Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
455 lượt xem

đoạn trích nỗi thương mình trong truyện kiều

Bạn đang quan tâm đến đoạn trích nỗi thương mình trong truyện kiều phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ đoạn trích nỗi thương mình trong truyện kiều

“Nỗi buồn cho em” được trích trong truyện Kiều là một đoạn trích thể hiện rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, tầm nhìn vượt thời gian và hơn hết là thể hiện tinh thần nhân đạo mới của đại thi hào Nguyễn Du. đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ dòng 1229 đến dòng 1248, thể hiện tâm trạng đau đớn, tủi nhục, cô đơn, xót xa, trách nhiệm và nỗi niềm xót xa trước thân phận thê lương của thủy chung trong lầu xanh.

vì gia đình gặp tai nạn, nàng phải bán mình chuộc cha, trả lại tình yêu cho người em thủy chung, kiều nữ 15 năm xa xứ, trong 15 năm ấy, nàng Kiều gặp phải không biết bao nhiêu oan khuất. việt kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần bị mã sinh viên lừa bán mình vào lầu xanh. nó là bước ngoặt phá vỡ thủy sinh và rẽ sang một hướng khác. rơi vào tay một tú bà, kiều rút dao định tự tử nhưng bất thành.

Đến nơi đầu tường, kiều lại rơi vào bẫy của khanh và bị bà thím đánh cho tơi tả. tiếp theo là những tháng ngày tủi nhục của cô trong vai gái điếm: một cô gái điếm mang thân hình trắng như ngọc của mình để mua vui cho những kẻ có hầu bao rủng rỉnh. những ngày ở lầu xanh là những ngày chàng vô cùng đau buồn, tâm trạng rối như tơ vò khi nghĩ về thân phận, nỗi tủi nhục của đời mình. đoạn trích có kết cấu khá logic với tâm trạng thất thường và trớ trêu của một mảnh đời bất hạnh đang nghe những lời độc thoại nội tâm đau đớn: “khi tỉnh táo … mùa xuân là gì?” nó cũng là thời điểm mở đầu cho một loạt các cuộc trò chuyện kết nối và phân tán. Kiều nghĩ về trạng thái của chính mình để rồi “mình lại thấy có lỗi với mình” và Kiều thấy có lỗi với chính mình. Đối với cô, hiện tại giống như một giấc mơ cay đắng khi so sánh với quá khứ.

<3

“rất nhiều bướm bay lượn, tiếng cười say sưa suốt đêm. đung đưa cành lá, ngọn gió, cành chim sớm gửi ngọc tối tìm kiếp sống lâu dài ”

bốn câu đầu của đoạn trích đã thể hiện rõ hình ảnh nếp sống nhếch nhác, nhếch nhác và thân phận tủi nhục của một cô gái điếm chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả sinh động hình ảnh cuộc sống chốn lầu xanh bằng những ước lệ tượng trưng. Trong tòa nhà xanh ấy, anh phải tiếp khách “bao nhiêu” người mà anh không thể nhớ, không thể đếm xuể, vì một điều mà ngày nào anh cũng tự hào là tiếp khách phố thị liên tục “thâu đêm suốt sáng, đi tìm”. những câu nói đó đã cho chúng ta thấy được sự nhộn nhịp của lầu xanh, nơi cô nương có thể kiếm sống.

với những ẩn dụ: bay bướm, say ngày, cười suốt đêm ”và những câu chuyện kinh điển:“ gió bay cành chim ”,“ tông ngọc, long khánh ”- chỉ loại khách làng chơi, nguyễn du, hiển đạt. rằng hoàn cảnh của thúy kiều tuy sống trong lầu xanh, có vẻ tao nhã thanh lịch nhưng thật ra là giả dối, hàng ngày người Việt Nam ở nước ngoài phải làm những việc bẩn thỉu, tiếp đủ thứ khách khứa cần thiết. vui vẻ.

điều này cho chúng ta thấy rõ hơn về sự bất hạnh và trớ trêu của thủy kiều. thư pháp thông thường giúp nguyễn du không tránh khỏi số phận vương giả, mà vẫn giữ được chân dung đẹp đẽ của mình. qua đó ta thấy được sự trân trọng và đồng cảm của tác giả đối với nhân vật.

đã tái hiện tình cảnh của Thủy kiều với những nét trái ngược hoàn toàn: một bên là nước mắt của thủy chung, một bên là cơn say, tiếng cười không ngớt. Như vậy, ở bốn câu thơ đầu, dù không được miêu tả trực tiếp nhưng người đọc vẫn có thể thấy nàng Kiều đang bị cuốn vào vòng xoáy vô hình, bị ép vào cuộc sống bẩn thỉu trong nhà chứa. hiện thực phũ phàng mà nhân vật phải trải qua, để lộ thân phận nhục nhã của gái điếm. nguyễn du đã tô điểm thêm cho khung cảnh ấy một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ bình dân, ước lệ theo truyền thuyết, làm cho kí ức về cuộc đời đau thương của kiều nữ thêm thanh tao … bởi chỉ một đoạn hồi tưởng mới có thể thể hiện hết được đời sống nội tâm chân thực của nhân vật, thể hiện chân thực nỗi đau, làm nổi bật nhân phẩm và nỗi đau khổ bất hạnh của nhân vật. đằng sau những câu thơ đó là sự đồng cảm và trân trọng mà tác giả dành cho thủy kiều.

bốn câu thơ đầu đặt ra một tâm trạng. trên lầu xanh có rất nhiều cung nữ, bọn họ có thể bình tĩnh coi việc làm của nàng là chuyện rất bình thường, trớ trêu thay nàng lại có nhân phẩm cao đẹp như vậy, tâm hồn trong sáng, là hoa của cảnh đời. yên bề gia thất ”, anh bỗng ném mình xuống bùn, hai câu sau nói lên tâm trạng của kiều trong những tháng ngày tủi nhục, bị cưỡng bức, dằn vặt mà anh phải chịu đựng:

XEM THÊM:  Hăng-ri đuy-năng là nhà nghiên cứu văn học

“Khi tôi thức dậy sau rượu, tôi giật mình vào cuối ngày và cảm thấy có lỗi với bản thân”

ở chốn lầu xanh đầy “say đời, tiếng cười”, chỉ có “khi tỉnh táo cuối vụ” kiều mới có được giây phút hiếm hoi được sống thật với chính mình và cũng là hoàn cảnh tỉnh táo nhất trong thế giới với con người của mình. thời gian và không gian lặng lẽ gợi bao nỗi buồn. nhịp thơ thay đổi giữa hai khổ thơ từ 3/3 đến 2/4/2. hai từ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã nói lên sự thay đổi đột ngột của tâm hồn siêu thoát. cô bị sốc và đau buồn trước thực tại tiêu cực và cô đơn, chỉ thấy thương cho bản thân, đau cho số phận bi thảm kéo dài của chính mình.

Điều đáng ngạc nhiên không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có tác động đột ngột từ ngoại cảnh. đó là một sự rung động của cảm xúc nội tâm mà nếu không có cô ấy, cô ấy sẽ giống như tất cả những cô gái khác trong quán bar dành cho phụ nữ. Kiều bàng hoàng nhận ra thân phận và nhân phẩm bị hủy hoại thảm hại ở chốn lầu xanh, nỗi cô đơn và sự yếu đuối, bất lực trước bao nhiêu tệ nạn, cạm bẫy rình rập mà chàng không thể nào chống chọi nổi. điệp ngữ “tôi” được lặp lại ba lần trong một câu thơ như một tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của con người thủy chung ý thức về nhân phẩm, về nhân cách, về quyền sống, cũng là lương tâm và lẽ sống của bản thân. câu chuyện mà nguyen du muốn gửi gắm đến độc giả.

cho hai câu trên với nhịp thơ lục bát, những câu sau là những kỉ niệm dội về, những kỉ niệm tươi sáng va chạm với hiện thực đen tối và đáng nguyền rủa:

“Khi sao xuống, sao lác đác như hoa giữa đường, sao dày và gió, thân sao mờ, bướm mờ”

một cô gái tài sắc vẹn toàn, tài sắc vẹn toàn, nhân hậu và đoan trang. một cô gái nhà Nho giờ trở thành bông hoa rải rác. sự thay đổi quá nhanh chóng khiến ngay cả Việt kiều cũng phải sửng sốt và ngạc nhiên. Tương phản như một công cụ nghệ thuật chủ yếu xuyên suốt đoạn trích và đặc biệt ở hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai nhịp sống, hai thời điểm, hai cung bậc cảm xúc. cặp từ trái nghĩa chỉ thời gian: “khi sao / giờ sao” tạo cảm giác thay đổi đột ngột trong một khoảng thời gian không xác định. đây là lý do tại sao vết thương của Kiều cứ lở loét, nhức nhối, cứ như xoáy sâu vào nỗi đau và tê tái của Kiều.

quá khứ dường như đối lập gay gắt với hiện thực, khi kiều nữ nhớ lại những năm tháng “vén tấm màn nhẹ”, hiện thực phũ phàng lại tái hiện rõ nét hơn gấp nhiều lần, từ “gió gấm” thể hiện một sự bình yên, tĩnh tại trong vừa qua. đối lập hoàn toàn với từ “biến mất” trong câu ca dao nói về hiện tại là hiện thực phũ phàng bao trùm lên quá khứ êm đềm. phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập hoàn toàn giữa quá khứ và hiện thực, giữa cá nhân và hoàn cảnh. những cụm từ “buồn tẻ cánh bướm”, “sương gió dày đặc” là nét sáng tạo trong cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh sự so sánh theo mức độ tiến triển, cho ta thấy những va chạm, chà đạp mà kiều bào phải chịu đựng. Những câu hỏi tu từ ở đây được sử dụng để làm rõ hơn nỗi đau, nỗi tủi nhục của Kiều trước hiện thực phũ phàng, tàn khốc.

hai câu thơ day dứt bởi tiếng thở dài tuyệt vọng của một cô gái tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng giờ chán chường đủ thứ:

“Dù dầm mình trong mưa, ai biết đâu là mùa xuân?”

sống trong tòa nhà xanh cả ngày phải tiếp đãi người khác hành hạ bản thân, cứ lặp đi lặp lại hàng ngày chắc chắn ai cũng sẽ cảm thấy nhàm chán, muốn bỏ bê mọi thứ và cả kiều nữa. sự đối lập giữa người – khách phố (số nhiều) và mình – kiều (số ít) như muốn nói lên nỗi cô đơn của mình. chữ “xuân” ở đây có nghĩa là niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi, nhưng với thủy chung sống làm vợ khắp thiên hạ không có mùa xuân, trong đó chỉ thấy tủi nhục, lẻ loi, cô đơn. một người hầu gái giải trí. chữ phục ở đây ám chỉ sự bất lực, bất chấp tất cả, muốn đi đâu thì làm, nỗi day dứt nặng nề của thủy chung nhưng không thể làm được.

XEM THÊM:  Văn học trung đại lớp 8

“xin gió như bông hoa kề nửa màn tuyết cùng bốn vầng trăng thu cảnh không mang nỗi buồn, người buồn, người chẳng vui bao giờ. thanh âm, mặn mà chẳng ai bằng. ”

một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện ra, có vạn vật: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa đều hội tụ về đây, gió xuân thổi qua, mùa hạ hoa đua nở khoe sắc, trăng thu sáng, mùa đông tuyết phủ kín cả một tầng, tất cả đều rất thật, rất sống động như vẽ nên một bức tranh muôn màu, âm thanh của lầu xanh, và trong đó có đủ mọi thú vui của con người: cầm – lạ – tranh – tranh làm cho bức tranh càng thêm sinh động. hơn bao giờ hết, nhưng việc làm hiện lên những khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã và thơ mộng này chẳng khác nào sự giễu cợt, trớ trêu và cay đắng. bởi dù có ngụy trang kỹ lưỡng đến đâu thì vẫn không thể che giấu được bản chất bẩn thỉu, bẩn thỉu của chốn “buôn người”. Câu thơ như vậy đồng thời tập trung vào tâm trạng của người Việt Nam ở nước ngoài: Kiều luôn phải tách ra làm hai nửa: kẻ giả tạo vui vẻ ngoài mặt, kẻ thật sống để khóc cuối ngày.

cảnh không thể vui vì lòng người trĩu nặng nỗi niềm tê tái. khi gió như hoa kề bên, khi cung đàn ngậm thơ, nỗi đau luôn tràn về, ngạt thở trong tim. ý thức về nhân phẩm một khi được đánh thức, lại bị chà đạp khiến cô không ngừng bẽ bàng, tủi nhục về thân phận của mình. hai chữ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là nỗi đau thường trực chưa bao giờ nguôi day dứt ở hải ngoại. nỗi sầu của kiều mở rộng ra cảnh vật:

“một cảnh không mang nỗi buồn, người ta buồn, một cảnh không bao giờ vui”

với sự đồng cảm hiếm có, và tài năng tuyệt vời, nguyễn du đã viết nên hai bài thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm trạng, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ văn nguyễn du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lý của mọi thời đại. Có thể nói, hai câu thơ là đỉnh cao của đoạn văn vì nó diễn tả nội tâm của nhân vật sâu sắc hơn bao giờ hết, từ đó mở rộng ra cảnh vật một cách tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thủy kiều cứ dâng trào, như một làn sóng cuộn trào bất tận, cứ cuộn trào trong sâu thẳm con người Kiều, rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó lại dâng lên đánh vào trái tim và cảm xúc của Thủy Kiều, khiến mọi thứ qua đôi mắt của nàng đều trở nên buồn bã. , tăm tối và thê lương.

<3

hai câu thơ cuối là tấm lòng thủy chung, được nguyễn du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tự tin, chí khí này và tài năng thanh tâm, bậc hiền tài không ai có được. chữ hỷ nói lên tất cả những gì được mất, chỉ còn lại là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của kiều khi đối mặt với hoàn cảnh. Sống trong sự bẩn thỉu, phải tiếp khách làng chơi, trải qua cơn say, tiếng cười quanh năm, phải lười biếng … đó là một điều bất đắc dĩ, kiều thậm chí không bao giờ muốn có thể tưởng tượng được. cuộc đời tôi là một bi kịch. giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, bao kẻ đến người đi, điều đọng lại cuối cùng đối với kiều chỉ là sự tan rã, đau đớn về thể xác và tâm hồn, không ai là tri kỷ, không ai để “mặn nồng”. nhưng trong sâu thẳm trái tim, kiều vẫn luôn tìm kiếm một trái tim, một người hiểu mình. một lần nữa, ngôn ngữ nửa trực tiếp khiến câu thơ có tầng ý nghĩa sâu sắc kết hợp với những câu hỏi tu từ đầy chua xót, thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người thuỷ chung, giàu lòng tự trọng, coi trọng nhân phẩm và muốn sống bình yên, cuộc sống trong sạch.

đoạn trích thể hiện đầy đủ số phận và tính cách của nàng Thủy Kiều. Nó thể hiện tư duy nhân văn của tác giả: đồng cảm với bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách cao đẹp, đồng thời khẳng định ý thức về nhân phẩm và cá nhân. thể hiện tình yêu thủy chung, nguyễn du còn thể hiện nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời nói của tác giả và nhân vật như hòa quyện tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả và nhân dân. .

loigiaihay.com

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc đoạn trích nỗi thương mình trong truyện kiều. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *