẽ tôi phải nhìn thấy bạn rất rõ ràng. Nhưng áo sơ mi của bạn càng trắng, tôi càng ít nhìn thấy nó. Thực sự, tôi không dám nhìn bạn vì bạn quá trong sáng, sắc sảo …

phức tạp khi yêu là một quy luật. mà tôn sùng để rồi mặc cảm như một kẻ lạnh lùng, là do nguyên nhân của chính cuộc sống của mình. nhà thơ hiểu rõ hoàn cảnh thực tại của mình nên dù nhân vật “em” có trở về với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. han mo tu phai lam sao de co duoc tinh yeu cua minh. câu thơ thứ ba nhuốm màu bi quan của một triết lý nhân sinh: “đây sương mờ mịt”. nguyen gia thieu từng viết:

<3

cuộc đời con người là một guồng quay, chúng ta không thể kiểm soát được vận mệnh của chính mình. trong mối quan hệ của chúng ta với những người khác, chúng ta chỉ có thể nắm bắt được “hình ảnh”, nhưng không thể nắm bắt được bản thân người đó. han mac em cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng bản thân không thể chủ động, không thể nhìn rõ hình bóng người yêu.

nhà thơ hiểu rằng khói lửa cuộc đời đang xóa nhòa đi “hình tượng” của nhân vật “em”… đó là một nhận thức chua xót và đáng thương, nó để lại một khoảng trống như sa mạc trong tâm hồn khỏi cái lạnh giá mà cái chết mang lại. . chính điều này đã khiến nhà thơ phải thốt lên một câu hỏi tuyệt vọng, vô vọng, không còn nơi bấu víu: “ai biết tình ai giàu?”.

Hai đại từ “ai” trong câu này tạo ra nhiều cách hiểu: Không biết bạn có hiểu được tình yêu của chính mình có bền chặt hay không? Tôi không biết bản thân anh ấy có biết tình yêu của chính mình mạnh mẽ như thế nào không. Em có biết tình yêu của anh mạnh mẽ như thế nào không? Bạn có biết rằng tình yêu của tôi rất bền chặt?

một câu hỏi bằng thơ nhưng ẩn chứa rất nhiều câu hỏi, càng hỏi càng “mờ”, càng trở nên tuyệt vọng. tình yêu chân thành càng phong phú bao nhiêu thì tôi càng thấy tuyệt vọng với tình yêu tan vỡ bấy nhiêu. do đó, cảm hứng chính của “đây là con người của cuộc sống” là cảm hứng đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng.

mọi tuyệt vọng đều khiến người ta bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của han mac tu dạy cho chúng ta những giá trị nhân văn cao cả. nhà thơ gắn bó với cuộc đời này bằng tình yêu, cho dù đó là tình yêu tuyệt vọng. chúng ta không thấy mình trong hoàn cảnh bi đát như han mac tu, vì vậy chúng ta cần biết cách sống, cách yêu thương trong cuộc sống trần gian tươi đẹp đáng sống này.

phân tích bài đây là làng sống – văn mẫu 9

Khi đặt tên cho phong trào thơ mới, Đỗ lai thúy đã gọi đó là “loại nấm lạ trong dòng họ văn hóa dân tộc”. cái “lạ” của thơ mới thì có người biết, có người không, nhưng cái “lạ” mà nhà thơ Hàn sử dụng khi bước vào làng thơ thì hẳn ai cũng biết.

Những bài thơ điên rồ đầy ý tưởng về hồn, trăng và máu chưa bao giờ thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn và đọc thơ Hàn. nhưng không ai có thể ngờ rằng giữa một rừng thơ huyền ảo và lạ lùng ấy lại mọc lên một loài hoa trong sáng và thuần khiết, vẫn phảng phất những hương thơm của cuộc đời. loài hoa ấy được mệnh danh là “thị trấn đời người” ấy, nó chứa đựng bao cảm xúc và nỗi nhớ về một miền quê mà tôi đã từng rất gắn bó …

bài thơ chỉ có ba khổ nhưng là sự tích tụ của biết bao hoài niệm, bao nỗi nhớ nhung, bao nỗi hoài nghi, tuyệt vọng. Bài thơ gắn với câu chuyện tình yêu giữa chàng thơ và cô gái xứ Huế tên là Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau khổ nhất của cuộc đời, anh nhận được hình ảnh sông nước xứ Huế trong một đêm trăng, lại nhận được thêm vài dòng thư của người con gái anh từng thầm thương trộm nhớ. bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm trí tôi từ đó mà những bài thơ hay nhất lấy cảm hứng từ xứ sở mộng mơ bừng lên nỗi nhớ …

bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi ý nghĩa từ giấc mơ và thơ huệ. không phải là một chuỗi những câu hỏi day dứt và đau đớn như những câu hỏi mà chúng ta vẫn thường tìm thấy:

em còn đây hay đâu đây, ai đã đưa em về phương trời thăm thẳm, sao hoa phượng nở màu máu rơi giọt ngọc vào tim em?

Câu hỏi được đặt ra ở đây đồng thời là một lời mời, một lời hỏi thăm, một lời trách móc, một lời than thở: “sao anh không về phố chơi?”. là cô gái để hỏi? hay bạn muốn hỏi? dù là gì đi chăng nữa thì điều quan trọng nhất mà chúng ta thấy ở đây chỉ là sự nghiêm trang, xúc động của nhà thơ khi trở về miền đất nhiều kỷ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng.

câu thơ chơi với sáu biện pháp bằng nhau và tăng lên ở biện pháp cuối cùng cũng đủ để khơi gợi trong lòng người đọc những cảm xúc khó tả. nó là “không trở lại” không phải “không trở lại”, nó là “chơi lại”, không phải “thăm”. nếu chúng ta đọc kỹ, suy nghĩ sâu sắc, chúng ta sẽ thấy một câu thơ chứa đựng nhiều ý tưởng.

“Tôi chưa quay lại” có nghĩa là tôi sẽ quay lại lần nữa, “thăm” nghe rất lạ. Đứng ở vị trí của một người con từng rất gắn bó với Huế, Hân đã dùng chính tâm tư của mình để viết nên những câu thơ sau. Khung cảnh vườn làng hùng vĩ hiện ra, bừng lên màu xanh và ánh sáng chói lóa:

<3

Ấn tượng sâu sắc nhất mà đoạn thơ để lại là không gian ngập tràn ánh nắng. không phải “tia nắng” trong làn khói mơ, không phải “tia nắng” dọc bờ sông trắng xóa, nắng ở đây, “nắng mới”, không huyền ảo, không đậm nét, đó là vẻ đẹp thuần khiết và trong trẻo đến lạ kỳ. >

nắng dội xuống cây cau, cây cau ngước lên đón nắng dịu, sương chiều tưới vườn xanh, sáng nay em được tắm nắng mới. “dịu dàng” thức dậy trong vườn, “viên ngọc” được so sánh với màu xanh, gợi lên biết bao nhiêu sắc thái. Đồng thời gợi màu sắc và sức gợi, trong sáng và trong sáng. mọi người ngạc nhiên trước cảnh vườn làng mà họ từng biết nay trở nên rõ ràng một cách kỳ lạ.

Nhớ đến phố phường vi vu cũng là nhớ đến những nét thân thương của con người nơi đây. nhà thơ không tả, chỉ gợi, với lối viết cách điệu, nhà thơ cũng đủ cho ta cảm nhận về con người chân chất, dịu dàng của xứ Huế, một cô gái Huế duyên dáng, nữ tính, lấp ló sau bức mành tre soi gương. Thật là muôn màu muôn vẻ, chúng ta đã thấy bóng dáng ấy trong câu ca dao khe khẽ:

thôn vi da, thôn vi da, phủ tre không phải buồn mà say.

Nét vẽ thanh thoát, tình cảm tinh tế, gợi lên một hồn thơ thánh thiện, sâu nặng tình yêu với mảnh đất thân yêu. chúng ta có thể tìm thấy tình yêu đối với đất nước của chúng ta ở đâu? đôi khi tình yêu bắt đầu bằng những ấn tượng thật ngọt ngào và đời thường. Hóa ra không phải chỉ có hoàng cung, không phải chỉ có Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. han cũng đóng góp cho Huệ một số bài thơ chân thành đầy tình cảm …

nhưng chẳng lẽ không nhắc đến sắc hương mà quên mất cảnh đêm trăng đã trở thành linh hồn của chính nơi đây? Nắm bắt được cái hồn độc đáo ấy, nhà thơ đã đưa ánh mắt người đọc đến một không gian khác, vờn gió với mây, lặng mình theo dòng nước:

<3

một hình ảnh gợi lên nỗi buồn, hình ảnh gợi lên nỗi sầu muộn. gió thổi mây bay nhẹ, hoa ngô đồng khẽ lay, dòng hương êm đềm. sự xuất hiện của màu sắc trong những thập kỷ trước gần như giống nhau. không khí tĩnh lặng của thủ đô cũ được ghi nhớ qua một vài nét chấm phá. nhưng hãy cố gắng đọc kỹ và nhìn lại phía sau câu thơ để xem còn bao nhiêu ý nghĩa nữa.

Thực ra, đây không chỉ là hình ảnh bên ngoài, nó là hình ảnh của tâm trạng, là giai điệu của tâm hồn. vừa nghe rõ cái nghịch lí trong câu thơ. bình thường gió mang mây bay, ở đây mây gió ngả nghiêng, như không thể chung lối. cảnh đã nội hóa, thấm đẫm cảnh chia ly. đến nỗi nỗi buồn đã được đặt cho một cái tên: “nỗi buồn”. hai chữ “buồn” đã cô đọng nỗi buồn của con người, của nhân duyên đã tê tái. thấp thoáng câu ca dao xưa:

ai sắp trồng dứa vì gió và lau sậy làm tôi buồn?

nhưng không hiểu sao nỗi buồn đã chiếm lấy tâm hồn tôi, hay tại sao tôi không kiềm chế được vì không kiềm chế được mà đến hai câu thơ tiếp theo, khung cảnh trở nên thật hư ảo:

Con tàu của ai đã neo đậu ở bến cảng đó trên sông trăng có thể đưa mặt trăng trở lại đêm nay?

Con tàu, mặt trăng và bãi biển không phải là lần đầu tiên chúng xuất hiện. thơ cổ ai đó đã viết:

<3

nhưng điều khác biệt ở đây là nhà thơ không đứng nhìn trăng, nhìn sông mà chìm vào cảm giác hư ảo. trăng hiện lại, nhưng không phải là “trăng ngọc trăng vàng”, “trăng nằm trong sóng”, mà là vầng trăng huyền bí tan trong nước. trong cảm giác mơ hồ của nhà thơ, sông trở thành sông trăng, tàu thành tàu trăng, bóng người cũng thành bóng trăng.

tất cả đều trống. vầng trăng ở đây mang theo nỗi băn khoăn, lo lắng, tiếc nuối trước nỗi đau bị cắt rời thực tại. nỗi lo lắng và mong muốn bấu víu vào thời gian ấy thể hiện rõ nhất ở từ “kịp thời” và câu kết. câu hỏi nghèo nàn.

chúng ta thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian chạy từng bước, nhưng cuộc chạy đua không phải để tận hưởng vẻ đẹp tối đa của cuộc sống như mong muốn của thanh xuân, mà chỉ để tận hưởng nó ở mức tối thiểu: nghĩa là được sống. thực tế đơn giản là có thể sống là đã thỏa mãn rồi. trong câu thơ là bao nhiêu trăn trở, cũng bao nhiêu khát khao. tính nhân văn của bài thơ cũng ở đó: hãy sống trọn vẹn mỗi ngày khi bạn vẫn còn sống.

Niềm khao khát tình yêu và tình người của nhà thơ được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ thứ ba, khi thế giới đã trở về với thực tại, hoàn toàn chìm đắm trong miền đất của những giấc mơ:

mơ thấy khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá chẳng thấy đâu đây sương mờ, ai biết tình ai giàu?

Chữ “mơ” được đặt ở đầu, chơi vơi, rồi tiếng gọi “du hành phương xa” đầy xao xuyến, mang theo bất lực, hụt hẫng, để lại bao nỗi niềm. thân ảnh của vật hiện lại, như rời xa cánh tay cơ hàn, đi đến một cõi xa xăm không thể chạm tới. người con gái mặc áo trắng tuyệt trần, trinh trắng vô bờ bến, cả đời tôn sùng, nay đã trở nên nhu nhược, khó có thể duy trì được. mọi thứ dường như mờ hơn: sương mù ở đây có hình người.

không gian mờ ảo, lạnh lẽo, mờ ảo trong sương, huyền bí trong ảo ảnh. nó lấn át cả ý thức và tiềm thức, buộc con người rơi vào trạng thái tê liệt. nghe câu hỏi băn khoăn cuối cùng: “ai biết tình ai giàu?”, ta chợt nhận ra, hóa ra nhà thơ đã chờ đợi, khao khát đó, đó là tình người, tình người. cuộc sống.

cuộc đời của nhà thơ vốn dĩ đã bất hạnh, đến cuối đời chỉ mong tìm được một mảnh ghép của tâm hồn mình. han mo tu của chúng ta không hề “dị” như nhiều người vẫn nói. anh ấy có một trái tim rất con người, anh ấy có những tình cảm rất con người mà có lẽ nhiều năm sau, nhiều người vẫn sẽ nhận ra anh ấy.

bài thơ giống như một bài ca ngắn về tình yêu và khao khát, hướng về một khu vườn, cũng hướng tới một mảnh đời. cái độc đáo của bài thơ còn được tạo nên trong nghệ thuật của phong cách riêng của han mac tu. Với những hình ảnh tượng trưng đầy ẩn ý, ​​với những câu hỏi tu từ chia thành các khổ thơ với ý riêng và lối hành văn cách điệu xen lẫn thực ảo, “phố đời này” xứng đáng là một bài thơ. sản phẩm có từ ngữ đẹp và trong sáng nhất. .

“trong tương lai, những thứ tầm thường sẽ biến mất, và những gì còn lại của thời kỳ này là một chút đáng kể, nó lạnh.” những lời trân trọng mà bạn tôi lan viên gửi đến han đã thay mặt cho những gì han để lại cho đời. luôn luôn như thế này.

phân tích bài viết đây là thị trấn vi da – mẫu 10

han mac tu – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn tràn đầy yêu thương đã thổi bùng lên những vần thơ và những tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. những lúc buồn vui, những giây phút anh thả hồn vào thơ, những giây phút anh chắt lọc, thăng hoa từ nỗi đau tâm hồn để viết nên những vần thơ tuyệt vời. và bài thơ tình người này đã ra đời trong những khoảnh khắc tuyệt vời ấy. trong bài thơ, tình yêu trong sáng, nồng nàn hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, tình riêng thủy chung, bài thơ vẫn đượm buồn.

thị trấn này là một trong những bài thơ tình hay nhất của han mac tu. một tình yêu tha thiết, đầy u uất ẩn hiện giữa cảnh sắc thiên nhiên, hòa quyện trong lòng người, giữa thực và mơ, ảo và cụ thể. mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng đối với nhân vật trữ tình.

tại sao bạn không trở lại thị trấn chơi? chỉ là một câu hỏi! một câu hỏi của một cô gái quê mùa nhưng đầy yêu thương và mong chờ. câu thơ như bao lời trách móc như một sự ăn năn của người con gái đối với người yêu vì đã không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, nồng hậu của một vùng quê ngoại thành đẹp và thơ mộng. Hãy cùng chú ý quan sát và thưởng thức vẻ đẹp của thị trấn:

Hướng mặt trời, vườn xanh đến mức lá tre che mặt chữ điền.

nét độc đáo của thôn vi: quê hương của cô gái gợi ý ở câu đầu đã được miêu tả rõ nét. một hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên mở rộng ra trước mắt người đọc. hình ảnh ông mặt trời tưới những cốc cau đẹp đẽ tràn đầy sức sống. mặt trời mới là nắng ban mai của một ngày, hàng cau cao vút vươn mình đón những tia nắng đầu tiên, vạn vật tràn ngập nắng vàng bình minh. tại sao nắng mới mang lại cảm giác quê hương đó? dòng này chợt làm ta liên tưởng đến những dòng quen thuộc của bài thơ xuân.

nắng xuân trong lành trên thân dừa xanh mềm, đuôi cau non soi gươm xanh. ánh sáng chiếu vào quả non màu trắng và xuyên qua lá của cành chanh. new sun còn có nghĩa là mặt trời của mùa xuân, của khởi đầu của một năm mới nên luôn tỏa sáng nồng nàn.

đó là những tia nắng đầu tiên buông xuống thị trấn, nhưng trước đó chúng đã chiếu trên cau, làm cho những giọt sương đêm tỏa sáng lấp lánh như những viên ngọc được đính trên một lớp nhung xanh mỏng: một khu vườn như mịn như ngọc.

Ánh mắt như muốn chạm nhẹ vào màu sắc của sự vật rồi vỡ òa ngạc nhiên. Đến câu thơ này, ta thấy mình với cái nhìn của thi nhân đã hạ thấp và giãn ra về biên độ. một không gian xanh mướt của khu vườn hiện ra, ta nhắm mắt lại là hình dung ngay đến màu xanh mướt, béo ngậy của khu vườn. Chúng ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp màu xanh ở đó mà còn tràn đầy sức sống.

Lá cành bị sương đêm gột rửa biến thành lá ngọc. Không phải là xanh mềm, không phải xanh béo mà chỉ có màu xanh ngọc bích mới lột tả được vẻ đẹp bao la và sức sống của khu vườn. màu xanh lục nhạt quý phái, tươi sáng và nhẹ nhàng làm cho khu vườn trở nên rực rỡ hơn.

Dường như cả khu vườn được tắm mình trong không khí se lạnh của vẻ trinh nguyên nguyên sơ chưa vấy bụi. lăng kính không khí đó hiển thị rõ ràng hơn các vạch màu của cảnh mà mắt thường của chúng ta bỏ qua. nếu không có một tình yêu sâu sắc và nồng nàn với wei da, han mac tu đã không thể có được những vần thơ trong sáng như vậy. Bất cứ ai sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt là xứ Huế, đều chỉ thấm thía câu ca dao này: Lá tre che mặt chữ điền.

trong vườn trúc vi da, lá trúc và khuôn mặt chữ điền có mối quan hệ bất ngờ như mỹ miều: lá tre mỏng mảnh che mặt chữ điền. khuôn mặt lấp ló: khuôn mặt ấy ngày càng lộ ra sau những tán lá tre mơ màng và hư ảo.

Thị trấn Vĩ Dạ nằm ngay bên dòng sông Hương hiền hòa. do đó, từ đoạn tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu tiên bộc lộ tình yêu, tác giả đã tiếp tục miêu tả cảnh sông nước với nỗi sầu muộn, nhớ nhung, da diết như trong một giấc mơ:

gió cuốn theo gió, mây bay theo mây nước buồn hoa ngô đồng trói sông trăng đêm nay có đưa trăng về được không?

gió và mây để gợi nỗi buồn vì trôi, lang thang, nay còn buồn hơn gió cuốn theo gió, mây bay theo mây, gió cuốn mây bay xa; họ không thể là bạn đồng hành, họ không thể gặp nhau, và sự xa cách của nhà thơ với người yêu của mình có thể là vĩnh viễn. đây là nỗi niềm của thi nhân trong nỗi nhớ phương xa và đây cũng là lỗi của người xưa trong cuộc đời.

Nỗi buồn chia tay đọng lại trong lòng mỗi người một nỗi buồn man mác, hụt hẫng. Chúng ta không còn thấy giọng văn tươi tắn, sôi nổi của đoạn trước, chúng ta gặp lại han mac tu, một tâm hồn u buồn, sầu muộn: nước buồn hoa lá đung đưa

buồn làm sao dòng sông hương hiện ra với những bông ngô đồng xám xịt, ảm đạm như màu khói. với tâm hồn mạnh mẽ như han mo tr, sông trôi của huệ chỉ là dòng sông buồn gợi cảm giác buồn, cô đơn. những bông hoa ngô đồng cũng khẽ đung đưa trong một nỗi buồn xa xăm. thay đổi tâm trạng là thái độ của những người sống trong vòng quay tăm tối và trì trệ của cuộc sống.

mặt nước sông hương êm đềm gợi về những bến bờ xa xôi, những mảnh đời trôi nổi của con người. tâm trạng vui – buồn mà buồn nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở những thi nhân lãng mạn khác cùng chung sống với đại hán. ý thơ buồn quá, tiếp tục ở hai câu tiếp theo nhưng với cách diễn đạt thì tuyệt vời, thật mà lại là mơ:

Con tàu của ai đã neo đậu ở bến cảng đó trên sông trăng có thể đưa mặt trăng trở lại đêm nay?

mọi thứ dường như tan biến trong ánh trăng quen thuộc của han mo tu. khung cảnh thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, vầng trăng vàng rực rỡ soi bóng xuống dòng sông khiến cả dòng sông và bãi bồi trở nên sáng sủa, huyền ảo. cảnh thật thơ mộng, thật thơ mộng! và rất yêu thương nữa! dòng nước buồn đã trở thành sông trăng lấp lánh, tàu chở khách thành tàu trăng.

tác giả đã gửi gắm bao nỗi niềm nhớ nhung, nhớ nhung, khao khát vào con tàu trăng, vào cả dòng sông trăng. thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật hóm hỉnh, thật đẹp của xứ mộng mơ. tác giả đã chạm bút để viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng chứa đựng một tình yêu bao la và nồng nàn.

Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng tròn vành vạnh của thi nhân trước tình yêu trong sáng. Bạn yêu trăng rất nhiều, nhưng trăng trong các bài thơ khác thì không như vậy. ánh trăng thô ráp và rùng rợn, ánh trăng khiêu khích và tán tỉnh:

gió thổi ở tầng trên, mặt trăng lộn ngược giả vờ tan thành một vũng nước vàng.

có:

trăng tựa cành liễu, đợi gió đông về để thư thái.

mặt trăng trở thành bầu không khí bao quanh tất cả cảm xúc và suy nghĩ của han mo tu, ngoài ra, nó còn được trộn lẫn với cơ thể của anh ta. chính hắn là trời đất, hắn là người. trăng trở nên vô lượng trong thơ của nó, đôi khi vô hình, đôi khi quyến rũ, đôi khi đáng sợ:

con tàu của ai đang neo đậu trên sông của mặt trăng có thể đưa mặt trăng đến kịp thời cho tôi?

trăng ở đây là trăng vui mà con tàu không về kịp người ở bến? câu hỏi thể hiện nỗi niềm của một số phận không có tương lai. han mo tu hiểu được bệnh tình của mình nên cảm thấy tội lỗi vì khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc đời, trăng không về đúng hẹn và han mo tu không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau anh đã từ biệt cõi đời. nhưng bây giờ, mọi người sống và tiếp tục mơ ước:

mơ khách đường xa, khách đường dài áo trắng trắng quá không thấy đâu; sương khói đây rồi ai biết giàu tình ai?

trái tim khao khát tình yêu, nỗi đau của tình yêu ấy đã gửi gắm tất cả vào những trang thơ. và rồi mọi thứ dường như trôi vào giấc mơ của những giấc mơ và hy vọng. màu áo trắng cũng là màu nắng của cuộc đời mà nhìn vào, tác giả choáng ngợp, cảm thấy bị mê hoặc bởi sự trong trắng, thuần khiết và cao quý của người tình. dường như có một khoảng cách nào đó giữa những mỹ nhân áo trắng ấy và nàng thơ khiến nhà thơ không thể khuất phục:

Ở đây có sương mù, ai biết được tình yêu có bền chặt không?

Dòng tả cảnh thực tế ở Huế: kinh thành heo hút. Trong làn sương ấy con người ta dường như nhạt dần và có lẽ tình yêu cũng phai nhạt? nhà thơ không tả cảnh mà tả trạng thái tâm hồn, bao cảm xúc trong dòng cảm xúc ấy. Gái Huế kín tiếng, ẩn hiện trong sương, trở nên xa xăm, liệu khi yêu có giàu sang? tác giả không dám khẳng định tình cảm của người phụ nữ huế, ông chỉ nói: ai biết tình ai giàu?

lời bài hát giống như những lời nhắc nhở, chúng không thể hiện sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. nỗi thất vọng của một trái tim khao khát tình yêu không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. bài thơ càng hay càng đáng thương, khép lại mà lòng người vẫn thổn thức. cả bài thơ được liên kết bằng từ mở đầu: vườn ai xanh như ngọc; bên con thuyền cập bến sông trăng ấy; và cuối cùng, ai biết được tình yêu của ai là giàu có? càng làm cho “phố đây vi da” thêm sương khói và huyền bí.

“đây là phố thị” là hình ảnh đẹp về con người và đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng, yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi hình, hòa mình vào thiên nhiên với lòng người. . Suốt bao năm qua, tình yêu lạnh lùng vẫn luôn nóng bỏng, khuấy động và day dứt trái tim người đọc.

phân tích đây là làng đời sống lớp 11 – văn mẫu 11

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ mới như sau: “Cuộc sống của chúng ta nằm trong một chữ i. Mất chiều rộng, chúng tôi tìm kiếm chiều sâu. Nhưng càng vào sâu, trời càng lạnh. Tôi chạy trốn đến tiên giới và thế giới, tôi phiêu lưu vào tình yêu dài và trọng lực luu, tôi điên cuồng với han mac tu, che lan vien, tôi đã yêu ma thuật của mùa xuân. nhưng động thần tiên đóng cửa, tình yêu không bền lâu, điên cuồng rồi tỉnh, mê đắm vẫn bất lực. Tôi thẫn thờ, buồn bã trở về hồn với huy cận. ”

nếu xuân diệu luôn đắm say với những cảm xúc đắm say, khắc khoải, thi sĩ han mac tu từ gắn với cái lạ, cái điên, thì trong cái thế giới điên cuồng và xa lạ ấy, con người vẫn tìm thấy một tình yêu đau đáu, khắc khoải đối với cuộc sống trần thế, dẫu. nó đã để lại cho anh nhiều bất hạnh và nỗi buồn. làng này là một trong những bài thơ hay nhất của han mac tu, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất, hay nhất của phong trào thơ mới cũng như nền văn học Việt Nam hiện đại.

han mac tu tên thật là nguyễn trong tri, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo ở Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ năm 15, 16 tuổi. phong cách thơ của ông có sự đan xen giữa những hình ảnh quen thuộc, trong sáng, thuần khiết, linh thiêng với những thứ đáng sợ, ma quái và cuồng loạn, tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ lạ và phức tạp.

đây là làng vi da, sáng tác năm 1938 trong tập thơ điên, sau đổi tên là trau, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của han mac tu với một cô gái người Huế tên là Hoàng thị kim cúc đường. nó đã trở nên vô dụng khi cả hai cách biệt nhau về cả địa vị và địa lý.

XEM THÊM:  Trọn Bộ Nghị Luận Văn Học Tác Phẩm &quotSang Thu&quot Hữu Thỉnh

trong nỗi tuyệt vọng tột cùng ấy, han mac tu đã viết nhiều bài thơ về sự kiện này, trong đó có một bài đặc biệt “làng đời này” được viết trong lúc bệnh tình của han mei tu ngày càng nặng, nhưng anh đã nhận được bưu thiếp của người xưa, đã đánh thức niềm vui trong lòng anh, khát vọng sống vô hạn, tất cả đều được thể hiện trọn vẹn trong bài thơ này.

không chỉ vậy, thị trấn này còn là thông điệp mà han mac tu muốn gửi đến tất cả cuộc đời này, khát vọng mãnh liệt và sự nghiêm túc của nhà thơ đối với cuộc sống trần thế.

“sao anh không chơi làng nữa? Nhìn nắng mới. Vườn ai xanh như ngọc, lá tre che mặt ruộng.”

Trong khổ thơ đầu, cảnh sắc thiên nhiên làng mạc, một góc trời xứ mộng mơ hiện ra với vẻ trong sáng, thuần khiết dưới ánh nắng ban mai dịu nhẹ. câu hỏi tu từ “tại sao bạn không đến chơi trong thị trấn?” nó có âm sắc đặc biệt vì số lượng từ đều có thanh điệu, tạo cảm giác rất ấm áp, ngọt ngào và mềm mại như thể một bức màn mỏng manh vừa được mở ra và khơi gợi mạch cảm xúc thơ mộng, thơ mộng cho toàn bộ tác phẩm.

câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta trăn trở thường trực với chủ đề “anh”, đó là câu hỏi về nỗi nhớ của một cô gái quê, với ý nghĩa trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng. Tại sao chàng trai không thổ lộ trái tim mình? , rồi anh cũng định tưởng nhớ và mời người bạn cũ của mình về thăm quê hương.

hoặc cũng có thể là tiếng nói của han mac tu, vừa chất vấn vừa nhắc nhở bản thân tại sao “anh không về chơi phố” và trong đó “anh không về” có một linh cảm đau xót về một kiếp bất hạnh, trước không về được, có lẽ về sau cũng không về được, thời gian còn lại không còn bao lâu nữa, đành phải lỡ hẹn với huệ và các vị trưởng lão.

chúng ta có thể nhận ra rằng việc trở về quê hương có lẽ là nỗi lo lắng và tiếc nuối lớn của nhà thơ, đó không chỉ là nơi ông đã ở lâu mà còn có một người con gái mà ông đã sống cùng và rất yêu cô ấy, tôi không. ‘ Không biết cô ấy có đợi không, nhưng anh ấy chỉ quay sang anh ấy. sau câu hỏi tu từ chứa đựng khát khao cháy bỏng được một lần trở lại quê hương, han mac tu đã dùng những câu thơ hay để tái hiện lại khung cảnh làng quê vi da đầy thơ mộng và kỳ ảo.

Đó là cảnh nông thôn trước khi mặt trời mọc với nét vẽ mới mẻ và độc đáo, đó là vẻ đẹp của mặt trời với hai từ “mặt trời” được lặp lại trong một câu thơ “nhìn mặt trời, khi mặt trời mọc”. Cây bút han mac tu có thể nói là một cây bút tài hoa, lỗi lạc, sẵn sàng phá bỏ những quy tắc lặp lại của những điều cấm kỵ trong thơ ca để tạo nên một bức tranh với phông nền vàng nhạt, ánh nắng dịu nhẹ, hài hòa lan tỏa khắp không gian, khiến bài thơ cũng như vậy. như được tràn ngập một sức sống ấm áp và tươi trẻ.

và mặt trời ở đây cũng rất đặc biệt, đó là “mặt trời cau”, phải nói cau là biểu tượng của huệ, cây có ưu thế về chiều cao, luôn vươn thẳng và đón trọn vẹn nắng. , cả thân cây bừng lên một thứ ánh sáng xanh vàng, khiến tâm hồn con người trở nên yêu đời hơn.

rồi đến “mặt trời mới” cũng là những cảm nhận mới về hình ảnh nắng nơi phố thị không phải là cái nắng gay gắt đổ lửa buổi trưa hè, mà là cái nắng trong trẻo, tinh khôi và dịu êm hoàn toàn. tương ưng với “mặt trời cau”, nó còn mang đến một sức sống mới, như tâm hồn nhà thơ nhận tấm bưu thiếp từ một cố nhân, có lẽ nên nói đó là biểu tượng của thuở ban đầu.

dưới vẻ đẹp của nắng vàng, là vẻ đẹp của vườn huệ với một màu xanh rất “dịu” đầy sức gợi của “xanh ngọc”. Chỉ riêng từ “mềm mại” đã gợi lên sự trù phú, tươi mát và tràn đầy sức sống của một khu vườn làng xinh đẹp, đồng thời cũng gợi lên cảnh một khu vườn mới tắm trong sương sớm, nước còn nhỏ giọt, từng giọt sương trong veo lung linh trong nắng, phản chiếu những tia nắng mới làm cho từng tán lá xanh mướt tỏa sáng, gợi lên một màu xanh ngọc ngà trong trẻo, tươi mát.

câu thơ thêm một chút từ “ai” chỉ làm cho bức tranh toàn cảnh thêm xúc động, lãng mạn, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của người dân phố thị trong câu “lá tre che mặt”. han mac tu đã sử dụng lối “thơ và họa” của văn học trung đại với những nét vẽ mềm mại của lá tre rải rác, làm nổi bật những nét đậm nét trên khuôn mặt nhân hậu, đáng yêu của một cô gái. đó là gương mặt mang vẻ đẹp và phẩm chất mà mọi người vẫn mong muốn ở một cô gái, nhân hậu, trung hậu và có vẻ ngoài phúc hậu trong tương lai.

tả cảnh ban ngày trong sáng, han mac tu đưa người đọc về với cảnh đêm khuya thanh vắng, sông nước âm u, con thuyền và đặc biệt là ánh trăng, chất thơ quen thuộc trong thơ ca. Có thể thấy giữa hai khổ thơ có sự chuyển biến cảm xúc rất rõ ràng từ tình yêu sang cuộc sống, niềm vui sống như ánh ban mai, thì Hàn mac tu lại với tâm trạng hoang mang, lo lắng với cảm giác bất an. buồn như một dòng sông bao la và lạnh lẽo.

“gió cuốn theo gió, mây theo mây, nước buồn, hoa ngô đung đưa… con tàu nào trên sông trăng, đêm nay có chở trăng về được không? “

hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây, trời, sông nước trong sắc thái ngắt nhịp 4/3 như ngắt câu thơ làm đôi, tạo cảm giác hụt ​​hẫng khó tả, các từ “mây”, “gió”. ”Cung cấp khung hình trong phần đại diện của cảnh. thì dường như mây và gió chẳng liên quan gì đến nhau mà đi theo con đường riêng trong khi từ xưa đến nay mây bay theo gió là một phép màu định nghĩa điều này cho thấy rõ ràng nội tâm và những điềm xấu của han mac rằng anh đã chết trước khi sự chia ly, sự chia ly khủng khiếp, đó là sự sống hay cái chết, không phải là khoảng cách hay linh hồn nữa.

Từ dòng chảy “buồn” chậm rãi, ngập ngừng của dòng sông nổi tiếng về hương thơm trong thơ ca, nó đã trở thành một hình ảnh nhân hóa phản ánh tấm lòng đa sầu đa cảm của nhà thơ trước số phận. nhưng có lẽ “hoa ngô đồng nở” là cuộc đời của tác giả, khô héo, buồn tẻ và lặng lẽ buồn tẻ.

hai dòng tả cảnh sông nước dường như đã xóa nhòa đi con đường thơ mộng, trẻ trung, sức sống và con người của khổ thơ đầu, là sự thức tỉnh của tác giả trước hoàn cảnh nghiệt ngã của mình, trước con đường tăm tối, không màu và không mùi.

sau đó, dường như không thể chịu đựng nổi đau đớn của hiện thực lạnh lẽo, anh tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, đó là tâm sự cả đời của tác giả ở nơi hiu quạnh này. vầng trăng hiện lên thật đẹp, đó là dòng sông nạm ánh trăng vàng, con tàu chở trăng, vầng trăng đã cho tác giả hiện thân về thế giới tươi đẹp, về cuộc sống mà tác giả khao khát hoà nhập.

câu hỏi “con tàu của ai cập bến trên dòng sông mặt trăng đó / nó có thể đưa mặt trăng quay ngược thời gian vào đêm nay không?” ẩn chứa sự lo lắng của tác giả về sự hữu hạn của cuộc đời mình, lo lắng liệu mình có còn được hưởng trăng sáng hay cuộc đời còn nhiều tiếc nuối.

“mơ thấy khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá không thấy… sương khói đây rồi, ai biết tình ai giàu sang?”

niềm khao khát cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối khi đi sâu vào chi tiết khát vọng về hơi ấm của tình người, khát vọng thoát khỏi cảm giác cô đơn, lạnh lẽo, muốn được tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu thương. thế giới đã được chỉ ra bằng hình bóng của một mỹ nhân, là trong giấc mơ của tác giả, nhưng “mộng khách phương xa, khách phương xa” ý thơ được lặp đi lặp lại đã diễn tả một nỗi niềm lạ lùng, bóng dáng của một đứa trẻ. cô gái dần biến mất khỏi tầm tay của tác giả, cứ đi mãi mà biến mất đến nỗi đôi mắt u sầu của nhà thơ cũng phải khóc “áo em trắng quá không thấy đâu”.

có lẽ cuộc đời này đã xác định hai người không có chung một kết cục, chỉ có thể bất lực nhìn trần gian, bóng dáng mỹ nhân lần lượt trở nên vô hình, còn thi nhân thì ngẩn ngơ trong cô đơn sầu muộn. và khi nhà thơ không thể hòa nhập với thế giới mà mình hằng mong ước, phải trở về với thế giới của riêng mình, một thế giới “mờ ảo ảo ảo” không có nhân tính, bị cô lập, đối diện với cái chết cận kề, sắp phải rời xa thế giới mà mình vẫn hằng mong ước. Chờ đã, đó là nỗi đau không thể tưởng tượng được.

Đặc biệt, tâm hồn thi sĩ ấy mãi vướng vào một nỗi băn khoăn, trăn trở về tình cảm của người xưa, liệu cô gái ấy có từng có tình cảm với anh không, hay cô gái đó có biết một mối tình thầm kín mà anh không. .đã dám. tiết lộ trong nhiều năm. Rõ ràng người ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng nhạt nhòa của một tình yêu không thành, bởi một tấm bưu thiếp gợi lên trong lòng nhà thơ nhiều cảm xúc, nhưng cuối cùng vẫn là nỗi cô đơn, trống trải và nỗi đau khổ của một người còn nhiều tiếc nuối với thế gian. .

Tôi có thể trích vài lời trong bài thơ “điên” của han mac tu để nói về thị trấn này, đó là “nguồn sáng phát ra từ một tâm hồn đau khổ tột cùng”. chúng ta thấy một số dấu vết của một câu chuyện tình yêu vừa chết yểu. thất vọng trong tình yêu, câu chuyện ấy trong thơ chúng ta cũng chẳng kém gì, nhưng thường có gì đó buồn, tuy lay động nhưng vẫn dịu dàng. chỉ trong thơ han mo, tôi mới thấy được nỗi đau dữ dội như vậy.

thơ cũng như máu “. đọc thơ, ta thấy yêu khát khao được sống và được yêu, ta yêu đôi mắt đẹp của cuộc đời nhưng ta cũng cảm thấy xót xa cho số phận của thi nhân, một kiếp người đau đớn khiến bạn phải mac tu. không mơ ước được lâu nên cuối cùng anh vẫn phải trở về nơi lạnh lẽo và cô đơn, không người yêu, không hơi ấm tình người, chờ chết trong đau đớn và tuyệt vọng.

phân tích đây là thị trấn han mac tu – mô hình 12

han mac tu là một nhà thơ đau thương, nhưng là một trong những nhà thơ sáng tạo nhất của phong trào thơ mới. để lại trong văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “gái quê”, “thơ điên”, “chơi nửa mùa trăng” trong “thơ điên”. bài thơ là hình ảnh đẹp của làng quê đất nước và là tiếng nói của một con người chân thành yêu cuộc sống và con người:

<3

“Đây thôn vi da” được trích từ tuyển tập “thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo nhà thơ tứ tấn, một người bạn của han mac tu, bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm bưu ảnh do một cô gái quê Huế viết. gọi quà tặng hoa cúc huệ Đó là một tấm bưu ảnh đại diện cho một cảnh từ Huế với một dòng sông, một con tàu, một bến đỗ mặt trăng hoặc một cảnh bình minh. lúc đó, han mo tu đang được điều trị bệnh phong ở quy nhon. Sau khi nhận được tấm bưu thiếp và lời chúc từ cô gái Huế, anh đã xúc động viết bài thơ này.

Đoạn thơ mở đầu bằng nỗi nhớ nhung da diết về cảnh và người phố thị. một hình ảnh đẹp nên thơ nhưng tình người thì da diết:

sao bạn không chơi làng lại xem trời nắng mới trong vườn non xanh như ngọc, lá tre che mặt chữ điền?

Có lẽ, với bất kỳ ai khi đọc bài thơ này, họ sẽ bị cuốn hút ngay từ những dòng đầu tiên với những lo lắng, cả hờn dỗi và trách móc trong tình yêu. câu hỏi ấy là sự hóa thân của nhà thơ, sự hóa thân của thi nhân trong cô gái xứ Huế. chỉ là một cụm từ, một câu hỏi nhưng chứa đầy tình cảm. Sao lâu rồi anh không chơi trên cánh đồng bên bờ sông Hương thơ mộng với người con gái anh yêu? nhà thơ dùng từ “chơi” nhưng không dùng từ “thăm”.

nếu dùng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi mà trở nên sáo rỗng thì từ “chơi” gợi lên sự thân thiết, gần gũi, thân thương. trong đoạn thơ, nhà thơ đã bộc lộ cho người đọc thấy tình cảm của mình đối với cô gái xứ Huế, dù cô gái quê hương là người thương hay bản thân cô gái ấy đều coi nhà thơ như một người bạn tâm giao, một tri kỉ.

Mặt khác, sắc thái tu từ ở câu thơ đầu vẫn là một câu hỏi và một sự tự trách: tại sao huệ đẹp mà ta không về? đó là một câu hỏi đau đớn và xót xa vì việc trở về quê hương là điều không thể vì nhà thơ đang trong giai đoạn cuối của bệnh tật. nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy lại khơi dậy nỗi nhớ nhung da diết. Vì không về được nên nhà thơ cứ bâng khuâng trong tâm tưởng. ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh những con người hiện lên qua ánh mắt nghiêm nghị:

<3

Bạn có thể chiêm ngưỡng cảnh quan của thị trấn từ xa đến gần. nhà thơ đã thấy từ xa “mặt trời ló rạng, mặt trời vừa mọc”. câu thơ với sự ám chỉ “nắng” và nhịp 4/3 gợi lên một không gian ngập tràn ánh sáng trong mắt người đọc. cảnh vật được hiện lên rõ ràng, sinh động, trước tiên là vẻ đẹp của “nắng cau”. cau là cây cao, phải đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới.

nhờ đó, không gian làng vươn lên cao ráo, thoáng mát và rộng rãi. nhất là sau một đêm tắm trong sương, vỏ cau càng xanh hơn dưới ánh nắng mặt trời. cụm từ “mặt trời mọc” cho chúng ta thấy rằng đó là ánh sáng trong và sáng của mặt trời ban mai. câu thơ vẽ một hàng cau đầy sức sống vươn lên đón ánh nắng ban mai đầu tiên.

ánh nắng trong lành, tinh khiết chiếu sáng cả không gian rộng lớn, thoáng mát. Nghĩ đến làng VI, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu mùa. đối với cây cau là một hình ảnh quen thuộc với mỗi người dân làng lớn. Hình ảnh tưởng chừng giản dị, bình dị này lại có sức gợi, sức gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu xa trong lòng nhà thơ.

Nhắc đến trầu cũng là nhắc đến một loại cây rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam, nơi có tục ăn trầu từ hàng nghìn năm nay. nguyễn binh, một thi nhân, hồn quê cũng đã đặt tình yêu bình dị của đôi trai gái thôn quê trên nền thân ảnh quen thuộc ấy:

“Nhà mình có hàng cau, hàng cau nhà mình”

trong bài thơ “hoa lu”, nhà thơ trần đăng khoa đã viết:

<3

Cận cảnh, thôn vi hiện ra bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy sức sống “vườn ai xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (hãy nhớ ghi nhớ điều đó). quả là câu thơ đã gợi ra một không gian xanh mát của thiên nhiên kỳ vĩ, màu xanh non mơn mởn của cây cối khiến người đọc cảm nhận được một sức sống căng tràn và dịu dàng.

Tác giả dùng màu xanh như ngọc để miêu tả sức sống và vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên, một màu cao quý, trong sáng. Nếu không có tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người vĩ đại, có lẽ các nhà thơ Hàn Quốc đã không thể gieo vào lòng những vần thơ trong trẻo như vậy.

“khu vườn của ai”? không xác định nhưng ngụ ý là vườn của cô gái Huế. “Smooth” là một tính từ khác với “Smooth” vì “Smooth” chỉ sự mượt mà, trong khi “Smooth” gợi lên độ sáng và tươi của cảnh. xuan dieu đã viết:

“soi bầu trời màu ngọc lục bảo qua hàng ngàn chiếc lá mùa thu đến nơi mà huyền thoại vang lên”

thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. xanh ngọc có nghĩa là xanh nhạt, xanh lam gắn với ánh sáng nhưng không chói chang mà rất dịu, người đọc có thể hình dung ra vẻ đẹp của viên ngọc gắn liền với bầu trời của sắc màu. một câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời cảm thán, ngưỡng mộ, ngợi ca cũng như thầm cảm ơn chủ vườn đã chăm chút cho khu vườn đẹp nhất.

và khung cảnh làng quê đẹp hơn xưa do có bóng dáng của con người “lá tre che mặt đài phun”. vi da nổi tiếng với màu xanh của tre, một loại tre được trồng nhiều trước ngõ. trong tâm tưởng của nhà thơ, một khuôn mặt chữ điền chợt hiện ra dưới gốc tre.

lá tre mỏng, nét chữ gợi sự vuông vắn, đôn hậu. tất cả đều tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật, qua đó người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp duyên dáng của người phụ nữ Huế mà còn thấy được vẻ đẹp kín đáo, duyên dáng, e ấp, thiếu nữ tính, rất e ấp. cũng viết về con người của vi, nhà thơ bich khe viết:

“Làng vĩ đại, lũy tre làng, cần tre chẳng buồn mà say”

Khi viết về cây tre, han mac tu khong chỉ là “lá tre che mặt chữ điền”, mà còn là:

“rì rào, ai ngồi dưới gốc tre cũng nghe ý nghĩa, hồn nhiên”

thiên nhiên và con người có một mối liên kết hấp dẫn, tạo nên những xúc cảm mạnh mẽ trong lòng nhà thơ. nhà thơ đã khắc ghi vào tâm hồn tạo vật một điều gì đó thật đặc biệt, lắng đọng trong hoài niệm, trong hoài niệm. Qua việc miêu tả vẻ đẹp của phố thị, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm sâu sắc của mình đối với cảnh và người xứ Huế. tất cả đều ẩn chứa một niềm tiếc nuối, khát khao được trở lại thị trấn tình yêu.

Nếu ở khổ thơ đầu nhà thơ nhìn cảnh vật với tinh thần lạc quan, yêu đời thì ở khổ thơ thứ hai tâm trạng nhà thơ dần thay đổi, thì chính nỗi mặc cảm chia ly lại hiện lên rõ rệt. từng từ:

gió cuốn theo gió, mây là mây, nước buồn hoa ngô, thuyền cập bến sông trăng, đêm nay có thể đưa trăng về

dòng sông hương, ngọn núi hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của huệ, dòng sông hương luôn chảy chậm và uể oải – đó là “giai điệu cảm xúc chậm rãi dành riêng cho huệ” (bức tường ngọc bích). Hai bên sông là những vườn ngô với những bông hoa đung đưa nhẹ nhàng. Tuy nhiên, trong con mắt của han mac tu, khung cảnh dường như chia cắt “nước buồn và hoa ngô”. phép nhân hoá làm cho dòng sông như mang nỗi đau khôn nguôi của thi nhân.

Đó là khi tâm trạng thay đổi từ bên ngoài. nỗi buồn của nhà thơ dường như bao trùm lên cảnh vật: gió, mây, sông, hoa ngô đồng … gió và mây là hai thứ luôn đi đôi với nhau như thuyền và nước, nhưng trong thơ gió và mây lại tách rời nhau. gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “gió theo gió, mây theo mây”. nhìn dòng sông, nhà thơ thấy dòng sông trở nên “buồn”, và hoa ngô đồng chỉ “rung rinh”, một cử động rất nhỏ cũng khiến bức tranh trở nên buồn cô đơn. từ “lay” giống như từ trong một bài hát nổi tiếng bay bổng và đáp xuống trong thơ han mac tu:

<3

không gian phù sa và thủy sinh của màu sắc được nhuộm trong màu sắc huyễn hoặc. nỗi buồn bao trùm cảnh vật từ gió, mây đến nước và hoa ngô đồng bên sông. buồn đến tận xương tủy, buồn đến trái tim non nớt. gió và mây đã nối rồi cũng có chia ly, dòng sông mang bao tâm trạng chảy vào tâm can. đằng sau những khung cảnh ấy là tâm trạng của một con người mang trong mình nỗi buồn chia ly, một tình yêu đơn phương tuyệt vọng. phan này hiếu thảo

Hai dòng tiếp theo, nhà thơ đưa người đọc đến miền đất của những giấc mơ. vẫn là dòng sông hương, giọng thơ tuy không còn nắng, xanh của đời nhưng trước mắt người đọc là một không gian đầy ánh trăng, con tàu trở thành con tàu của trăng, con sông trở thành con sông của mặt trăng, bến tàu trở thành bến tàu.

Từ xưa đến nay đều có trăng tàu, bến trăng, nhưng nay đã có những sáng tạo độc đáo về sông trăng của hồn thơ han mac tu. Đọc đoạn thơ, người đọc như được thả trôi trong cõi mộng, tưởng như đang được sống trong niềm khao khát, khao khát của nhà thơ. Đây không phải là lần đầu tiên han mac tu viết về trăng, nhưng trong thế giới thơ han mac tu, trăng là người bạn, người tình không thể thiếu trong tâm hồn thi nhân:

“trăng tựa cành liễu đợi gió đông về thả hồn” “không gian đầy trăng, cảnh cũng như trăng mà em cũng là trăng”

có:

“gió thổi nhẹ bãi trăng” và “ai mua trăng, tôi bán trăng, nằm bất động trên cành liễu đợi ai mua trăng, tôi bán trăng không bán tình và lời thề “

Thơ của han mo tu ít nhiều nhuốm màu tượng trưng siêu thực của phương Tây, nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, chẳng hạn như cụm từ về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” có phải là thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ mơ ước chở trăng, và trăng có phải là tình yêu đang chờ bạn không? “đêm nay” là đêm gì, đây có phải là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi cuộc đời nhà thơ là một cuộc chạy đua với thời gian.

“đêm nay” là giới hạn giữa sự sống và cái chết. có phải vì thế mà câu hỏi tu từ mang tính cấp thiết: “đêm nay có đưa trăng về kịp không?”. con tàu đó sẽ cập bến trước khi họ đưa bạn về cõi vĩnh hằng? từ “hợp thời”, vì thế, vừa hàm chứa tâm trạng nhớ nhung, vừa tin tưởng, vừa là bi kịch, hoài nghi của con người. phan này hiếu thảo

“bạn có thể quay mặt trăng ngược thời gian vào tối nay không?” đó là một câu hỏi chứa đựng sự day dứt, khao khát và sợ hãi. một niềm lo lắng và hy vọng không chắc chắn trong tâm trí của nhà thơ. han mo tu cảm thấy thời gian trôi chảy trong khi anh không thể tự vệ được. do đó người đọc hiểu rõ hơn sự khẩn thiết của lời mời ở dòng đầu, đồng cảm nhất với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết cận kề.

Dù đang sống trong mơ, nhà thơ không hết hy vọng mà vẫn tha thiết mong ước:

“mơ thấy khách từ xa, khách từ xa, áo tôi trắng quá không thấy đâu.

Câu 4/3 và điệp khúc “người phương xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng lo lắng mong đợi và khát khao mãnh liệt. từ “mơ” ở đầu câu đã thể hiện rõ sự mong đợi ấy của nhà thơ. “mơ” không phải là “đợi”, vì mơ thì không nên, vì sống trong mơ ắt hẳn sẽ bớt cô đơn. “lữ khách” có lẽ là cô gái Huế, và khách đường dài xuất hiện trong màu trắng.

Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng của nữ sinh Huế, đặc biệt là Hoàng Cúc, từng là nữ sinh trường Đồng Khánh. theo nghĩa đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là màu của sự trong trắng của tình yêu đơn phương; màu trắng ở đây vượt quá tầm thường, vì vậy nó đã trở thành màu của ảo ảnh, và nhìn vào ảo ảnh, hình bóng của vẻ đẹp mờ ảo và hư ảo.

“đây sương mù mịt”. “đây” – nơi nhà thơ hồi phục – nơi họ có những người bạn luôn coi là nơi giam giữ nguy nga. “đây” và “ngoài kia” xa nhau, nhưng chỉ cần ghé thăm một lần cũng không thể tưởng tượng nổi. bởi vậy, câu thơ vừa thực vừa mộng, nỗi nhớ cứ chìm dần vào hư ảo, nơi vẻ đẹp mộng mơ hòa quyện với màn sương thương nhớ. hình bóng của người đẹp ấy đã điên cuồng trong nhiều năm trong những giấc mơ thơ mộng:

“Ôi trời ơi, làm cách nào để tôi thoát ra khỏi đó? gió trăng có sẵn. làm thế nào tôi có thể ăn?

câu hỏi cuối khổ thơ ngân lên nỗi hoài nghi, xót xa trước tình yêu tuyệt vọng: “Tình ai giàu có ai biết”. đây là sự hoài nghi của người yêu chân thành. nhà thơ đang trong tâm trạng day dứt vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào khoảng trống. ths phan hiếu. câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi u uất, tuyệt vọng của han mac tu: một trái tim tan nát, bơ vơ trong cuộc chia ly phức tạp nhưng cũng hết lòng yêu đời.

bài thơ sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ như điệp ngữ, nhân hoá, so sánh, câu hỏi tu từ … thông qua nghệ thuật liên tưởng và câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ. han mac tu đã phác họa ra trước mắt chúng ta một khung cảnh và ẩn chứa trong đó là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau cô đơn, nỗi mòn mỏi của thế sự, nỗi đau cho một số phận ngắn ngủi của mình.

nhưng tôi vẫn sống hết mình trong nỗi đau về tinh thần và thể xác. điều đó chứng tỏ anh không để mình rơi vào dòng sông của số phận mà luôn cố gắng vượt qua để khi từ giã cõi đời sẽ không phải hối tiếc. Bao năm qua, tình yêu của Hàn Mặc Tử vẫn tươi nguyên, nóng bỏng và ám ảnh trong lòng người đọc. “tình yêu trong mộng của người đau thương ấy có sức bay kỳ lạ” nhưng cũng bình dị, trong sáng và đẹp đẽ như một thị trấn vĩ đại.

bài thơ “đây thị trấn vi da” là bài thơ nói về mối tình đơn phương tuyệt vọng nhưng cũng rất yêu đời của nhà thơ han mac tu. Nói đến huế thì không thể quên bài thơ este pueblo es vi da, nói đến han mac tu thì không thể quên vẻ đẹp của huế, đặc biệt là vẻ đẹp của vùng quê trong bài thơ Trọn đời bên em. thơ đẹp, thơ huệ, tôi xin mượn bốn câu thơ của thu tun thay cho lời kết tình yêu của huệ, với nhà thơ han mac tu:

“chào huệ một lần ta đến, để ngàn lần nhớ rằng mặt trời có thật trong mộng, xin đừng nhầm ta với cố đô”

phân tích bài viết đây là làng sống – văn mẫu 13

han mo tu là người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. đó cũng là một người đã từng yêu và cảm thấy không trọn vẹn trong tình yêu của mình. nhưng anh là một người lạc quan, hòa mình vào cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.

ở đây bài thơ Thị trấn vi da là niềm tự tin của ông trước cảnh đẹp vùng quê và tình cảm của mình. từ một câu hỏi: “sao anh không ra đồng chơi nữa?” câu hỏi vang lên như một lời thủ thỉ, một lời nhắn nhủ trữ tình trong tâm trạng khao khát, khao khát.

câu thơ có bảy chữ nhưng lại có đến sáu thước bằng, thước duy nhất ngân lên cuối câu như một nốt nhạc dồn dập, khiến lời thơ nhẹ nhàng nhưng đầy luyến tiếc ngân vang không ngớt da diết. từ nguồn nỗi nhớ ấy, hình ảnh phố thị chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

<3

Chỉ ba dòng thơ của hán mac tu đã thể hiện được những đặc điểm của thiên nhiên xứ Huế. mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sinh động tạo nên một bức tranh tái hiện sinh động đẹp đẽ của thị trấn trong hoài niệm. Trước hết là vẻ đẹp thuần khiết của buổi sớm mai: mặt trời mới không phải là nắng chói chang bên bờ sông trắng, mà là nắng trong vắt của một ngày.

Chỉ tả mặt trời nhưng gợi nhiều liên tưởng đẹp đẽ trong lòng người đọc. . từ “mặt trời” đã vẽ nên một bức tranh về ánh nắng trong không gian đầy nắng, nơi vạn vật chiếu từ trên xuống dưới và lấp ló khu vườn, con người như được khoác lên mình một chiếc áo mới đầy phong cách. trong lành, tươi mới.

Cho đến câu thơ thứ ba, cảnh vườn tắm trong nắng mai tỏa sáng như một viên ngọc huyền ảo: “vườn ai xanh như ngọc”. câu thơ như một tiếng kêu ngạc nhiên và thích thú, không xanh mà xanh như ngọc. đơn giản nhưng tinh khiết sang trọng. từ “mượt mà” tác động mạnh đến giác quan của người đọc, gây ấn tượng về vẻ mượt mà và tươi sáng của khu vườn.

nhưng tinh thần của câu thơ lại tập trung vào chữ “ai” với một chữ duy nhất, khiến cho cảnh vật gần đó bỗng chốc thu nhỏ, lẩn tránh thực tại. âm thanh êm dịu của âm thanh này làm cho hơi thở dường như đang trôi trong một cõi mơ hồ hư ảo. và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, khi nhắc đến “ai”, nhà thơ nhớ ngay đến hình bóng con người: “lá tre che mặt lấp ló”.

Hình ảnh cành tre đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất Cố đô. con người như hòa vào, như ẩn chứa một vẻ đẹp kín đáo, tao nhã trong thiên nhiên. đó là một vẻ đẹp riêng ở mảnh đất Cố đô mà ngay trong dòng cảm xúc bất tận ấy ta mới thấy nỗi buồn man mác thấm vào lòng người, cảm giác về vẻ đẹp mơ hồ, mong manh ấy càng rõ nét hơn ở khổ thơ 2 ở hình ảnh mây, trời, sông. :

“gió cuốn theo gió, mây là mây, nước buồn, hoa ngô trôi, đêm nay ai đưa trăng về?”

hai câu đầu: hình ảnh mang sắc thái rất đặc trưng: gió thổi, mây nhẹ, nước lặng, hoa ngô đung đưa dọc bờ sông. tả thực gợi lên hồn quê hương sắc: mây gió nhẹ nhàng, sông nước chảy, cây cối đung đưa nhẹ nhàng. nhưng nếu quan sát kỹ, ta sẽ thấy những dòng riêng biệt và rời rạc của tạo hóa, cuộc sống dường như chao đảo, mệt mỏi, giai điệu của bài thơ buồn và xa xăm.

tả cảnh thực hoặc cảnh đã định, nêu cảm xúc thơ. ngược chiều gió khơi gợi sự chia ly của cuộc đời và tình người, như cắt đi nỗi đau thân phận, sự chia ly của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ. hai câu cuối cùng cũng tạo ấn tượng tương tự về hình ảnh tâm trạng.

cảnh đẹp của dòng sông vẫn thoang thoảng gợi lên từ những hình ảnh: thuyền ai – sông trăng …. dòng sông như được ảo hóa, không còn là sông nữa mà là sông trăng, đầy ánh trăng vàng, là luồng ánh sáng chảy khắp vũ trụ khiến không gian thơ mộng trở nên hư ảo.

đại từ thông tục “ai” nghe có vẻ xa; và con tàu mặt trăng trên sông đó mong manh như một ảo ảnh. nên chỉ một từ “đúng hẹn đêm nay” cũng đủ để nhà thơ thu mình lại ngay với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. chỉ ba từ thôi, nhưng nó gợi lên bao nỗi lo lắng, mong đợi, hy vọng, lo lắng, vừa khao khát rồi chợt nảy sinh nghi ngờ.

tín hiệu mong đợi rất mong manh nhưng vô cùng đau đớn. khát vọng về vẻ đẹp của tình người và cuộc sống của nhà thơ không tránh khỏi những băn khoăn, trăn trở. khổ thơ cuối của bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi tha thiết tưởng chừng như vô vọng ấy:

“mơ thấy khách từ xa, khách từ xa, áo tôi trắng quá không thấy đâu”.

Hình ảnh “những người lữ hành xa” đã xuất hiện trong thơ han chưa? : khách phương xa gặp nhau vào mùa xuân chín cuộc hành trình của người khách phương xa – em – là giấc mộng dài nồng nàn của han mac tu. bản thân “khách” đã tuyệt vời, khách xa lại càng xa. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt, vì mối quan hệ với cuộc đời trong tâm tưởng nhà thơ trở nên xa cách?

Nhà thơ cảm thấy rằng anh ấy chỉ đồng hành với tình yêu và hạnh phúc, nhưng anh ấy không bao giờ hiểu nó. Đó có thể là lý do tại sao tất cả những hình bóng đều xa vời và hư ảo: chiếc áo sơ mi của anh ấy quá trắng để nhìn thấy. câu thơ thiết tha “áo em trắng quá” nhưng cũng thật xót xa “không thấy đâu”. thiên thần trong trắng ấy cứ mất kiểm soát. hai câu cuối là lời giải thích: có một lý do rất khách quan: ở đây sương mù mịt.

Xưa, xứ Huế khói lửa, nhưng vẫn còn đó một nguyên nhân chủ quan: trái tim thuở áo trắng kia tỏa ra một khoảng trống thầm kín như làn khói. là sương của thời gian, hay sương của một tình yêu mong manh chưa hẹn ước, sương mù che phủ một trái tim biết rằng mình sắp tàn… sương mù che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra mình. , không thể nắm lấy.

Câu cuối để lại nỗi xót xa, day dứt khi tự hỏi “ai biết thương ai” giàu hay chưa mà đã tan thành mây khói ”. câu thơ gợi nhiều cách hiểu, làm sao nhà thơ biết được? tình yêu có phong phú hay không ?; Người dân xứ Huế có biết tình cảm của nhà thơ dành cho bà rất phong phú không?

Đây thôn Vĩ Dạ thu hút người đọc bởi vẻ đẹp của bức tranh xưa trầm mặc mà rất thanh tao, quý phái. nó gợi lên cái hồn của cố đô, nhưng không thể nói rằng bài thơ tự giới hạn mình trong việc tả cảnh. bài thơ đã khiến chúng ta yêu đời hơn.

phân tích bài viết đây là thị trấn vi da – mẫu 14

Đây là bản vi da, được han mac tu sáng tác vào năm 1938, trong một trại phong ở tuy hoa khi chỉ còn ít thời gian để nhà thơ từ biệt cuộc đời. nỗi đau về thể xác, nỗi cô đơn chỉ có vầng trăng, tâm hồn và hơi thở của tạo hóa làm bạn đồng hành đã khiến nhà thơ điên cuồng tìm kiếm những mảnh ghép đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Vào lúc anh như một giọt cảm xúc về tình yêu thương con người, tình yêu cuộc sống trong anh đang kiệt quệ vì bệnh tật thì anh nhận được bức tranh huệ trong đêm trăng, và bức thư tư vấn năm xưa của người con gái anh. tình yêu – hoàng cúc. Chính những điều đó đã gọi những cảm xúc của ngày xưa trở lại, để nhà thơ viết nên thị trấn này.

bài thơ chỉ có 3 khổ nhưng chứa đựng biết bao kỉ niệm, nỗi nhớ, nỗi đau và sự tuyệt vọng của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã đưa người đọc đến với một hình ảnh tuyệt đẹp của xứ Huế mộng mơ, nơi chứa đầy những kỉ niệm đẹp đẽ nhất của tuổi trẻ thi sĩ với mối tình đơn phương. , đừng quyến rũ.

vượt qua nỗi đau của hiện thực, trước đôi mắt của người yêu và nhớ về chốn xưa, nhà thơ xứ Hàn đã gửi gắm một hình ảnh hư ảo đầy trong sáng và thuần khiết. tất cả đều được thể hiện qua hình ảnh những khu vườn nhỏ được chăm chút bởi bàn tay khéo léo của những đứa trẻ lớn, với sự hòa quyện của ánh sáng ban mai, màu sắc và sự trong trẻo. Nhà thơ viết:

“sao em không chơi làng nữa? Nhìn mặt trời lặn mới ló rạng vườn xanh như ngọc, lá tre che mặt ruộng”

tác giả đã sử dụng một câu hỏi tự vấn rất thú vị làm điểm tựa để mở đầu bài thơ:

“tại sao bạn không trở lại và chơi trong thị trấn?” Câu hỏi nghe như một lời mời, một lời chào thăm phố lớn nhưng cũng ngọt ngào được hiểu như một lời trách móc người thương không về để chiêm ngưỡng cảnh đẹp thanh bình của phố lớn, luôn chờ đợi. Đó là lời tâm sự của người con gái mà nhà thơ từng yêu hay lời tự vấn mà tác giả tự “nhân bản” mình?

Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng là tất cả cảm xúc của nhà thơ khi về thăm lại miền đất ký ức. tác giả han mac tu đã chọn không gian của buổi sáng, thời khắc đẹp nhất trong ngày để tái hiện lại vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây. nơi những khu vườn được tưới mát bởi ánh nắng mặt trời vào mỗi buổi sáng. hình ảnh “mặt trời” xuất hiện lần thứ hai trên một dòng đã giúp nhà thơ gợi tả được thứ ánh sáng hiếm hoi dường như trải khắp khu vườn theo nhịp điệu của thời gian.

cái nắng dịu mát từ hàng cau trải đều khắp vườn, phủ lên những thân cau trong vườn sau một giấc ngủ ngon, chẳng phải là cái nắng “đổi cồn cát, nắng giữa trưa thường” trong bài thơ, Đó không phải là “nắng chiều mưa” trong kho ca dao, tục ngữ Việt Nam, cũng không phải là “nắng cháy khói” trong mùa xuân chín của han mac tu, mà là nắng mới, trong sáng và thuần khiết.

Cau là cây cao nhất dường như trở thành thước đo của tự nhiên để đo mức độ ánh sáng mặt trời ngày càng tăng. nắng chiếu vào những giọt sương trên thân cây, trên lá cau … và biến khu vườn thành một viên ngọc lấp lánh tuyệt vời. từ “dịu dàng” diễn tả rất chính xác trạng thái rực rỡ của khu vườn, thể hiện thái độ dường như ngạc nhiên của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên ban tặng và bàn tay chăm sóc, hương thơm của con người.

và ngay dưới dòng chữ “lá tre che mặt lấp ló” đã giúp thi sĩ xứ Hàn bộc lộ trọn vẹn cảm xúc chân thật của mình. Nếu trong thơ cổ, thiên nhiên là hình tượng trung tâm, thì trong con mắt của một nhà thơ mới, bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ở xứ Huế thực sự là phông nền để nhà thơ gửi gắm tình cảm và vẻ đẹp con người. thật không thể tả, chỉ cần rắc thêm hình ảnh khuôn mặt vuông vức, “ngổ ngáo” và một chút e thẹn, “bao trùm” cũng đủ giúp người đọc cảm nhận được sự nữ tính, dịu dàng của người con gái. xứ mộng mơ, xứ thơ.

Bước sang khổ thơ thứ hai, điệp khúc về tình yêu thiên nhiên xứ Huế tiếp tục vang lên, nhưng tiếng sóng lòng của nhà thơ lại chuyển sang cảnh sắc Hương Giang trong một đêm trăng. vì vi da đứng bên bờ sông hương hoa nên mỗi khi nhớ về vùng đất này, han mac tu khó cưỡng lại vẻ đẹp của dòng sông từng là nàng thơ trên bìa của “người đã đặt tên cho dòng sông “. bức tường sau đó. tuy nhiên, đây không còn là bức tranh thiên nhiên tươi sáng và tràn đầy sức sống như khổ thơ đầu mà chứa đựng cảm xúc của nhà thơ bằng cách trộn lẫn cảm xúc của hiện tại với hồi tưởng của chính mình:

“gió theo gió, mây theo mây, nước chảy, buồn hoa ngô đung đưa”

Không gian tươi đẹp tràn đầy sức sống biến mất, bao trùm trong khổ thơ thứ hai là nỗi buồn bao trùm lên cảnh vật. gió và mây vốn là hai hình ảnh của hai làn sóng “gió đưa mây bay” nay chia đôi con đường. Vẻ đẹp trầm tư của Hương Giang còn mãi nhưng lần này dường như mang nhiều tâm trạng của nhà thơ hơn. trên nền toàn bộ bức tranh sông nước chỉ thấy lay động của những bông hoa ngô đồng khẽ đung đưa. nhưng không rõ nỗi buồn mơ hồ của nhà thơ quá lớn khi nghĩ về cảnh cũ hay nỗi đau thể xác thực đang trào dâng khiến trái tim không thể kiềm chế được cảm xúc của chính mình đã biến dòng sông hư ảo thành dòng sông thật. . . ma mị, bí ẩn:

<3

trăng không phải lần đầu tiên xuất hiện trong thơ han mac tu, dù bằng máu thịt, trăng là hình ảnh đồng hành giúp thi nhân thoát khỏi nỗi đau hiện thực. nhưng ở đây không phải là “vầng trăng tựa cành liễu”, không phải “vầng trăng e ấp sau rặng thông”… mà là con tàu nguyệt mang bao nỗi nhớ nhung da diết của nhà thơ trước linh cảm xa xăm. để lại hiện tại.

Dòng cảm xúc dồn nén, tiếc nuối và lo lắng ấy đã được diễn tả rất chính xác bằng từ “đúng lúc” và câu hỏi tu từ được đặt ở cuối khổ thơ 2. “Có thể cho trăng quay ngược thời gian?”

“Đêm nay” tuy ngắn ngủi nhưng dường như qua từ “hợp thời” và dấu chấm hỏi ở cuối câu, người yêu thơ có thể cảm nhận được cuộc chạy đua với thời gian trong tâm trí người Hàn Quốc.

nhưng thật không may, đó không phải là một cuộc chạy đua để nhảy, hãy tận hưởng phần xanh tươi hơn của cuộc sống như điều kỳ diệu của mùa xuân đã từng nói:

“Tôi muốn tắt nắng để màu không phai” Tôi muốn buộc gió để mùi không bay đi ”

nhưng cái tôi nghèo nàn cạnh tranh với thời gian để từng giây phút hiện hữu trong cõi nhân sinh của nhà thơ. và khát vọng, tình yêu cuộc sống và con người được nhà thơ tiếp tục và lên đến đỉnh điểm ở khổ thơ thứ ba khi cả người và cảnh đều chìm vào giấc mộng.

“mơ thấy khách từ xa, khách từ xa, áo tôi trắng quá không thấy đâu”

từ mộng được đặt ở đầu khổ thơ được tìm thấy bên cạnh cụm từ “khách phương xa” được lặp lại lần thứ hai như tiếng gọi khắc khoải của “khách” từ trong tâm trí nhà thơ. hình ảnh “khách phương xa” hiện ra, kết hợp với “không thấy đâu” khiến người đọc cảm nhận rõ được cảnh những người khách hàng ngày mong đợi đang ngày càng rời xa vòng tay của han. màu trắng của nắng ngập trời hay tà áo dài trắng của các cô gái xứ Huế dần tan trong sương bay xa thơ:

“sương khói đây rồi, ai biết tình ai giàu?”

bạn là ai, tôi hay cả hai, chủ đề câu chuyện tình yêu của bạn là gì? không ai có thể xác nhận điều này. Nhưng bất cứ ai đọc câu thơ và hiểu cuộc sống Hàn Quốc hôm nay sẽ hiểu niềm khao khát cuộc sống trần thế và tình yêu của nhà thơ là như thế nào. nhưng bạn càng mong ước, bạn càng thất vọng. Dù ẩn chứa bao điều bí ẩn để được gặp lại người bạn cũ nhưng đáp lại niềm mong mỏi của nhà thơ chỉ là sự hoài nghi “ai là người có tình yêu bền chặt”.

Liệu bà già có bao giờ cảm nhận được tình yêu của anh ấy không? Liệu đến cuối đời người con gái ấy có chạm được chút cảm xúc với trái tim của một thi sĩ xứ Hàn? tình cảm là thế, nhưng tận cùng vẫn là nỗi cô đơn, tuyệt vọng của nhà thơ khi không có lời giải đáp. rõ ràng, lời bài hát không khó như:

“trời ơi, gió trăng sao mà ăn được, làm sao mà ăn được, làm sao mà giết người trong mộng, để báo thù cho số phận nghiệt ngã”

khép lại “đây thôn vi da”: hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên và con người xứ Huế, được chạm trổ tài hoa bằng sự liên tưởng, trí tưởng tượng thú vị, tấm lòng yêu thương, vương vấn của han mac tu, ta vẫn còn nguyên cảm xúc của thi nhân. cho con người, cho cuộc sống trần gian. tuy đã biến mất vĩnh viễn nhưng sự thật “nơi đây thị tẩm” – đứa con đẻ ra đời trong những giờ phút đau thương nhất về thể xác và tinh thần của nhà thơ, còn lại nơi đây mãi mãi với hậu thế.

Khát vọng được sống và được yêu của nhà thơ là thứ gia vị đặc biệt giúp người đọc thêm yêu những vần thơ của ông và bồi đắp thêm tình yêu đất nước, yêu cuộc sống trong mỗi người.

đây là bài phân tích làng vi da – mẫu 15

nhắc đến han mac tu, không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn vi da, một trong những kiệt tác bất hủ của ông. Bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm bưu thiếp của Hoàng Thị Kim Cúc, người con gái anh từng thầm thương trộm nhớ. “Làng đời ở đây” được sáng tác trong lúc ông đang điều trị bệnh ở quy hoa, nên mỗi tứ thơ trong vở kịch đều gửi gắm một nỗi niềm mong mỏi của nhà thơ.

“tại sao bạn không trở lại và chơi trong thị trấn?”

Câu hỏi tu từ được sử dụng ở đầu bài thơ thể hiện niềm hy vọng, mong đợi của người thiếu nữ. câu hỏi vừa là lời trách móc, pha chút tâm trạng, vừa là lời mời gọi, vừa là sự mong đợi. lời ca êm dịu như chính tiếng nói của người dân xứ Huế vừa dịu dàng, vừa dịu dàng.

sau câu hỏi từ từ hiện ra một hình ảnh đẹp đẽ của làng vi vu tràn đầy sức sống, trong lành và tươi mát:

“Nhìn ánh nắng, vườn thật xanh, lá tre che mặt lấp ló”

Chính vì lời mời chân thành đó, mà dù chân không thể trở về chốn bồng lai, han mac tu vẫn quyết tâm trở về để ngắm nhìn, thưởng ngoạn vẻ đẹp của chốn cổ kính, tình yêu của mình. hình ảnh đầu tiên ta có được là “nắng hàng cau” – một màu nắng rất riêng trong thơ. Đó là cái nắng sớm mai dịu mát, trong trẻo của xứ Huế: “mặt trời vừa mọc”, cây cau vừa ngủ dậy, sương còn đọng trên lá tỏa nắng ban mai. từ xa đã thấy mặt trời ló dạng trên hàng cau, khi đến gần mới cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp của cảnh vật. màu xanh ngọc bích tươi sáng và sang trọng gợi nên vẻ đẹp của khu vườn. tính từ “mịn” gợi lên vẻ non, mềm và nhiều dầu của lá. cũng vậy, khu vườn được tưới mát bởi hương vị của thiên nhiên, được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà càng thêm tươi đẹp, tươi tốt. bóng dáng một cô gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện dưới tán lá tre xanh càng tôn lên vẻ đẹp của không gian và con người xứ Huế. ẩn sâu trong từng vần thơ trong trẻo, thanh tao, tươi tắn ấy là một tâm hồn khát khao giao cảm, muốn trở về chốn cũ, gặp lại cố nhân sau bao tháng ngày xa cách. nhưng điều đó có lẽ khó xảy ra.

Nếu khổ thơ đầu cho ta ấn tượng về một buổi sáng tinh khôi thì khổ thơ thứ hai lại đưa ta trở lại không gian của con tàu, dòng sông và ánh trăng lúc chiều tối và ban đêm:

“gió cuốn theo gió, mây là mây, nước buồn, hoa ngô đung đưa thuyền cập bến sông trăng đưa trăng về đêm nay

gió và mây gợi sự bồng bềnh, lang thang, lối đối đáp “gió theo gió, mây theo mây” nhấn mạnh sự tách biệt của hai hình thức. phải chăng đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự chia ly của nhà thơ với người mình thầm thương, dù yêu nhưng không thể làm bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của mình? Nghệ thuật nhân hoá “buồn nước, hoa ngô đồng” khẳng định nỗi buồn trong lòng nhà thơ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay tâm hồn nhà thơ sầu muộn nhưng cảm nhận thiên nhiên cũng là nỗi buồn, nỗi đau, nỗi buồn trong lòng, vì về bản chất:

“Cảnh không buồn, người buồn chẳng vui”

nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật vẫn mang nét tươi mới thì đến khổ thơ thứ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn, nỗi buồn cô đơn cũng thấm đẫm hơn:

“con tàu của ai đã cập bến sông trăng có thể đưa mặt trăng trở lại đêm nay?”

từ “đúng lúc” được đưa vào câu hỏi tu từ “đêm nay có đưa trăng về kịp không?” thể hiện nỗi nhớ hạnh phúc của tác giả, về một người có thể đồng cảm với nhà thơ. trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực của tác giả trước thời gian. dường như nhà thơ đã mang mặc cảm về căn bệnh quái ác của chính mình vào tất cả các bài thơ của mình.

“mơ thấy khách từ xa, khách từ xa, áo tôi trắng quá không thấy đâu.”

“Ở đây trong sương mù, mọi người biết ai là người có tình yêu mãnh liệt.”

từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng tô đậm thêm ước mơ của tác giả về một điều gì đó đẹp đẽ, có một người khách phương xa, dòm ngó và tin tưởng một người cô đơn giữa cơn bạo bệnh. Việc lặp lại từ “khách phương xa” càng khẳng định ước muốn được gặp gỡ của han mac tu, nhưng có lẽ ước mơ đó không thể thực hiện được vì khách ngày càng xa.

với ngòi bút tài hoa và nội tâm phong phú của mình, han mac tu đã mang đến cho người đọc những vần thơ hay. trong lời nói có tình yêu, trong tình yêu có những ngôn từ, những tình cảm tinh tế gợi cho người đọc cảm nhận về tình yêu cuộc sống qua bài thơ.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Phan tich bai day thon vi da ngu van 11. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *